Richie (hàng thứ nhì,
ngồi thứ ba, từ trái qua) cùng bạn học và thầy
cô
Thằng anh, con em, hai đứa
cháu nội ở Lào
My Grandfather's' Poems
I remember that he wrote them backwards,
In Yiddish, in tiny, slanting, bird-like lines
That seemed to rise and climb off the page
In a flurry of winged letters, mysterious signs.
Scrupulously he copied them out
On the inside covers of his favorite books
While my sister and I romped through the house
Acting like cops and robbers, cowboys and crooks,
Whooping, shouting, and gunning each
other down
In the hallway between rooms, mimicking fright,
Staggering from wall to bloody wall before
Collapsing in wild giggles at his feet.
Always he managed to quiet us again,
Kissing us each on the upper part of the arm,
Tucking us in ... We never said prayers,
But later I could hear him in the next room
Talking to himself in a low, tearing
whisper-
All I could fathom was a haunted sound
Like a rushing of waves in the distance,
Or the whoosh of treetops in the back yard.
For years I fell asleep to the rhythm
Of my grandfather's voice rising and falling,
Filling my head with his lost, unhappy poems:
Those faint wingbeats, that hushed singing.
Edward Hirsch: The Living Fire, New
and Selected Poems
Thơ của Grandpa
Tớ nhớ là hồi đó đó,
ông tớ thường mần thơ bằng tiếng Mít
Những dòng chữ nhỏ nhắn, nghiêng nghiêng
như những chú chim sẻ
Chúng bò lên, leo lên, rồi té
khỏi trang giấy
Những con chữ xôn xao, náo động, như có
cánh, những ký hiệu bí ẩn.
Tỉ mỉ, ông tớ chép chúng vô
Những cuốn sổ “thần sầu” của ông
Trong lúc chị tôi và tôi đùa
rỡn suốt căn phòng
Đóng vai cướp, cớm, cao bồi, kẻ lường gạt
Cho đến khi mệt nhoài té xuống 1 đống dưới
chân ông tôi
Ông tôi vỗ về hai đứa tôi
Xốc mỗi đứa mỗi bên, kéo tới…
Hai đứa tôi chẳng bao giờ cầu nguyện
Nhưng sau đó, chúng tôi có thể
nghe ông tôi trong phòng kế bên
Nói với chính mình
Những tiếng thì thầm rời rạc, nhức nhối, có
thể nói như thế
Thứ âm thanh ám ảnh
Giống tiếng nước suối ở 1 nơi thật xa
Hay tiếng sương rơi, từ những chiếc lá cây
sau vườn
Trong nhiều năm tôi ru tôi,
bằng những tiếng thì thầm
Nó dâng lên, rồi trôi giạt
Những bài thơ mất tích, lạc loài,
bất hạnh của ông tôi
Chắc là thứ nhạc sến mà ông tôi
mang về từ nông trường cải tạo VC ở Đỗ Hòa?
Gấu Cái mê cái
tít này lắm. Thần sầu. Truyện cũng mê. Bả là
người khám phá ra NNT, không phải Gấu. Lần đó,
Bả đi chợ, mang về tờ báo “free”, thứ báo sống nhờ quảng
cáo ở xứ người, chỉ cho Gấu đọc.
Gấu lặng người, bèn mail
hỏi tòa soạn, có phải truyện trong nước, tác
giả trong nước. Tòa soạn nói, không phải. Hồi đó,
đăng truyện trong nước, phiền lắm, thành ra họ chối. Gấu thấy
cũng phải thôi. Miễn được đọc.
Lần hai đứa này lấy nhau,
cũng giông giống như trong truyện. Gấu mua 1 cái hụi,
đem tiền xuống quê đưa cho gia đình Gấu Cái [cái
gia đình nhận Gấu Cái làm con, nuôi cho
ăn học thành người], lo làm đám cưới. Gấu lo tìm
nhà in, in thiệp cưới. Bà Trẻ của Gấu bật cười, như vậy
thì có thiếu thốn thứ gì nữa đâu?
Thiếu ảnh cưới. Bây giờ đọc Cô Tư, mới thấy
thiếu.
Tks a lot.
Gấu Đực và Cái
Truyện này mà đọc trong Mùa Xuân
thì quá tuyệt.
Đọc “Cúi Xuống Là
Đất” rồi đọc mấy lời bàn của anh về truyện GdM [Guy de Maupassant]
về thằng con thề không nhìn mặt mẹ, nhớ 1 bài
viết ở Việt Báo, viết về nước Mỹ, bây giờ không còn
nhớ tên tác giả, chỉ nhớ chuyện chị kể: Đi vượt biên
với chồng con, bị hải tặc tóm được. Chị bị hiếp, chồng bị giết.
Chị thương con còn bé, chịu đựng cho qua cơn khổ nhục.
Vào trại tỵ nạn, qua Mỹ, một mình đi làm hai job,
lo con ăn học. Thằng bé lớn lên, bị cảnh sát bắt vì
tội ăn cướp giết người. Được hỏi tại sao, nó bảo tại mẹ nó
không lo cho nó, không ở bên cạnh nó,
không hướng dẫn nó lúc nó cần đến chị. Bài
viết có nội dung rất cảm động, tội nghệp, mà vì
tác giả không biết cách viết sao cho văn hoa, không
đào sâu được phần tâm lý thê thảm của
phận người VN, cho nên đọc xong cũng thôi, chẳng thấy ai
nhắc nhở đến nữa.
Kết luận là văn chương
mới là yếu tố cần thiết để đạt đến mục đích nào
đó. Không có nó, dù cho hoài
bão có to bằng trời cũng không ai nghe.
K
*
Tks. NQT
Sao bac cang gia cang viet ma.nh
vay?
Tks.
Gấu đang chạy đua với Thần Chết!
*
Cúi xuống là đất.
Tuyệt.
Làm sáng hẳn ra,
những cái tít cũ: Lá Rụng Về Cội, Nước Mắt Chẩy
Xuôi...
Ui chao, già/giờ
đọc lại Gấu mới hiểu, tại làm sao, sau đám cưới, Gấu đốt sạch
lố hình ảnh BHD chụp ở Đà Lạt. Giá mà
có mấy cái hình đám cưới, thì
có thể còn…
Hà, hà!
Bức hình
Thích Quảng Đức, mang đi từ Chùa Long Vân, ở Parksé,
qua Thái Lan, vô Trại Tị Nạn, qua Canada… Chùa
mới làm thêm, kế bên chùa cũ.....
Mé
sau Chùa Long Vân, Parksé.
Chùa cũ. Bạn thấy đấy, con sông sắp liếm Chùa. Gấu
nằm ngủ trưa dưới tượng Quan Công. Dậy,
xuống mé sông Mekong, tắm một phát, cho tỉnh!
Hình chụp trong 1 trong
những chuyến trở về thăm chùa, lập lại chuyến đi tìm
đường vượt sông Mekong qua trại tị nạn Thái Lan.
Lạ, lần đầu trở lại, hỏi thăm, chẳng ai biết ngôi chùa,
y hệt lần trở lại Bangkok, tìm nhà thờ St-Francis Church.
Mất cả 1 buổi sáng, trong khi lần đầu, vừa nói
tên nhà thờ, tên ngôi chùa, là
tắc xi, là “xảm lò” [một thứ xe chở khách, giống
như xe lam ở xứ Mít] đưa thẳng tới nơi.
Có vẻ như Chúa, Phật đều bực bội vì bị
quấy rầy!
Tao đâu có mong, có cần, có cầu tụi
mày nhớ ơn!
Ông cha Pháp, Brisson còn kể lại, lần đó,
không hiểu sao, tao không làm sao ngủ trưa được, cứ
loay hoay ở văn phòng, như.. chờ vợ chồng tụi mày!
Ui chao, sao mà Ông Giời chu đáo với gia
đình thằng cha Gấu tới như thế!
Thần sầu nhất, là cái
bữa đại tiệc thịt chuột, ở nông trường Cải Tạo Đỗ Hòa,
Nhà Bè.
Mãi về già, về mãi già, thật già,
GCC vẫn còn lẩm bẩm, làm sao "Lão Tặc Thiên"
[từ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn] lại chu đáo đến như thế, gần như
không quên 1 chi tiết!
Đúng cái ý, chi tiết là Thượng Đế
trong …bữa đại tiệc thịt chuột!
And
for what, except for you, do I feel love?
Do I press the extremest book of the wisest man
Close to me, hidden in me day and night?
In the uncertain light of single, certain truth,
Equal in living changingness to the light
In which I meet you, in which we sit at rest,
For a moment in the central of our being,
The vivid transparence that you bring is peace.
Wallace Stevens: Selected Poems
To My Sad Seagull, and Happy New
Year, and Please Take Care.
GNV
Mùa Giáng sinh
& Năm mới lại đến, kính chúc bác Gấu và
gia đình bác nhiều niềm vui, đầm ấm, hạnh phúc.
Chúc trang Tin văn, cùng với cõi văn củabác trẻ mãi,
Kính!
D.V
Tkank you
Merry Christmas and Happy New Year to you & family
Best Wishes
Best Regards
Take Care
NQT
Thư Texas
Monday, December 22, 2014 8:44 AM
Kính gửi ông Gấu,
Dám nói thẳng,
rõ và chỉ đích danh, cái ung nhọt của chế
độ Cộng sản Việt chỉ có ông Gấu !
Chúc ông cùng gia đình bình
an, hạnh phúc trong mùa lễ Giáng Sinh.
Độc giả TV
Trích Tin Văn:
“Những tên chóp
bu của chế độ VC đều vô văn hóa cả thì làm
sao mà khá cho được!
