Notes on Writing and the Nation
Ghi chú về Viết và
Nước.
Notes on Writing and the Nation
[For Index on Censorship]
Salman Rushdie
The nation requires
anthems, flags.
The poet offers discord. Rags
Nhà nước đòi Tiến
Quân Ca. Cờ Máu.
Nhà thơ bèn chìa ra: Cứt. (1)
(1) Discord: Sự bất
hòa. Không khứng giao lưu, hòa giải. Rag: Giẻ rách. Từ "cứt", là mượn
của cả hai, NHT và nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: Ông nhà thơ, thay vì làm
thơ ca ngợi nhân ngày sinh nhật Bác, thì bèn đi ị.
Nhưng chưa thảm bằng
trường hợp của chính nhà thơ Văn Cao.
Nhà nước đòi quốc ca, ông OK, nhưng nhà nước lại biểu, đi giết người
đã, rồi sau đó, làm TQC, vưỡn còn kịp!
GCC tính viết
về Bên Thắng Cuộc, bèn cầm sẵn cục gạch....
Nhiều người
thận trọng nhìn lại suốt hơn 30 năm, giật mình với cảm giác bên được
giải phóng
hóa ra lại là miền Bắc...” - Huy Đức (Osin) (1)
Không có 1 tên
thắng cuộc nào, phán 1 câu như vậy.
Mà là những câu này, thí dụ, trên Blog của Beo,
“Gà Mái Gáy”:
4. Nhân văn giai
phẩm là cuộc cách mạng
về ý thức hệ rất thành công của Đảng cộng sản. Những hoan ca của
một
thời được
văn nghệ sĩ viết nên từ nhận thức chân thành và tinh thần tự nguyện. Chiến thắng của cuộc chiến tranh
thần thánh không thể phủ nhận công đầu của
ngành văn hóa tuyên truyền. Hãy hình dung, miền Bắc những năm ấy hết
nhạc não
tình đến thơ phản chiến...lịch sử sẽ đi đến đâu.
Ngược lại, Những
việc cần làm ngay hay
bản Đề dẫn của thời Nguyên
Ngọc, đã đủ thời gian để đánh giá là một sự thất bại
sâu sắc khi Đảng cởi trói cho văn nghệ sĩ mà không
định tính được
rằng, không còn nữa những con-chim-thông-thái, có khả năng dẫn dắt cả
đàn
đi tìm nơi xuân sang ấm áp. Thay
vào đó, cởi trói rồi không biết
bay đi đâu nên cả đàn tán loạn bốn phương. Hiện trạng văn nghệ và
báo chí
bét nhè chè thiu như hiện nay, một trong những nguyên nhân khởi nguồn
từ đó.
Viết dưới giác độ chính trị mà sao y
bản chính từ dân văn nghệ, nên phần này HĐ viết vừa mòn vừa p.
Trong
lịch sử của mình, Đảng cộng sản
có 3 cuộc cách mạng thuộc về ý thức hệ như thế: Cải cách ruộng đất,
Nhân văn
giai phẩm và Cải tạo tư sản. Tính bền vững của thành công ngắn
dần, cuộc
sau ngắn hơn cuộc trước. (2)
Những tội ác, thì Bà này
coi là thành công, điều này cho thấy,
lập luận của Osin, như trên, nhảm, hay, nhận sằng.
"Nhiều người thận trọng" là những ai?
Viết hồi ký, đâu
phải viết tiểu
thuyết, giả tưởng?
Cái ý của
Osin, "... bên
được giải phóng
hóa ra lại là miền Bắc", chôm của… Gấu và của
bạn Gấu, là Thảo Trường.
Chứng cớ:
Khi
còn ở Trại Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng
chí tính
cho đi mò tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau
đó xẩy
ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói
thẳng ra
một điều: tại sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh
tạo ra
tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại...
Khi lấy
được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện:
Giải
phóng cho chính mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền
Nam chỉ có
công: Thất trận. (3)
Cho
đến năm
1975, tội lớn nhất của cộng sản là đã thắng trận, và, chiến công lớn
nhất của cộng
hòa là thua trận
(4)
“Bên thắng
cuộc” mà nói được như thế, đất nước đâu khốn nạn như bây giờ.
Nếu có tí tự trọng thì
không thể để cái tít cuốn sách là “Bên Thắng Cuộc”. Đây
là vấn dề chính danh. Phải là Beo, Bắc Kít, VC thứ thiệt, thí dụ.
Osin, hay Hồ Tôn Hiến,
thầy của Osin, thì đều là… ô sin, tà
lọt,
lính đánh thuê của Bắc Kít, làm sao mà viết “Bên Thắng Cuộc”?
Tự gọi mình là "Osin", vậy mà viết "Bên Thắng Cuộc" ư?
NQT
Note: Nhân
nhắc tới TT, post lại bài tưởng niệm lần giỗ đầu, và cũng để tặng Osin, kèm
câu
hỏi, “Ông” đã bao giờ bị 1 tên VC chính gốc Bắc Kít [thí dụ tên Đông
B], chùi tay dơ
lên áo ông đang mặc chưa?
