|
Reciprocity
There are catalogs of catalogs.
There are poems about poems.
There are plays about actors played by actors.
Letters due to letters.
Words used to clarify words.
Brains occupied with studying brains.
There are griefs as infectious as laughter.
Papers emerging from waste papers.
Seen glances.
Conditions conditioned by the conditional.
Large rivers with major contributions from small ones.
Forests grown over and above by forests.
Machines designed to make machines.
Dreams that wake us suddenly from dreams.
Health needed for regaining health.
Stairs leading as much up as down.
Glasses for finding glasses.
Inspiration born of expiration.
And even if only from time to time
hatred of hatred.
All in all,
ignorance of ignorance
and hands employed to wash hands.
Szymborska: Map
Có đi có lại
Có
những catalogs của catalogs
Những bài thơ của những bài thơ
Kịch về nghệ sĩ, chơi bởi nghệ sĩ.
Thư trả nợ thư
Từ làm rõ từ.
Não, bận vì “não nghiên cứu”
Có đau thương, gây nhiễm, như tiếng cười
Giấy ló ra từ giấy bửn, thải
Những cú nhìn được chiếu cố, theo kiểu, đài
gương soi đến dấu bèo này chăng
Những điều kiện bị điều kiện bởi điều kiện
Những sông lớn với đóng góp lớn lao của
sông nhỏ
Rừng lớn chồm lên vượt lên rừng nhỏ
Máy móc, được làm ra để làm ra
những máy móc
Những giấc mơ làm chúng ta thức giấc, nghĩa
là ra khỏi những giấc mơ.
Sức khoẻ được cần, để lấy lại sức khoẻ
Những cầu thang dẫn chúng ta lên, nhiều, như
là xuống
Kính để tìm kính
Hứng khỏi mọc lên từ mãn hứng, nghĩa là,
tắt hơi, tắt hứng
[từ “mãn hứng” này là được gợi hứng từ
“mãn kinh”!]
Và ngay cả, dù chỉ thi thoảng,
thù hận, từ hận thù
Tất cả trong tất cả
Vô tri từ ngu si
Và những bàn tay để rửa những bàn tay.
Hand
Twenty-seven bones,
thirty-five muscles,
around two thousand nerve cells
in every tip of all five fingers.
It's more than enough
to write Mein Kampf
or Pooh Corner.
-Wistawa Szymborka
Tay
Hai mươi bảy cái xương
Ba mươi lăm cái bắp
thịt
Cỡ chừng hai ngàn
tế bào thần kinh
Ở đầu, của mọi đầu, của cả
năm ngón tay
Vậy là quá,
quá đủ
Để ngồi hang
Hắc Búa
Hay Hác Bó
cái con mẹ gì đó
Dịch Sử Đảng!
EARLY ONE MORNING
Here is Memory walking in the
dark
there are no pictures of her as she is
the coming day was never seen before
the stars have gone into another life
the dreams have left with no sound of farewell
insects wake flying up with their feet wet
trying to take the night along with them
Memory alone is awake with me
knowing that this may be the only time
Một sáng sớm
Đây là Hồi Nhớ
đang đi một đường tản bộ trong bóng tối
Không có hình ảnh nào về nàng
như nàng là
Cái ngày tới thì chưa từng nhìn
thấy trước đó
Những vì sao thì bèn bỏ đi, vào
một cuộc đời khác
Những giấc mộng thì bèn bị/được bỏ lại, đếch
có 1 âm thanh của tạ từ, của vĩnh biệt
Sâu bọ, ruồi muỗi, côn trùng bay thì
bèn bay lên, chân ướt nhèm
Cố lôi đêm đi cùng với chúng
Hồi Nhớ, chỉ có nó, bèn thức dậy cùng
với GCC
Biết, lần này có thể là lần cuối cùng,
đúng là lần này.
People Eating Lunch
And thinking with each mouthful,
Or so it appears, seated as they are
At the coffee shop counter, biting
Into thick sandwiches, chewing
And deliberating carefully before taking
Another small sip of their sodas.
The gray-haired counterman
Taking an order has stopped to think
With a pencil paused over his pad,
The fellow in a blue baseball cap
And the woman wearing dark glasses
Are both thoroughly baffled
As they stir and stir their coffees.
If they should look up, they
may see
Socrates himself bending over the grill
In a stained white apron and a hat
Made out of yesterday's newspaper,
Tossing an omelet philosophically,
In a small frying pan blackened with fire.
Charles Simic: New and Selected Poems
Họ ăn trưa
Và suy tư với cái
miệng lùng bùng
Hay có vẻ lùng bùng, với thức ăn chưa
kịp nuốt
Ngồi, như họ ngồi
Ở quầy tiệm cà phê
Đợp một đợp xăng uých dầy,
Nhai nhai, thận trọng cân nhắc, trước khi
Chiêu ngụm xô đa nhỏ
Tên coi quầy tóc
xám
Nhận order, ngừng suy tư
Với cây viết chì gài trên cuốn sổ,
Cái tay đội cái nón baseball màu
xanh
Và người đàn bà đeo kính râm
Cả hai đều tỏ ra ngỡ ngàng
Quậy quậy cà phê
Nếu họ ngước nhìn
lên
Họ có thể thấy
Socrates, đích thị ông ta
Nghiêng người xuống cái vỉ
Trong cái tạp dề trắng và cái nón
Làm bằng tờ báo ngày hôm qua
Lật lật món trứng omelet rất ư là triết học
Trong cái xoong đen thui vì lửa.
LATE SEPTEMBER
The mail truck goes down the
coast
Carrying a single letter.
At the end of a long pier
The bored seagull lifts a leg now and then
And forgets to put it down.
There is a menace in the air
Of tragedies in the making.
Last night you thought you heard
television
In the house next door.
You were sure it was some new
Horror they were reporting,
So you went out to find out.
Barefoot, wearing just shorts.
It was only the sea sounding weary
After so many lifetimes
Of pretending to be rushing off somewhere
And never getting anywhere.
This morning, it felt like Sunday.
The heavens did their part
By casting no shadow along the boardwalk
Or the row of vacant cottages,
Among them a small church
With a dozen gray tombstones huddled close
As if they, too, had the shivers.
Charles Simic: The Voice at 3:00 AM
Tháng Mười Cũ
Xe thư chạy xuống bờ biển
Với chỉ một lá thư
Ở cuối một bến tàu dài
Con hải âu chán đời, nhắc,
hết chân phải lại đến chân trái
Và quên bỏ xuống
Trong không khí có mùi đe dọa
Về những bi kịch đang thành hình
Đêm qua bạn nghĩ bạn có
nghe tiếng TV
Từ nhà kế bên
Và bạn tin chắc
Về một ghê rợn mới
Họ đang báo cáo
Và thế là bạn bò ra đường để kiếm
Chân trần, quần xà lỏn
Hóa ra chỉ là tiếng sóng biển
Ưu tư về không biết là bao nhiêu là đời
Cứ phải giả đò, từ đâu đổ xuống nơi đây
Và chẳng bao giờ đi bất cứ nơi đâu
Sáng nay, sao giống như
Chủ Nhật
Ông Giời cà chớn chắc là cũng có góp
phần
Trong cái việc, đếch đem một cái bóng râm
nào
Đổ xuống hai bên hè đường
Hay là ở rặng những cái lều trống trơn
Trong số đó, là 1 ngôi nhà thờ nhỏ
Với trên chục cái bia mộ bằng đá
Xúm lại với nhau
Như thể, chúng, đôi lúc, cũng rùng mình.
IN THE JUNK STORE
A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.
I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.
Charles Simic: The
Little Something
Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành
Hồ
Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!
Gấu lật lật 1 cái huy
chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước
Đứng Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!
Hà, hà!
Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp
nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….
ETERNITY'S ORPHANS
One night you and I were walking.
The moon was so bright
We could see the path under the trees.
Then the clouds came and hid it
So we had to grope our way
Till we felt the sand under our bare feet,
And heard the pounding waves.
Do you remember telling me,
"Everything outside this moment is a lie"?
We were undressing in the dark
Right at the water's edge
When I slipped the watch off my wrist
And without being seen or saying
Anything in reply, I threw it into the sea.
Charles Simic
Những đứa trẻ mồ côi của vĩnh cửu
Một đêm em và tôi
dạo bước
Trăng cao, sáng vằng vặc
Chúng tôi có thể nhìn thấy lối đi dưới cây
Và rồi mây tới và che mất
Thế là chúng tôi phải mò mẫm kiếm lối đi
Cho tới khi cảm thấy cát dưới chân trần
Và nghe tiếng sóng biển đập thình thịch
Em có nhớ là em
biểu tôi
"Mọi cái chó gì bên ngoài khoảnh khắc
này, thì đều là dối trá"?
Chúng mình lột trần truồng trong bóng tối
Ngay kế bên bờ nước
Trong khi tôi gỡ cái đồng hồ ra khỏi cổ tay
Và chẳng để ý em có nhìn tôi,
Hay nói cái gì để trả lời
Tôi ném cái đồng hồ xuống biển
Simic: Scribbled in the Dark
ALL THINGS IN PRECIPITOUS
DECLINE
Like a pickup with its wheels gone,
And some rusty and disassembled
Antique stoves and refrigerators
In a front yard choked with weeds,
Outside a shack with a plastic sheet
Draped over one of its windows,
Where a beer bottle went through
One star-studded night in June-
Or was it a shotgun we heard?
The police inquiry, if there is one,
Is proceeding at a snail's pace,
In the meantime, the old recluse
Got himself a bad-tempered mutt
To keep his junk company and bark
At all comers, including the mailman
Leaving a rare letter in the mailbox.
Cứ thế dốc ngược mà
thoái
Như cái pickup bốn bánh mỗi cái mỗi nơi
Mấy cái lò, tủ lạnh từ thời ông bành
tổ ở sân trước nhà
Tắc nghẹn cỏ
Bên ngoài cái lán với cái khăn
trải giường bằng nilông
Phủ lên một cái cửa sổ của nó
Nơi một cái vỏ chai bia bèn đi hoang
Cho hết một mùa hoang vu trên mặt đất -thuổng PCT -
Simic khiêm tốn hơn,
Đi hết 1 đêm tháng Sáu, trời vãi sao
–
Nghe có tiếng shotgun?
Ôi dào rách việc, kệ mẹ mấy tên cớm VC!
Chúng vốn chậm như sên, nếu không được bôi
trơn mõm
Cùng lúc này, cái anh già sống
ẩn dật
Tự sắm cho lão một con chó tính tình
khó đăm đăm
Để làm bạn đồng nát
Con chó sủa từ mọi góc gách
Thêm anh bưu tá
Bỏ một cái thư hiếm vào hòm thư.
ANCIENT COMBATANT
Veteran of foreign wars,
Stiff in arm and leg,
His baggy pants billowing in the wind
Salutes a crow in a tree,
And resumes his stroll
Past a small graveyard,
Swerving and waving his arms
As if besieged by ghosts
Lurking among headstones,
Waiting to accost him
And make a clean breast
,Before he slips out of sight.
The tiger lilies bemused.
The curving dirt road in his wake
Deep in silence
And prey to lengthening shadows.
Cựu chiến hữu
Cựu chiến hữu của những cuộc chiến ngoại bang giật dây
Chân tay cứng đơ
Ống quần rộng thùng thình như hai cánh buồm
lộng gió
"Chàng" cúi chào một con quạ ở trên cây
Và bèn tiếp tục cuộc dạo
Qua một nghĩa địa nhỏ
Chàng loạng quạng, ve vảy tay
Như bị bủa vây bởi những hồn ma
Lấp ló, rình mò giữa đám bia mộ
Đợi bắt chuyện
Và làm 1 cú thú tội, sám hối,
tự vấn... hay cái con mẹ gì đó
Một điều mà tên già NN và đồng bọn,
Không thể làm được,
Trước khi biến khỏi tầm nhìn.
Những bông hoa kèn bèn sững người.
Con đường đất bụi cong queo bèn tỉnh giấc
Chúi sâu mãi vào im lặng
Và bèn sửa soạn săn mồi
Là những cái bóng dài loằng ngoằng.
Note:
Ôi chao, lâu lắm mới có được 1 "bi khúc"
- thuổng NL - dành cho lũ Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn đi
kíu nước!
NQT
Thơ Mỗi
Ngày
http://www.babelmatrix.org/works/es/Borges,_Jorge_Luis-1899/Carnicer%C3%ADa/en/37604-Butcher_shop
Butcher shop
Lower than a lupanar
the butcher shop signs the street
insultingly.
On the lintel
a blind cow's head
rules the coven
of final marble and gaudy flesh
with an idol's remote majesty.
[Mulrooney, Christopher]
J.L. Borges
AT THE BUTCHER'S
Meaner than a house of prostitution
the meat market flaunts itself in
the street like an
insult.
Above the door
the head of a steer in a blind-eyed
stare
watches over the witches' Sabbath
of flayed flesh and marble slabs
with the aloof majesty of an idol.
[Norman Thomas di Giovanmi]
"Lộn(g) dịch":
Ở nhà HPNT
Bần tiện hơn cả nhà thổ
Phiên chợ thịt người
Ánh lên lời nguyền rủa
của những nạn nhân Tết năm đó
Ở bên trên cửa
Cái đầu bò mù
Đưa mắt nhìn xuống Ngày
Hội Máu của VC
Bằng 1 cái nhìn cao
sang, quyền quí
Của những vì vua chúa
thời nhà Nguyễn.
Compass
Every single
thing becomes a word
in a language
that Someone or Something, night and day,
writes down
in a never-ending scribble,
which is the
history of the world, embracing
Rome, Carthage,
you, me, everyone,
my life, which
I do not understand, this anguish
of being enigma,
accident, and puzzle,
and all the
discordant languages of Babel.
Behind each
name lies that which has no name.
Today I felt
its nameless shadow tremble
in the blue
clarity of the compass needle,
whose rule
extends as far as the far seas,
something like
a clock glimpsed in a dream
or a bird that
stirs suddenly in its sleep.
-A.R.
J.L. Borges
UNE BOUSSOLE
A Esther Zemborain de Torres.
Choses sont
mots. Quelqu'un - mais qui, mais quoi ? -
Nous écrit
: cette incessante graphie
Inextricable
et qui ne signifie
Rien, c'est
l'histoire humaine. En ce convoi
Passent Carthage
et Rome, et moi, lui, toi,
Mon désespoir
d'être cryptographie,
Hasard, rébus
- mon impensable vie,
Cette Babel
qui s'écartèle
en moi.
Mais par-delà
la parole ou le nombre
Un reste attend.
Je sens planer son ombre
Sur cet acier
léger, lucide et bleu
Qui cherche
un point où l'océan fait trêve
;
Presque une
montre entr'apercue en rêve,
Presque un
oiseau qui dort et tremble un peu.
La bàn
Mọi vật đơn
trở thành một từ
Trong một ngôn
ngữ mà Ai Đó, hay Điều Đó,
ngày đêm
Viết xuống
một bản văn chẳng bao giờ chấm dứt
Gọi là
lịch sử thế giới, ôm trong nó
La Mã,
Carthage, bạn, tôi, mọi người
Đời Gấu, không
làm sao hiểu nổi, cơn nhức nhối,
Là niềm
bí ẩn, tai nạn, và thai đố
Và tất
cả những ngôn ngữ chẳng thứ nào chịu
được thứ nào của Babel
Sau mỗi tên,
nằm, mỗi không
tên
Bữa nay Gấu
cảm thấy cái bóng không tên
của nó run rẩy
Trong cái
sáng sủa màu xanh của cây kim
của cái la bàn
Luật của nó
thì vươn xa thật xa như những biển xa
Một điều gì
như cái đồng hồ thấp thoáng trong
giấc mơ
Hay một hải
âu bất thình lình run run trong
giấc ngủ của nàng
My Beloved
after D. Khrams
In the fine print of her face
Her eyes are two loopholes.
No, let me start again.
Her eyes are flies in milk,
Her eyes are baby Draculas.
To hell with her eyes.
Let me tell you about her mouth.
Her mouth's the red cottage
Where the wolf ate grandma.
Ah, forget about her mouth,
Let me talk about her breasts.
I get a peek at them now and then
And even that's more than enough
To make me lose my head,
So I better tell you about her legs.
When she crosses them on the sofa
It's like the jailer unwrapping a parcel
And in that parcel is a Christmas cake
And in that cake a sweet little file
That gasps her name as it files my chains.
Charles Simic
Trong bức hình thật là OK, chụp bộ mặt của
em,
Cặp mắt là hai lỗ châu mai
Không, để Gấu nói lại,
Hai mắt của em thì như hai con ruồi chết đuối trong
ly sữa
Hay, như hai tí nhau Draculas!
Thôi, kệ cha cặp mắt em mà lũ Mít chuyên
mần thơ tán gái, gọi là cửa sổ của tâm
hồn!
Để Gấu nói về miệng của em
Miệng của em thì đúng là căn lều
Nơi chó sói làm thịt bà nội của
cô bé quàng khăn đỏ, cháu ngoan Bác
Hồ
A, thôi, hãy vờ miệng của em đi
Để Gấu lèm bèm về cặp dzú của em
Lúc này, lúc nọ, con mắt lé của
Gấu thường lén nhìn
Chỉ lén 1 tí như thế, mà Gấu xém
điên cái đầu!
Thôi, tốt hơn hết, hãy “lói” về cặp cẳng
của em.
Khi em đi 1 đường ghé cái xô pha,
Thì chẳng khác gì tên quản giáo
mở gói quà
Trong gói quà có cái bánh
ngọt
Trong cái bánh ngọt, cái giũa xinh xinh
Nó giũa tên em,
Như giũa cái cùm, quanh cổ Gấu Cà Chớn
Hà, hà!
Paradise
In a neighborhood once called Hell's Kitchen
Where a beggar claimed to be playing Nero's fiddle
While the city burned in midsummer heat;
Where a lady barber who called herself Cleopatra
Wielded the scissors of fate over my head
Threatening to cut off my ears and nose;
Where a man and a woman went walking naked
In one of the dark side streets at dawn.