Chế độ Ngụy làm gì có 1 thằng ăn mày
về văn hóa, bằng cấp, học vấn, kỹ năng làm bộ trưởng, thí
dụ?”
Phúc đáp:
Đa tạ
Chúc bạn và gia đình một mùa Giáng
Sinh, một mùa Xuân mới, một năm mới an khang hạnh phúc
Best Regards
NQT
Nhân
tiện, xin chúc mừng Noel và Năm Mới tới tất cả độc giả
TV, kèm tin vui:
Trang Tin Văn, vừa rồi, có tí trục trặc với server,
với Nestcape composer, Gấu đã tính đóng cửa tiệm,
nhưng nay OK tất cả rồi, bèn renew domain name thêm
3 niên nữa, chắc là vừa. Nếu tới lúc đó, vưỡn
chưa chịu đi xa, tính tiếp.
Trân trọng
NQT
TO ONE NO LONGER YOUNG
Already you can see the tragic
setting
And each thing there in its appointed place;
The broadsword and the ash destined for Dido,
The coin prepared for Belisarius.
Why do you go on searching in the furtive
Bronze of Greek hexameters for war
When these six feet of ground wait for you here,
The sudden rush of blood, the yawning grave?
Here watching you is the inscrutable glass
Which will dream up and then forget the face
Of all your dwindling days, your agony.
The last one now draws in. It is the house
In which your slow, brief evening comes to pass
And the street front that you look at every day.
Alastair Reid
J.L. Borges
Gửi Kẻ Đếch Còn Trẻ Nữa
Mi có thể nhìn
thấy rồi đấy, cú dàn dựng bi thương
Vật nào chỗ đó
Gươm và tro dành cho Dido
Đồng xu được sửa soạn cho Belisarius. Tại
làm sao mà mi hăm he đốt cháy Trường Sơn,
Tìm những vần thơ, thí dụ, đường ra trận mùa
này đẹp lắm?
Khi bốn tấm dài, hai tấm vắn,
Và vuông đất đã sẵn sàng cho mi, ở
đây?
Khi máu dồn, mả đợi?
Chính là ở nơi đây, ngắm nhìn mi, là
những tấm gương bí ẩn
Chúng sẽ mơ, mơ, và rồi quên mẹ khuôn
mặt
Của những ngày hèn mọn dần, nhạt nhòa mãi
đi, nhỏ mãi ra, của mi
Cơn hấp hối của mi
Khuôn mặt cuối cùng bây giờ bèn lê
vào
Đây là căn nhà
Trong đó buổi chiều chậm chạp, ngắn ngủi của mi sẽ tạm
ghé qua
Và con phố đằng trước mặt, mọi ngày, hàng
ngày, mi nhìn.
When Rita Dove was a young poet
living in Europe, she wrote several poems about women saints. They
are to be found in her second book, Museum (Carnegie-Mellen):
Catherine of Siena
You walked the length of Italy
to find someone to talk to.
You struck the boulder at the roadside
since fate has doors everywhere.
Under the star-washed dome
of heaven, warm and dark
as the woolens stacked on cedar
shelves back home in your
father's shop, you prayed
until tears streaked the sky.
No one stumbled across your path.
No one unpried your fists as you slept.
I thought of this poem-and the figure
of a woman with a fierce inner life-when I read a poem from her most recent
book, On the Bus with Rosa Parks (Norton) last year. Here
it is:
Rosa
How she sat there,
the time right inside a place
so wrong it was ready.
That trim name with
its dream of a bench
to rest on. Her sensible coat.
Doing nothing was the doing:
the clean flame of her gaze
carved by a camera flash.
How she stood up
when they bent down to retrieve
her purse. That courtesy.
This stunning small poem does
so much to capture the spirit of the time and of great-souled Rosa
Parks in a few words. It made me think about the Catherine of Siena
poem because of the connection between the saint and the quiet revolutionary.
They are both very determined spirits. It also made me think how much
Rita Dove's poems are about the right to a vivid inner life. One
of her most moving poems on this subject comes from her Pulitzer Prize-winning
collection, Thomas and Beulah, a sequence of narrative poems
about an ordinary and remarkable African American family. Beulah, in
this poem, is neither saint nor activist, but a woman in a life full
of the demands of nurturing, trying to hold onto some corner of herself
that belongs to her:
Daystar
She wanted a little room for
thinking:
but she saw diapers steaming on the line,
a doll slumped behind the door.
So she lugged a chair behind
the garage
to sit out the children's naps.
Sometimes there were things
to watch-
the pinched armor of a vanished cricket,
a floating maple leaf. Other days
she stared until she was assured
when she closed her eyes
she'd see only her own vivid blood.
She had an hour, at best, before
Liza appeared
pouting from the top of the stairs.
And just what was mother doing
out back with the field mice? Why,
building a palace. Later
that night when Thomas rolled over and
lurched into her, she would open her eyes
and think of the place that was hers
for an hour-where
she was nothing,
pure nothing, in the middle of the day.
It's a space we all require-people
with a religious passion, people caught in the turmoil of social
change or in the steady drizzle of a daily life, young people trying
to carve out for themselves the space to become artists, as Rita Dove
did twenty years ago brooding over the lives of saints.
This is my last appearance in
this space. I'm going to try to give myself more time for the
work of making poems. I've been doing this column weekly for four
years and I will probably miss it. I know I will miss the responses
of readers, and this is a chance to express my gratitude. The letters,
suggesting topics or poets, offering alternative interpretations,
correcting my not-always secure hold on the facts, telling stories
that the poems each week stirred up, offering poems and translations
in response to the ones printed here, have brightened my days. I'm
leaving you in good hands. Rita Dove is not only a Pulitzer Prize-winning
poet and a novelist and a playwright and a former Poet Laureate, but
also she's what the poet Wallace Stevens said modern life requires: a
figure of capable imagination.
As my granddaughter has taken
to saying, "So long. Have a good thousand years."
Robert Hass: 2000 / Now &
Then
Note: Thay vì một lời
chúc Tết, thì là 1 bài viết, về thơ,
về nữ thi sĩ, nữ thánh, của Robert Hass, xin được gủi tới
độc giả Tin Văn, và riêng tặng hai vị thân hữu O
& K:
Thèm 1 cái phòng
riêng, như Woolf thèm
Nhưng thay vì vậy thì tã lót
cùng khắp
Ui chao, lại nhớ lần O. phôn,
Gấu đang bận cho Cu Tí Richie bú sữa.
Nghe tiếng thằng bé khóc, Bà
bật cười, tưởng nhà văn nhớn không phải làm
việc nhỏ như thế chứ!
Tks
Around 19I5, in Geneva, I saw on the
terrace of a museum a tall bell with Chinese characters. In 1976 I write these lines:
Undeciphered and alone, I know
in the vague night I can be a bronze
prayer or a saying in which is encoded
the flavor of a life or of an evening
or Chuang Tzu's dream, which you know already,
or an insignificant date or a parable
or a great emperor, now a few syllables,
or the universe or your secret name
or that enigma you investigated in vain
for so long a time through all your days.
I can be anything. Leave me in the dark.
-S.K.
Xin xâm
Khoảng 1915, ở Geneva, trên
terrace của 1 viện bảo tàng tớ nhìn thấy 1 cái
chuông cao, với những hàng chữ Tầu.
Vào năm 1976, tớ bèn làm những dòng
sau đây:
Đếch làm sao đọc được, và
trơ cu lơ một mình,
Tớ biết
Trong đêm mơ hồ
Tớ có thể là cái người cầu nguyện
bằng đồng
Hay lá sâm, khắc trong nó
Mùi đời
Hay mùi buổi chiều
Hay giấc mộng Trang Chu
Mà mi hẳn biết,
Hay một ngày tháng vô nghĩa
Hay ngụ ngôn, thần chú cái con mẹ
gì đó
Hay vị đại hoàng đế,
Bây giờ chỉ là dúm chữ
Hay vũ trụ
Hay tên bí mật của mi
Hay bí ẩn mi tra cứu vô
ích
Trong thời gian dài, qua tất cả những ngày
của mi
Tớ có thể là bất cứ cái gì
Thôi, hãy xéo, kệ cha tớ trong đêm
tối
thui.
Jorge Luis Borges: “Susana Bombal”
April 5, 2015 · by Paul Weinfield
· in Spanish. ·
Tall in the evening, exalted and
proud,
she crosses her chaste garden and suddenly
is caught in the light of an irreversible moment
that gives to us this garden and this image,
silent and profound. I see her here and now,
but at the same time, I see her in the antique
twilight of an ancient Babylonian town
or slowly descending the shallow steps
of a temple now reduced to the infinite dust
of a planet once built of stone and pride
or deciphering the magical alphabets
of stars lying deep in distant latitudes
or breathing the scent of an English rose.
Wherever there is music, she is too,
in the soft blue of the sky, in Grecian verses,
in the solitudes of we who seek her,
in the mirror of water that flows from the fountain,
in the marble of time, in a sharpened sword,
in the serenity of an open terrace
that looks upon the gardens and the sunsets.
And behind all the myths and masks:
her soul, which is always alone.
Jorge Luis Borges
Bài thơ này, được viết
khi Brodsky bị lưu đầy nội xứ, ở 1 nông
trại ở phiá Bắc nước Nga.
Ở Nga, lễ mừng
năm mới được coi như lễ mừng Giáng Sinh.
Bản dịch tiếng
Anh, của chính tác giả, được kiếm thấy
trong những giấy tờ của ông.