Primo Levi trả lời
tờ Partisan Review, 1987
Note: Bài này cực 'thú", nếu
đọc song song với ‘cas’ TT!
TV sẽ lai rai trích dịch, cùng lúc, tưởng nhớ bạn!
Không biết đám quản giáo VC,
khi cần chùi tay, có chùi vô áo tên
sĩ quan tù VNCH không, nhỉ?
*
Partisan Review:
Tôi bị chấn động bởi những
lá thư mà những độc giả Đức gửi cho ông, sau khi
cuốn Đây có phải 1 người,
bản tiếng Đức được xb. Đa số nhắc tới giai
đoạn xẩy ra sự kiện 1 người lính Đức đã chùi tay của anh ta lên chiếc
áo sơ mi
của ông. Tại sao, theo ông, sự kiện trên lại khiến cho họ để ý tới?
Primo Levi:
Cử chỉ đó mang tính biểu tượng
đặc thù, và vì lý do đó, nó làm nhiều người chấn
động, tôi là người đầu tiên. Không phải là 1 cú thượng cẳng chân hạ
cẳng tay:
đấm vô mặt làm tôi đau hơn. Sự kiện là, anh lính Đức coi tôi như là một
cái
khăn để chùi tay. Những ngày tiếp theo sau, và ngay cả đến tận bây giờ,
tôi vẫn
tôi cảm thấy, đây là cú sỉ nhục nặng nề nhất mà tôi đã từng bị.
Những cú sỉ nhục như thế
đè nặng lên nhân phẩm của ông
tới cỡ nào?
Lúc thoạt đầu, quả là đau, nhưng điều tệ hại là những
gì xẩy ra sau đó,
nó là
cú mở đầu. Chúng tôi trở nên quen. Thì cũng 1 thứ chuyện thường ngày ở
huyện.
"Quen", là thế nào, về mặt
đạo hạnh, về mặt tinh thần?
Thì nói mẹ ra như thế này: nó làm mất cái gọi là tính
người ở nơi bạn. Cách độc
nhất để sống sót, là làm quen với cuộc sống trong trại tù, và làm quen
như thế,
là một phần con người ở nơi bạn mất đi. Điều này xẩy ra cho cả quản
giáo và tù
nhân. Chẳng có nhóm nào người hơn nhóm nào.Trừ 1 số ngoại lệ, cái gọi
là vô
nhân tính làm nhiễm độc luôn cả tù nhân, làm sao không!
What If?
Coetzee
@ ML, Aout, 2012
The Salman
Rushdie Case
December 20,
2012
Zoë Heller.
Note: Cái tít
ở trang bìa thú hơn nhiều: Trường hợp kỳ cục của Salman Rusdhie, The Strange
Salman Rushdie Case.
Đúng hơn, nếu
đọc nội dung bài viết.
Thí dụ, đoạn
kết
Và nhất là câu kết:
The world is
as large and as wide as it ever was; it’s just Rushdie who got small.
Thế giới thì vẫn rộng lớn
như nó luôn như vậy; chỉ có Rushdie nhỏ đi nhiều, rất nhiều.
Note: Mấy bài
về Coetzee thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của con người, là, khi nó
nghĩ nó bảnh
hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án, Kafka cho
K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K nhìn hai ông cớm VC [l'accusé
regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi dao vô tim, như thể nỗi tủi
hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ
"Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie
d'un jeune garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự
thuật, Coeztee đã nhận ra, tủi hổ là vấn đề trung tâm, la question
centrale, của
Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có thể làm cho nó sống động.
Chỉ 1 khi lũ
Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền
Nam, và đẩy
xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng.
Hà, hà!
Bài trả lời
phỏng vấn của 1/10 tiếng nói lớn của văn chương ngoại [so với Tẩy],
Mario
Vargas Llosa, một bậc thầy kể chuyện, về cuốn mới nhất của ông, với
nhân vật có
thực ở ngoài đời, là Casement, cũng tuyệt. TV
sẽ đi mấy đường này, cũng là 1 cách tưởng
niệm ông chủ chi địa một thời của GCC, là nhà văn NMG, và “nhân vật”
của ông, là
Nguyễn Huệ.
Trong cách
viết, trong cái nhìn, của “một vài tên” Bắc Kít di cư 1954, sau chạy
thoát ra hải
ngoại, về trong nước, có cái sự "tủi hổ" khốn kiếp này.
Ngồi ở Quận
Cam, nhấp ngụm Starbuck, và viết, ở Sài Gòn có người chết đói, ngay bên
hông chợ
Bến Thành!