I must be dreaming, I told myself.
It was like meeting a couple of sphinxes.
I expected them to have wings, bodies of lions:
Him with his wildly tattooed chest;
Her with her huge, dangling breasts.
It happened so quickly, and so long ago!
You know that time just before the day breaks
When one yearns to lie down on cool sheets
In a room with shades drawn?
The hour when the beautiful suicides
Lying side by side in the morgue
Get up and walk out into the first light.
The curtains of cheap hotels flying out of windows
Like seagulls, but everything else quiet….
Steam rising out of the subway gratings….
Bodies glistening with sweat ...
Madness, and you might even say, paradise!
Charles Simic
Thiên Đàng
Trong 1 khu xóm có thời được gọi bằng cái
nick, Nhà Bếp của Địa Ngục
Nơi một người ăn xin, vỗ ngực xưng tên, ta chơi cây
vĩ cầm Nero
Nơi thành phố cháy bỏng cái nắng giữa
hè;
Nơi bà chủ tiệm làm tóc tự gọi mình
là Cleopatra
Khuơ khuơ cây kéo số mệnh trên đầu Gấu
Hăm, ta sẽ thiến tai và mũi, và có thể,
1 cái gì đó nữa, của mi!
Nơi một đấng đàn ông và một cô
nường tản bộ, cả hai trần như nhộng
Tại một con phố tôi tối, vào lúc rạng
đông.
Mi đúng là đang mớ, Gấu bảo Gấu
Đúng là như gặp một cặp nhân sư
Gấu đã mong, họ có cánh, và có
mình, sư tử
Chàng, ngực trạm trổ hoang dại
Nàng, vú cực bự đong đưa
Chuyện xẩy ra thật lẹ, và cũng lâu lắm rồi,
từ thuở Diễm Xưa....
Bạn biết, thời gian đó, ngay trước rạng đông
Khi con người thèm ngả lưng xuống những chiếc khăn
trải giường mát lạnh
Trong 1 căn phòng, những chiếc mành mành
đã được kéo xuống
Đúng thời khắc mà những cái chết đẹp
đẽ vì tự vận
Nằm song song bên nhau trong nhà xác,
Bèn thức dậy, bước ra ngoài, nhập vào
tia sáng đầu tiên
Những bức rèm của những khách sạn rẻ tiền bay
ra khỏi cửa sổ
Như những con hải âu, nhưng mọi thứ, mọi vật khác
thì đều êm ả…
Hơi nước bốc lên từ những lưới sắt đường xe điện ngầm
…
Những cơ thể lấp lánh mồ hôi…
Khùng điên, vậy mà bạn dám biểu,
thiên đàng!
SCRIBBLED IN THE DARK
Sat up
Like a firecracker
In bed,
Startled
By the thought
Of my death.
*
Hotel of Bad Dreams.
The night clerk
Deaf as a shoe brush.
*
Body and soul
Dressed up
As shadow puppets,
Playing their farces
And tragedies
On the walls of every room.
*
Oh, laggard snowflake
Falling and melting
On my dark windowpane,
Eternity, the voiceless,
Wants to hear you
Make a sound tonight.
*
Softly now, the fleas are awake.
Charles Simic: The Lunatic
Quọt quẹt trong bóng tối
Bật dậy
Như cây pháo
Ở trên giuờng
Ngỡ ngàng
Với ý nghĩ
Ơ kìa, mình chết
*
Khách sạn của những giấc
mơ tồi
Gã nhân viên
ca đêm
Điếc đặc, như cái bàn chải đánh giầy
*
Hồn & xác
Ăn vận như bóng những con rối
Chơi trò hề
Và bi kịch
Trên tường của mọi căn phòng.
*
Ôi, những bông tuyết
muộn
Rớt xuống, đông lại trên cửa sổ tối thui của tôi
Vĩnh cửu, câm
Muốn mi làm cái gì
Nghe lục cà lục cục đêm nay
*
Nhè
nhẹ, nhè nhẹ
Những con bọ chét thức giấc.
[from The Lunatic]
Tập thơ mới nhất của Simic, 2017. Gần như quá
nửa trong đó, đã đăng trên Tin Văn.
Simic:
Scribbled in the Dark
SCRIBBLED IN THE DARK
A shout in the street.
Someone locking horns with his demon.
Then, calm returning.
The wind tousling the leaves.
The birds in their nests
Pleased to be rocked back to sleep.
Night turning cool.
Streams of blood in the gutter
Waiting for sunrise.
Nguệch ngoạc trong đêm
Một tiếng la ngoài phố
Một người nào đó cà khịa với con quỉ của hắn
Rồi thì là im ắng trở lại.
Gió giằng co với những chiếc lá.
Chim ở trong tổ
Làm ơn lúc lắc nhè nhẹ
Ru giấc ngủ trở lại
Đêm trở lạnh
Máu sùng sục ở trong mạch
Đợi mặt trời mọc.
Charles Simic
HISTORY
Our life stories are scary and droll,
Like masks children wear on Halloween
As they go from door to door
Holding the little ones by the hand
In some neighborhood long torn down,
Where people ate their dinners
In angry silence or quarreling loudly,
When there was a knock on the door,
A soft knock a shy boy makes
Dressed in a costume his mother made.
What's this you're wearing, kid?
And where did you get that mask?
That made everyone laugh here
While you stood staring at us,
As if you knew already we were history.
Chuyện
Chuyện đời chúng ta,
hai hãi và hài hài
Như mặt nạ con nít mang ngày
Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này
qua nhà khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào
Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi nhau
ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè
nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may
Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu ra
cái mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng
tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là... chuyện
Cherry Pie
If it’s true that the devil
has his finger
In every pie, he must be waiting
For the night to fall, the darkness to
Thicken in the yard, so we won’t see him
Lick the finger he dipped in your pie,
The one you took out of the oven, my love,
And left to cool by the open window.
—Charles Simic
Bánh Anh Đào
Nếu đúng là quỉ
có ngón tay của nó
Ở trong mọi cái bánh
anh đào
Nó sẽ phải đợi đêm
xuống
Ngoài vườn tối thật tối
Như thế bạn sẽ không thể
nhìn thấy nó
Thế là nó bèn
liếm thật sâu vào cái bánh
của bạn
Cái bánh mà
bạn lấy ra khỏi lò
Và để ở cửa sổ,
Để cho nó nguội lạnh đi
All Gone into the Dark
Where's the blind old street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese?
Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead?
Rồi tất cả cũng đi vào đêm
tối
Ông linh mục mù già đường phố được một
đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống phố
Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn
toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có lần
tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được
mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà
phê
Nhai chả giò, bạn có thể có linh cảm
–
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng
trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình, về những
người chết mới tới?
Charles Simic
LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
Điểm cuốn tiểu sử Milosz.
Tin Văn sẽ tóm tắt bài viết.
GCC nghĩ, Milosz ảnh hưởng từ Simone Weil, như
Camus. Nhưng người điểm cuốn tiểu sử của ông cho rằng Milosz
giống [những nhân vật của] Camus, và người ảnh hưởng
lên ông là Conrad.
Quái thật, vì Conrad là
thầy của Graham Greene, theo GCC và 1 số nhà phê
bình văn học.
Miłosz was a good man,
but, like the heroes of the novels of Albert Camus (whom he admired
and resembled), he was no saint. A number of affairs sustained
him during his marriage, and he was absent for much of the upbringing
of his sons (one of whom became seriously mentally ill). With his
Lithuanian and Polish background, and his fluency in many languages
(along with Lithuanian and Polish we must add Russian, French and
an English competent enough for him to be his own translator), he was
immune to any strong national or ideological pressures: he had left-wing
sympathies but loathed dictatorship; a freethinker, he came gradually
to see belief in a Christian God as indispensable to a sense of freedom
and purpose. His progress somewhat resembles that of T S Eliot, but
Eliot’s hell was private and Miłosz’s was public. Miłosz admired Eliot’s
poetry, but understandably despised the self-indulgence of The Cocktail
Party.
If anyone influenced Miłosz,
it was Joseph Conrad, and one of the many merits of Andrzej Franaszek’s
biography is that it reminds us of Conrad’s importance as a Polish essayist
and as a guide to how men of goodwill can act in an evil world.
Miłosz did not hate Russia with Conrad’s single-mindedness (as
in Under Western Eyes), but he saw tsarist
and Soviet Russia in the same light as him. Conrad also taught Miłosz,
as someone who had likewise experienced the Heart of Darkness, to
see life as an honourable defeat. Perhaps it would have been helpful
if Franaszek had also considered Miłosz’s status as the senior figure
in a trio of poets – the others being the Lithuanian Tomas Venclova
(still alive today) and the Russian Joseph Brodsky – who emerged as
defectors from communist Europe to achieve even greater success in American
exile and who interacted with one another in a way rarely seen among
poets in the 20th century. Miłosz’s sibilant Polish, Catholic background
and Polish romanticism may seem far removed from Venclova’s highly accented
but mellifluous Lithuanian and obsession with Greek mythology, and from
Joseph Brodsky’s frivolous paradoxes and wildly inventive, often song-like
Russian, but these three poets had much in common. They all made the
best of exile, and of the USA and its universities in particular, with
gratitude, eschewing the scorn shown by Nabokov and Solzhenitsyn. They
all revered W H Auden and, like him, persisted with poetry, even though
they realised it doesn’t make anything happen. In that hopeless fight,
they are the three musketeers of verse.
It took
Franaszek ten years to compose this life of Miłosz, and Aleksandra
and Michael Parker another six to translate it. The result is
a classic of the genre: a biography based on interviews and exhaustive
documentary research. It is tolerant, perceptive, beautifully
written and utterly objective. It is also an effective critical
study, containing generous excerpts of Miłosz’s writing that make
it almost an anthology of his poetry and essays (Miłosz’s fiction
is perhaps of a lower order). To achieve greatness in Polish verse
is no mean feat: the language lacks the strong beat of English and
Russian and the subtle vowels of French. It suffers, even more than
English, from awkward consonant clusters; its peculiarity is a monstrous
proliferation of sibilants and chuintantes that can make
a poem sound like a scratched wax recording. The poet must achieve,
like the French with alexandrines, rhythmic effects by subtly breaking
up the line and avoiding inflectional rhymes. Miłosz was such a fine
observer of the world and recollector of experience that his imagery
alone qualifies as poetry. His syntax is so clear that the most profound
thoughts are immediately perceptible, so that he is less at the mercy
of translation than other poets.
Milosz Unbowed
Thơ Mỗi
Ngày
Nếu một mai
( Nguyễn Quốc Trụ)
a2a : Bài thơ Nếu
Một Mai cũng đã được GS Phạm Đình Lân
dịch qua Anh Ngữ :
K
DAVID LAN
PHAM, F.A.B.I.
If Some Day
Vietnamese
poem: Neu Mot Mai
Author: Dang Ngoc Le Khanh
Translation: David Lan Pham, F.A.B.I.
If
some day I’ll forget
Please
remind me.
****
Point
your finger at the sky where the clouds are flowing slowly,
Sprinkle some water to imitate rain
Remind
me of the past old days
On
which we walked under the rain all day long.
****
Give
me a fresh rose,
A
very fragrant one,
Dreamingly
I'll wonder
Whether
the sweet scent comes from the old rose garden.
****
Please
show me the path serpenting around the city center.
Order
familiar foods for me.
Take
me to the street restaurant
Where
we used to drink and enjoy
The
fragrance of fresh lotus tea in a pretty teapot.
****
Read
to me your immense love poems
You
wrote to me
Or
to the ones you know
Without
dedicating to anyone.
I
will not ask you why your source of poetry was so abundant.
In
my old world full of
Remembrance
and forgetfulness,
I'll only remember that
I once had a very sweet and peaceful
time
Listening
to the very exquisite poems of yours
****
If
some day I’ll be in bed.
My
eyes will be hollow; my mind wither.
Don’t
show me the pictures of our youth
I
won’t recognize myself and you.
I’ll
weep for, in the bottom of my perception,
I
know you and I have changed
Nếu Một Mai
Mai mốt nếu em quên
Anh nhớ nhắc dùm
em nhé
Hãy chỉ
lên bầu trời có mây bay nhè nhẹ
Rắc vài
giọt nước làm mưa
Để em nhớ ngày
xưa
Có ngày
mình đi với nhau suốt buổi
Hãy tặng
cho em một đóa hồng phơi phới
Thơm thật là
thơm
Em sẽ bâng
khuâng tự hỏi làn hương
Đến từ một vườn
hồng nào xưa cũ
Hãy chỉ
cho em con đường mòn quanh co lòng phố
Hãy gọi
cho em những món ăn quen
Dắt em đến ngồi
ở quán ven đường
Nơi mình
đã nhâm nhi bình trà thơm mùi
sen mới
Hãy đọc
em nghe lời thơ tình vời vợi
Anh thường viết
cho em
Hay cho những
người anh quen
Không cần
đề tặng
Em sẽ không
hỏi vì đâu mà nguồn thơ lai láng
Trong thế giới
già nua nhớ nhớ quên quên
Chỉ nhớ rằng đã
có một thời lòng thật dịu êm
Khi nghe đọc những
bài thơ rất lạ
Nếu mai mốt em
nằm, mắt sâu hồn úa
Anh đừng cho xem
hình chúng ta từ thuở còn xuân
Em sẽ không
nhìn ra em, ra anh
Em sẽ khóc
vì trong tận cùng tri giác
Em biết em và
anh, đã khác
Đặng Lệ
Khánh
Trang Phạm Đình Lân
art2all.net
K viết... Có điều sắp đến Father's Day
mà đôi câu trong bài nghe rất ... ngược
với những dòng ca ngợi Tình Cha !
Ôi chao, cái sự thù hận ông
bố của giống người, như Kafka phán, nó có trước
tất cả mọi thứ ở trên đời. Khủng khiếp lắm, nhất là
ở trường hợp của BHD.
Nhờ đám bạn hữu chưa từng gặp mặt ở trong nước,
như bạn Nhị Linh, Gấu có lại được 1 số bài viết
trước 1975, và mới nhớ ra/biết được, số điện thoại của
BHD, chính là số điện thoại của nhà in ABC,
tức là nhà của BHD.
Nhờ vậy mà có cuộc nói chuyện
độc nhất với BHD, sau khi lấy Gấu Cái.
Chính là qua lần nói chuyện đó,
nhân hỏi thăm anh bạn đồng học y khoa và là
boyfriend, em cho biết, anh ấy được lắm, cứ mỗi lần Sài Gòn
nghe có rục rịch đảo chánh là đã khệ nệ vác
mấy bao gạo tới nhà ông bố vợ tương lai rồi.
Và ngưng 1 hồi lâu, cho Gấu thấm đòn,
em nói tiếp, Gấu không làm được việc đó
đâu.
Cô em gái của cô, mỗi lần ông
bố có việc gì đó, vô phòng, là
bỏ ra ngoài.
Hay cái lần em than, em đi học Gia Long, chỉ
có 1 cái áo dài độc nhất, đến nỗi mấy
con bạn nói sau lưng, con này nhà giầu mà
làm bộ nghèo.
Thê lương lắm.
Một mình ta gọi ông ta là bố là
quá đủ rồi. Ta không thể bắt mi chịu cái nhục
gọi ông ta là bố.
Mi lấy ai mà chẳng được, như em nói với
cô em họ tên Vy....
Em, Bắc Kít, tính toán, lo lắng
đủ thứ hết, có điều em không tính được, là
Gấu lấy Gấu Cái thay vì bất cứ ai mà chẳng được!
Điểm cuốn tiểu sử Milosz. Tin Văn sẽ tóm
tắt bài viết.
GCC nghĩ, Milosz ảnh hưởng từ Simone Weil, như Camus. Nhưng người
điểm cuốn tiểu sử của ông cho rằng Milosz giống [những nhân
vật của] Camus, và người ảnh hưởng lên ông là
Conrad.
Quái thật, vì Conrad là thầy của Graham Greene,
theo GCC và 1 số nhà phê bình văn học.
Miłosz was a good man, but,
like the heroes of the novels of Albert Camus (whom he admired and resembled),
he was no saint. A number of affairs sustained him during his marriage,
and he was absent for much of the upbringing of his sons (one of whom
became seriously mentally ill). With his Lithuanian and Polish background,
and his fluency in many languages (along with Lithuanian and Polish we
must add Russian, French and an English competent enough for him to be
his own translator), he was immune to any strong national or ideological
pressures: he had left-wing sympathies but loathed dictatorship; a freethinker,
he came gradually to see belief in a Christian God as indispensable to
a sense of freedom and purpose. His progress somewhat resembles that of
T S Eliot, but Eliot’s hell was private and Miłosz’s was public. Miłosz
admired Eliot’s poetry, but understandably despised the self-indulgence
of The Cocktail Party.
If anyone influenced Miłosz,
it was Joseph Conrad, and one of the many merits of Andrzej Franaszek’s
biography is that it reminds us of Conrad’s importance as a Polish essayist
and as a guide to how men of goodwill can act in an evil world.
Miłosz did not hate Russia with Conrad’s single-mindedness (as in Under
Western Eyes), but he saw tsarist and Soviet Russia in the same light
as him. Conrad also taught Miłosz, as someone who had likewise experienced
the Heart of Darkness, to see life as an honourable defeat. Perhaps it
would have been helpful if Franaszek had also considered Miłosz’s status
as the senior figure in a trio of poets – the others being the Lithuanian
Tomas Venclova (still alive today) and the Russian Joseph Brodsky – who
emerged as defectors from communist Europe to achieve even greater success
in American exile and who interacted with one another in a way rarely seen
among poets in the 20th century. Miłosz’s sibilant Polish, Catholic background
and Polish romanticism may seem far removed from Venclova’s highly accented
but mellifluous Lithuanian and obsession with Greek mythology, and from
Joseph Brodsky’s frivolous paradoxes and wildly inventive, often song-like
Russian, but these three poets had much in common. They all made the best
of exile, and of the USA and its universities in particular, with gratitude,
eschewing the scorn shown by Nabokov and Solzhenitsyn. They all revered
W H Auden and, like him, persisted with poetry, even though they realised
it doesn’t make anything happen. In that hopeless fight, they are the three
musketeers of verse.