Ngày 1 Tháng Giêng,
1965
Những Vì
Vua sẽ đánh mất những địa chỉ cũ của mi
Không
một vì sao sẽ sáng lên nhằm tạo
ấn tượng.
Tai của mi bèn
chịu thua
Tiếng hú
gào nhức nhối của những trận bão.
Cái bóng
của mi
Bèn rụng
rời, bye bye, cái lưng của mi
Mi bèn
tắt đèn cầy, và bèn đụng cái
bao tải
Bởi là
vì mi còn phải bóc lịch dài
dài,
Ở cái
nông trường cải tạo Đỗ Hoà, Nhà
Bè này
Bao nhiêu
đèn cày cho đủ,
Cho những cuộc….
đốt đuốc chơi đêm?
Cái gì,
cái này?
Nỗi buồn ư?
Nhớ Xề Gòn
ư?
Nhớ mấy đứa
nhỏ ư?
Đúng
rồi, có lẽ nó, đấy,
Một khúc
nhạc sến sẽ chẳng bao giờ ngưng
Cái gì
gì,
Ngọn đèn
đêm đứng im, “cuối” đầu!
Lũ Ngụy gần
như thuộc nằm lòng, những khúc trầm
bổng
Cầu cho nó
được chơi rất đúng tông, cùng
với những điều sắp tới
Với góc
khuất của một ai đó
Bằng sự biết
ơn, của mắt và của môi
Về những gì
cho chúng biết,
Làm sao
xoay sở
Về 1 điều xa
xưa
Những
ngày tháng cũ.
Và bèn
ngước mắt nhìn lên, nơi không
một đám mây trôi giạt
Bởi là
vì mi cạn láng đời rồi, Gấu ơi là
Gấu ơi.
Mi
sẽ hiểu, tiện tặn nghĩa là gì:
Nó hợp
với tuổi của mi.
Không
phải 1 sự coi thường.
Quá trễ
rồi, cho đột phá
Dành
cho những phép lạ
Dành
cho Ông Già Noel và bầy đoàn
thê tử của Xừ Lủy
Và bất
thình lình mi hiểu ra được
Mi, chính
mi, là Phép Lạ
Hay, khiêm
tốn hơn,
Một món
quà triệt để, dứt khoát.
Note:
GCC viết "Những ngày ở Sài Gòn",
sau khi thoát chết, mìn VC, ở Nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh, 26-06-1965
VIETNAM - OCTOBER 10:
A young dancer in traditional dress appears pensive in this
portrait, Hue, Vietnam (Photo by Wilbur E. Garrett/National Geographic/Getty
Images)
“Her face as radiant as the
moon…. Clouds lost their loveliness beside her hair…. Flowers
envied her brilliance, willows coveted her grace…. Beside
her, of what value were empires and citadels?” Such a fair Vietnamese
as this dancer from Hue may well have inspired these extravagant
lines by the poet Nguyen Du (1765-1820). - NATIONAL GEOGRAPHIC
Magazine October 1961
năm mới kính chúc
cô chú cùng qia quyến an khang
và như ý
kính.
những dẫn nhập không
số
mưa tháng giêng.
giọt buồn. giọt lạnh. mùa đông năm nay
khí hậu bất thường. buốt lạnh hơn. và mưa nhiều
hơn tuyết. mưa tháng giêng nơi này rất
ít. vậy mà mưa. rồi đông đá. cho
những chiếc xe trượt dài. đổ vương vãi những nghĩ
suy mông lung.
bắt đầu một năm mới. có
mới? bắt đầu một cuốn lịch. còn muốn lật? đó
là những sản phẩn của con người. thời gian thì
luôn cần một cái mốc cố định. cái
mốc tôi chuyển động. theo những chiều vô định.
tất cả đều di động. thời gian? tôi không có.
đầu một năm mới kính
chúc ông cùng gia quyến thật bằng
an và như ý
- thời gian theo ông
nó đi qua ông hay ông đi qua nó?
- “thần sầu” chữ của ông.
chỉ có những người đọc tinh. có những
vốn liếng cần thiết. có những liên hệ thời
gian không gian về một ký ức khó quên.
sẽ nhận ra được một đoạn. một câu. văn hoặc thơ “thần
sầu”. “thần sầu” cuả ông có phải vậy? nếu phải.
thì là “thần sầu” người đọc hay “thần sầu” người
viết? hay là cả hai?
- những đoản văn của ông.
ngọt bùi trộn lẫn. kéo người đọc tới lui.
hay hướng họ tới một cái nhìn khác.
ông có nghĩ ông thành công trong
cái viết như vậy?
- ông nhìn vào
phía trong nhiều quá. theo nhận xét
của tôi. còn cái đẹp ngoài
ông để đâu? hay đó là cái
chung của những người ở vào cái tuổi của ông?
- “bonus” cái ông
thường nhắc trong những lúc sau này. muốn
hỏi ông rằng.cái được thêm hay cái
bị thêm? viết chỉ để viết? hay viết để chỉ ra những
điều cần được viết?
và lại một năm mới
ông nhỉ.
mưa. tháng
giêng
mưa. tháng giêng
giọt. lạnh
những. con đường trắng. hếu
mùa xuân. về
trên xa lộ
sau một tuần. công việc.
chóng mặt
cái quạt nước. xoa
xoa mờ. hiện tại
tháng giêng.
không. cỏ non
vàng. úa rơm.
rạ
chạy. qua những cánh
đồng. tít tắp
bài bình luận.
về ngày. đăng quang
không rõ. có
ai vừa. bóp kèn
tiếng. rỗng
giọt. mưa xuân. đính
chặt vào. kiếng
lù mù. rơi.
xa xăm
tháng giêng.
mưa. ở đây. thật hiếm
nét. mưa nhòa.
chất ngất
mưa. tháng giêng
giọt. buồn
cùng. mùa xuân.
lặng.rơi
Chúc DS và gia
đình một cái Tết thật đầm ấm vui tươi hạnh
phúc. Và xin cho gửi lời chúc Tết tới
toàn thể mọi người trong Đại Gia Đình mà
ngày nào, có GNV là 1 thành
viên, đứa con nuôi, và hai đứa con ruột
của Cụ.
Đó là quãng
đời đẹp nhất của Gấu Nhà Văn.
Tks
Take Care
NQT
- thời gian theo ông nó
đi qua ông hay ông đi qua nó?
Câu hỏi này, thật
căng, thật lạ.
Ở đây chỉ đưa ra hai
gợi ý.
Bao thơ tôi, ít
nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời
Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or
less about the same thing – about Time. About what time
does to Man."
Joseph Brodsky.
Và, bài thơ sau
đây.
Đây là bài
thơ tôi viết trước khi chết, và được sống lại.
From LAST & LOST POEMS (1989)
This Is a Poem I Wrote at Night,
before the Dawn
This is a poem I wrote
before I died and was reborn:
- After the years of
the apples ripening and the eagles soaring,
After the festival here the
small flowers gleamed like the first stars,
And the horses cantered and
romped away like the experience of
skill; mastered
and serene
Power, grasped and governed
by reins, lightly held by knowing
hands.
The horses had cantered
away, far enough away
So that I saw the horses' heads
farther and farther away
And saw that they had reached
the black horizon on the dusk of day
And were or seemed black thunderheads,
massy and ominous
waves in
the doomed sky:
And it was then, for the first
time, then that I said as I must
always say
All through living death
of night:
It is always darkness
before delight!
The long night is always the
beginning of the vivid blossom of day.
LITERATURE
With his New Directions debut
in 1938, Delmore Schwartz was hailed as a genius and among
the most promising writers of his generation. Yet he died
in relative obscurity, wracked by mental illness. Sadly, his literary
legacy has been overtaken by the story of his tragic life.
Among poets,
Schwartz was a prototype for the confessional movement
made famous by Robert Lowell and John Berryman. His stories
and novellas about Jewish-American experience laid the groundwork
for novels by Saul Bellow (whose Humboldt's Gift is based
on Schwartz's life) and Philip Roth.
This volume
aims to restore Schwartz to his proper place in the canon
and introduce new readers to the breadth of his achievement.
Included are selected stories and poems, excerpts from Schwartz's
epic poem Genesis (long unavailable) and his never-completed
book on T. S. Eliot, letters, verse plays, and unpublished poems.
"Dazzling - a new kind of telling,
with urgent bluntness of its own." -John Ashbery
"Delmore Schwartz catapults
past the fickleness of mere reputation (that posture and
position that Lionel Trilling defined as characterizing a
'figure') into something close to legend." -Cynthia Ozick
"What complicates and enriches
Schwartz's comedy is a reaching out toward nobility,
a shy aspiring spirituality, a moment or two of achieved purity
of feeling." -Irving Howe
"I wanted to write. One line
as good as yours. My mountain. My inspiration." -Lou
Reed
Delmore Schwartz was born in
Brooklyn and is one of America's greatest poets and
short-story writers. Schwartz received the Bollingen Prize
in 1959. After a difficult period, he died of a heart attack
in 1966.
Craig Morgan Teicher is a poet
and critic whose most recent book of poems is To Keep
Love Blurry. John Ashbery has won nearly every major American
award for poetry, including the Pulitzer Prize, the National Book
Award, and a MacArthur "Genius Grant." His latest collection is
Breezeway.
All Gone into the Dark
Where's the blind old street
preacher led by a little boy
Who said the world will end next
Thursday at noon?
Where's the woman who walked
down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked
and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz
I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing
theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair
pushed by his mother
Who kept shouting about wanting
to kill more Vietnamese?
Mr Undertaker, sitting in a window
of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you
probably have a hunch-
Or are you, like the rest of
us, equally in the dark
As you busy yourself around the
newly arrived dead?