Hay viết về
Cái Đại Ác VC, huỷ bia tưởng niệm thuyền nhân ở những trại tị nạn Đông
Nam Á, bằng
1 cái tít, chôm của Ông Số 1, mà Ông Số 2 chịu ơn:
Nguyễn Mộng Giác đã giúp
tôi trở về với
chuyện thơ và tiếng Việt. Sau khi tập
sách in rồi, tôi còn đăng mấy bài khác cũng Nói Chuyện Thơ trên tạp chí
Văn Học;
đó là những bài tôi thích nhất, nhờ chúng mà tôi có dịp gặp lại, trò
chuyện với
Thanh Tâm Tuyền để chia nhau những cảm xúc thi ca. Tôi sẽ còn nợ Nguyễn
Mộng
Giác và Thanh Tâm Tuyền, sẽ phải san nhuận lại để in tập Tìm Thơ Trong
Tiếng
Nói để tưởng nhớ hai anh lần nữa. (1)
Chính là do
không chịu nổi đám này mà TTT bỏ Cali. Ông có nói với GCC qua điện
thoại, và tỏ
ra rất ân hận, vì cầm hai ngàn đồng tiền nhuận bút tập Thơ Ở Đâu Xa, của tay Trầm
Phục Khắc, và, nhờ số tiền đó, mà có chuyến đi.
Tao đâu có
biết thơ ở hải ngoại đếch có ai đọc!
V/v sự khôn
ngoan của Ông Số 2.
Có lần, GCC được hầu chuyện 1 ông Cựu Chủ Bút, hay Cựu Tổng Biên Tập
cái con mẹ
gì của tờ Người Vịt. Anh ta cho biết, Bác Tê, sau bao lần
chỉnh lý, đảo
chánh... ở băng Cờ Lăng, và ở tờ Người Vịt, "bèn" không đứt 1 sợi lông
chân, và nay
trở thành Thái Thượng Hoàng!
Kể cũng hơi
bị lạ, khi hai vì “ơn nhơn” còn sống nhăn răng, không thấy Ông Số 2
“kám ơn”,
bi giờ, chắc là tính đi 1 đường tái bản kiệt tác Tìm Thơ
Trong Tiếng Nói, bèn đi 1 đường Pê E [PR], bằng cách "kám ơn"
những kẻ không may chết trước Người chăng?
Tởm thật!
GCC chưa từng đọc kiệt tác
Tìm Thơ Trong Tiếng Nói
của Ông Số 2, nhưng cái tít
thì nghe thật quen, vì có nhiều người sử dụng rồi, thí dụ Paroles của Prévert,
hay Tiếng Nói Một Người, bài
tựa của TTT cho tập thơ của Trần Lê Nguyễn.
Vả chăng,
có thứ thơ tự nhiên như lời nói, cái thứ thơ mà Henri Lefebvre, một
triết gia Tẩy
đã từng nói tới, theo nghĩa, thơ là bề mặt của cuộc sống, bề mặt [lại]
theo nghĩa, những
thắc mắc, băn khoăn siêu hình, phải nhoi lên đó để mà thở. Ngay từ
trước 1975,
GCC đã từng viện hình ảnh trên, để viết về 1 đấng nhà thơ nào đó, nay
cũng chẳng còn
nhớ.
Có ghê gớm
chi đâu.
Nếu có, thì là lòng biết
ơn trời biển của Ông Số 2 đối với đại ân nhân
đã chết rồi của ông ta:
Nguyễn Mộng
Giác đã giúp tôi trở về với chuyện thơ và tiếng Việt
Chúng ta cứ
giả như đếch có NMG, thì Ông Số 2 thành
cái giống gì, mũi lõ hay mũi tẹt, nói cái thứ tiếng gì?
Trong bài The
Telling of the Tale, trong tập This Craft of Verse,
Jorge Luis Borges cho rằng,
người xưa, khi nói tới thi sĩ, thì không phải là 1 người nhả ngọc phun
châu,
the utterer of those high lyric notes, nhưng còn như là 1 người kể 1
câu chuyện,
the teller of a tale. Một câu chuyện mà ở trong đó tất cả những tiếng
nói của
nhân loại có thể tìm được – không chỉ có tiếng nói trữ tình, the lyric,
ước muốn,
khao khát, the wistful, buồn rầu, the melancholy, nhưng còn những tiếng
nói của
can đảm, của hy vọng. Và ông tiếp, ông đang nói về cái thể cổ nhất the
oldest
form, của thi ca: sử thi, the epic.
Vẫn Borges:
Và có lẽ người đầu tiên chúng ta nghĩ tới, thì là Andrew Lang, người đã
dịch
tuyệt vời Câu chuyện thành Troy, The Tale
of Troy. Và ngay ở dòng rất đầu, in the very first line, chúng ta
có 1 điều
gì như là: “Tell me, muse, of the anger of Achilles”, hay ngắn gọn hơn,
một người giận dữ, đó là đề tài của tôi,
“An angry man –
that is my subject”, theo cách dịch của Professor Rouse.
Mít chúng
ta, cũng có “câu chuyện thành Sài Gòn”, nhưng thiếu 1 sử thi cho cả 1
miền đất.
Chúng ta không có sự giận dữ, mà chỉ có những lời chửi rủa, hận thù.