It took
Franaszek ten years to compose this life of Miłosz, and Aleksandra
and Michael Parker another six to translate it. The result is a classic
of the genre: a biography based on interviews and exhaustive documentary
research. It is tolerant, perceptive, beautifully written and utterly
objective. It is also an effective critical study, containing generous
excerpts of Miłosz’s writing that make it almost an anthology of his poetry
and essays (Miłosz’s fiction is perhaps of a lower order). To achieve
greatness in Polish verse is no mean feat: the language lacks the strong
beat of English and Russian and the subtle vowels of French. It suffers,
even more than English, from awkward consonant clusters; its peculiarity
is a monstrous proliferation of sibilants and chuintantes that can
make a poem sound like a scratched wax recording. The poet must achieve,
like the French with alexandrines, rhythmic effects by subtly breaking
up the line and avoiding inflectional rhymes. Miłosz was such a fine observer
of the world and recollector of experience that his imagery alone qualifies
as poetry. His syntax is so clear that the most profound thoughts are immediately
perceptible, so that he is less at the mercy of translation than other poets.
Nếu một mai
( Nguyễn Quốc Trụ)
a2a : Bài thơ Nếu
Một Mai cũng đã được GS Phạm Đình Lân
dịch qua Anh Ngữ :
K
DAVID LAN
PHAM, F.A.B.I.
If Some Day
Vietnamese
poem: Neu Mot Mai
Author: Dang Ngoc Le Khanh
Translation: David Lan Pham, F.A.B.I.
If
some day I’ll forget
Please
remind me.
****
Point
your finger at the sky where the clouds are flowing slowly,
Sprinkle some water to imitate rain
Remind
me of the past old days
On
which we walked under the rain all day long.
****
Give
me a fresh rose,
A
very fragrant one,
Dreamingly
I'll wonder
Whether
the sweet scent comes from the old rose garden.
****
Please
show me the path serpenting around the city center.
Order
familiar foods for me.
Take
me to the street restaurant
Where
we used to drink and enjoy
The
fragrance of fresh lotus tea in a pretty teapot.
****
Read
to me your immense love poems
You
wrote to me
Or
to the ones you know
Without
dedicating to anyone.
I
will not ask you why your source of poetry was so abundant.
In
my old world full of
Remembrance
and forgetfulness,
I'll only remember that
I once had a very sweet and peaceful
time
Listening
to the very exquisite poems of yours
****
If
some day I’ll be in bed.
My
eyes will be hollow; my mind wither.
Don’t
show me the pictures of our youth
I
won’t recognize myself and you.
I’ll
weep for, in the bottom of my perception,
I
know you and I have changed
Nếu Một Mai
Mai mốt nếu em quên
Anh nhớ nhắc dùm
em nhé
Hãy chỉ
lên bầu trời có mây bay nhè nhẹ
Rắc vài
giọt nước làm mưa
Để em nhớ ngày
xưa
Có ngày
mình đi với nhau suốt buổi
Hãy tặng
cho em một đóa hồng phơi phới
Thơm thật là
thơm
Em sẽ bâng
khuâng tự hỏi làn hương
Đến từ một vườn
hồng nào xưa cũ
Hãy chỉ
cho em con đường mòn quanh co lòng phố
Hãy gọi
cho em những món ăn quen
Dắt em đến ngồi
ở quán ven đường
Nơi mình
đã nhâm nhi bình trà thơm mùi
sen mới
Hãy đọc
em nghe lời thơ tình vời vợi
Anh thường viết
cho em
Hay cho những
người anh quen
Không cần
đề tặng
Em sẽ không
hỏi vì đâu mà nguồn thơ lai láng
Trong thế giới
già nua nhớ nhớ quên quên
Chỉ nhớ rằng đã
có một thời lòng thật dịu êm
Khi nghe đọc những
bài thơ rất lạ
Nếu mai mốt em
nằm, mắt sâu hồn úa
Anh đừng cho xem
hình chúng ta từ thuở còn xuân
Em sẽ không
nhìn ra em, ra anh
Em sẽ khóc
vì trong tận cùng tri giác
Em biết em và
anh, đã khác
Đặng Lệ
Khánh
Trang Phạm Đình Lân
art2all.net
K viết... Có điều sắp đến Father's Day
mà đôi câu trong bài nghe rất ... ngược
với những dòng ca ngợi Tình Cha !
Ôi chao, cái sự thù hận ông
bố của giống người, như Kafka phán, nó có trước
tất cả mọi thứ ở trên đời. Khủng khiếp lắm, nhất là
ở trường hợp của BHD.
Nhờ đám bạn hữu chưa từng gặp mặt ở trong nước,
như bạn Nhị Linh, Gấu có lại được 1 số bài viết
trước 1975, và mới nhớ ra/biết được, số điện thoại của
BHD, chính là số điện thoại của nhà in ABC,
tức là nhà của BHD.
Nhờ vậy mà có cuộc nói chuyện
độc nhất với BHD, sau khi lấy Gấu Cái.
Chính là qua lần nói chuyện đó,
nhân hỏi thăm anh bạn đồng học y khoa và là
boyfriend, em cho biết, anh ấy được lắm, cứ mỗi lần Sài Gòn
nghe có rục rịch đảo chánh là đã khệ nệ vác
mấy bao gạo tới nhà ông bố vợ tương lai rồi.
Và ngưng 1 hồi lâu, cho Gấu thấm đòn,
em nói tiếp, Gấu không làm được việc đó
đâu.
Cô em gái của cô, mỗi lần ông
bố có việc gì đó, vô phòng, là
bỏ ra ngoài.
Hay cái lần em than, em đi học Gia Long, chỉ
có 1 cái áo dài độc nhất, đến nỗi mấy
con bạn nói sau lưng, con này nhà giầu mà
làm bộ nghèo.
Thê lương lắm.
Một mình ta gọi ông ta là bố là
quá đủ rồi. Ta không thể bắt mi chịu cái nhục
gọi ông ta là bố.
Mi lấy ai mà chẳng được, như em nói với
cô em họ tên Vy....
Em, Bắc Kít, tính toán, lo lắng
đủ thứ hết, có điều em không tính được, là
Gấu lấy Gấu Cái thay vì bất cứ ai mà chẳng được!
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1/posts/10203522774466442?comment_id=10203529902764645¬if_t=feed_comment¬if_id=1497350471606686
Comments
Em Ngọc ui, nghe bạn mình nói
về tuổi già nè: "Kéo mền che nửa thân
gầy/ chào chân ta nhé từ nay ngủ vùi/...Em
sẽ không nhìn ra em , ra anh/ Em sẽ khóc vì
trong tận cùng tri giác/ Em biết em và anh, đã
khác".
Vì sao đã khác
?
EIN FRAUEN-SCHICKSAL
So wie der Konig auf der Jagd
ein Glas
ergreift, daraus zu trinken, irgendeines, -
und wie hernach der welcher es besaf
es fortstellt und verwahrt als war es keines:
so hob vielleicht das Schicksal,
durstig auch,
bisweilen Eine an den Mund und trank,
die dann ein kleines Leben, viel zu bang
sie zu zerbrechen, abseits vom Gebrauch
hinstellte in die angsrliche
Vitrine,
in welcher seine Kostbarkeiten sind
(oder die Dinge, die fur kostbar gel ten).
Da stand sie fremd wie eine Fortgeliehne
und wurde einfach alt und wurde blind
und war nicht kostbar und war niemals selten.
Rilke
WOMAN'S FATE
Just as the king out on a hunt
picks up
A glass to drink from, anyone at all, -
and afterward its owner puts it away
and guards it like some fabled chalice:
So perhaps Fate, who also thirsts,
at times
Raised a woman to its lips and drank,
whom then a small life, too much afraid
of breaking her, locked away from use
Inside the tremulous glass cabinet
in which its most precious things are kept
(at least the things considered precious).
There she stood strange like something loaned
and became merely old and became blind
and was not precious and was never special.
Số mệnh đờn bà
Thì cứ kể như là
bữa đó, Trụ Vương đi săn bèn cầm 1 cái ly,
từ bất cứ ai đó, lên uống
Thế là kẻ có cái ly bèn
kính cẩn đem cái ly về, nâng niu, coi như chén
thánh
Có lẽ Số Mệnh, cũng có
1 lần khát nước
Bèn nâng người đàn bà lên
môi và uống
Một người đàn bà mới nhỏ nhoi làm
sao
Và, như sợ làm bể, bèn cất nàng
vô 1 nơi, không dám đụng tới nữa
Trong căn lầu vàng, nơi
chứa toàn bảo vật vô giá
Có người đàn bà, đứng đó,
giống như 1 món đồ vay, mượn,
Già mãi đi, và trở nên mù
Chẳng quí giá cái con khỉ gì
nữa, và chẳng đặc biệt cái chi chi!
Note: Duyên Anh có
kể câu chuyện, về một cháu ngoan Bác Hồ, một
bữa được Bác mi lên má, bèn nhất định không rửa
mặt, sợ mất mùi Bác.
Nghe nói, cả tháng sau, cô bé
con quyệt tay lên má, ngửi, khoe với bạn, vưỡn còn
mùi Bác Hồ!
Đi tù cải tạo mút mùa vì
chuyện này!
Hà, hà!
Tập thơ mới nhất của Simic, 2017. Gần như quá
nửa trong đó, đã đăng trên Tin Văn. Post 1 bài,
chưa.
THE MOVIE
My childhood, an old silent movie.
O, winter evenings
When Mother led me by the hand
Into a darkened theater
Where a film had already started-
Like someone else's dream
Into which we happened to drop in-
With
a young woman writing a letter
And pausing to wipe her eyes
In a room looking out on some harbor
And a bird sitting quietly in her cage,
No one was paying any attention to,
Nor to the white ship on the horizon,
Perhaps drawing closer, perhaps sailing away.
It
was an occupied city, I forgot to say.
We trudged our way home
Bundled up heavily against the cold,
Keeping our eyes to the ground
Along the treacherous, dimly lit streets.
Phim
Tuổi thơ của tớ, một cuốn phim câm, cũ
Ôi, những buổi tối mùa đông
Khi mẹ tớ cầm tay tớ
Dẫn vô một rạp hát tối thui
Nơi phim đã khởi sự chiếu đã đời rồi –
Giống như 1 giấc mơ của một ai đó
Mẹ con tớ may rủi thế nào, bèn lọt vô –
Với một người đờn bà ngồi viết thư
Và ngưng, để chùi mắt
Trong 1 căn phòng nhìn ra 1 bến cảng nào đó
Và 1 con chim lặng lẽ đậu trong 1 cái lồng
Chẳng ai để ý bất cứ để ý gì
Cái con tầu trắng ở chân trời thì cũng thế
Chẳng biết nó đi đâu
Có lẽ nó tới gần
Có lẽ nó bỏ đi xa
Đó là 1 thành phố bị chiếm đóng
Tớ xém quên chi tiết thần sầu này
Mẹ con tớ mệt mỏi lết về nhà
Co rúm lại chống lại cái lạnh
Mắt chăm chăm nhìn xuống đất
Dọc theo những con phố lừa lọc, đèn đuốc lù tà
mù
*****
Bài sau đây,
vừa chôm trên tờ NYRB, số June 8, 2017.
Nhớ là đã dịch rồi, mà không làm
sao kiếm thấy!
Sorry, kiếm thấy rồi!
IN THE SNOW
Tracks of someone lost,
Bleakly preoccupied,
Meandering blindly
In these here woods,
Licking his wounds
And crunching the snow
As he trudges on,
Bereft and baffled,
In mounting terror
With no way out,
Jinxed at every turn,
A mystery to himself.
-Charles Simic
Trong tuyết
Dấu vết kẻ nào đó thất
lạc,
Hoang mang chộn rộn
Mù lòa dọ dẫm
Trong rừng này.
Liếm, láp vết thương
Nhai, gậm tuyết
Hắn lê lết
Như mất trí, lầm lạc
Và thế là nỗi ghê
rợn tăng lên
Không lối thoát
Vận rủi ở từng lối ngoặt, ngã
rẽ,
Một bí ẩn với chính hắn.
MY SHOES
Shoes, secret face of my inner life:
Two gaping toothless mouths,
Two partly decomposed animal skins
Smelling of mice nests.
My brother and sister who died at birth
Continuing their existence in you,
Guiding my life
Toward their incomprehensible innocence.
What use are books to me
When in you it is possible to read
The Gospel of my life on earth
And still beyond, of things to come?
I want to proclaim the religion
I have devised for your perfect humility
And the strange church I am building
With you as the altar.
Ascetic and maternal, you endure:
Kin to oxen, to Saints, to condemned men,
With your mute patience, forming
The only true likeness of myself.
Ðôi giầy của tôi
Giầy, bộ mặt bí ẩn của cuộc đời bên
trong của tôi
Hai cái miệng không có răng, cách nhau
một khoảng
Hai miếng da loài vật đã bị phân huỷ từng phần
Có mùi ổ chuột
Ông anh bà chị của tôi đã
chết ngay khi ra đời
Vẫn tiếp tục sự hiện hữu ở trong mi
Hướng dẫn cuộc đời của tôi
Về một sự ngây thơ trong sạch không làm
sao hiểu được của họ
Sách thì dùng làm gì
đối với tôi?
Một khi mà, ở nơi mi, có thể đọc
Thánh Kinh của đời tôi ở trên mặt đất
Và, quá thế nữa, những điều chưa tới, chưa xẩy
ra?
Tôi muốn tuyên bố một tôn giáo
do tôi làm ra vì sự khiêm tốn tuyệt
hảo của mi,
Và một ngôi nhà thờ lạ kỳ tôi đang
xây cất
Với bạn, là bàn thờ
Khổ hạnh, và mẫu tử, bạn như thế, đời đời
Bà con với bò (1) với Thánh Thần, với
những con người bị kết án
với sự kiên nhẫn câm nín của bạn, tạo thành
cái thực giống độc nhất với cái tôi của
tôi.
(1)
Bài thơ này, post lại trên FB, được
1 vị độc giả chỉ cho thấy, oxen, bò đực, GCC lộn thành dưỡng
khí, oxygen.
Đã sửa.
Và tiện thể dịch lại 1 số câu, bỏ quên, hay dịch
sai.
Tks TN. NQT
Note: Bài thơ dưới đây, cũng có trong tập
thơ mới mua.
Lạ, là bài này ám ảnh GCC, liền ngay sau
khi đọc trên báo giấy, ở tiệm sách, và đúng
là THNM, nó làm GCC nhớ đến 1 cas, 1 ông sĩ
quan Ngụy, đi cải tạo, bà vợ đem mấy đứa con tới gửi 1 gia đình
1 người bạn thân của chồng, nhờ trông nom giùm, và
bà sau đó, biến mất, đúng hơn, vượt biên, cùng
với bồ.
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1
Kẻ biến mất
Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào
lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người hàng
xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.
Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và nét
mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại sao, khi được
hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng một điều gì
bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có một.
Charles Simic
The New Yorker April 7, 2014
PROLOGUE
Jorge
Luis Borges
The best event recorded in universal
history happened in Ancient Greece some 500 years before
the Christian era, namely, the discovery of dialogue.
Faith, certainty, dogmas, anathemas, prayers, prohibitions,
orders, taboos, tyrannies, wars and glory overwhelmed
the world while some Greeks acquired the peculiar habit of
conversation-how, we'll never know. They doubted, persuaded,
dissented, changed their minds, postponed. Perhaps their mythology
helped them, which was, as with Shinto (1), an accumulation
of vague fables and variable cosmogonies. These scattered conjectures
were the first root of what we call today, perhaps pretentiously,
metaphysics. Western culture is inconceivable without these few
conversing Greeks. Remote in space and time, this volume is a muffled
echo of those ancient conversations. As with all my books, perhaps
with all books, this one wrote itself. Ferrari and I tried to let our
words flow through us, perhaps despite ourselves. We never talked with
any end in view. Those who have read the manuscript assure us that the
experience was pleasing. I hope our readers will not refute that
generous opinion. In the prologue to one of his 'dreams' Francisco
de Quevedo wrote: 'May God free you, reader, from long prologues
and weak adjectives.'
12 October 1985
Sự kiện thần sầu được ghi nhận trong lịch
sử thế giới, xẩy ra vào thời kỳ Hy Lạp Cổ Đại, cỡ chừng 500 năm
trước thời đại Ky Tô, là, sự khám phá ra cái
thú lèm bèm, tản mạn bên ly cà phê,
chát chiếc, buôn chuyện buôn chiếc, the discovery of
dialogue, khám phá ra đối thoại.
Niềm tin, sự chân xác, giáo điều, nguyền rủa,
cầu nguyện, cấm đoán, lệnh lạc, bạo chúa, chiến tranh, chiến
thắng… tràn lan khắp thế gian, khi mà, một vài tên
Hy Lạp có được cái thói quen đặc dị, là, trò
chuyện.
Như thế nào mấy tên này có được… làm
sao biết, chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết. Họ nghi ngờ, dẫn dắt,
dụ khị, ly khai, chống đối, đổi ý, lần lữa. Có thể, huyền
thoại học của họ giúp họ, nghĩa là, như với Shinto, một
tích tụ những câu chuyện ngụ ngôn mơ hồ, và
một vũ trụ học thay đổi lúc này thế này, lúc
khác thế khác.
Những phỏng đoán tản mạn, rải rác này, là
cái gốc rễ đầu tiên của điều mà bây giờ chúng
ta, một cách phách lối, kiêu căng, gọi là siêu
hình học.
Văn hóa Tây Phương sẽ không thể có được,
không thể nhận thức được, nếu không có mấy tên
Hy Lạp cà chớn, ưa buôn chuyện đó.