Rồi tất cả cũng đi vào đêm
tối
Ông linh mục mù
già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới
vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn
bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa
hè, hoàn toàn khoả thân, và
rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore
Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi
ở
Washington Square Park, múa
may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh
niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết
VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm, ngồi
ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả giò, bạn có
thể có linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng
tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm
rộn mình, về những người chết mới tới?
Charles Simic
LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER
2010
- thời gian theo ông nó
đi qua ông hay ông đi qua nó?
Có thể “đọc” câu trên,
qua ý của Brodsky, thơ là thời gian được
sắp xếp lại, that any poem is reorganized time, cái
thiên thu gặp cái hiện tại:
Trong Borges Tám Bó,
có 1 chương dành cho thời gian: Time Is the
Essential Mystery, Thời gian thì huyền bí như
là yếu tính của nó
University of Chicago,
March 1980
Time Is the Essential Mystery
I think that time is the one
essential mystery. Other things may be mysterious. Space
is unimportant. You can think of a spaceless universe, for example,
a universe made of music .... The problem of time involves
the problem of ego, for, after all, what is the ego? The ego
is the past, the present, and also the anticipation of time to
come, of the future.
Chính là trong chương
này, Borges cho biết, bà cụ của ông,
là người viết ra dòng chót của truyện
ngắn "The Intruder", mà chính Borges phán,
đây là truyện ngắn tuyệt vời nhất mà tôi
đã từng viết ra, và GCC áp dụng nó
vô xứ Mít, khi cố tìm 1 cái giải thích
có tí mùi "đạo đức", cho Cái Ác
Bắc Kít:
Trong bài viết về Borges,
Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The
New Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner
có nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges, mới được dịch
qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành dương,
illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges. Tò mò, Gấu kiếm
trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có.
Lên net, có, nhưng chỉ cho đọc, không
làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện
hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một trong họ, giết cô
gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì
chỉ có cách đó mà hai em mới cùng
san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên nàng”. Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí
- cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ
lén vô nhà, The Intruder”, quả là
1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và
cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên
net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay
rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh
Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê,
và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng
có bổn phận, quên nàng:
Như thể, sau khi Gấu lang thang
xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn,
và thấy Những Ngày Ở Sài
Gòn, nằm trên bàn!
"The Intruder," a very short
story recently translated into English, illustrates Borges's
present ideal. Two brothers share a young woman. One of them
kills her so that their fraternity may again be whole. They
now share a new bond: "the obligation to forget her."
Borges himself compares this vignette
to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight thing,
but flawless and strangely moving. It is as if Borges, after
his rare voyage through languages, cultures, mythologies, had
come home and found the Aleph in the next patio.
Borges: … I remember I wrote
a story called "The Intruder." Two hoodlums, two brothers,
kill a woman because they are jealous of each other. The one
way they had to get rid of her was to knife her. I came to the
last sentence. My mother was writing it down. She disliked the whole
thing. She was sick and tired of hoodlums and knives. Then I came
to a moment when the elder brother had to tell the younger brother
that he had knifed the woman that morning. Or he had strangled her,
I don't know-why go into the gory details? He had to say that, and
I had to find the right words. Then I told my mother: "How on earth
can he say that?" And she said: "Let me think." This was in the morning.
Then, suddenly, in quite a different voice, she said: "I know what
he said." Then I said: "Well, write it down." She wrote it down and
I asked her to read it. She read it and those words were: "To work,
brother, I killed her this morning." And she found the
right words for me. The story ended. I added a sentence or so. Then she
asked me not to write any more of those blood- and-thunder stories. She
was sick and tired of them. But she gave me the words, and at that moment
she became, in a sense, one of the characters in the story, and she
believed in it. She said "I know what he said" as though the thing had
actually occurred. She gave me the key word for that story called "The
Intruder," perhaps the best story-or perhaps the one story I have ever
written.
Vưỡn trong cái dòng
thời gian làm gì mi vs mi làm gì thời gian
Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
The memory of time
Is full of swords and ships
And the dust of empires
And the rumble of hexameters
And the high horses of war
And shouts and Shakespeare.
I want to recall that kiss, the kiss
You bestowed on me in Iceland.
-H.R.
Ký ức thời gian
Thì đầy gươm giáo và tầu thuyền
Và bụi bặm đế quốc
Và tiếng ùng ục của những vần thơ lục bát
Và ngựa chiến
Và tiếng la hét và Shakespeare.
Tớ chỉ muốn nhớ nụ hôn
Mà em ban cho tớ
Lần ở nghĩa trang Bắc Việt (1)
1965. Những ngày
viết "Những ngày ở Sài-gòn". Thời gian xa cách
làm những giọt nước chín mùi, biến thành
những chữ. Cô bé đã lớn, đã bước vào
những năm cuối cùng của bậc Trung Học. Đã có lần
tham gia biểu tình, bãi khóa. Đã có
người yêu đón đưa những lần tới lớp, những giờ tan trường.
Đã bị bà Giám Hiệu ra thông báo cấm
những trò có hại cho thanh danh nhà trường như
vậy. Đã bãi học không phải để tham gia biểu tình,
nhưng để đi chơi với người yêu. Lợi dụng thành phố đang
trong cơn nhốn nháo, cả hai theo chiếc xe lên nghĩa trang
Bắc Việt để thì thầm những lời yêu đương giữa những nấm mồ
và lắng nghe những người đã chết kể về từng gốc cây
ngọn cỏ.
The conceit of being a minor poet
allows Borges “with pretended ease” to assume the identity of everyman.
Some everyman. If we can, for the moment, forget the four ponderous
volumes of the Collected Works, or the colossal erudition, or the
mastery of seven or eight languages, or the Nobel Prize he should have
won, Jorge Luis Borges truly was an everyman, inhabiting our identities
as we inhabit his. “Oh destino de Borges, tal vez no más extraño
que el tuyo”: “Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than yours.”
Ôi số mệnh Borges, chắc cũng lạ hơn Gấu! Chính
vì thèm [hách xì xằng] là 1 nhà thơ làng
nhàng, làm ông có cái căn cước
của bất cứ 1 ai, của mọi người. Nếu bạn, có 1 lúc, quên
kho tàng đồ sộ là những tác phẩm của ông,
hay cái Nobel mà đúng ra ông phải được,
thì Borges thực sự là bất cứ 1 ai, bất cứ mọi người,
an everyman, cư ngụ trong những căn cước của chúng ta như chúng
ta cư ngụ trong căn cước của ông
Nhưng thèm 1 cú hôn, thì
hẳn thú hơn nhiều, thay vì thèm, nhìn
bướm của 1 em, hay bầu sữa của bà mẹ.
Nhưng, ngoài Bắc Kít ra, liệu có
giống dân nào, thèm nhìn bướm của 1
em, trước khi từ giã cõi đời?
Hộp
thư Văn Học số 143, Tháng Ba 1998.
Tks. NQT
Vậy mà GCC cứ nghĩ, cái
từ "thần sầu" là do GCC phịa ra để tự xoa đầu mình.
Thần sầu chính trị văn chương!
Bài
dịch này, cũng là từ hồi mới qua Canada, 1997. Ng.
Tuấn Anh cũng là bút hiệu của Gấu Cà Chớn
Đọc bản
tiếng Anh 1 phát, là trúng đòn liền, vì
Gấu cũng 1 thứ không thương Mẹ mình, và đây
là độc hại di truyền từ bà nội Gấu.
Bà rất thù cô con dâu, và
đổ diệt cho mẹ Gấu, vì ngu dốt quá, khiến chồng bị chúng
giết.
Bà
cụ Gấu do tham phiên chợ cuối năm 1946, tại Việt Trì,
và khi trở về làng quê bên kia sông,
tay thủ lãnh băng đảng chiếm Việt Trì lúc đó,
là 1 tên học trò của ông cụ, đã
đưa cái thư mời dự tiệc tất niên, nhờ bà đưa cho
chồng. Nhận được thư, đúng bữa ba mươi Tết, ông cụ đi,
và mất tích kể từ đó. Gấu đã viết về chuyện
này trong Tự Truyện.
Lần trở lại đất Bắc, Gấu muốn tìm hiểu coi cụ
mất đích thực ngày nào, và thắp 1 nén
hương cho bố mình.
Bãi
sông Việt Trì, nơi ông cụ Gấu mất. Khi Gấu về,
cầu đang thi công. Gấu xuống xe, thắp hương, cúng, khấn
Bố.
Bà chị Gấu không xuống xe. Hình
như Bà chưa lần nào cúng Bố.
Cúng Mẹ thì lại càng không.
Note: Bản trường ca, hoá
ra là trang Tin Văn, chỉ để tố cáo Cái Ác
Bắc Kít.
Kincaid viết về quê hương
của Bà:
Bạn cứ tới những nơi chốn, nơi
cái xiềng thuộc địa thật sự bằng thép, và
tỏ ra hết sức hữu hiệu: Phi Châu, vùng Caribbean, hay
một nơi nào khác trên địa cầu. Phi Châu là
một thảm họa. Tôi không hiểu đất đai con người ở đây
rồi có ngày lành mạnh trở lại, hay là không.
Thật khó có chuyện, những ông chủ thuộc địa bỏ qua,
không đụng tới cái phần tâm linh của con người Phi
Châu. Bởi vậy, chuyện tiểu thuyết hóa là đồ dởm.