Và tất nhiên,
chúng ta có thi sĩ, nhiều lắm, trong có Ông Số 2, thí dụ, quảng cáo cho
tập thơ
sắp tái bản, bằng cái sự biết ơn hai người ơn đã chết của ông.
Hà, hà!
Cali
Tháng 11, 2012
A Love Story
in Vietnam
Meanwhile
Ali’s line: “Love means never having to say you’re sorry” has even
passed into
Vietnamese common usage without most people realising its origins.
Nhảm. Truyện
này đã từng được Phan Lệ Thanh, bồ của bạn Nguyễn Đông Ngạc, dịch qua
tiếng Mít,
với cái tít Chuyện Tình, rất ăn khách
vào thời điểm đó. Bạn Ngạc nhờ cái vốn này, mở nhà xb Sóng, in cuốn để
đời Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng
ta, còn có cái tít Hai mươi năm văn học
Miền Nam. GCC nhờ cuốn này mà đậu thanh lọc, một phần. (1)
GCC gặp lại
bản tiếng Anh của nó, ở trong Trại Cấm Sikiew, Thái Lan, và bèn lôi 1
câu ra để dậy
cô học trò trong Bụi:
Yêu nghĩa là chẳng bao giờ
phải
nói, you’re sorry.
Even
though I respect and admire you, a writer of the Deep South of my
childhood
day, I am not a writer to be your friend and I haven't read enough to
be your
favorite fan.
Kỳ này đi
Cali, trong lúc chờ phi cơ cất cánh, GCC bèn nhặt cuốn trên, từ 1 quầy
tại
phi trường, tính đọc trong lúc đi đường.
Đọc loáng
thoáng câu này, kẻ nào thấy tớ [Christopher] chết vì ung thư cuống
họng, hẳn là
buông 1 câu, thật đáng đời. Mi chửi người quá lắm, thì Chúa phạt mi!
Ông bạn Bạn
cũng phạng GCC y chang, khi đọc đoạn văn ngắn viết về “Bác Giai, Bác
Gái”, là
VP & Phu Nhân.
Ông đúng là
1 tên Bắc Kít đểu giả. Ông bạn Bạn nói. Cứ giả như Bà Viễn Phố cần tiền
cho 1
đứa cháu đi
học Đại Học, bèn gật đầu cho VC tái bản sách của chồng, thì OK quá, chứ
sao
ông cũng
chửi?
Xin lĩnh ý Bạn
Nhậu.
Sorry. NQT
Khi viết Ký,
về chuyến đi thăm Cali tháng 11 vừa rồi, GCC tính sử dụng môn Song Thủ
Hổ Bác của
Châu Bá Thông, nôm na, 1 tay vẽ vòng tròn, một tay vẽ hình vuông, tức
là, viết
2 cái ký song song, một dành riêng cho Sad Seagull, và một, cho bạn bè.
Nhưng
chưa đi được nửa chiêu, đã tẩu hỏa nhập ma, làm mất mẹ mất 1 đoạn thần
sầu về Sad
Seagull, về ông bà bạn Bạn, một khám phá cũ, mà thật là mới của cõi bạn
bè.
Đoạn viết liên
quan đến 1 vấn nạn cực là đẹp: Giả như nếu chuyến đi này không gặp ông
bà Bạn,
thì liệu có xẩy ra khoảnh khắc, bà vợ nhìn thấy GCC - do nhớ Sea Gull
quá, do hối
hận quá, không hiểu mình đã gây ra chuyện gì, khiến Em huỷ bỏ một Chiều
Thứ Bẩy,
và Một Chủ Nhật Khác - bèn "lừng lững, khốc liệt" [chữ của TTT, trong
MCNK], đi một đường ra giữa đường, thí mạng cùi
cho dòng xe cộ, trước khu Phước Lộc Thọ - và đã chỉ ông chồng, kìa anh,
mau lên,
mau lên, cứu thằng khùng kìa!
“SOS, Au Secours!”
Hà, hà!
Trong đời Gấu,
đã trải qua hơn 1 lần, khoảnh khắc “khủng khiếp” này.
Rõ rệt nhất, là cái lần
được VC ban cho hai trái mìn Claymore, ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, bờ sông
Sài Gòn.
Đi cùng ông
trưởng đài VTD và hai anh bạn Phi Luật Tân.
GCC đi trước.
Qua cái cầu nổi, xuống thuyền, đột nhiên Gấu nghĩ, nhường hai ông bạn
ngày mai
rời Sài Gòn ngồi phía trong, ngắm cảnh sông nước, và thế là lon ton đi
đến cái
ghế chót. Tay trưởng đài, ngồi ghế kế, thoát chết, nhưng mất khẩu súng.
Hai ông
bạn Phi đi luôn, 1, liền tại chỗ, 1, về Manille, tưởng thoát, nhưng bị
xuất huyết
nội, một phần còn là do anh vốn là bợm nhậu.