Thật xa cách, cả về thời gian lẫn không gian, cuốn sách
này là tiếng vang ú ớ, tắt nghẹn, của những cuộc
lèm bèm “xưa quá rồi Diễm ơi” đó.
Và, như tất cả những cuốn sách của tôi, có
lẽ như tất cả mọi cuốn sách, cuốn này tự viết, chính
nó.
(1)
Shinto
When sorrow lays us low
for a second we are saved
by humble windfalls
of mindfulness or memory:
the taste of a fruit,
the taste of water,
that face given back
to us by a dream,
the first jasmine of
November,
the endless yearning
of the compass,
a book we thought was
lost,
the throb of a hexameter,
the slight key that opens
a house to us,
the smell of a library,
or of sandalwood,
the former name of a
street,
the colors of a map,
an unforeseen etymology,
the smoothness of a filed
fingernail,
the date we were looking
for,
the twelve dark bell-strokes,
tolling as we count,
a sudden physical pain.
Eight million Shinto
deities
travel secretly throughout
the earth.
Those modest gods touch
us-
touch us and move on.
-H.R.
BHD
Khi nỗi buồn làm chúng ta buồn
Trong 1 thoáng chốc, thì cứ phán đại, trong 1
giây
Chúng ta được kíu vớt
Nhờ thư giãn - cái đầu đột nhiên thoáng
ra - hay hồi nhớ:
Vị trái cây, vị nước
Một khuôn mặt, nhờ giấc mơ, mang trở lại
Mùi hoa nhài đầu tiên của Tháng Một
Cơn khát khao vô cùng của cái la bàn
Cuốn sách tưởng mất
Cái hồi hộp của 1 tiết thơ
Cái chìa khoá nhỏ nhắn mở căn nhà cho
chúng ta
Mùi tiệm sách, hay thư viện, hay mùi đôi
dép, đôi guốc
Cái tên cũ của 1 con phố
Màu sắc cái bản đồ
Một từ nguyên đếch làm sao mà đoán trước
được
Sự mềm mại của cái móng tay, vừa được gọt tỉa
Cái ngày tháng, hay cái hẹn, mà
chúng ta kiếm tìm, hay chờ đợi
Mười hai cú chuông gọi hồn ai
Chúng gõ như là chúng ta đếm
Một cú đau đánh nhói một phát vào
cơ thể
Vào đúng chỗ nhạy cảm, thí dụ vậy.
Tám triệu vì thánh nữ như thế đó
Du lịch, trong bí mật, qua trái đất
Những vì thánh nữ đó
Cho phép bạn cầm tay, một trong họ
Hay, một trong họ, cầm tay bạn, và, đôi chúng
ta
Cứ thế mà đi hết thế gian, đi hết cuộc đời này.
*******
BURGIN: You really love Homer, don't you?
BORGES: No, I love The Odyssey, but I dislike The Iliad:
In The Iliad, after all, the central character
is a fool. I mean, you can't admire a man like Achilles, no? A man who
is sulking all the time, who is angry because people have been personally
unjust to him, and who finally sends the body of the man he's killed to
his father. Of course, all those things are natural enough in those tales,
but there's nothing noble in The Iliad ...
Well, you may find, I think there may be two noble ideas in The
Iliad. First, that Achilles is fighting to subdue a city which he'll
never enter, and that the Trojans are fighting a hopeless battle because
they know that ultimately the city will fall. So there is a kind of nobility,
don't you think so? But I wonder if Homer felt it in that way?
BURGIN: If I might ask you about one more parable, "Parable of the
Palace."
BORGES: Well, the "Parable of the Palace" is really the same parable,
the same kind of parable as "The Yellow Rose" or "The Other Tiger." It's
a parable about art existing in its own plane but not being given to deal
with reality. As far as I can recall it, if the poem is perfect then there's
no need for the palace. I mean if art is perfect, then the world is superfluous.
I think that should be the meaning, no? And besides, I think that the poet
never can cope with reality. So I think of art and nature, well, nature and
the world as being two different worlds. So I should say that the "Parable
of the Palace" is re- ally the same kind of thinking as you get in a very
brief way in "The Yellow Rose" or perhaps in "The Other Tiger." In "The Other
Tiger" the subject is more the insufficiency of art, but I suppose they
all boil down to the same thing, no? I mean you have the real tiger and
"el otro tigre," you have the real palace, and "el otro palacio," they stand
for the same thing-for a kind of discord, for the inability of art to cope
with the world and, at the same time, the fact that though art cannot repeat
nature and may not be a repetition of nature, yet it is justified in its
own right.
Borges: The Last Interview
Ông thực mê Homer?
Borges: Không. Tớ mê The Odyssey nhưng đếch mê
The Iliad. Trong The Iliad, nói cho cùng,
nhân vật chính là 1 tên khùng. Bạn làm
sao mà mê nổi Achilles? Một tên đàn ông
tối ngày hờn rỗi, anh ta cáu kỉnh bởi là vì mọi
người không công bằng đối với anh ta, và sau cùng
anh ta gửi xác, kẻ mà anh ta làm thịt, cho ông
bố của người này. Lẽ dĩ nhiên những điều này thì
cũng “vô tư”, trong những câu chuyện này, nhưng đếch có
cái gọi là phong nhã trong The Iliad.
Ui chao, THNM, GCC tự hỏi, Bắc Kít có biết đến từ "phong
nhã" không nhỉ?
Hà, hà!
Nhà Ngụy, chúng chiếm. Ngụy, tống vô Trại Tù.
Vợ Ngụy, chúng hiếp. Con cái Ngụy, cấm không cho đi
học, lỡ đi học rồi, cấm vô đại học.
Đúng là chưa có giống nào dã man
như... Bắc Kít!
Lại hà, hà!
Nhưng bạn có thể kiếm thấy hai cú phong nhã trong
The Iliad.
Achilles chiến đấu để chiến thắng 1 thành phố mà anh
ta sẽ không bao giờ vô, và những người dân thành
Troy thì chiến đấu một trận đánh mà họ biết trước,
vô phương thắng.
Như thế có thể coi là phong nhã chứ?
Ui chao quá phong nhã là đằng khác.
Minh Cồ lên bộ đồ viá, đợi Bắc Kít, để bàn
giao.
Bùi Tín phán, mày còn cái
đéo gì mà bàn giao, chúng ông lấy
sạch rồi!
Cái
sức mạnh Bắc Kỳ, lạ lùng thay, như Simone Weil chỉ ra, cũng y chang,
của người Hy lạp, là từ đất mà ra: Chúng ta chỉ là
những nhà đo đất, chia ruộng, tạo bờ. Người Hy lạp đã học
đức hạnh nhờ đo đất. [Les Grecs furent d'abord géomètres
dans l'apprentissage de la vertu].
Cái giây phút mà sức mạnh biến con người
thành một vật, đúng là lúc ở ngưỡng cửa thành
Troie, y chang Sài Gòn trước biển máu. Trong Troie,
không có người đẹp Hélène, như những vị thầy
tu sau đó cho biết. Hélène khi đó ở Ai Cập.
Nhưng cần gì chuyện đó. Vào lúc đó,
đoàn quân Hy Lạp biết rất rõ một điều, Sài Gòn
- Troie đang quì trước họ:
De toutes manières,
ce coir-là, les Grecs n'en veulent plus:
"Qu'on n'accepte à présent
ni les biens de Pâris,
Ni Hèlène; chacun voit, même le plus ignorant,
Que Troie est à présent sur le bord de la perte."
Il dit; tous acclamèrent parmis les Achéens.
Thế là chúng muốn
tất cả. Tất cả sự giầu có của Sài Gòn, [Miền Bắc nhận
hàng, như là chiến lợi phẩm, comme un butin], tất cả những
tòa lâu đài, tất cả những đền đài, tất cả những
căn nhà, như là tro bụi, tất cả những phụ nữ trẻ con như là
nô lệ, tất cả những người đàn ông như là những
xác chết...
The Limit
The silent friendship of the moon
(I misquote Virgil) has kept you company
since that one night or evening
now lost in time, when your restless
eyes first made her out for always
in a patio or a garden since gone to dust.
For always? I know that someday someone
will find a way of telling you this truth:
"You'll never see the moon aglow again.
You've now attained the limit set for you
by destiny. No use opening every window
throughout the world. Too late. You'll never find
her."
Our life is spent discovering and forgetting
that gentle habit of the night.
Take a good look. It could be the last.
-A.S.T.
J.L. Borges
Giới Hạn
Tình bạn câm lặng của trăng
(Tớ trích lộn Virgil) là bạn đường của
mi
Kể từ đêm, hay buổi chiều, nay mất biệt với thời
gian
Khi mắt mi nhìn nàng xuất hiện, cho miên
viễn, cho hằng hằng
Ở nơi sân, hay ngoài vườn, bi giờ thì
cũng đã đi ngủ cùng với bụi.
Cho miên viễn, hằng hằng?
Tớ [Borges] biết, một ngày đó, một người
nào đó
Sẽ kiếm ra một cách nào đó
Để biểu cho mi, tên Gấu Cà Chớn, biết, sự
thực này:
Mi sẽ chẳng bao giờ được nhìn lại em của mi một
lần nữa đâu
Như cái lần mi được ngồi với em của mi
Ở cái quán cà phê Starbucks
ở Little Saigon.
Đời của mi đã được sắp đặt, tới cái giới
hạn như thế, đối với mi
Bởi số mệnh.
Không 1 cái cửa sổ nào được mở ra
cho mi
Ra thế giới
Quá muộn, quá trễ rồi
Chẳng bao giờ mi kiếm được nàng
Đời của chúng ta thì là được dùng
vào việc
Khám phá, và quên lãng
Cái buổi sáng dịu dàng hôm
đó
Hãy nhìn 1 phát đi
Nó sẽ là lần cuối cùng.
Kafka Could Be Part of
Human Memory
Kafka có thể là phần hồi ức con người
PROLOGUE
Jorge Luis Borges
The best event recorded in universal
history happened in Ancient Greece some 500 years before the Christian
era, namely, the discovery of dialogue. Faith, certainty, dogmas,
anathemas, prayers, prohibitions, orders, taboos, tyrannies, wars
and glory overwhelmed the world while some Greeks acquired the peculiar
habit of conversation-how, we'll never know. They doubted, persuaded,
dissented, changed their minds, postponed. Perhaps their mythology
helped them, which was, as with Shinto (1), an accumulation
of vague fables and variable cosmogonies. These scattered conjectures
were the first root of what we call today, perhaps pretentiously,
metaphysics. Western culture is inconceivable without these few conversing
Greeks. Remote in space and time, this volume is a muffled echo of
those ancient conversations. As with all my books, perhaps with all books,
this one wrote itself. Ferrari and I tried to let our words flow through
us, perhaps despite ourselves. We never talked with any end in view.
Those who have read the manuscript assure us that the experience was pleasing.
I hope our readers will not refute that generous opinion. In the prologue
to one of his 'dreams' Francisco de Quevedo wrote: 'May God free you,
reader, from long prologues and weak adjectives.'
12 October 1985
(1)
Shinto
When sorrow lays us low
for a second we are saved
by humble windfalls
of mindfulness or memory:
the taste of a fruit, the taste of water,
that face given back to us by a dream,
the first jasmine of November,
the endless yearning of the compass,
a book we thought was lost,
the throb of a hexameter,
the slight key that opens a house to us,
the smell of a library, or of sandalwood,
the former name of a street,
the colors of a map,
an unforeseen etymology,
the smoothness of a filed fingernail,
the date we were looking for,
the twelve dark bell-strokes, tolling as we count,
a sudden physical pain.
Eight million Shinto deities
travel secretly throughout the earth.
Those modest gods touch us-
touch us and move on.
-H.R.
TOMAS TRANSTROMER (b.
1931)
After Someone's Death
Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.
You can still shuffle along on
skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.
It is still beautiful to feel
your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.
Translated
from the Swedish by Robin Fulton
Sau Cái Chết của Ai Đó
Một lần, có 1 cú
sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái
đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm
những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh
phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.
Bạn có thể trượt băng
trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá
năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé
ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái
lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.
Thì vưỡn đẹp như mơ, cảm
thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì
lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương,
có thịt.
Tên samurai thì là cái
chó gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.
Note: Bài thơ thần
sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác
thân nào còn, linh hồn thì cũng có
khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu
nơi miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng
ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ.
FERRARI. But we are told that we cannot
make a faithful interpretation of our times without Kafka's help.
BORGES. Yes, but Kafka is more important than our
times. It's lamentable that Kafka has to survive this period and
its simplifications. Of course, we endure this century without
much pride. With a little nostalgia for the nineteenth century,
which also feels like nostalgia for the eighteenth century. Perhaps
Oswald Spengler was right about the decline that we are nostalgic
about-obviously, we can talk of mon vieux temps and perhaps we are right.
There's a reference to this in Jorge Manrique's Coplas but it's ironic:
'As it seems to us, any time in the past / was better.' 'As it seems to
us' followed by 'any time in the past was better'-yes, that's what Schopenhauer
said. We see the past as better but we also see it as something that
has stopped. We are no longer actors but spectators. In what is called
the present we are actors, there's an idea of responsibility and, associated
with it, an idea of danger. The past, even if it was terrible ... we
can even think of Rosas' times nostalgically because, although it was
terrible, it has passed. It has been fixed in time and so have its terrible
images. On the other hand, the present can threaten us, just as life threatens
us every second we're alive.
FERRARI. That's right and this was another point I
wanted to mention with regard to Kafka. A writer you know wrote
a very significant essay on Kafka, which I recently glanced at. I
am referring to Carmen Gandara.
BORGES. I knew her and have fond memories of her.
I read a story of hers, 'The Inhabited'. I'm not sure but isn't
it similar to Julio Cortazar's 'House Taken Over'? Or is the theme
different?
FERRARI. The scope is different. She refers to Kafka
and says something that struck me-that throughout his life, Kafka
sought a God 'absent' in our times.
BORGES. Yes, I have been asked that many times. I
do not understand that question.
FERRARI. She means that, despite everything, Kafka
might have had a religious spirit.
BORGES. Yes, but a religious spirit need not believe
in a personal god. For example, the Buddhist mystics do not believe
in a personal god but that doesn't matter. The idea of believing
in a personal god is not a necessary factor in a religious spirit.
The pantheists are an example or Spinoza-he was essentially mystical
and he said 'Deus sive natura,' God or Nature. The two ideas were identical
for him. That's not the case for a Christian because Christianity
needs to believe in a personal god, in a god who judges your acts.
In Emerson's Representative Men, the mystic is Swedenborg. He didn't
believe in a personal god but he chooses between Heaven or Hell. After
dying- he actually says this-Man finds himself in a strange region and
is addressed by unfamiliar people; some attract him and some do not.
He goes along with those who do. If he is an evil man, then those who
attract him are devils. Because he will be more at ease with devils than
with angels. And if he is a just man, he will be at ease with angels.
He chooses his company accordingly. Once he's in Heaven or Hell, he doesn't
want to be anywhere else because he will suffer too much. Swedenborg believed
in a personal god, that's certain. But the pantheists, in general, didn't.
What matters is that there's an ethical proposition in the universe. If
there is an ethical proposition, and if you feel it, then you have a religious
mind. And I believe that we should try to believe in an ethical proposition,
although it doesn't exist. But in the end, it depends on us, doesn't it?
JORGE LUIS BORGES • OSVALDO FERRARI
Nhưng chúng ta được biết là
chúng ta không thể có được cú diễn giải
trung thực về thời của chúng ta nếu không có
sự giúp đỡ của Kafka.
Đúng, nhưng K quan trọng hơn thời
của chúng ta. Thật thê lương, K phải sống sót thời
kỳ này, và những giản lược của nó. Lẽ dĩ nhiên,
chúng ta chịu đựng cái thế kỷ này mà
chẳng có lấy 1 tí tự hào, Với tí hoài
nhớ thế kỷ 19, mà nó thì lại có tí
hoài nhớ thế kỷ 18. Có lẽ Oswald Spengler có
lý về cái sự thoái trào mà chúng
ta hoài nhớ - hiển nhiên là chúng ta có
thể nói về cái thời cũ kỹ [trước 1975] của chúng
ta, và chúng ta có lý, hơn lũ VC, tất nhiên.
Bất cứ cái chó gì dính dáng tới
trước 1975, thì đều bảnh tỏng cả!
Có em Carmen Gándara
đi 1 đường tiểu luận thú vị về Kafka, tôi mới đọc gần
đây. Em phán 1 phát cực lạ về Kafka: Xuyên
suốt đời mình, Kafka tìm kiếm một Thượng Đế “vắng mặt”
của thời của chúng ta.
Borges: Tôi bị hỏi hoài về vụ này,
mà thực sự không hiểu.
Ý của tôi là,
mặc dù mọi chuyện, Kafka có thể là 1 tín
hữu, hay có 1 tinh thần tôn giáo.
Borges: Đúng như thế, nhưng tinh thần tôn
giáo thì không cần phải tin vào một
ông trời cá nhân. Thí dụ tín hữu
Phật Giáo đâu có tin vào một ông
Phật có hình hài giống… chúng ta, đúng
không, và chuyện đó đâu cần. Cái
ý tưởng tin vào 1 ông trời cá nhân thì
không phải là 1 yếu tố cần thiết trong tinh thần tôn
giáo. Những kẻ phiếm thần, hay Spinoza – ông này
thì thực là bí ẩn và ông phán,
“Deus sive natura”, Trời hay Thiên nhiên. Hai thứ đó
là một đối với ông ta.
Tribute TTT
Bếp Lửa trong Văn chương
[xuất hiện lần đầu trên
TSVC, 1972]
Cái ý, "trong 1 vài
trường hợp, học trò khám phá ra thầy", Gấu
đọc, từ 1 anh Tẩy, trên 1 tờ báo Tẩy.
Phải đến khi ra được hải ngoại, mới biết, của
Borges.