Những người Phi Châu đối xử với nhau thật là độc ác;
bạn chỉ việc nhìn tất cả những con người đói khát
đó thì thấy. Làm sao có chuyện những ngài
thủ lãnh Phi Châu nhìn vào mặt con dân
của họ, và rớt nước mắt? Họ cứ tiếp tục duy trì, theo một
con đường tệ mạt khốn kiếp, cái điều đã xẩy ra khi còn
chế độ thuộc địa. Sự thực, là bất cứ đâu đâu, cái
gọi là di sản của chủ nghĩa thuộc địa, đó là:
độc ác, tàn nhẫn, trộm cướp. Cách những tên
thực dân đối xử: mild way, nhẹ nhàng thôi, đôi
lúc có xoa đầu những người dân cô lô
nhần, bây giờ chúng ta đối xử với nhau, theo một cách
cay độc hơn, khốn kiếp hơn. Và bạn biết không, chúng
ta cứ mắm môi mắm lợi, lấy hết sức lực ra, full force, để mà
"chơi" nhau. Bởi vậy, có thể dưới luật thuộc địa, người Phi
Châu ăn rất ít; dưới luật của người Phi Châu, họ
chẳng ăn gì hết - và cứ như thế.
Có
1 cái gì đó, y chang xứ Bắc Kít, thời
Pháp Thuộc.
Khi vô Nam, là Gấu nhận ra liền, xứ này
không giống xứ Bắc Kít, và Gấu mơ hồ hiểu ra,
sự khác biệt là do đâu.Gấu nhớ, hồi mới vô Sài
Gòn, lần đầu vô 1 quán ăn xã hội, chỉ
phải mua đồ ăn, cơm tha hồ ăn, khỏi trả tiền, thằng bé Bắc
Kít sững người, ú a ứ ớ…. Rồi những lần đi chơi Bình
Dương, vào vườn chôm chôm, cũng tha hồ ăn, nhưng
đừng mang về, rồi, rồi, chỉ đến khi vô tù VC, thì
mới gặp lại xứ Bắc Kít ngày nào.
Có thể, bà chị Gấu không
xuống xe, thắp nhang cúng Bố, là do Bà không
quen với việc thắp nhang, cúng bái, sau bao nhiêu năm
sống dưới chế độ CS.
Lần về đó, Gấu dự định, nếu điều kiện thuận lợi,
là đem tro cốt của mẹ và thằng em trai về Đất Bắc.
Thấy thái độ của bà chị, Gấu bỏ luôn ý định.
Thảo Trường, khi còn sống, biểu Gấu, ông
về thắp được nén nhang cho ông cụ, chụp được hình
cái lô cốt "đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt", là
kể như quá OK rồi, khỏi cần về nữa!
Bạch Yến, cô gái lớn
của vợ chồng Gấu.
Mẹ có bầu đúng
Mậu Thân, VC pháo kích khủng quá, ở đúng
khu chúng cứ nhè, để pháo kích,
ảnh hưởng
đến cái thai, tưởng què luôn.
Suốt thời thiếu nữ, bị tật đái dầm. Chắc giờ
cũng chưa hết!
DECEMBER
It snows
and still the derelicts
go
carrying sandwich boards-
one proclaiming
the end of the world
the other
the rates of a local barbershop.
Charles
Simic: The Voice at
3.00 AM
Tháng Chạp
Trời
tuyết
vậy mà vẫn có hai
đấng không nhà
đi ở ngoài đường phố
tay cầm cái hộp giấy đựng
bánh mì sandwich
một đấng
tuyên bố tận thế rồi
đấng kia
giá biểu cắt tóc
ở một tiệm gần đó.
That mirror understood everything
about me
As I raised the razor to my face.
Oh, dear God!
What a pair of eyes it had!
The eyes that said to me:
Everything outside this moment is a lie.
*
As I looked out of the window
today
At some trees in the yard,
A voice in my head whispered:
Aren't they something?
Not one leaf among them stirring
In the heat of the afternoon.
Not one bird daring to peep
And make the hand of the clock move again.
*
Or how about the time when the
storm
Tore down the power lines on our street
And I lit a match and caught a glimpse
Of my face in the dark windowpane
Với Cú
Nhìn
Cái gương biết mọi chuyện
về Gấu Cà Chớn
Khi GCC đưa lưỡi dao cạo lên mặt
Ôi, Chúa! Nhìn kìa!
Nhìn cặp mắt lé, mắt nọ chửi bố mắt
kia.
Chúng nói với Gấu:
Mọi chuyện ở bên ngoài thời khắc này
đều là dối trá
Đều thuộc Vua Bịp
Hà, hà!
Khi Gấu nhìn ra ngoài
cửa sổ bữa nay
Nhìn mấy cái cây ở ngoài
vườn
Một giọng nói trong đầu Gấu thì thầm:
Nè, liệu chúng là “cái
gì gì cái chi chi, something”?
Không 1 chiếc lá
trong bọn chúng động đậy
Trong cái nóng của buổi xế trưa
Không một chú chim nào dám
hé nhìn
Và làm cho cái kim đồng hồ
lại nhích nhích
Hay là như thế nào,
ấy là nói về trận bão,
Khi nào thì nó quật sụm mấy
đường dây điện trên con phố.
Và Gấu bèn đốt 1 que quẹt
Và chộp được cái nhìn khuôn
mặt thảm hại của Gấu trên kính của sổ
Bèn nhớ cái lần nhìn bóng
dáng thiểu não của Gấu
Trên cái kính xe hơi bên
đường
Lần chạy theo BHD
Ở bên ngoài Đại Học Khoa Học
Đại lộ Cộng Hòa, Xề Gòn!
You're
at home listening
to recordings of Billie
Holiday,
who sings on, melancholy,
drowsy.
You count the hours
still
keeping you from midnight.
Why do the dead sing
peacefully?
while the living can't
free themselves from fear?
Adam Zagajewski
Đêm
Giao Thừa
Bạn
ở nhà nghe Duy Khánh ca Xuân này con không
về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao
thừa
Tại sao người chết
ca nghe thật hiền hòa?
Trong khi người sống
không thể nào rũ ra khỏi sự sợ hãi?
It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.
Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,
Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
1
Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của
nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày
hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công
viên Lê Văn Tám
Chỉ những chiếc lá nói
sự thực
Chúng rì rào âm
u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe, một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều
về những kẻ vô hình,
Hay là tại sao cánh của
nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã
bay đi mất rồi:
Chuồn chuồn có cánh thì
bay
Có thằng VC đang rình
mày đây nè! (a)
2
Don't the shadows know something about
it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other
world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just today I was admiring the one I
cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday
sun?
2
Liệu những bóng đen biết gì
về nó?
Cái cách mà chúng,
cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm
vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng
làm
Trước khi vội vã trở lại với
chúng ta.
Đúng ngày hôm nay
Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng một cái bóng
đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên
con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này
đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang
về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những
hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà
biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa,
một ngày nắng ấm Sài Gòn?
Ông
này đúng là thứ dữ, đọc nhiều, nhớ lâu,
bị chửi cũng khiếp nhưng vẫn tỉnh bơ, dịch thơ thì thần
sầu. Sai nguyên văn ư ? Nhưng đố mà tìm được
cách dịch nào làm người đọc thấy thống khoái
hơn. Quái kiệt.
Tks
K phán, bị THNM, nhìn đâu
cũng thấy VC. Bởi thế chúc SN:
HAPPY
78TH BIRTHDAY.
Today at 6:01 PM
CHÚC LUÔN
KHỎE ĐỂ GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH
HOẠT VĂN CHƯƠNG THẾ GIỚI .
CHÚC LUÔN
NHỚ ĐỂ NHỮNG "ĐỜI" TRƯỚC MÃI VẪN ĐẬM TRONG KÝ
ỨC
CHÚC LUÔN
QUÊN ĐỂ NHỮNG "THNM" MẤT DẤU BỚI HOÀI TRONG
TRÍ VẪN KHÔNG RA
CHÚC LUÔN
AN ĐỂ HƯỞNG HẠNH PHÚC BÊN CẠNH NHỮNG NGƯỜI
THÂN YÊU ĐANG HIỆN DIỆN
K
Đa tạ.
GCC
Một vị độc giả ở trong nước, cũng quá
mê kiểu "lộng dịch" này.
Nhưng về già, ngộ ra, do mắt lé,
nhìn Gấu Cái ra cô phù dâu
ngày nào, thế là khổ cả đời!
I don't understand summer smiles
at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without fail
I've noticed every year has three.
And the first one is holiday
disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks
and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.
The birches are the first to
join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every transient
tear
Onto the neighbor over the fence.
Here's what happens when you
use a story to
break
the silence:
A second goes by, a minute, and then
Comes the second autumn as dispassionate
as
conscience,
As somber as an air raid siren.
Everyone immediately appears
pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading their
gold
-Music floats through the fragrant mist.
And in the waves of frankincense,
cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened up,
and right away
Everyone understood: that's the end of the
play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.
Akhmatova
1943
Ba thu
Tôi đếch làm sao
hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông chẳng có
tí “đẹp zai” gì đối với tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và ngộ ra
rằng, có tới ba mùa thu
Mùa đầu tiên thì
là một cú loạng quạng của ngày nghỉ
lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu bù
mùa hè, của ngày hôm qua.
Lá cây bay như những trang,
những mẩu, từ những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù mới
ngọt ngào làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ, long
lanh sáng.
Những cây bu lô
gia nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng được
phủ bằng một bức màn xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù tì
mọi giọt lệ thoảng,
qua hàng rào nhà hàng
xóm.