Rồi cái lần “hiệu
đính” bài cho Nguyễn Mai, mà đếch thèm khoe, nghĩa là, lặng lẽ viết lại
toàn bài
viết, cho đăng trên trang VHNT Tiền
Tuyến, nhờ vậy được anh trả ơn, giới thiệu
với ông Nhàn, dịch sách cho nhà xb Vàng Son của ông, nhờ vậy thoát chết
Trại Tù
Đỗ Hoà, nhờ 1 tay TNXP vốn rất mê Gấu dịch tác phẩm của nhà văn Hồng
Mao,
Cronin!
Này, có xứng
đợp Nobel không đấy?
NYRB Dec 6,
2012
Two years
ago my people gave a prize to a Chinese, and in doing so offended the
Chinese
government. Today they gave another prize to a Chinese, and in doing so
offended the Chinese people. My goodness. The whole of China offended
in only
two years.
Hai năm trước
đây, dân chúng nước tôi trao Nobel cho 1 anh Tẫu và làm nhà nước Tẫu
bực.
Bây giờ, họ cho 1 anh Tẫu, và làm dân Tẫu bực.
The unadmitted
reason why traditional readers are hostile to e-books is that we still
hold the
superstitious idea that a book is like a soul, and that every soul
should have
its own body.
ADAM KIRSCH: Poetry
100 Years
Cái lý đo đếch làm sao
chấp nhận được e búc, e thơ, là, chúng ta vẫn khư khư giữ
tục mê tín, 1 cuốn sách thì giống như 1 linh hồn, và mỗi linh hồn nên
có riêng
1 cơ thể của nó.
Được mến mộ
nhất trong những tác giả Pháp, năm tới là kỷ niệm 100 năm năm sinh của
Camus. Trên
tờ Books, là 1 bài điểm cuốn
sách về Camus, của Michel Onfray. Người điểm cho
thấy 1 Camus gần gụi với Orwell hơn, không hẳn bê tha, libertine, như
Onfray
nghĩ.
Một bài viết tuyệt vời về Camus. TV thể nào cũng chôm, và sẽ cố gắng
giới
thiệu với quí vị độc giả bản tiếng Mít!
On
rapproche souvent Camus et George
Orwell. Au-delà de quelques caractéristiques anecdotiques (Camus et
Orwell sont
tous les deux morts à 47 ans, ils ont également souffert de la
tuberculose),
les deux hommes partagent de nombreux traits et leur univers de valeurs
est le
même. Tenant fortement à quelques principes fondamentaux avec lesquels
ils ne
transigeaient pas, l'un et l'autre ont payé de leur personne pour
défendre
leurs convictions (Camus dans la presse clandestine, Orwell dans les
rangs des combatants
républicains lors de la guerre d'Espagne). Tous
deux ont dénonce le totalitarisme sous sa forme communiste autant que
fasciste
et nazie. Hommes de gauche tous les deux, ils ont vertement critique la
gauche
et se sont fait attaquer par elle avec férocité. Et ils mettaient l'un
comme
l'autre un point d'honneur à ecrire une langue simple et
comprehensible,
exempte de jargon et de grands mots.
Bien sur, la
comparaison ne tient pas jusqu'au bout. Camus était de toutes ses
fibres un
homme de la Méditerranée et Orwell profondement anglais. Orwell
provenait de ce
qu'il appelait la « lower-upper middle
class » et Camus d'un milieu carrément misérable. Camus était
l'élégance même
et Orwell un homme timide et maladroit. Mais c'est le tableau
d'ensemble qui
compte. Dans le monde anglo-saxon, Orwell fait done l'objet du même
sentiment
unanime de respect dont bénéficie Camus. On ne s'y attend cependant pas
à le
voir susciter le genre de passion qu'éprouvait Elizabeth Hawes pour
Camus.
Aussi sérieux, honnête, lucide et courageux qu'Orwell, et écrivant
aussi bien, Camus avait en plus énormement d'allure et les qualités
d'un homme
du Sud. C'était un Orwell méditerranean. +
Đối diện lịch sử
A SLIGHTLY
WARMER FISH
Trong bài viết 1 chú cá âm
ấm, trên, người viết có dùng 1 từ thật là tuyệt,
và áp dụng thật là thú, vào trường hợp của Gấu, khi đọc Camus, hay nói
chung, 1
số tác giả thời mới lớn:
Existentialism had its great theorist in Sartre and its great novelist
in
Camus, and this is still the book students turn to when they need a fix
of
me-against-them.
NQT vs DPQ
Chủ nghĩa hiện sinh có lý
thuyết gia
lớn của nó, trong Sartre, và tiểu thuyết gia lớn, trong Camus, và vẫn
là cuốn
sách đó [Kẻ Xa Lạ], những sinh viên viện tới khi họ cần "xác định mình
chống
lại họ".
Cụm từ “fix of me-against-them”, quá đúng, nếu áp dụng cho Gấu, theo
nghĩa, Gấu
đọc họ để hiểu Gấu.
Sartre cũng có 1 câu tương tự ý trên, Gấu đọc thời mới lớn, và bèn nhập
tâm liền
tù tì.