Những tiền thân
của Kafka
Nếu tôi không lầm, những
mẩu đa dạng tôi vừa kể, giống Kafka; nếu tôi không
lầm, tất cả chúng, chẳng cái nào giống cái
nào. Sự kiện thứ nhì này có ý
nghĩa hơn. Trong từng bản văn, chúng ta nhận thấy, hoặc
nhiều hoặc ít, phong cách riêng của Kafka,
nhưng nếu Kafka chưa từng viết một dòng, chúng ta
sẽ không nhận ra tính chất này; nói một
cách khác, chúng chưa hề hiện hữu. Bài
thơ "Fears and Scruples" của Browning tiên liệu tác phẩm
của Kafka, nhưng cái đọc Kafka của chúng ta rõ
ràng làm sắc bén, và làm sai
lệch cái đọc bài thơ. Browning đã không
đọc nó như bây giờ chúng ta đọc. Trong tự vựng
của những nhà phê bình, từ "tiền thân" (precursor)
không thể thiếu được, nhưng nên tháo gỡ mọi trò
luận chiến hoặc ganh đua. Sự thể là, mỗi người viết sáng
tạo ra những tiền thân của riêng người đó. Tác
phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá
khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai.(2) Trong tương quan
này, điều không quan trọng, đó là đặc
nét, hay đa nét, của những người trong cuộc. Tính
tiền thân của những huyền thoại tối tăm và những định
chế tàn bạo, ở Kafka thời đầu, trong Betrachtung, ít
chất Kafka hơn, nếu so với Browning và Lord Dunsany.
Nhà văn nhà thơ Mít, tên
nào tên đó, chưa từng có, chỉ 1 tên,
cho biết, Thầy của hắn, là ai. Chính là
do không có Thầy, và không hiểu Thầy,
tức là người đi trước mình, là như thế nào,
nên cõi văn Mít ngày 1 bại hoại, theo GCC.
TTT, 1 cách nào đó, cũng không có
Thầy, nhưng ông cho biết ảnh hưởng của 1 số nhà văn
tiền chiến ở nơi ông, trong số đó, có Nguyên
Hồng của Bỉ Vỏ, nhớ đại khái. Tác giả ngoại, là
Malraux
Camden, 1882
The smell of coffee
and the newspapers.
Sunday and its lassitudes.
The morning,
and on the adjoining
page, that vanity-
the publication of
allegorical verses
by a fortunate fellow
poet. The old man
lies on a white bed
in his sober room,
a poor man's habitation.
Languidly
he gazes at his face
in the worn mirror.
He thinks, beyond
astonishment now: that man
is me, and absentmindedly
his hand
touches the unkempt
beard and the worn-out mouth.
The end is close.
He mutters to himself:
I am almost dead,
but still my poems retain
life and its wonders.
I was once Walt Whitman.
-A.R.
Bài thơ này,
tình cờ Gấu lại thấy nó, trong Borges Tám
Bó. Post sau đây.
Borges tưởng mình đang chết, khi
tưởng mình là Whitman, rồi Gấu chôm luôn,
tưởng Whitman là TTT, rồi tưởng tượng tiếp, không
phải TTT, mà là thằng em của ông, GCC, đang
chết!
BARNSTONE: Would you be willing to comment
on the poem you wrote about Whitman?
BORGES: Well, I don't recall the poem. Go
ahead, I am very curious. Why don't you read it in the English
translation where it will be greatly bettered? I know you will
be very disappointed. That poem is no good.
BARNSTONE:
CAMDEN 1892
The smell of coffee and of newspapers.
Sunday and its boredom. It is morning.
Some allegorical verses are adorning
The skimmed over page: the vain pentameters
Of a happy colleague. The old man lies
Stretched out and white in his respectable
Poor man's room. Lazily he fills
The weary mirror with his gaze. His eyes
See a face. He thinks, now unsurprised:
that face
Is me. With fumbling and he reaches out
To touch the tangled beard and ravaged mouth.
The end is not far off. His voice delares:
I am almost gone, and yet my verses scan
Life and its splendor. I was Walt Whitman
[Trans. Willis Barnstone]
BORGES: It's quite good, eh? Not too good
but quite good, as far as it goes. That's the human Whitman
only, not the myth.
BARNSTONE: Whitman thought of himself as
a prophetic figure, writing a kind of Bible.
BORGES: Well, he did!
BARNSTONE: Frequently in your stories and
poems, you don't write a Bible, but you aspire to secrets,
to enigmas, to a single word.
BORGES: I am constantly being baffled by
things.
BARNSTONE : You go different routes. Your
work gets simpler and simpler, fewer and fewer words.
BORGES: Yes, I agree.
BARNSTONE: If Whitman could throw in an
adjective, he did so.
BORGES: He did only too often, I should
say.
BARNSTONE: His work might have been called
Broad Leaves of Grass, because he usually
added words to intensify, often not with the best results. What
do you think of the fact that this poet, who is marvelous and uneven,
manages-
BORGES: But he is marvelous and uneven.
Silvina Ocampo said to me that a poet stood in need of bad verses.
If not, the others would not stand out. We were commenting on
Shakespeare. I said he has many bad verses. And she said: "That's
all to the good. A poet should have bad verses." Only secondary
poets write only good verses. Out of politeness you should have bad
verses.
BARNSTONE: Eliot said there should be weaker
words among the stronger ones so that the lines do not become
crabbed. But among the hack works which you claim you have done
was to translate a book of Walt Whitman's poetry. You say that
Walt Whitman was your poet and meant so very much to you. What did
he teach you?
BORGES: He taught me to be straightforward.
That was the one lesson I learned from him. But teaching,
after all, is not important. The fact is that I was overwhelmed
by emotion, that I knew pages and pages of his work by heart that
I kept on saying them to myself in the day und in the night.
I think that what’s important is the way a man is moved when he reads
poetry. If a man doesn't feel poetry physically, then he doesn't
feel poetry at all. He had better become a professor or a critic.
I think of poetry as being a very personal and a very important experience.
Either you feel it or you don't. If you feel it, you don't have to
explain it.
Nếu có thể, xin ông đi 1 cái
còm, về bài thơ của ông, về Whitman
Quán Chùa, trước 1975
Mùi cà
phê và tờ nhựt trình
Chủ nhật mệt
Buổi sáng
Và trên
trang báo kế bên
Là cột thơ vô
thường, hư danh
Của 1 nhà thơ
may mắn, một đồng nghiệp
Anh già nằm
Trên cái
giuờng trắng,
Trong căn phòng
khiêm tốn
Nơi ăn chốn ở của 1 người
đàn ông nghèo.
Uể oải, ông nhìn
mặt mình trong tấm gương, cũng bệ rạc, mệt
nhoài như ông
Ông già
nghĩ, không ngạc nhiên cái con
mẹ gì hết:
Tên
đàn ông này, là tớ
Và lơ đãng,
ông lấy tay của mình sờ bộ râu
của mình
Và cái
miệng, cũng của mình
Một cái miệng
tan hoang, bị thời gian ăn mòn đến nhão
nhẹt, mếu máo.
Tới giờ lên tầu
rồi, cha nội!
Ông lầm bầm với
chính mình:
Tớ hầu như ngỏm củ tỏi.
Nhưng thơ của tớ, còn
Nào bia mộ, nào
bi khúc, nào,
Ôm em bữa nay
Mà sẽ nhớ hoài,
những bữa khác
Trong thơ của tớ
Đời và những kinh
ngạc, bỡ ngỡ của nó, sẽ còn hoài.
Tớ, đã từng có
1 thời,
Là nhà
thơ Thanh Tâm Tuyền!
Borges: Cũng không đến nỗi nào,
phải không bạn. Đây là 1 Whitman con người,
không phải 1 huyền thoại
Ông ta nghĩ về ông ta như là
1 hình tượng tiên tri, viết 1 thứ Thánh
Kinh
Borges: Quả có thế!
Thường ra thì trong truyện ngắn và
thơ, ông - Borges - không viết 1 cuốn Thánh
Kinh, nhưng thèm tới được bí mật, bí ẩn, tới
được một từ.
Borges: Tôi thì cứ bị luẩn quẩn,
với những sự đời.
Ông đi những con đường khác. Tác
phẩm của ông giản dị, ngày càng giản dị,
ngày càng ít từ ngữ.
Borges: Tôi đồng ý với bạn.
Nếu Whitman thích ném ra 1 tính
từ, là ông ta ném liền.
Borges: Ông ta thường làm như vậy.
Tác phẩm của ông ta có lẽ
nên được đặt tên là Bướm Rộng, thay vì,
Bướm, (1) bởi là vì ông ta thường cho thêm
nhiều từ, để nhấn mạnh, để làm cho nó hoành
tráng, và kết quả thì không được như ý
của ông ta.
Ông có nghĩ rằng, nhà thơ,
quả là thần sầu, quả là không giống ai này,
có thể thay đổi, sửa đổi, gia giảm…
Borges: Nhưng ông ta “thì” tuyệt
vời, thì “số 1”. Silvina Ocampo có lần nói
với tôi, một nhà thơ bảnh tỏng, là vì
những câu thơ dở của người đó. Ông ta cần chúng.
Nếu không có những câu thơ dở, là đám
kia té bổ nhào liền. Lấy trường hợp Bùi Giáng,
hay Shakespeare, hai ông này thì đầm đìa
những câu thơ dở như hạch. [GCC nhớ Thầy Thục chê Bùi
Giáng không biết làm thơ, và nếu biết
làm thơ, thì làm toàn thơ dở!] Tôi
[Borges] nói, ông ta có rất nhiều câu
thơ dở, và bà ta bèn nói, phải như thế
mới được, không thì bỏ mẹ. Một nhà thơ nên
có những câu thơ dở. Chỉ những nhà thơ hạng nhì
mới làm toàn những câu
thơ bảnh!
Nhớ nhé, ông GNV, lâu lâu,
vì lịch sự, out of politeness, ông nhớ làm
thơ dở cho độc giả TV thưởng thức nhe!
Xin lĩnh ý!
NQT
(1)
Rừng Lá Thấp, "như lính giữa rừng
yêu lá thấp".... Liệu "Yêu Lá Thấp",
"Lá Cỏ", "Leaves of Grass", có chung 1 ẩn dụ?
Nguyen
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/trinh_cong_son_tuong_niem.html
Theo Gấu, cái tay đọc lời bi
ai [elegy] tới nhất, về TCS là tay Le Huu Khoa, khi lọc ra, chỉ một
lời nhạc của TCS:
Chim thiêng hót
lời mệnh bạc.
Đúng là cả cuộc
đời của TCS gói ghém ở trong câu này.
Trinh Cong Son
L'oiseau sacré chante le destin tragique
Connu
avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du
Vietnam
actuel, Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante «
les rêves en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte
l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère
de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à
pas sa méditation sur la souffrance, ses textes construits autour
d'un lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond
de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme,
du taoïsme. L'évidence esthétique du texte fait corps
avec l'inexistence de l'être.
Được biết đến cùng với Phạm Duy như là
một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam
hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như
là một nhà thơ và hát "những giấc mơ
điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông
kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về
sự phù du của tình yêu và cái
đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của
mình về sự khổ đau, những bài ca của ông xoay
quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi
cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của
những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo
và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài
ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.
Le Huu
Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]
Tuyệt!
SN_GCC_2017
Bài viết bên lề một cuốn sách
"Trăng ơi thơ ấu mãi"
Note:
Link broken, just restored
NCK đi tù VC, có thời
gian cùng trại tù với TTT. Anh là
người có thể là, độc nhất, được TTT cho coi
những bài thơ tù, mà, như ông viết,
bẽn lẽn như hồi mới bắt đầu làm thơ, không dám
đưa cho ai coi....
Tưởng nhớ TTT
Nguyễn Chí Kham
Người Gác Cổng
TTT
Note: Đây là truyện ngắn
"cực" TTT, ở cái chất đực, "manly", “cẩm” mấy em thèm
súng vs đàn ông thèm bướm!
Gần như không 1 nhà văn Mít
nào viết được như vậy.
Nếu có, thì là thứ
nhơ bửn, thuộc loại “porno”, đực cũng như cái.
Gấu đã từng chỉ ra “đặc tính,
yếu tố, gia vị… ” này, trong bài viết về DNM.
Trong Ung Thư, là cái cảnh
Thạch, trước khi rời Hà Nội, đi tìm Liên,
cô bạn gái, đã có chồng, 1 thằng
ghiền, không thấy, đứng trong ngõ vắng, nhớ Liên
quá, cất tiếng hú, như chó điên, chó
dại, hay cảnh cũng Thạch, nghe thằng chồng ghiền hành hạ
vợ, khảo tiền đi hút, bèn đi tìm, gặp, lôi
ra đường, tẩn cho 1 trận nhừ tử...
Dương Nghiễm
Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động
Trong 1 truyện ngắn của GCC, Cõi
Khác, cũng có 1 cảnh tương tự như trong Ung Thư. Nhưng
của Gấu, là thực sự xẩy ra, và có tí
khác, thay vì, Gấu hú lên như chó
dại, thì là tiếng mèo kêu thảm thiết...
và, khi về già, ngẫm lại, tự hỏi, hay là TTT,
qua nhân vật Thạch, “thế thân” của ông, cũng đã
từng gặp đúng 1 cas, như vậy?
Cõi khác
Ôi chao, Gấu đó ư?
Hình do cô bạn, đứng từ trong nhà,
chụp ra.
Còn 1 tấm, Gấu đứng bên ngoài,
chụp vô, cô mặc áo trắng, ngắn tay, bỏ lại
Sài Gòn, không đem theo khi bỏ chạy quê
nhà
Sau cùng phải cảm ơn cô
bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình.
Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo
không còn sợ hãi cái bóng của
chính nó. Những lần từ biệt cô trên đường
trở về, thành phố những đêm run rẩy chờ đợi những
đợt pháo kích bất thần giáng xuống. Những ngã
tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai. Có những khoảng
đường phải xuống xe dẫn bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng
đường cấm phải đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt
nhạt của những ngọn đèn đường, nhìn thấy những mũi súng
đen sâu thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết
mọi nỗi bi thương, nếu chẳng may sinh ra mà không được
gặp cô bạn, nếu chẳng may bị cô hất hủi, nói không,
nói không thể yêu, không thể hiểu được tình
yêu là gì. Nhiều lần tới nhà khi đã
quá khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả
chắc đã yên ngủ từ lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn
nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân di động.
Tiếng lách cách mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói...
Muốn liều lĩnh đập cửa ầm ầm. Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội
vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải
nghe, phải nói, phải gật đầu ưng thuận, trong khi không
có thì giờ để phân vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có
ý định gặp. Không hề trông mong cô sẽ
giúp đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái
hiên hàng giờ, nghe tiếng chuột chạy trên đám
lá khô, tiếng mèo kêu thảm thiết trên
mái ngói, chờ cơn cuồng nộ vô ích tàn
lụi dần rồi thất thểu rời con ngõ. Một lần xe hết xăng, đứng
xớ rớ ngay giữa mặt lộ, mơ hồ hy vọng một tên khùng, một
thằng say, hay một người lính ban cho một cái chết lãng
nhách, nhưng ít ra còn có thể giải thích
như một tai nạn. Sau cùng một người đi đường đã thương
tình kéo về tận đỉnh cồn. Nơi làm việc là
tầng lầu trên cùng của một building, bất động sản của
người Pháp. Những đêm trực thường lợi dụng những lúc
rảnh rỗi giao Đài cho người phụ ca, lấy xe chạy vòng vòng.
Ghé quán cà phê khu Đa Kao, nơi đứa em từng
ngồi dán lưng vô tường chờ Thần Chết dựng dậy. Quán
cà phê túi, hủ tíu Tầu khu ngã Sáu
Sài-gòn, hồi tưởng những ngày còn đi học,
cuốn sách trên tay, ly hồng xà trước mặt và
cứ thế ngồi suốt buổi. Ghé sạp thuốc lá, mua từng điếu
lẻ, một thói quen từ hồi còn đi học, sống bằng sự yêu
thương đùm bọc của Bà Trẻ trong căn nhà ở cuối hẻm
Đội Có, Phú Nhuận. Ghé sạp báo mua một tờ có
đăng truyện chưởng Kim Dung. Lướt qua những hàng chữ lớn nơi trang
nhất. Một lần đọc thấy tin quận lỵ quê cô bạn bị pháo
kích, sáng sớm hôm sau vội ghé nhà rồi
cả hai ra bến xe đón những chuyến đầu tiên từ lục tỉnh lên.
Khi biết cuộc pháo kích không gây thiệt hại
nghiêm trọng, đã đánh bạo rủ cô ra Sài-gòn.
Đó có lẽ là lần du ngoạn đầu tiên.
Ba Mươi Tháng
Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền
Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu
tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa.
(Vợ tôi viết: "Bố nuôi của Thái đã
về quê ngoại sống, không còn ở Sài
Gòn nữa"), tôi như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy.
Bài Nhớ Thi Sĩ viết vào lúc
ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi
sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn
ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi
bấy giờ có cả lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất
Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai
Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1998].
Bài nhớ thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong nhà
giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời
trẻ
Bừng cháy trong lòng
anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi
tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù
tối
Trễ muộn mùa xuân trên
miền cao
Đang lay thức rừng núi biên
giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày
lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác
thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê
hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên
đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân trối
cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn
qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát
cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh
anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ biệt
xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn
dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn
dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên
trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh
mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Thơ Ở Đâu
Xa
Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti
(1898-1970). Thi sĩ Ý.
Ideas About
Poems
II
The schizophrene, the cyclothyme,
Pass from the
droll to the sublime.
Coming of epileptoid
stock
They tell the
time without a clock.
NON SENSE IS NEVER JUST NON
SENSE; it is more like good sense with all the logic removed. At its highest
point poetry makes use of nonsense in order to indicate a level of experience
beyond the causality principle. You don't quicken or laugh at nonsense because
it is complete non-sense; but because you detect its resemblance to sense.