Và bây giờ, là
điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu chuyện
để phá vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì, bèn
tiếp theo liền, và rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới, ngán
như là lương tâm,
Âm u như là tiếng còi
báo động máy bay Mẽo tới vùng trời Bắc
Kít
Và mọi tên Bắc Kít,
liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè kể như không
còn, đếch hiện hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn dòn
dã, đường ra trận mùa này đẹp lắm,
Vàng của chúng ta là
chiến lợi phẩm Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không
gian, qua thềm sương mù thơm ngát.
Và trong những đợt hương
trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt, được
khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão, mọi
vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều hiểu: Cuộc
chiến chấm dứt.
Xề gòn bị làm thịt rồi
Và đó, đếch phải mùa
thu - một mùa thu năm qua, cách mạng tiến ra
–
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó
ra cho lũ Mít cùng nhìn thấy.
[Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng
cực tới, hà, hà!
To SLN - sáng nay (ở Hội An),
Sep 14, 2012, đọc những bài thơ anh vừa lộng dịch, cảm
động vô cùng - with Tks. NQT]
CHÚC LUÔN KHỎE ĐỂ
GIỮ TIN VĂN ĐỘC ĐÁO VỚI THƠ VÀ SINH HOẠT VĂN CHƯƠNG
THẾ GIỚI .
Độc đáo. Đúng như
thế. Thơ văn tin tức văn học của TV, đa phần thuộc loại tươi,
cực tươi, nói kiểu nhảm nhí, hai núm vú
còn đỏ hồng, thí dụ, thơ Simic, tập "The Lunatic",
ngay từ khi vừa đăng trên mấy báo văn học, như The Paris
Review, hay The New Yorker, là Gấu đã bệ về, và
dịch. Những cuốn mới ra lò của Borges, như Borges Tám
Bó, Borges Conversations, chưa nơi nào có cả,
trừ Tin Văn. Khủng, cực khủng đến như thế.
Thông tin, tài liệu văn học, thì
cũng thế.
Không đơn giản đâu.
Bởi thế mà bài nào cũng có
nguyên tác đính kèm, để cho độc giả
nhìn ra độ lé, độ lệch giữa "nấm vú còn
đỏ", và "hết còn đỏ", sau khi độc giả thưởng thức,
chúng!
Vả chăng, đây là ý
của Borges. Ông phán, học trò khám phá ra
Thầy. Gấu đã từng thuổng ý này, khi viết về cuốn "Bếp
Lửa" của TTT. Sau, thì biết là ở trong bài viết Những
Tiền Thân Của Kafka.
Bạn đọc bản dịch loạn của Tin Văn, và
sau đó, đọc nguyên tác, hay đọc nguyên
tác, sau đó, đọc bản lộng dịch, và thể nào,
bạn cũng khám phá ra 1 bản dịch khác nữa,
và cứ thế cứ thế.
"Nghĩa" của 1 bài thơ, bằng với số lần,
bạn, và những độc giả khác, đọc nó.
Nếu tôi không lầm,
những mẩu đa dạng tôi vừa kể, giống Kafka; nếu tôi
không lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào
giống cái nào. Sự kiện thứ nhì này có
ý nghĩa hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận thấy,
hoặc nhiều hoặc ít, phong cách riêng của Kafka,
nhưng nếu Kafka chưa từng viết một dòng, chúng ta sẽ không
nhận ra tính chất này; nói một cách khác,
chúng chưa hề hiện hữu.
Diodorus Siculus tells
the story of a god, broken and scattered abroad. What man
of us has never felt, walking through the twilight or writing
down a date from his past, that he has lost something infinite?
Mankind has lost a face,
an irretrievable face, and all have longed to be that
pilgrim — imagined in the Empyrean, beneath the Rose — who
in Rome sees the Veronica and murmurs in faith, “Lord Jesus,
my God, true God, is this then what Thy face was like?”
Beside a road there is a
stone face and an inscription that says, “The True
Portrait of the Holy Face of the God of Jaen.” If we truly knew
what it was like, the key to the parables would be ours and we
would know whether the son of the carpenter was also the Son of
God.
Paul saw it as a light that
struck him to the ground; John, as the sun when it shines
in all its strength; Teresa de Jesus saw it many times, bathed
in tranquil light, yet she was never sure of the color of His
eyes.
We lost those features, as
one may lose a magic number made up of the usual ciphers,
as one loses an image in a kaleidoscope, forever. We may
see them and know them not. The profile of a Jew in the subway
is perhaps the profile of Christ; perhaps the hands that give
us our change at a ticket window duplicate the ones some soldier
nailed one day to the cross.
Perhaps a feature of the
crucified face lurks in every mirror; perhaps the
face died, was erased, so that God may be all of us.
Who knows but that tonight
we may see it in the labyrinth of dreams, and tomorrow
not know we saw it.
[From Dreamtigers, by Jorge
Luis Borges, translated by Mildred Boyer]
PARADISO XXXI, 108
Diodorus Siculus narrates the story
of a dismembered and sundered god, who, as he walks
in the twilight or traces a date in his past, never senses
that something infinite has been lost.
Mankind has lost a face, an irretrievable face, and every-
one would like to be that pilgrim (dreamed of in the empyrean,
under the Rose) who sees Veronica's handker- chief in Rome
and murmurs with faith: Jesus Christ, My Lord,
True God, this, then, was Your Face?
There is a stone face on a certain road and an inscription
which reads: The true Portrait of the Holy Face of the God
of Jaén.
If we really knew the likeness, we would have the key
to the parables and would know if the son of the carpenter was
also the Son of God.
Paul saw it in the guise of a light which hurled him to
the ground; John, as the sun shining in full force; Teresa of
Jesus, oftentimes, as if bathed in a tranquil light, but she was
never able to specify the color of the eyes.
We lost those features, in the way a magical number may
be lost, a number made up of customary figures; in the same
way as an image in a kaleidoscope is lost forever. We may see
them, and not know it. The profile of a Jew in the subway may be
that of Christ; the hands which give us some coins at a change-window
may recall those which some soldiers once nailed to the Cross.
Perhaps some feature of the Crucified Face lurks in every
mirror; perhaps the Face died, was effaced, so that God might
become everyone.
Who knows whether we may not see it tonight in the labyrinths
of dreams and remember nothing tomorrow.
- Translated
by ANTHONY KERRIGAN
Diodorus
Siculus kể câu chuyện, một vị thần tàn phế,
mảnh miểng bỏ vãi tứ lung tung, lang thang trong hoàng
hôn chập choạng, hay mầy mò tìm một ngày
tháng dĩ vãng, không hề cảm nhận ra,
rằng thì là, một điều gì đó, thiên
thu biền biệt, vĩnh viễn mất đi.
Nhân loại mất mẹ mất bộ mặt của nó. Một bộ
mặt đếch làm sao lấy lại được, và mọi người thì
đều giống y chang vị lữ hành đó ( kẻ được
mơ ước bởi Empyrean, dưới BHD).
Tên khốn đó, có lần làm 1 chuyến
thăm viếng La Mã, và nhìn thấy cái
khăn tay của BHD, và thế là la toáng
lên: Ôi Chúa Ky Tô. Chúa Đích
Thực, Cái này – cái khăn tay của BHD, tất
nhiên – là Khuôn Mặt Của Người ư?
Có một bộ mặt bằng đá nơi ven đường nào
đó, với dòng
chữ: Đây là bộ mặt thực sự của Chúa.
Giả như chúng ta biết sự giống như thiệt, chúng
ta có được chìa khoá mở ra những
ẩn dụ, và biết được người con trai của ông thợ mộc
cũng là Con của Chúa.
Paul nhìn thấy
nó trong tia sáng quất anh ta sụm xuống đất; John, như
tia lửa mặt trời với
toàn thể sức mạnh của nó, Teresa of Jesus, thường thường,
như thể tắm trong 1 thứ ánh sáng êm ả, nhưng bà
không bao giờ có thể chỉ ra màu sắc của cặp mắt.
Chúng ta mất những hình
ảnh này, theo đường hướng mà một con số thần kỳ có
thể mất, một con số được thành lập bởi những hình
tượng thông tục: cùng 1 đuờng hướng mà một hình
ảnh trong kính vạn hoa vĩnh viễn mất. Chúng ta có
thể nhìn thấy chúng, nhưng không hiểu. Cái
dáng nhìn nghiêng của 1 đấng Do Thái ở nơi
đường xe điện ngầm có thể là của Chúa Cả, cái
bàn tay thối tiền lẻ ở quầy cho Gấu Cà Chớn bữa đó
đó có thể làm gợi nhớ, của 1 trong những tên
lính đóng đinh Chúa lên Thập Tự.
Có thể một hình ảnh
nào đó của Bộ Mặt Bị Đóng Đinh Thập Tự, được
lén lút tuồn vô mọi cái gương; có
thể Bộ Mặt chết, đã được xóa bỏ, và nếu như thế,
Chúa có thể là bất cứ một ai.
Làm sao biết, đêm nay,
hay là cái buổi chiều chiều hôm đó đó,
ở khu PLT, GCC đã từng được chiêm ngưỡng hình
ảnh đó đó, ở trong những mê cung của những giấc
mơ, và chẳng nhớ gì hết, vào sáng hôm
sau?
Who knows?
Who cares?
Simonic sinh tại Uzice, học văn
và triết tại Ðại học Belgrade. Thành công cả về viết
kịch và làm thơ. Kể từ khi cuốn sách đầu tay, Slavic
Elegies, xb năm 1958, ông có thêm một số tuyển tập và
1 cuốn thơ tuyển.