Bài dậy
Camus, của ông thầy GCC, trong cuốn tập của cô học trò, trong Bụi
Một ngày của
nhà văn thì nó ra làm sao?
Michael
Ondjaatje:
Rất đơn điệu,
bạn sẽ rất thất vọng! Tôi viết buổi sáng, chiều bò ra đường, gặp bạn,
chẳng có
chi là đặc biệt hết. Tôi có 1 tương quan thể lực, un rapport physique,
với
Canada, và đặc biệt là với thành phố Toronto, nơi tôi sống kể từ 1964.
Đông phương,
1 cái gì ảo, un imaginaire, đối với ông?
Sau Bệnh
nhân Anh, tôi trở về Sri Lanka, tạo những mối liên hệ, rằng
buộc, thu thập tài
liệu viết Le Fantôme d’Avril,
Bóng Ma Tháng Tư, thấm đậm hơn nhiều, xa hơn nhiều,
so với 1 Sri Lanka hiện thực và di động. Hơn tất cả, tôi coi mình là 1
người
dân Canada. Đó là những cội rễ mới.
Là Ca na
điên, là thế nào? Làm sao ông định nghĩa nó?
Đúng là 1
câu hỏi đặc Tẩy. Đó là 1 xứ sở của những di dân, di trú, một xứ mở, un
pays
d’ouverture. Những người Âu Châu đã biến nó thành thuộc địa, rồi những
người di
dân từ khắp nơi tới, Jamaiques, Tẫu, Sri Lanka… Tôi không thể sống
trong 1 khí
hậu chính trị như ở Mẽo, tôi… thua! Tôi thích có 1 khoảng cách, một
quãng xa, sự
lặng lẽ gần như của 1 tỉnh lỵ địa phương, ce calme presque provincial,
của
Canada, và tôi có thể nhập vào sự bình an, thiên nhiên, ở đó thật đơn
giản biết
bao.
Bức Màn
Sắt
Note: Số báo
Books, Nov 2012. Có bài về Camus, rất thú, như để sửa soạn chào mừng
100 năm
ngày sinh của Camus, hai năm sắp tới.
Thú vị hơn,
là bài viết sau đây, về một thần tượng "vấp ngã" [Idole déchue: thần
tượng bị giáng, bị đá đít]. Bài viết, bộ mặt bảnh
trai của chàng, và trường hợp chàng phịa những trích dẫn gán vào miệng
TCS Mẽo,
Bob Dylan, làm GCC bèn nghĩ đến Thầy Kuốc của chúng ta!
Tác giả bài viết trên Books, coi Thầy Kuốc Mẽo,
Jonah Lehrer, phạm vô “cái gọi là” tự đạo, l'autoplagiat.
Còn Thầy Kuốc Mít thì phịa "bản
dịch":
Roland
Barthes, một người được xem là cấu trúc luận ở cuối thập
niên 1950 và đầu thập niên 1960 và là hậu cấu trúc luận từ cuối thập
niên 60 về
sau, xem mọi văn bản đều chỉ là một không gian trong đó có vô số
các văn bản
đan xen nhau, hoà trộn với nhau, và không có yếu tố nào là thực sự độc
sáng cả.
(4)
NHQ Blog VOA
Tò mò GCC thử coi tiểu chú số 4
là cái gì:
(4) Roland Barthes, "The Death of the Author", tài liệu đã dẫn, tr.
166-172.
Câu tiếng Anh (được dịch từ
tiếng Tẩy) như sau, nhưng Thầy
Cuốc đếch dám trưng ra:
We know now that a text
consists not of a line of words, releasing
a single "theological" meaning (the "message" of the
Author-God), but of a multi-dimensional space in which are married and
contested several writings, none of which is original: the text is a
fabric of
quotations, resulting from a thousand sources of culture.
GCC dịch:
Chúng ta bây giờ biết một bản
văn thì không phải là một đường chữ,
đưa ra một nghĩa “thần học” đơn (“thông điệp”của đấng Tác giả-Thượng
đế), nhưng
mà là một không gian đa chiều, ở trong đó một số bản viết phối với
nhau, và kèn
cựa lẫn nhau, chẳng bản viết nào còn zin: bản văn là một miếng, mảnh
[giống như
mảnh vải] những trích dẫn, kết quả của cả ngàn nguồn văn hoá. (1)
Thầy, bịp như
thế, mà phán thật hách, không thua gì Thánh Quát, thiên hạ có
ba bồ
chữ, một, Hậu Vệ, một, em của Hậu Vệ, là Da Mùi, còn bồ thứ ba thí
cho thiên
hạ!
Thứ nhất,
cho đến nay, Tiền Vệ là một trong hai tờ báo mạng văn học duy nhất bằng
tiếng
Việt. Chỉ có hai. Tờ kia là Da Màu. Hết. (2)
Thánh Quát còn
tí nhũn nhặn, khiêm tốn, còn bồ thứ ba thí cho thiên hạ.
Thầy Kuốc,
Không:
Hết!