Logic, syntax, is a causal instrument, inadequate
for the task of describing the whole of reality. Poems don't
describe, but they are sounding-boards which enable the alert
consciousness to pick up the reverberations of the extra-causal
reality for itself.
Poems are negatives; hold them up to a clean surface
of daylight and you get an apprehension of grace. The
words carry in them complete submerged poems; as you read your
memory goes down like the loud pedal of a piano, and all
tribal, personal, associations begin to reverberate. Poems
are blueprints. They are not buildings but they enable you to
build for yourself. Serious nonsense and funny nonsense are of
the same order: both overreach causality and open a dimension independent
of logic but quite real. Shakespeare and Lear are twins who do
not dress alike. Serious nonsense and comical nonsense have a
common origin, and an uncommon expression.
Nothing is lost, sweet self
Nothing is ever
lost.
The spoken word
Is not exhausted
but can be heard.
Music that stains
the silence remains,
O! echo is everywhere
the unbeckonable bird! (1)
NOTE
1.
This stanza is later modified
to become Durrell's poem "Echo" (1943).
Vô nghĩa không bao giờ chỉ
là vô nghĩa, nó bảnh hơn cả cái
“tốt nghĩa”, một khi mà mọi luận lý bị gỡ bỏ.
Ở điểm cực cao, thơ sử dụng cái vô nghĩa, để chỉ ra,
cái tầm độ của kinh nghiệm, quá nguyên lý
nhân quả. Bạn không cười toáng lên, trước
cái vô nghĩa, bởi là vì nó hoàn
toàn vô nghĩa, nhưng bởi vì bạn nhận ra cái
giông giống của nó, với “có nghĩa”.
Luận lý, cú pháp
là dụng cụ nhân quả, bất toàn, không
chu toàn nhiệm vụ miêu tả trọn thực tại. Thơ không
miêu tả, nhưng chúng là những bảng âm
thanh, có khả năng đánh động ý thức, để
nghe ra những cú rội của “siêu thực tại” vượt quá
nhân quả, cho chính nó.
Thơ thì phủ định. Cầm chúng
lên, lôi chúng ra 1 nơi sáng
sủa sạch sẽ, và bạn có cảm giác lĩnh
hội, cái gọi là ân sủng. Những từ trong chúng
hoàn tất những bài thơ, hoàn tất cái
phần chìm ẩn của chúng; như là bạn đọc
hồi ức của bạn chạy dài như
For
anyone who has lived out seventy years, according to the
Book of David, there is little to hope for except to go
on plying familiar skills, with an occasional mild variation
and with tedious repetitions. To escape, or possibly to extenuate,
that monotony, I chose to admit, perhaps with rash hospitality,
the miscellaneous interests that crossed my everyday writer's attention.
Parable follows on the heels of confession, free or blank verse
on the sonnet. In the earliest times, which were so susceptible to
vague speculation and the inevitable ordering of the universe, there
can have existed no division between the poetic and the prosaic. Everything
must have been tinged with magic. Thor was not the god of thunder;
he was the thunder and the god.
For
a true poet, every moment of existence, every act,
ought to be poetic since, in essence, it is so. As far as
I know, no one to this day has attained that high state of awareness.
Browning and Blake got closer to it than anyone else. Whitman
aimed in that direction, but his careful enumerations do not
always rise above a kind of crude cataloguing.
I distrust
literary schools, which I judge to be didactic constructs
designed to simplify what they preach; but if I were obliged
to name the influence behind my poems, I would say they stemmed
from modernismo-that enormous liberation
that gave new life to the many literatures that use the Castilian
language and that certainly carried as far as Spain. I have spoken
more than once with Leopoldo Lugones-that solitary, proud man-and
he would interrupt the flow of the conversation to mention "my
friend and master, Ruben Dario." (I think, furthermore, that we ought
to emphasize the affinities within our language, and not its regional
differences.)
My reader
will notice, in some pages, a philosophical preoccupation.
It has been with me since my childhood, when my father showed
me, with the help of a chessboard (it was, I remember, a cedarwood
board), the paradox of the race between Achilles and the
tortoise.
As for
the influences that show up in this volume ... First,
the writers I prefer-I have already mentioned Robert Browning;
next, those I have read and whom I echo; then, those I have
never read but who are in me. A language is a tradition, a way
of grasping reality, not an arbitrary assemblage of symbols.
-J.L.B.
Buenos Aires, 1972
-A.R.
Với bất cứ ai trời cho quá
bẩy bó, theo như Khổng Tử phán, đều thuộc
loại cổ lai hi, thì, với cái lũ cổ lai hi này,
chẳng mong thu hoạch thêm cái đọc, cái
điệc chi nữa, ngoại trừ nhai lại, như trâu bò nhai
cỏ.
Để tránh cái
đơn điệu, nhai đi nhai lại, hoặc chôm chĩa đầu
này đầu nọ, - lũ Mít mê thứ này
lắm - tớ, Borges, bèn chọn, chấp nhận, có lẽ
với sự hiếu khách vội vã, những thích
thú, đến với một nhà văn như tớ, trong cuộc sống
thường ngày của mình. Ngụ ngôn, hay ẩn
dụ, theo gót chân của thú nhận, thơ tự do, hay
thơ không vần, về sonnet. Vào cái thuở hồng
hoang, chắc chẳng có chi phân biệt giữa poetic và
prosaic. Mọi thứ phải nhuốm mùi thần kỳ. Thor đâu phải
là Thần Sấm. Xừ luý là Sấm, là Thần.
Với nhà thơ, thứ
thực, mọi khoành khắc, mọi hành động,
đều "thơ", theo yếu tính của nó, và
phải như thế đó, và, đúng là
như thế đó.
Theo như tớ biết, đếch
có ai vươn tới tình trạng khủng như
thế.
May lắm, thì có
Browning, hay Blake, xém tí thì
đạt được. Whitman, cũng nhắm cú này, nhưng
ông ta ưa đếm điếc này nọ, thành ra chưa
vươn tới bảng phân loại, theo cái kiểu của 1 nhà
khoa học Nga, đã làm đưọc, cái gì
gì, bảng tuần hoàn!
Tớ [Borges] không tin ba cái
trường văn, mà theo tớ, chúng là những
kiến trúc mô phạm, được dựng lên, chỉ
để giản dị hóa điều chúng tụng – mày không
thuộc cours tao, là tao đánh rớt mày,
như Thầy Trung phán – nhưng nếu tớ bắt buộc phải khui
ra những ảnh hưởng, đằng sau thơ của tớ, tớ có thể phán,
nguồn của chúng, là từ modernismo
– sự giải phóng khổng lồ, đem đến một cuộc đời mới cho
nhiều nền văn chương sử dụng ngôn ngữ Castilian, và
nó chắc chắn đi xa, như là xứ sở Tây Ban Nha.
Tớ đã từng lèm bèm, hơn 1 lần với Leopoldo Lugones
- một người cô đơn, thật hách xì xằng – và
ông bèn ngắt cơn lèm bèm của tớ, để nhắc
tới “bạn của tôi, thầy của tôi, Ruben Dario", (tớ nghĩ
thêm, sau đó, là, chúng ta phải nhấn
mạnh tới những tinh tuý ở bên trong ngôn ngữ của
của chúng ta, thay vì để ý đến những khác
biệt vùng miền- cái này, là Borges chửi
xéo lũ Mít, khi chúng phân biệt tiếng
Bắc, tiếng Nam, tiếng Trung)
Độc giả của tớ sẽ để ý, trong
vài trang, một sự bận rộn, quan tâm triết học.
Cái này, là từ hồi còn con nít,
khi cha tớ chỉ cho tớ, với sự trợ giúp của cái bàn
cờ tướng, nghịch lý Achilles và con rùa.
MILONGA OF
THE TWO BROTHERS
Let the guitar bring us tales
Of when the knives used to flash,
Tales of gambling and of dice,
Horse races and hard drinking,
Tales of the Costa Brava
And of the old Drovers' Trail.
A story of yesterday
Of appeal to all comers;
No deals can be made with fate,
So no one should reproach it-
I'm aware now that tonight
Memories come from the South.
Gentlemen, here's the story
Of the Iberra brothers-
Men of loving and fighting,
The first to rush to danger,
Flower of all knife fighters,
And now they're six feet under.
Things like pride and avarice
Always lead a man astray;
Courage will also corrupt
If pursued both night and day.
The younger of the two had
More killings to his credit.
When Juan Iberra noticed
The younger was way ahead,
His patience reached its limit
And he set a trap for him.
Laid him dead with a bullet
There on the Costa Brava.
So in a truthful manner
I've told the tale to its end;
It is the story of Cain
Who goes on killing Abel.
[Norman Thomas di Giovanni]
J.L. Borges
PAROLES POUR MILONGAS (1)
I
LES DEUX FRÈRES
Je vais vous dire une histoire
D'un temps qui reviendra pas
Une histoire de là-bas
Qui décroche ma guitare
Sur le chemin des Troupeaux
C'étaient de fameux dimanches
Vite on retroussait ses manches
Vite on y risquait sa peau
Braves chevaux folles courses
Les cartes les osselets
Les verres on en avait
Pour sa peine et pour sa bourse
Un jour y eut un beau drame
Un drame des temps perdus
Aujourd'hui ca n' se voit plus
Du vrai sang sur de vraies lames
C'était pas dans notre coin
Ce vent qui frappe à ma porte
Les images qu'il m'apporte
Viennent du Sud et de loin
Voyez cette sombre histoire
C'est l'histoire de deux frères
lIs s'appelaient les Iberre
De vrais héros fallait voir
Aimant pas à s' ménager
Dans l'amour ou la bagarre
Toujours du matin au soir
Au premier rang du danger
Toujours prêts et volontaires
La vraie crème du couteau
Moi je leur tir' mon chapeau
Surtout qu'ils sont sous la terre
La fierté les a perdus
C'est beau d'avoir du courage
Mais quand ca tourne à la rage
Le Destin vous tomb' dessus
Ils allaient de crime en crime
(Toujours des assassinats
Rien d'autre laissons-leur ca)
lIs comptaient plus leurs victimes
Ou plutôt (voyez la suite)
Jean les comptait ca donnait
Dix-sept morts pour lui l'ainé
Et pour le cadet dix-huit
Ca c'était insupportable
L'ainé pouvait pas fair' moins
Que d'égaliser les points
Comm' ca ca s'rait équitable
Mais il doit cacher son jeu
Pas montrer de l'impatience
Faut du coeur mais faut d'la science
Il tue l'cadet d'un coup d'feu
Puis il le train' c'est plus sur
Aux voies du ch'min d'fer Comme ca
Les roues du train qui pass'ra
Lu' effaceront la figure
L'histoire est triste elle est belle
Parce qu'ell' nous remémore
Que Cain n'a pas encore
Fini de tuer Abel.
(1) Ce mot, qui a divers sens, désigne
ici un ancien type de chanson populaire en ton mineur, l'instrument
accompagnateur étant la guitare et les paroles s'ordonnant
traditionnellement en sixains a premier vers libre: c'est la versification
du Martin Fierro et celle du premier des présents textes.
En francais, des quatrains légèrernent mirlitonesques
nous ont paru la forme la plus capable de passer inapercue. On a egalement
fait bon rnarché de la fidélité littérale
: l'essentiel était de ne pas dépayser le lecteur.
Le deuxième de ces textes est en huitains,
en espagnol comme en francais.
Note: Borges chào mừng ngày 30 Tháng
Tư 1975, thằng anh Bắc Kít làm thịt thằng em Nam
Kít:
L'histoire est triste elle est belle
Parce qu'ell' nous remémore
Que Cain n'a pas encore
Fini de tuer Abel.
Câu chuyện thì buồn và đẹp làm
sao
Thằng anh không ngừng làm thịt thằng em
THE FORGING
Like the blind man whose hands are precursors
that push aside walls and glimpse heavens
slowly, flustered, I feel
in the crack of night
the verses that are to come.
I must burn the abominable darkness
in their limpid bonfire:
the purple of words
on the flagellated shoulder of time.
I must enclose the tears of evening
in the hard diamond of the poem.
No matter if the soul
walks naked and lonely as the wind
if the universe of a glorious kiss
still embraces my life.
The night is good fertile ground
for a sower of verses.
-C.M.
L.L. Borges
Mần thơ
Như tên mù, “sư huynh” là
hai bàn tay
Dẹp tường qua 1 bên
Nghiá thiên đường
Chầm chậm, bối rối
Tớ cảm thấy
Trong tiếng “crắc” của đêm
Những câu thơ mò tới.
Tớ phải đốt bóng tối ghê tởm
Bằng ngọn lửa trong suốt:
Màu tím của chữ
Trên vai đòn thời gian.
Tớ phải lận
Những giọt nước mắt của buổi chiều
Vào bài thơ, rắn rỏi, như 1 viên
kim cương
Bất kể như thế nào linh hồn,
Bước, trần trụi, và cô đơn, như
gió
Nếu vũ trụ - một nụ hôn hoành tráng
-
Vẫn ôm trọn đời tớ,
Đêm bèn là mảnh đất mầu
mỡ
Để gieo xuống những mầm thơ
Cherry Pie
If it’s true that the devil has his finger
In every pie,
he must be waiting
For the night
to fall, the darkness to
Thicken in
the yard, so we won’t see him
Lick the finger
he dipped in your pie,
The one you
took out of the oven, my love,
And left to
cool by the open window.
—Charles Simic
Bánh Anh Đào
Nếu đúng là quỉ có ngón
tay của nó
Ở trong mọi cái bánh anh đào
Nó sẽ phải đợi đêm xuống
Ngoài vườn tối thật tối
Như thế bạn sẽ không thể nhìn
thấy nó
Thế là nó bèn liếm thật
sâu vào cái bánh của bạn
Cái bánh mà bạn lấy ra
khỏi lò
Và để ở cửa sổ,
Để cho nó nguội lạnh đi
http://english.stackexchange.com/questions/293826/meaning-of-have-ones-fingers-in-every-pie
Có ngón
tay trong mọi cái bánh: Chuyện gì cũng
có Bác Hồ ở trỏng!
have a finger in every
pie to be involved in and have influence over many different
activities, often in a way that other people do not approve of [Example:]
You can't make a decision on any kind of funding without consulting
him—he has a finger in every pie.
have a finger in the pie
to be involved in a particular activity [Example:] When it comes
to trade in the underdeveloped parts of the world, most Western
countries want to have a finger in the pie.
http://www.babelmatrix.org/works/es/Borges,_Jorge_Luis-1899/Carnicer%C3%ADa/en/37604-Butcher_shop
Butcher shop
Lower than a lupanar
the butcher shop signs the
street insultingly.
On the lintel
a blind cow's head
rules the coven
of final marble and gaudy
flesh
with an idol's remote majesty.
[Mulrooney, Christopher]
J.L. Borges
AT THE BUTCHER'S
Meaner than a house of prostitution
the meat market flaunts
itself in the street like an
insult.
Above the door
the head of a steer in a
blind-eyed stare
watches over the witches'
Sabbath
of flayed flesh and marble
slabs
with the aloof majesty of
an idol.
[Norman Thomas di Giovanmi]
"Lộn(g) dịch":
Ở nhà HPNT
Bần tiện hơn cả nhà
thổ
Phiên chợ thịt người
Ánh lên lời
nguyền rủa của những nạn nhân Tết năm đó
Ở bên trên cửa
Cái đầu bò
mù
Đưa mắt nhìn xuống
Ngày Hội Máu của VC
Bằng 1 cái nhìn
cao sang, quyền quí
Của những vì vua
chúa thời nhà Nguyễn.
http://www.babelmatrix.org/works/es/Borges,_Jorge_Luis-1899/Carnicer%C3%ADa/en/37604-Butcher_shop
Butcher shop
Lower than a lupanar
the butcher shop signs the street insultingly.
On the lintel
a blind cow's head
rules the coven
of final marble and gaudy flesh
with an idol's remote majesty.
[Mulrooney, Christopher]
J.L. Borges
AT THE BUTCHER'S
Meaner than a house of prostitution
the meat market flaunts itself in the street like
an
insult.
Above the door
the head of a steer in a blind-eyed stare
watches over the witches' Sabbath
of flayed flesh and marble slabs
with the aloof majesty of an idol.
[Norman Thomas di Giovanmi]
"Lộn(g) dịch":
Ở nhà HPNT
Bần tiện hơn cả nhà thổ
Phiên chợ thịt người
Ánh lên lời nguyền rủa của những nạn
nhân Tết năm đó
Ở bên trên cửa
Cái đầu bò mù
Đưa mắt nhìn xuống Ngày Hội Máu
của VC
Bằng 1 cái nhìn cao sang, quyền quí
Của những vì vua chúa thời nhà
Nguyễn.
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/18.html
BRANKO MILJKOVIC
[1934-1960]
As a child in Nis, Milkjovic
witnessed two massacres during the war. He studied literature
and philosophy at the university, translated French symbolist poetry
and Russian poetry, and started publishing early. In 1960 he moved
to Zagreb, where he hung himself in February 1961, a week after writing
a letter to a periodical renouncing all his poetry. Since his death,
his brief life has become as legendary as Sylvia Plath's.
Khi còn là 1 đứa
bé, M. chứng kiến hai cú tàn sát trong
cuộc chiến. Ông học văn chương và triết học ở đại
học, dịch thơ tượng trưng (symbolic) Pháp và Nga, và
khởi sự in thơ sớm. Năm 1960, ông dời đi Zagreb, và tự treo cổ ở đó,
vào Tháng Hai 1961, sau khi gửi thư cho 1 tờ báo,
từ bỏ mọi bài thơ của mình. Kể từ khi ông chết,
cuộc đời ngắn ngủi của ông trở thành 1 huyền thoại
chẳng khác gì của Sylvia Plath
Sea without Poets
You wait for a right moment
To attune yourself to words
But there is no such poet
Nor a word fully free
O bitter and blind sea
In love with shipwreck
Biển đếch
có thi sĩ
Mi đợi đúng lúc
Bèn thả hồn theo những con chữ
Nhưng làm chó gì có
thi sĩ như thế
Làm gì có từ nào hoàn
toàn thảnh thơi
Ôi biển đắng cay, ôi biển mù
lòa
Tương tư tầu đắm
Bài “Ode” viết năm 1966
Chẳng ai là quê
hương, đất mẹ, quê cha.