Chúa Giê Su bị đóng
đinh trên cây thập tự vàng
Mưa lạnh dội xuống, rửa sạch Người
Nguời vươn rộng tay
Như chơi đàn accordion.
Người nghiêng tai xuống
gần nhạc cụ
Như để nghe rõ thêm tiếng đàn
Không để ý đến anh hàn nồi đi qua,
Lạnh và đói,
Chôm mẹ cây đàn.
Chúng bỏ rơi Người, lũ
người ngạo mạn
Lũ ham vui, đám nhảy nhót
Chỉ có chim sẻ, dế, và những bông
tuyết
Vẫn khiêu vũ quanh Người.
Cây thập tự thì
ở ngã tư,
Khi đường làng gặp đường tỉnh
Nếu bạn nghe âm nhạc
Hãy ngưng lại, và lắng nghe
Thực đấy, bạn có thể nghe âm nhạc!
Boast of Quietness
Writings of light assault the darkness,
more prodigious than meteors.
The tall unknowable city takes
over the countryside.
Sure of my life and my death,
I observe the ambitious and would like to
understand them.
Their day is greedy as a lariat
in the air.
The night is a rest from the
rage within steel, quick to attack.
They speak of humanity.
My humanity is in feeling we
are all voices of the same poverty.
They speak of homeland.
My homeland is the rhythm of
a guitar, a few portraits, an old sword,
the willow grove's visible prayer
as evening falls.
Time is living me.
More silent than my shadow,
I pass through the loftily covetous multitude.
They are indispensable, singular,
worthy of tomorrow.
My name is someone and anyone.
I walk slowly, like one who
comes from so far away he doesn't expect to
arrive.
-S.K.
J.L. Borges Gấu bốc phét về sự êm ả, trầm
lắng của mình
Chúng huyênh hoang
về nhân loại, về nòi giống Bắc Kít của chúng
Tính nhân loại của Gấu Cà
Chớn thì là ở trong cảm nghĩ
Chúng ta là tất
cả giọng nói của cùng một sự nghèo khổ
Chúng nói về Quê
Mít
Cái gì gì,
nếu ai đếch có thì đếch được làm người!
Quê hương của Gấu là
1 dúm nhạc sến.
Thời gian bye bye Gấu
Lặng lẽ hơn cả cái bóng
của mình
Gấu bước chầm chậm,
Như kẻ nào đó từ nơi nào
xa thật xa,
Và chẳng hề mong, tới.
When I wake up, I wake to something worse. It's the
astonishment of being myself.
Borges
Tớ thức giấc, thức vô điều tồi tệ: Mày
là thằng Gấu Cà Chớn!
If only morning meant oblivion
Nếu buổi mai có nghĩa là quên
lãng
Waking Up
Daylight leaks in, and sluggishly
I surface
from my own dreams into the common dream
and things assume again their proper places
and their accustomed shapes. Into this present
the Past intrudes, in all its dizzying range-
the centuries-old habits of migration
in birds and men, the armies in their legions
all fallen to the sword, and Rome and Carthage.
The trappings of my day also come back:
my voice, my face, my nervousness, my luck.
If only Death, that other waking-up,
would grant me a time free of all memory
of my own name and all that I have been!
If only morning meant oblivion!
-A.R.
J.L. Borges
Anh Tru
than,
Lau qua khong nhan duoc tin tuc tu anh. Thinh
thoang van vao TAN VIET doc bai.
Suc khoe anh dao nay ra sao?
Anh con nho hinh anh nay khong? Saigon 1972 tai quan Huong Xua quan GoVap.
Nguyen Dinh Thuan hoi tham anh
Dia chi e-mail cua NDT:
Than,
Ng Tr Khoi
Hi, bạn
ta!
Cái hình, luôn cả website
của bạn, có trên TV rồi. Gấu nhớ
hoài không ra hình chụp khi nào, ở đâu, chỉ
nhớ, thời gian làm cho ông Nhàn.
Sau Xin Xâm, với Borges,
tới lì xì với Kafka.
Mẩu dưới đây, mở ra cuốn "Phải Kafka đó
không", "Is that Kafka"?
Prague, Old Town Square, ca. 1880
1. The Hapless Benefactor
Once, when I was a very little
boy, I'd received a ten-kreuzer coin, a Sechserl,
and I was very eager to give it to an old beggar woman who
used to sit between the Old Town Square and the Little Square.
But now it seemed to me like a tremendous sum, probably a bigger
sum than any beggar had ever received, so I was ashamed of
doing something that would seem so tremendous to this beggar.
Still, I had to give it to her, so I changed the Sechserl, gave
the beggar one kreuzer, ran all the way around the town hall complex
and the arcades lining the Little Square, came back from the left
as a brand new benefactor, gave the beggar another kreuzer, started
running again, and cheerfully did the same thing ten times. (Or maybe
somewhat fewer, since I think the beggar later lost her patience and
slipped away from me.) In any case, in the end I was so exhausted,
in moral terms as well, that I ran straight home and cried until my mother
gave me another Sechserl.
You see, I have bad luck with beggars, and yet I
hereby declare that I am prepared to slowly payout my entire
present and future fortune in the smallest Viennese banknotes
to a beggar woman there by the opera house, on the condition
that you are standing beside me and I may feel you near me.
1. Kẻ làm
phúc rủi ro
Một lần, khi còn bé
tí, tôi được người lớn cho 1 đồng 10 xu.
Và tôi hăm hở đem cho 1 bà già
hành khất, thường ngồi ở giữa quảng trường cổ thành
phố và quảng trường nhỏ. Nhưng tình hình
lần này hơi bị căng, đồng 10 xu đâu có
vừa: Cả 1 món tiền lớn, nhất là lại cho 1 người hành
khất! Tính cả thẹn, thế là tôi bèn
đổi thành 10 xu lẻ, và đóng vai 10 vị ân
nhân khác nhau!
Ui chao, chạy
10 cú như thế, khiến tôi bã người.
Tôi bèn về nhà, khóc nức nở, khiến
bà mẹ của tôi thương hại, bèn
cho tôi 1 đồng 10 xu khác!
Bạn thấy đấy,
tôi đúng là 1 thứ không may,
kẻ mang rủi ro tới, ngay cả cho 1 người ăn mày già!
Kafka
[GCC dịch thoáng]
Ui chao, đúng
là THNM, bèn nhớ đến BHD, và
cái lần được em tin cậy, ra lệnh, mi đưa cho ta tí
tiền lẻ…
Sao tin cậy Gấu
đến như thế, mà nỡ bỏ Gấu, lấy 1 đấng vác
gạo!
Sự thực, ông chồng, là
bác sĩ. Nhưng giỏi đoán ý của
ông bố vợ tương lai, từ khi còn là sinh
viên y khoa.
Cứ mỗi lần Saigon rục rịch
đảo chánh, là khệ nệ vác mấy bao
gạo tới nhà.
BHD biểu Gấu, mi ngu quá,
không làm
như vậy được, nên ta bỏ mi...
Among the numerous problems
that arose between Kafka and his beloved Milena
Iesenska were their very different relationships to money.
"Once he gave a beggar woman a two-crown coin," she told
Max Brod, "and asked for one crown back. She said that she
didn't have any change. We stood there for a good two minutes thinking
about how to settle the matter. Then it occurred to him that
he could let her keep both crowns. But he had hardly gone a few
steps when he grew very sullen. And yet the same person would happily,
enthusiastically give me twenty thousand crowns right away,
as if it were nothing." She brought up the two-crown coin
incident with Kafka on another occasion, but he cleverly defended
himself with this childhood Sechserl memory, among other things.
Kafka criticized himself for his "greed in minor
matters," and when it came to money he could indeed just
as easily be petty as generous. He enjoyed giving gifts, even
money, but it had to be done entirely of his own free will.
He could not easily reconcile himself to making donations
under pressure, or to not getting the correct change back,
or to spending money thoughtlessly-even if it was "only a Sechserl."
Kafka often read to his friends,
and presumably also to his sister Ottla, from his unfinished
works, particularly his three novels. However, he generally
said nothing about his literary projects still in their early
stages, or those he had not yet begun.
A rare exception
was the idea for a story that he revealed in January 1918
to the writer Oskar Baum, one of his closest friends. Baum
was visiting Kafka in the village of Zurau [Sitem) in northwestern
Bohemia, where Ottla was hosting her brother during the winter,
after he had fallen ill with tuberculosis. Since Baum and
Kafka slept in the same room, they had the opportunity for long
conversations, and Baum later recounted that he had learned
more about Kafka in that one week than in the ten years before
or the five years after. Kafka also told him about numerous literary
outlines and plans "which he had no hope, or even intention, of
ever carrying out." Baum remembered one of these unwritten stories
very clearly:
A man wants to create the
possibility of a social event that takes place without anyone being
invited. People see and speak to and observe one another without knowing
each other. It is a banquet where everyone can eat according to his taste
without imposing on anyone else. Each person can arrive and leave whenever
he pleases, he has no obligations to the host, and yet the host is always
genuinely pleased to see him. When the man finally succeeds in executing
his absurd idea, the reader recognizes that this attempt to
rescue people from their solitude has in the end only produced-the
invention of the coffeehouse.
@ Irwin, Cali
[Gấu đó ư, Quán Chùa
đó ư?]
K thường đọc cho bạn, và
có thể cho cô em/chị, những tác phẩm chưa
hoàn tất, đặc biệt là ba cuốn tiểu thuyết của ông.
Tuy nhiên, ông không hề nói về những
dự án văn học đang ở giai đoạn phôi thai, hay những
thứ chưa bắt đầu.