Theo truyền
thuyết, Thánh Quát phán, “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, mình tôi giữ
hai bồ,
anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ, còn bồ phân phát
cho
thiên hạ.”
December 20, 2012
Frank
Dikötter, reply by Ian Johnson.
In response to:
China: Worse
Than You Ever Imagined from the November 22, 2012 issue
Một trong những
vấn nạn làm Gấu đau đầu, là: Liệu vụ đói năm Ất Dậu, do Nhật Lùn gây
nên, đưa VC lên ngôi ở xứ Mít?
VC phịa ra vụ
đầu độc tù Phú Lợi, làm cái ngòi bùng nổ cuộc giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất
nước. Giả như không có vụ đói Ất Dậu, thì sao?
Trong khi chờ…
lời giải, mời bạn đọc TV đọc bài điểm cuốn viết về vụ đói do Mao Xếng
Xáng ban
cho dân Tẫu, trên tờ NYRB, 22, Nov, 2012
Nên nhớ Lênin cũng đã từng
phịa ra 1 cú đói, để "pha lê hóa" [từ của
nhà văn VC Bùi Ngọc Tấn] xã hội, đẩy nhanh bánh xe cách mạng tới thành
công (1)
Trận đói của Lenin, 1933: The
Terror-Famine, cướp đi, theo Amis
[trích dẫn Grossman], chừng 5 triệu người ở Ukraine, 2 triệu ở Kuban,
Don,
Volga, và Kazakhstan, và đây có lẽ là mùa gặt được mùa nhất tại Liên
Xô.
Con số người chết do trận đói
năm Ất Dậu, do Nhật gây nên, và do
nhử Mẽo vô Việt Nam, cũng đâu có nhằm nhò gì, theo cái kiểu tính toán
của
Stalin:
Cái chết của một người thì bi thương, cái chết của một triệu người chỉ
là thống
kê.
[The death of one person is tragic, the death of a million is a mere
'statistic']
*
Sở dĩ hai ông bạn vàng Edmund Wilson và Nabokov cắt bào đoạn nghĩa, là
do Lenin
gây nên. Để đáp lễ Wilson phạng mình, Nabokov đã lịch sự nghĩ rằng, bạn
hiền
của ta, do không hiểu thực tại Bolshevik, nên cũng không thể nào hiểu
được lời
sỉ nhục.
[Nabokov is bearing in mind that Wilson, not understanding the
Bolshevik
reality, does not understand the insult].
Thật đúng là hòn đất ném đi, cục vàng ném lại!
[Gấu nhớ nằm lòng câu trên, mỗi khi mài dao kéo, sửa soạn đưa lên bàn
mổ, những
bạn hiền văn chương của mình!]
*
Thê thảm nhất, là, cuộc chiến Việt Nam không thể nào tránh được. Như
Cách Mạng
Nga, cũng không thể nào tránh được!
Pushkin chẳng đã từng van vái, Lạy Trời đừng bao giờ bắt con phải chứng
kiến
một cuộc cách mạng Nga!
Dọn
Bức hình trên, từ cuốn Koba The Dread, của Martin Amis, nhà văn Tây
phương đầu
tiên viết về Gulag, theo Anne Applebaum. Đọc Solz, thì cũng nên đọc
thêm Amis,
nhất là cuốn Nhà Hội.
Một tuyệt tác viết về Gulag.Tay điểm sách trên tờ TLS, đọc Nhà Hội, mà
ngửi ra
được cái mùi của Gulag, thế mới thần sầu.
Amis nhận xét về sự khác biệt
giữa Cái Ác Nazi với Cái Ác Đỏ:
Chủ nghĩa Nazi không huỷ diệt xã hội dân sự. Chủ nghĩa Bolshevism hủy
diệt xã
hội dân sự. Đó là một trong những lý do cho thấy "phép lạ" của sự hồi
phục của nước Đức. Stalin không huỷ diệt xã hội dân sự. Lenin huỷ diệt
xã hội
dân sự.
*
Đọc, Gấu nhận ra, điều này quá đúng với Việt Nam sau 1975. Sự huỷ diệt
xã hội
dân sự bắt đầu cùng với chiến thắng của VC.
Chính vì lý do này, sẽ chẳng thể nào có sự hồi phục.
*
Chủ nghĩa Bolshevism có thể xuất cảng được, và sản xuất ra những hiệu
quả gần
như là đồng nhất với nguyên bản, ở khắp nơi. Chủ nghĩa Nazi không thể
sao chép.
So sánh với nó, những nhà nước phát xít khác chỉ là trò tài tử.
Amis: Koba The Dread
Nhật Ký TV
And this is
how I see the East .... I see it always from a small boat-not a light,
not a
stir, not a sound. We conversed in low whispers, as if afraid to wake
up the
land .... It is all in that moment when I opened my young eyes on it.
I came upon
it from a tussle with the sea.
-JOSEPH
CONRAD, "YOUTH"
Điều quan trọng
thì xẩy ra trong bí mật, Ce qui est important se déroule en secret.