Ngay cả cái tên kỵ mã
Sừng sững trong rạng đông, trong cái
ô vuông trống rỗng
Kẻ dẫn dắt con chiến mã đồng qua thời gian
Cũng không, là những kẻ từ mớ cẩm
thạch, hoa cương nhìn ra
Cũng không, là những kẻ hoang phí
tro than chiến trận của họ
Trên những cánh đồng Mỹ Châu
Hay để lại một câu thơ, hay một kỳ công
Hay hồi ức của một đời được hoàn tất
Bằng 1 thực thi kỹ lưỡng, những bổn phận của họ
Chẳng ai là quê nhà. Những
biểu tượng cũng không.
Không ai là quê
nhà. Ngay cả thời gian
Chất đầy những trận đánh, gươm đao, lưu
vong tiếp theo lưu vong,
Và với những con người, trải dần qua những
vùng, miền
Vươn tới rạng đông, vươn vào hoàng
hôn
Và với những bộ mặt cằn cỗi dần, già
dần
Trong những tấm gương tối dần
Và với những cơn hấp hối vô danh kéo dài
Và với lưới mưa đan
Trên những khu vườn đen
Quê nhà, bạn
ơi, là một hành động liên tục
Như thế giới liên tục (Giả như Tên
Khán Giả Vĩnh Viễn ngưng 1 khoảnh khắc
Để mơ tưởng chúng ta, thì cái
tia sáng bất thình lình trắng
Của niềm lãng quên của hắn ta, sẽ
đốt cháy bùng chúng ta.)
Chẳng ai là nhà, nhưng tất cả chúng
ta sẽ thật xứng đáng với lời thề xa xưa
Mà những tên phong lưu, tài
tử phong nhã, đã từng thề -
Trở thành một điều gì chúng
không biết, Trở thành Ác hen ti na;
Trở thành điều họ sẽ là, bằng đạo
hạnh
Lời Thề Thốt đã được thốt ra trong căn nhà
cũ này.
Chúng là tương lai của những con
người đó.
Sự chứng thực của những kẻ đã chết đó.
Nhiệm vụ chúng ta là 1 gánh
nặng vinh quang
Để lại cho cái bóng của chúng
ta, nhờ những cái bóng đó;
Đó là của chúng ta, để mà
gìn giữ
Chẳng ai là nhà – đó là
cả chúng ta
Cầu sao cho ngọn lửa sáng ngời, bí
ẩn cháy
Không ngừng, trong lồng ngực của ta và
của bạn
Note: Tự dưng bài thơ
này lòi ra, với 1 cái note đính kèm:
Mi thử đổi từ “homeland” thành
“f-land" [flagland], thì nó bật ra tính
thời sự của bài "ode" viết năm 1966, của Borges
[Gấu viết "Cõi Khác" 1969]:
Không có thứ cờ
nào là quê nhà!
ANECDOTE OF RAIN
I was strolling under the tents
of trees
and raindrops occasionally reached
me
as though asking:
Is your desire to suffer,
to sob?
Soft air, wet leaves;
-the scent was spring, the scent
sorrow.
Giai thoại mưa
Anh lang thang dưới tàng
cây
và những hạt mưa thỉnh
thoảng lại đụng tới anh
như muốn hỏi:
thèm gì, ước gì?
đau khổ
hay nức nở?
Trời nhẹ, lá ướt;
-Mùi xuân, mùi
buồn
SN_GCC_2017
thăm cô chú nhiều sức khoẻ.
kính
những dẫn nhậ p không
số
làm toán cộng. với những gì đã
mất. 42 năm. và 11 năm. một quê hương. một người cha.
không có cái mất mát nào dễ quên
cả. cử đợi đến ngày đó. tháng đó. dấy lại
những cái… thật khó mà diễn bằng lời. như vết thương
lại tấy mủ. đau. nhưng cái đau đã quen. buồn. một cái
buồn đã cũ. bất lực trong cái chọn lựa. chỉ để nói.
đó là hai cái mất thật giống nhau. giống ở cách
effect. ừ. mà lại lan man vớ vẩn đi đường nào. ông
nhỉ. trở lại để viết hỏi ông. nhưng lại không muốn hỏi.
tôi muốn viết một cái gì khác. cái
khác đó. tôi chưa nghĩ ra ngay lúc này.
- trong văn chương tôi chưa có dịp đọc (hay
không có?) ai viết bài tự phê bình
mình. sao ông không viết phê bình
về “phê bình” của ông và cái “viết”
của ông?
- ngồi trong một xó. rồi rải cái chữ. tung
bay tứ hướng. những cái dây dưa thật của ông.
từ một thời xa lắm. nay đã không thật. hay đã không
còn có thể thật. cái quán. con đường.
trạm bưu điện. những người con gái một thời. đã không
còn. trại cấm sekiew songkhla. chỉ còn trong tưởng nhớ.
panatnikhom camp nay chỉ là đồi trọc. bơ bơ cát bụi. không
còn một tí ti dấu vết của một tị nạn. mà ông
lại phây phây theo nhưng cái không thật. rồi
giải lại bài toán của ông một thời. đâu là
cái nguồn cơn? đâu là động lực đưa đẩy? tôi
không nghĩ chỉ là đơn thuần cái đọc. ông giải
thich sao?
- ông ở đâu vào cái giờ phát
lệnh đầu hàng năm 75? ông còn nhớ tâm tình
của ông lúc ấy?
theo tôi đó là dấu chấm của cái
phân nửa trước của ông. mà cái phân
nửa đó hình như quan trọng lắm với ông. vì
nó được cưu mang suốt trong cái phân nửa sau qua
cái viết của ông.
khúc trước bão
ch. à
mùa này. đã bắt đầu. lạnh
mùa gì. mà lá. rơi
nhiều lúc gió. thổi. điên
chợt thèm. ly cà phê. nóng
mình. quen chưa? ch. và. tôi
dăm email qua. lại
những. xã giao. lệ thường
thế thôi
cái nào? chung của bọn. mình
những. bài thơ của. ông bố
cùng những. cái bóng. ngất ngưởng
người ngoài. không hiểu. được
còn. một cái khác. sau sự ràng.
buộc
bằng. cách nào? để mọi việc. bình
thường
khi màu đỏ. đã hết và. chữ nghĩa đã.
hết
ch. à
khi nào. rảnh
ngồi xuống. một ly. rượu
(hay cà phê. cũng xong)
vài. câu chuyện
(hay im lặng. cũng vậy)
ch. và. tôi
cái nhớ đi. về trong câm. nín
có nghe? tiếng cào. lá xạc xào
khi. chiều chạng vạng. không ch?
tiếng. còi tàu rúc. sao mênh
mông quá. đỗi
để phải. đứng lại. dẫu không biết. phải làm
gì
ừ. khi nào. nhớ
tôi. đốt lò sưởi
như bếp lửa. và chỉ ngồi. một mình
huơ. huơ tay im. lặng tìm hơi. ấm
nhớ. người đi trong. tuyết
cái áo lạnh. quá khổ cùng.
cái tẩu trên. môi
ch. à
thì vẽ khi. nhớ
thì viết khi. cô đơn quá. đỗi
rồi. làm gì nữa? cho tôi. biết
đêm dài. quá
rồi. cơn bão. tới ngày mai
dù có. lật tung tất. cả
cũng sẽ. qua
để lại. những cái nhớ gắt. gỏng
ch. à…
TKS
TT/NQT
.... nay chỉ là đồi trọc. bơ
bơ cát bụi.
Ôi chao, cảm khái chi đâu, nơi đóng
dấu địa ngục ngày nào.
Tks
Bụi
Họ nói, họ thấy hai ông
tiên, râu tóc bạc trắng, mỗi ông cầm một cuốn
sổ, ngồi đối diện trên hai mỏm đá. Bên dưới là
những hồn ma, kẻ khóc lóc, kẻ năn nỉ... "Sự thật" nổ bùng
ra, như thuốc súng. Mọi người đổ xô ra mân mê,
khẩn cầu hai mỏm đá vô tri. Có thể vì quá
bực mình, hoặc ái ngại, hoặc muốn cho cuộc phán
xét tử sinh được công tâm, hai vị tiên đã
cho xây những bức tường cao, che kín mọi bí ẩn.
Bây giờ nếu bạn không tin,
xin mời tới Sikiew. Những bức tường giờ này vẫn còn,
và được dùng vào việc giam tù, đóng
dấu ấn Địa Ngục.
Trong những điều được nói về
Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô điểm. Duy có
điều này: Nó thực sự là một địa ngục.
The Good vs The Christian
Cái Tốt vs Cái
Ky Tô!
Christianity has been stigmatised
"as a redoubt of ignorance", as has the word "liberal…as if
generosity were culpable".
Tinh thần Ky Tô bị bêu rếu
như “đồn nhỏ, ga xép của sự ngu dốt", như thể "rộng
luợng là phạm tội"!
Tây phương hay nói
“Giá trị Kitô”; các giá trị này,
Liberté, Égalité, Fraternité, Tự
do, Bình đẳng, Huynh đệ có
nguồn gốc từ Lời dạy của Jésus, dù lời dạy này đã
có từ muôn ngàn năm trước nhưng điểm mốc vẫn là
từ năm zéro.
Liberté: Có nhiều dụ ngôn
đề cao tinh thần làm chủ: Làm chủ mới có
tự do.
Égalité: Mọi người đều được
mời cả những thành phần indésirables, intouchables.
Fraternité: Yêu người như
mình vậy.
Nguồn gốc này bây
giờ trở thành “Ở đời muôn sự của chung” nên
mới không còn căn tính của mình: the word 'Christian' now is seen less as identifying
an ethic and more as identifying a demographic!
Mong bác khỏe luôn
nghe.
Tks
Merry Christmas and Happy New Year to Both
of U.
NQT
Tinh thần Ky Tô Mẽo, công
chúng, và chính trị của khổ hạnh, cả
ba đều cảm thấy họ "như được nhắc tới", [all three got tough ride],
trong đêm Thứ Năm [28.11.2013], khi Marilynne Robinson, nữ
tiểu thuyết gia vừa đoạt giải Pulitzer, nói chuyện với cử
tọa tại London.
Là tín hữu Ky Tô,
bà cho biết, được dậy dỗ về sự rộng lượng và tinh thần lạc
quan, bởi phong trào nhân quyền, nhưng, bà than thở,
hàng chục năm nay, tinh thần Ky Tô bị bêu rếu, “như là
đồn xép, ga nhỏ của sự ngu dốt”, như thể, “hào phóng,
rộng lượng là phạm tội”. Bà tố thêm,
"cái từ 'Ky Tô' bây giờ, thì ít
được coi như đạo hạnh, và nhiều, như là 1 từ thuộc
phạm trù nhân khẩu học”.
Hệ quả, là cú song
đấu, giữa cái tốt, cái đẹp “versus” tinh thần Ky Tô. Và,
“bộ lạc” Ky Tô, những thành viên của họ “có thể
ác liệt tha thứ cho chính họ, và, rất độc ác,
khi tố cáo bất cứ người nào khác.”
Đúng là 1 hoàn
cảnh chẳng thú vị, không hề hấp dẫn: Có
những điều tệ hại hơn nhiều, so với “đã chắc gì
như thế”, và, trong số đó, cái “bất chắc”
này cũng là 1 giả dụ.
Truyền thông, công
chúng, the media, Mẽo, cảm thấy nhột hơn nhiều, khi
bà “lịch sự” nói, họ đếch thích thứ người
biết điều, "the media do not find reasonable people interesting".
Sau đó, với 1 tay của BCC, [Mark Lawson], bà buộc
tội một số chương trình TV, đài phát thanh Mẽo,
đã làm ung thối nặng nề cuộc chát chiếc quốc
gia, profoundly corrupting the national conversation. Nó
bị giựt dây, và có mùi phản dân chủ,
ở ngay gốc của nó, bởi là vì nó muốn đưa
vô cuộc sống công cộng những nhận xét giả tạo”, "It's
manipulative and at its root it's anti-democratic, because it wants
to intrude artificial considerations into public life."
Khủng nhất, là khi
bà đưa ra nhận xét, khi được 1 khán thính
giả hỏi, bà nghĩ gì về thứ chính trị của
sự khắc khổ: "Tôi nghe người ta nói, 'Bạn nhịn đói
hôm nay, để ngày mai ăn khỏi trả tiền'! Tôi
đếch tin, tất nhiên! Tôi cũng đã sống đủ, biết
đủ, để mà nói rằng thì là, chúng
ta đang đếch làm cái gì cả, ngoại trừ phá
huỷ tương lai, khi cướp đoạt, bỏ đói… những con người dễ bị
tổn thương. Thật quá tởm, đối với tôi”
The Watchman's
Lament
The following is the opening of Ted Hughes's
translation of Aeschylus' Agamemnon, which he completed
before his death on October 29 [1998]
Watchman:
You Gods in Heaven-
You have watched me here on this tower
.All night, every night for twelve months
Thirteen moons-
Tethered on the roof of this palace
Like a dog.
It is time to release me.
I've stared long enough into this darkness
For what never emerges.
I'm tired of the constellations-
That glittering parade of lofty rulers
Night after night a little bit earlier
Withholding the thing I wait for-
Slow as torture.
And the moon, coming and going-
Wearisome, like watching the sea
From a.death-bed. Like watching the title
In its prison yard, with its two turns
In out in out.
I'm sick of the heavens, sick of the
darkness.
The one light I wait for never comes.
Maybe it never will come-
A beacon-flare that leaps from peak to
peak
Bringing the news from Troy-
"Victory! After ten years, Victory!"
The one word that Clytemnestra prays
for.
Queen Clytemnestra-who wears
A man's heart in a woman's breast,
A man's dreadful will in the scabbard
of her body
Like a polished blade. A hidden blade
.
. Clytemnestra reigns over fear.
I get up sodden with dew.
I walk about, to shift my aches.
I lie down-the aches harden worse,
No dreams. No sleep. Only fear-
Fear like a solid lump of indigestion
Here, high in my belly-a seething.
Singing's good for fear
But when I try to sing-weeping comes.
I weep. There's no keeping it down.
Everything's changed in this palace.
The old days,
The rightful King, order, safety, splendor
A splendor that lifted the heart-
All gone.
You Gods
Release me.
Let that flame come leaping out of the
East
To release me.
Note: Bạn đọc Tin Văn đã đọc Tên
Căn [Canh] Me, The Watcher, của Borges.
Giới thiệu thêm bài này,
tình cờ vớ được trong 1 số báo cũ, từ hồi mới
qua xứ lạnh, NYRB Dec 3, 1998.
/notes_1/burden_childhood.html
Note: Bài này
đang hot
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ, Graham
Greene viết:
"Có vài nhà văn,
khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng
ai giống ai, nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng
làm sao hất đi được: gánh nặng tuổi thơ. Đứa con nít
bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong trường
hợp Dickens, còn với Kipling, là những ngày
tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà bà cô
Aunt Rosa, bên một con đường cát bụi vùng
ngoại ô, cả hai đều chẳng bao giờ quên được. Tất cả những
kinh nghiệm sau đó của họ, đều như dính mắc tới những
tháng, những năm bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn
nhẫn nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng
ta đã có tí ti kinh nghiệm, để mà
tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào
những năm tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải
thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa
toàn những cay đắng ngày nào, (1) thì
có lẽ những lời phán của Greene xem ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và
cái, đã tìm cách nương tựa vào
nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời,
"sống sót hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến,
trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm
ra được quê hương đích thực cho dòng Gấu,
và sau cùng, trốn thoát cả một lô những
ông bạn quí hoá."
Harper's April 2013
Vô đề
Tất cả những gì tớ muốn
Là nhậu với bà xã
của tớ
Một ly rượu đỏ không bao
giờ cạn
Cả hai trên sàn nhà
Những tên cà chớn
sẽ nghĩ thế nào?
Khi nhìn hai đứa tớ?
Đời của hai đứa mi mới thê
thảm làm sao
Chán chường và lầm
lạc
Khi bà xã tớ phải
đi ra phố
Và tớ ở nhà
Tớ chỉ muốn khóc
Trăng kia, trên tàng
cây
Sao ánh trăng chua xót
đến như thế
Chẳng có cuốn sách
nào
Hôn tớ được như bà
xã tớ hôn tớ.
Bài này mà
tặng "Ngày Của Vợ", giống như “Ngày Của
Mẹ", nhỉ?
*
Trong bài thơ Vô
Đề,
Theo K cái câu có
chữ "squares" có nghĩa là :
"Kệ cha mấy tên cà
chớn chê cười tụi mình . Đời tụi nó
trông mà chán chết ."
Hà hà
Tks a lot.
Take care, both of U
NQT
https://www.threepennyreview.com/tocs/149_sp17.html
Cherry Pie
If it’s true that the
devil has his finger
In every pie, he must be waiting
For the night to fall, the darkness
to
Thicken in the yard, so we won’t
see him
Lick the finger he dipped in your
pie,
The one you took out of the oven,
my love,
And left to cool by the open window.
—Charles Simic
http://www.newyorker.com/magazine/2011/12/12/one-man-circus
Poems December 12, 2011
Issue
One-Man Circus
By Charles Simic
Juggler of hats and live hand grenades.
Tumbler, contortionist, impersonator,
Living statue, wire walker, escape artist,
Amateur ventriloquist and mind reader,
Doing all that without
being detected
While leisurely strolling down the street,
Buying a newspaper on some corner,
Bending down to pat a blind man’s dog,
Or sitting across from
your wife at dinner,
While she prattles about the weather,
Concentrating instead on a trapeze in
your head,
The tigers pacing angrily in their cage.