Trường hợp đặc biệt, thuộc loại hiếm quí,
là cái truyện ngắn sau đây, nó thuộc
về 1 thứ, mà, như K thố lộ với bạn, ông, “vô
hy vọng, vô toan tính, thực hiện”.
Một người đàn ông
muốn tạo ra 1 khả dĩ thực hiện được, một sự hiện xã hội,
xẩy ra, mà không ai được mời. Khách khứa
nhìn, nói, với nhau, chẳng ai quen biết ai. Đó
là 1 bữa tiệc mà mọi người ăn uống theo khẩu
vị của mình, không ai đòi hỏi, với bất cứ
ai. Mỗi người, tới rồi rời bất cứ khi nào muốn, chẳng có
bắt buộc gì với chủ nhân bữa tiệc, và chủ
thì tỏ ra rất hài lòng một cách thực
tình về cái chuyện được gặp khách. Khi người
đàn ông, sau cùng, thành công
trong cái chuyện thực hiện được cái ý nghĩ phi
lý của mình, độc giả nhận ra rằng cái toan
tính này, là để cứu vớt đồng loại ra khỏi nỗi
cô đơn của họ, và cái mục đích sau cùng
của nó, chỉ là để phịa ra [cái gọi là]
quán cà phê!
Hoa Tình Thương,
là tên 1 tạp chí văn học của mấy bà
tướng, nhằm yểm trợ vợ con sĩ quan, binh sĩ VNCH.
NDT, lần bị QC bắt, vì
tội trốn lính, được Nguyễn Mạnh Côn bảo lãnh,
cho về làm TTK báo này, Gấu lâu
lâu có viết bài phụ đỡ gánh nặng, vác rổ đi
chợ!
LIU TSUNG-YVAN
773-819
A fisherman in the
landscape was a beloved subject of poets and painters. This
poem, however, seems to me quite complicated, in spite of
its apparent simplicity. For here there is action, and the fisherman
himself appears only toward the end, as somebody who rows somewhere
far.
Czeslaw Milosz: A Book
of Luminous Things
Ngư phủ trong cảnh vật, cả thi
sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài thơ sau đây
xem ra rắc rối dù bề ngoài đơn giản. Bởi vì
ở đây, có hành động, và tay ngư
phủ già, chính anh già, chỉ xuất hiện ở
cuối bài thơ , như 1 kẻ nào đó rắp ranh
làm 1 chuyến đi xa, thật xa.
OLD FISHERMAN
Old fisherman spends his night
beneath the western cliffs.
At dawn, he boils Hsiang's waters,
burns bamboo of Ch'u.
When the mist's burned off, and the
sun's come out, he's, gone.
The slap of the oars: the mountain
waters green.
Turn and look, at heaven's edge, he's
moving with the flow.
Above the cliffs the aimless clouds
go too. Translated from the Chinese by
J. P. Seaton
Người câu
cá già
Người câu cá già
qua đêm ở mỏm Ải Tây
[từ Ải Tây này, thuổng
Tô thi sĩ, trong bài tặng TTT]
Vào lúc sáng sớm,
anh già ngồi đun nước mưa, hứng ở mái sau
nhà, ở Canada, đốt củi tre nhập lậu từ xứ Mít.
Khi sương mù tan, mặt trời bò
ra, anh già bèn xuống thuyền, lên đường,
làm chuyến viễn du chót.
Tiếng mái chèo đập trên
làn nước xanh
Quay nhìn, ở đường ven Thiên
Đàng, thấy thấp thoáng bóng anh già
cùng di chuyển với dòng nước
Ở trên đỉnh Ải Tây, mây,
đếch biết làm gì, bèn cũng đi theo
anh già!
I wonder how we can survive, this romance But in the end if I'm with you,
I'll take the chance
Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You
Note: Năm cùng tháng
tận, đời tàn, tặng Gấu Già bài thơ
trên thì đúng là tuyệt cú
mèo!
Làm sao Gấu qua khỏi
con trăng này?
Nhưng sau cùng, nếu Gấu gặp
Sad Seagull, thì Gấu sẽ chấp tất cả thế gian này!
Một bài thơ không
cần là một đầu vào nhật ký,
hay lá thư,
báo cáo một giấc mơ
mảnh, miểng quan sát của một ngày
cũng không phải câu trả lời
ngắn cũn về điều mà ai đó nói
Nó không cần là
một vòng cung điêu khắc
Bề thế, gỉ sét
Nó có thể là một hòn
đá nhẵn thín
Sáng ngời như mắt mèo trong
bóng tối
Chắc nịch như 1 con tốt bằng ngà.
Rìu phá biển băng,
Kafka phán
Hay (công thức Northop Frye: thần
thoại biến thái, thoái hoá... thành ẩn dụ),
nếu đời là một cái lá
đa, một con bướm,
thì bài thơ là 1 “sợi
lôn” – THNM - của nó.
Không phải dĩa cá, trọn
bữa ăn ư?- nghèo mà ham!
Cũng không, ngay cả một miếng trái
cây chín mũm, sáng rỡ
Hơn cả 1 bí kíp kể những
kẻ lạ tương lai, xấp xỉ, hay gần đúng như thế
Những gia vị, mà, đói như
anh đang đói, trong cái thời của anh,
Anh trộn tất cả
Nấu, đớp, đọc, và, viết:
Hãy nghĩ về một bài thơ,
Sau cùng, như là
Nhà, gia đình, quê hương,
Một liều thuốc cho cái mà lũ Mít gọi là
Cơn đau khẩu vị!
Chúng đi tới đâu, biến nơi
đó thành bãi đánh hàng,
Là do như thế đấy
Was Walser a great writer?
If one is reluctant to call him great, said Canetti,
that is only because nothing could be more alien to him than
greatness. In a late poem Walser wrote:
I would wish it on no
one to be me.
Only I am capable of bearing
myself.
To know so much, to have
seen so much, and
To say nothing, just about
nothing.
Walser, nhà văn
nhớn?
Nếu có người nào
đó, gọi ông ta là nhà văn nhớn,
1 cách ngần ngại, thì đó là
vì cái từ “nhớn” rất ư là xa lạ với Walser,
như Canetti viết.
Như trong 1 bài
thơ muộn của mình, Walser viết:
Tớ đếch muốn thằng chó
nào như tớ, hoặc nhớ đến tớ, hoặc lèm bèm
về tớ, hoặc mong muốn là tớ
Một mình tớ, chỉ độc nhất
tớ, chịu khốn khổ vì tớ là đủ rồi
Biết thật nhiều, nhòm
đủ thứ, và
Đếch nói gì,
về bất cứ cái gì
[Dịch hơi bị THNM. Nhưng
quái làm sao, lại nhớ tới lời chúc
SN/GCC của K!]
Walser được hiểu như là
1 cái link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy
nhiên,” Susan Sontag viết, “Vào lúc
Walser viết, thì đúng là Kafka [như được
hậu thế hiểu], qua lăng kính của Walser. Musil, 1 đấng
ái mộ khác giữa những người đương thời của Walser,
lần đầu đọc Kafka, phán, ông này thuổng Walser
[một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái
mộ sớm sủa bởi những đấng cự phách như là
Musil, Hesse, Zweig. Benjamin, và Kafka; đúng
ra, Walser, trong đời của mình, được biết nhiều hơn,
so với Kafka, hay Benjamin.
W. G. Sebald, in his essay
“Le Promeneur Solitaire,” offers the following biographical
information concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere
was he able to settle, never did he acquire the least thing
by way of possessions. He had neither a house, nor any fixed
abode, nor a single piece of furniture, and as far as clothes
are concerned, at most one good suit and one less so…. He did
not, I believe, even own the books that he had written.” Sebald
goes on to ask, “How is one to understand an author who was so beset
by shadows … who created humorous sketches from pure despair,
who almost always wrote the same thing and yet never repeated himself,
whose prose has the tendency to dissolve upon reading, so that only
a few hours la
ter one can barely remember the ephemeral figures, events and
things of which it spoke.”
Noel 1968, Mậu Thân,
@ Thương Xá TAX
31.12.2016
Mưa Sài Gòn, hình
chụp góc Lê Lợi và Công Lý,
ngày 12 tháng 6 năm 1968.
HAPPY NEW YEAR
Playboy Jan & Feb
Happy New Year
whether we be young or old,
Our destiny, our being's heart and home,
Is with infinitude, and only there;
With hope it is, hope that can never die,
Effort, and expectation, and desire,
And effort evermore about to be,
Trẻ hay già
Số phận trái tim, nhà, đời
của chúng ta
Thì ở với vô cùng,
và chỉ ở đó:
Với hy vọng chẳng bao giờ ngỏm
Cố gắng, hoài mong, và ao
ước,
Và cố gắng nữa nữa
Về sống ở trên đời
The moving Moon went up the sky,
And nowhere did abide:
Softly she was going up,
And a star or two beside –
Bà Trăng mò mãi
lên trời
Và không đâu, không
nơi nào, sững lại
Bà cứ thế nhẹ nhàng
bay cao lên mãi
Với một, hay hai đệ tử,
Là hai vì sao, bên
cạnh Bà
Virginia Woolf: How Should
One Read a Book?
But also we can read such books with
another aim, not to throw light on literature, not to become familiar
with famous people, but to refresh and exercise our own creative
powers.
Nhưng chúng ta cũng có
thể đọc sách, với 1 cái đích, bảnh hơn
thế nhiều: Không ném ánh sáng lên trang
sách, không làm quen với những đấng văn
thi sĩ, mà, lại làm tươi rói, và
loay hoay, hì hục, thao tác, thao túng những quyền uy, sức mạnh sáng tạo
của chính chúng ta