Michael
Ondaatje trả lời tờ ML trong số Oct 2012, nhân cuốn mới nhất của Bàn Kẻ
Khác,
La table des autres, ra mắt qua bản tiếng Pháp.
TV sẽ đi bài này, nhân
tiện lèm
bèm về vấn nạn, truyện hay tự truyện, nhân bạn quí vừa đi 1 đường đề
tài
này! (1)
Hà, hà!
Sự thực, GCC
muốn nhân dịp này, tấn công vào 1 tử điểm của văn thơ Mít:
Đếch ông nào
có Thầy,
thành ra đếch đi được xa, và giả như có ai gợi ý, thơ văn của bạn có
mùi
ông Mít này,
bà Mít kia, thì rất ư là bực!
Đây cũng là
lý do văn thơ Mít toàn rác: Những đấng này đấng kia, cứ viết văn làm
thơ hoài,
"sống lâu lên
lão làng", là thành nhà văn, nhà thơ!
Đây là 1
trong ba búa Trình Giảo Kim mà ông anh nhà thơ TTT truyền lại cho Gấu,
khi mới
tập tành viết lách. Mày đọc hoài, đọc hoài, rồi sẽ có lúc kiếm ra Thầy
của mày.
Theo ông, viết văn là phải có Thầy. Nhà văn đầy ra, nhưng dòng văn ít
lắm, đọc
hoài, đọc
hoài rồi sẽ nhận ra dòng văn hợp với mình, và nhập vào đó.
Khi về già, nhìn lại, GCC
nhận ra, Thầy của bạn, chính là bạn.
December 6,
2012
Fintan
O’Toole
Bloomberg
nói về giấc mơ vỡ nát ở VN
Giấc mơ vỡ nát
này, GCC trải qua từ thời Diễm Xưa rồi, và Gấu đã viết về nó, trong 1
truyện ngắn
gửi cho tờ LV ngay khi còn ở Trại Tị Nạn Thái Lan lận:
1958. Học xong Trung học tôi
thi vô Trường Quốc Gia Bưu Điện vừa mới
được thành lập sau một năm lân la làm quen cái không khí đầy nao nức
của tương
lai như đang giục giã ở ngay đầu ngã tư của cuộc đời, ở đại giảng đường
Đại Học
Khoa Học. Bạn thử tưởng tượng một học sinh nghèo, sống chui rúc ở cuối
con hẻm
Đội Có, Phú Nhuận, nơi đám người nghèo khổ bám quanh thành phố, khi
chiến tranh
chưa dồn dập đem những tiện nghi đến tận giường ngủ, xó bếp, rồi lấy đi
một số
người thân, quanh năm chỉ biết xài đèn dầu, uống nước giếng. Đám thanh
niên,
ngoài những lúc tự an ủi lẫn nhau bằng những mối tình tưởng tượng, bằng
những
tiếng hát nhái theo giọng Út Trà Ôn, Trần Văn Trạch quanh cây đàn ghi
ta bên cạnh
giếng nước, vào những lúc con xóm sau một ngày mệt lả, mặc tình cho
bóng đêm và
muỗi đói hành hạ; buổi sáng chỉ còn cách kéo nhau ra mấy dẫy nhà lụp
xụp, mặc
tình ngắm nghía mấy cô gái họ vẫn thường trầm trồ, mỗi lần thoáng thấy
bóng.
Các cô lúc này xắn quần cao, thoăn thoắt giữa đám rau muống xanh um phủ
kín mấy
vũng nước đen ngòm, nguồn lợi thứ nhì sau mấy ao cá, một nơi chốn hẹn
hò khác nữa
của các cô cậu choai choai, và của đám con nít; bỗng một ngày đẹp trời,
thấy
như Alice lạc vào xứ thần tiên, lạc vào trường Đại Học Khoa Học.
Lần
Cuối Sài Gòn
Những con
hẻm
của Sài Gòn những ngày đầu lầy lội, theo đà leo thang của chiến tranh,
biến thành
những con ngõ tráng xi măng, tưởng hoà bình, có cái nhà Mít to bằng 5
bằng 10 giấc mơ quả biến thành hiện thực, nhưng linh hồn Mít thì cũng
đếch
còn.
Có đất nước
nào 1 tên chăn trâu, học lớp 1, lên làm Thủ Tướng?
Có tên khốn
nạn nào học lực như thế mà dám nhận 1 việc làm như thế?
Víp
Va Ka, Hồ Tôn Hiến, được Đảng trao trọng trách làm Thủ Tướng VC, trong
đời gây
ra hai cú phá sản tầm cỡ quốc gia là Ðỗ Hòa trồng dừa, và Dung Quất đào… dầu hôi.
Chỉ
đến khi sắp chết, mới thỏ thẻ, 1 triệu người vui thì 1 triệu người buồn!
(1)
Anh
y tá dạo Ba Dái cũng đâu chịu thua! Cũng gân cổ phán, Đảng giao trách
nhiệm làm sao chối từ?