Note: Bài này,
nhớ là đã có bản tiếng Mít.
Kiếm hoài chưa thấy!
Thấy rồi:
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/19.html
Note: Gánh Xiệc 1 Người
này sao giống GCC quá!
Hà, hà!
Gánh Xiệc 1 Người
Kẻ tung nón, lựu đạn thực
Gã nhào lộn, tay thể dục
mềm dẻo,
Tên nhạo nhại, chuyên đóng
vai Bác Hồ.
Tượng sống, Người đi trên dây
Nghệ sĩ chui vô hòm rồi
thoát ra, khoá còn trinh.
Gã lảm nhảm bằng bụng.
Tên đọc ý nghĩ trong đầu
khán thính giả.
Làm tất cả những chuyện
đó mà chẳng bị phát hiện
Trong lúc dạo phố
Mua tờ báo tại một góc
đường.
Chôm cho trang TV.
Cúi bắt tay con chó của
1 người mù
Cùng Gấu Cái dùng
bữa tối
Mỗi đứa 1 đầu bàn chiếu tướng
lẫn nhau
Trong lúc Bả lèm bèm
về thời tiết
Cái đầu
Gấu lo cú bay trên chiếc đu
Những con hổ giận dữ nhào tới
nhào lui trong chuồng.
Note: Số
báo trên, còn bài thơ này,
cũng thật là tuyệt
THE NEW SONG
For sometime I thought
there was time
and that there would always be time
for what I had a mind to do
and what I could imagine
going back to and finding it
as I had found it the first time
but by this time I do not know
what I thought when I thought back then
there is no time yet
it grows less
there is the sound of rain at night
arriving unknown in the leaves
once without before or after
then I hear the thrush waking
at daybreak singing the new song
-W. S. Merwin
Note: Bài thơ cực lạ,
ở cái từ "time", được lập đi lập lại, làm nhớ Brodsky -
bao thơ tôi, ít nhiều chi là về thời gian, và
về thời gian làm gì con người, và Borges.
Khổ thơ chót quá tuyệt. TV sẽ
đi 1 đường chuyển ngữ, liền
Và bài về ông
Trùm Elia Kazan:
http://www.newyorker.com/magazine/2010/12/13/method-man-john-lahr
Vĩnh biệt Hoàng
Cầm
For someone a
fresh breeze blows.
For someone the sunset luxuriates
"Requiem" (Anna Akhmatova)
Sông Ðuống trôi đi
Một giòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kỳ
Hoàng Cầm
You will write about us on a slant
[Bạn sẽ viết, nghiêng nghiêng,
về chúng tôi]
Joseph Brodsky
Osip Mandelstam
Valentine's
Day
Valentine
Day 2011
Là hạt gạo thất thểu
Hồn u mê theo bầy gió
u mê
Lưu vong mà nhỏ lệ
Đời như tan vỡ
Là câu thơ bị chôn
sống dưới tầng đá, cỏ
Đá tảng đố kỵ
Cỏ độc vô sĩ
Lá nỗi đợi phục sinh trên
nắm xương khô
Đá sẽ nát rục dưới
vết chân chạy lửa mù
Cỏ cháy bùng
Tro than sá kể .
2003
Note: Bài thơ này,
có mấy từ khó hiểu. Có thể lỗi
chính tả.
Là nỗi đợi phục sinh trên
nắm xương khô?
Cỏ độc vô sỉ?
Chào bác, TN đã
vào TV và đã thấy bài thơ có
mấy chỗ bác cho là lỗi cần sửa. Câu "Là
nỗi đợi phục sinh trên nắm xương khô." Câu này
đúng. Nó liền ý với mấy câu trên: thơ
bị chôn sống (dưới tầng đá,cỏ) thì cũng như tác
giả bị chôn sống,đợi có biến cố để phục sinh thì
thi thể tác giả đã thành nắm xương khô rồi.
Biến cố được mong đợi chỉ có thể là lửa.
Lửa mới có thể nung được đá tảng và
đốt được cỏ độc vô sỉ. Chỉ có chữ sĩ (vô sĩ)
là sai. Dấu hỏi (vô sỉ) mới đúng. Cám ơn
bác đã nhắc nhở. TN tui cũng rất cảm kích và
vô cùng cảm ơn những lời khen tặng bác dành
cho hai bài Cầm tay hôn biết địa chỉ, và bài
Mười dấu chân qua. Lời khen của bác đầy chân tình
và rực rỡ như bình minh. Có điều khó cho Tn
là muốn gom các câu đó lai để làm thành
một bài cám ơn nghiêm chỉnh ngắn gọn, dán
lên trang chủ, mà chưa biết cách rút câu
ra. Bác viết xen kẽ, đối chiếu với các
tác giả bự khác trên thế giới làm tui
tự thấy ngộp thở đó bác. Xin bác tha cho cái
tội chưa viết được bài cám ơn như ý muốn và
cái tội chậm trễ nầy.
Tks
Tôi lộn từ "Lá".
Đúng phải là, "Là"
Bài thơ này là 1 "echo" của "Lửa",
của Khoa Hữu, theo GCC
Tks again
Lửa & Khoa Hữu &
Celan
MILONGA OF THE DEAD MAN
I dreamed it inside this house
in between walls and doors.
God allows man to dream
things that are surely true.
I dreamed it out at sea
among floating islands of ice.
May we be told the rest
by hospitals and tombs.
One of so many provinces
of the interior was his land.
(It is not worth our knowing
that people die in war.)
They took him out of the barracks,
put weapons in his hands
and then gave him the order
to die among his brothers.
He acted with great discretion,
he talked to himself at length.
At one and the same time
they gave him a gun and a cross.
He heard the vain harangues
of the vain generals.
He saw what he'd never seen,
blood on the sandy ground.
He heard the people shouting
Long live! and Let them die!
All he wanted to know
was whether or not he was brave.
He knew it the very instant
the bullet entered his body.
He said I wasn't afraid
as life abandoned him.
His death was a secret victory.
No one should be surprised
that I feel envy and sorrow
for that man's destiny.
-S.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
The milonga is a forerunner of the
tango, dating from the 1870's. According to one authority,
Ventura R. Lynch, it was invented by Buenos Aires hoodlums ( compadritos)
as a parody of Negro dances; Vicente Rossi, in his book Cosas
de negros, claims the milonga originated
out on the edges of Montevideo. The first milongas were danced.
[in Jorges Luis Borges Selected Poems
1923-1967]
[Milonga là 1 điệu nhảy đàn
anh của tango]
Milonga của người đàn ông
đã chết
Tớ mơ nó ở bên trong căn nhà
này
Giữa tường, giữa cửa
Chúa cho phép con người mơ
Những điều có thực
Tớ mơ nó ở ngoài biển
Giữa băng giữa đảo
Cầu cho cái còn lại
Thì được kể
Ở nơi nhà thương
Hoặc bên những nấm mồ
Một trong rất nhiều tỉnh lỵ
Là đất cát của hắn ta
(Rằng, cái sự hiểu biết của chúng
ta,
Làm người thì phải chết ở
nơi trận tiền
Đường ra trận mùa này đẹp
lắm cái con mẹ gì đó,
Cái đó chẳng đáng kể)
Chúng tóm hắn ta ra khỏi Trung
Tâm Ba Quang Trung
Nhét khí giới vào tay
Ra lệnh mi phải chết
Cùng những kẻ đồng hội đồng thuyền
Tức lũ Ngụy
Hắn hành động 1 cách rất ư
là nghiêm túc
Hắn lèm bèm với chính
hắn
Cùng lúc đó
Chúng trao cho hắn 1 khẩu súng
và 1 cây thánh giá
Hắn nghe lũ tướng tá Ngụy la lối
om xòm
Lũ vô ích, vô tích
sự
Hắn nhìn những gì chưa từng
nhìn
Máu chảy dài trên cát
Hắn nghe người ta hô, muôn năm,
muôn năm, muốn nằm!
Và, hãy để cho chúng
chết!
Tất cả những gì hắn muốn biết
Là,
Mình can đảm
Hay là hèn nhát
Hà, hà!
Thế rồi vào đúng lúc,
đúng lúc, đúng lúc đó
Viên đạn đợp hắn 1 phát
Hắn phán, nè, tao đéo
có sợ, nghe chưa!
Và đời bèn rời bỏ hắn ta.
Cái chết của hắn là một niềm
vinh quang bí mật
Đừng đứa nào làm ra vẻ ngạc
nhiên
Rằng Gấu Cà Chớn
Thèm được như hắn ta
Thèm cái số phận được chết
kịp
Ở trong cuộc chiến chó đẻ đó!
Về sau này, gần đây, Đặng Tiến
rất tích cực quảng bá bài viết của mình
về Thanh Tâm Tuyền. Nhưng, Đặng Tiến, đã chối bỏ
tư cách nhà phê bình của mình,
đâu có đủ tư cách để bàn về thơ Thanh
Tâm Tuyền?
Blog NL
Bó thân về với triều đình
Bài của Thảo Trường về TTT
có chi tiết sai: "Quán cháo lú"
là truyện của Lê Văn Siêu in trên ST
số 1, chứ không phải của Vũ Khắc Khoan.
NL .
Tks.
TT/NQT
*
Ngoài ông Đặng Tiến, có
chị Thụy Khuê đã viết về "Cấu trúc thơ Thanh
Tâm Tuyền", nhưng những ý tưởng cuả GNV thì
khác hai người trên, ông nói về chất
"nam tính", những "dự cảm" tai ương hay "báo bão"
cho một sự sụp đổ... rất hay và rất đúng (theo cách
nhìn của … [tôi]. Cũng như có độc giả đã
cho rằng họ cảm ra được cái dự cảm, báo bão cho
một toàn cầu hoá trong "Amers"
của St. John Perse. Đó không chỉ là
tài hoa văn chương, mà còn là cái
tầm nhìn, cái mũi của loài... "cô độc" (chẳng
biết dùng từ gì, nên tôi phang đại vậy), như
Xuân Diệu "nghếch mũi lên trên trăm triệu năm / thở
lại những mùa xuân cũ" chơi, những khi ông ta quá
oải (tôi đoán mò vậy)…
[...]
Sau
này, khi có ai học thơ TTT, muốn trích
dẫn ông, họ không có nguồn để dẫn. Sách
là nguồn dẫn, không ai lại nói "theo ông
GNV ở trang web Tin Văn (nay đã không còn), Thanh
Tâm Tuyền là một cánh chim báo bão",
ví dụ.
Tks. NQT
TTT thực sự không có bạn. Trong
đám ST, ông chỉ thân với Ngọc Dũng, nhưng
ND không phải là nhà văn.
Sau này, ông thân với Đinh
Cường, cũng họa sĩ, tuy viết lách làm thơ lai rai.
Khi DC nằm xuống, Gấu tính đi 1 đường
thật dài về ông, cùng lúc đọc Walser,
cuốn Nhìn Tranh, trên.
GCC cũng không có bạn.
Nhưng lại có những vị bằng hữu hiểu Gấu
hơn cả Gấu hiểu Gấu, và đều là những vì
nữ lưu, và đều dân Huế cả.
Chưa kể vị Dã Viên, đực rựa, Huế.
Vị này hiểu Gấu, khác hai vị kia.
Hai vị Huế hiểu Gấu, có gì tương
tự với Bà Trẻ của Gấu.
Bà Trẻ của Gấu có lần nhận xét,
mi tu được đấy, thực phẩm trần gian không màng,
nhưng lại lụy vì tình!
Note: Nói tới Huế, tình cờ đọc mấy câu
thơ của CTC
của những ngày mưa mọc lên từ đất
có ai buồn bỏ Huế ra đi
nghe dòng sông thở giữa đêm hè
nghe đá nổi rùa kêu trong từng
khúc ruột.
Thương cả hai người, em với bóng
chiều vàng nghiêng nón lá
qua sông
để giọng hò em mát mái xuôi
dòng
người ta đã xây bến đò Thừa Phủ.
người ta đã xây
bến đò Thừa Phủ.
Đây là câu thơ 'hiện thực', nhưng
"không có không được", nó "đảm bảo" cho
những hình ảnh ở trên.
Theo nghĩa của Lukacs, khi viết về "ý thức
tiểu thuyết gia vượt ý thức nhân vật", để tìm
lại đời sống thực, đời sống mất đi tìm lại được.
Đám "tiểu thuyết mới", theo đó, định
nghĩa: Đọc, là treo lửng thời gian. Là "tạm ngưng"
sống.
Cũng theo nghĩa đó, Nabokov gọi, mỗi cuốn tiểu
thuyết, là một câu chuyện thần tiên.
Đọc, là lạc vào thế giới đó.
Đọc đến câu chót, là lúc
Lưu Nguyễn về trần!
Câu thơ cuối, người ta đã xây
bến đò Thừa Phủ, đẩy những hình ảnh, cảm xúc,
"thương cả hai người", "chiều vàng nghiêng nón"....
lên đến đỉnh cao của chúng.
*
Trong bài thơ Dạ Vũ Ký Bắc, chẳng
hạn, ước muốn - gặp lại bạn, kể cho bạn nghe, về cái đêm
mưa - đảm bảo bài thơ:
Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì
Dạ Vũ Ký Bắc
Theo nghĩa đó, câu kết thúc Bếp
Lửa, nghe rất cải lương, nhưng lại rất ư thực, rất ư cảm động,
ấy là vì, không gian, khí hậu, nội dung
câu chuyện - 'miêu tả không khí Hà-nội
trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng,
chia lìa hoặc cái chết': Thơ giữa Chiến Tranh và
Trại Tù - đảm bảo nó:
Anh yêu quê hương vô cùng
và anh yêu em vô cùng.
Đây là phần đảo của "định lý"
Lukacs.
Thuận: Nếu cả cuốn sách là ảo, thì
câu cuối phải là thực.
Đảo: Câu chót ảo, cải luơng, thì
cả cuốn sách phải thực.
Cái cải lương mùi mẫn này là
'evidence', chứng cớ, đảm bảo, những suy nghĩ, hành động,
nỗi đau, cái ý thức khốn khổ... của những nhân
vật trong Bếp Lửa, là có thực.
Bài viết Bếp Lửa trong văn chương, trong
số Văn đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền [1973], là dựa trên
"định lý" Lukacs, trong Lý Thuyết về Tiểu thuyết,
La Théorie du Roman, như được tóm tắt ở trên.
(1)
Vào thời điểm đó, người viết không
thể nào cảm nhận ra được, câu văn chót kết thúc
Bếp Lửa, lại là tiếng nói của
những người Việt lưu vong, vọng về trong nước:
Anh yêu quê hương vô cùng
và anh yêu em vô cùng.
Câu nói đó, là của bao
nhiêu năm sau này, của bao nhiêu con người
đã sống sốt cuộc chiến, sống sót cuộc bỏ chạy, sống
sót biển cả, sống sót cuộc hội nhập nơi xứ người - như
tiếng chuông xe đạp leng keng - vọng về Quê Nhà.
-Nghe thấy rồi!
P.V. DỞM
(1) "Định lý" Lukacs: "Con đường tận cùng,
cuộc hành trình bắt đầu" (Le chemin est fini, le voyage
est commencé).
Lưu vong và Tiểu thuyết
Note:
Tháng Ba, mỗi bài thơ, trong thơ mỗi ngày,
sẽ được coi như một bi khúc, mộ đài, theo cái nghĩa
mà NL sử dụng, khi viết về thơ TTT
http://tanvien.net/TG_TP/MD_Last_Work.html
"Một tiểu thuyết gia hơi bụi 1 tị"
Que reste-t il de Malraux?
Malraux, còn lại gì?
GCC
thực sự không tin, cõi văn Mít lại có 1
cuốn như Một Chủ Nhật Khác.
Khủng nhất, là đoạn Kiệt tiễn Hiền đi, rồi lại
trở về, với vợ con, với cuộc chiến, để chết.
Như vậy là Kiệt đã đi tới cõi bên kia, lo
xong cho Hiền, rồi lại trở lại cõi bên này.
Trong vương
quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường tha thẩn đi về
[Thơ của Gấu]
Gấu ngờ rằng nơi mà Kiệt
đưa Hiền tới, rồi trở về, để chết, cùng với cuộc chiến, là
Lost Domain, Miền Đã Mất, ở trong
Le Grand Meaulnes.
Bài Giáng cũng có một
cõi Lost Domain của ông, là thời
gian 15 năm chăn dê, vui đùa với chuồn chuồn, châu
chấu, trước khi trở về đời, làm Ông Khùng giữa cõi
Bọ.
Hậu thế sau này, có thể sẽ coi Một Chủ Nhật
Khác, là tác phẩm số 1 của thời đại hoàng
kim Miền Nam VHCH, hẳn thế!
Hơn thế, chứ sao lại hẳn thế!
Cái chuyện TTT mê Malraux, theo GCC, cũng
khó hiểu.
La Condition humaine
Phận Người
Malraux có viết: "Người
ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không tin như thế.
.....
Mười bẩy
năm đã qua.
Kinh nghiệm dạy cho tôi là lời của Malraux đúng.
Tôi đã loay hoay quá lâu với một quyển sách.
Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã đến lúc nên viết những
quyển sách khác.
Tháng
3 – 73
THANH TÂM TUYỀN (1)
Khi đọc Bếp Lửa, 1973, GCC dựa vào kinh
nghiệm đọc Lukacs. (1)
Một đời đã… gần qua, nhìn lại, GCC tự hỏi, liệu
có ai đọc Lukacs?
Mít chắc không, nhưng, liệu có nhà
văn nhớn nào, của thế giới, đọc Lukacs, phương pháp,
lý thuyết của ông, như GCC đọc, và áp dụng
nó vào 1 tác giả?
Có đấy: Orhan Pamuk.
Trong bài Bạt
trong cuốn mới nhất của ông, "Tiểu thuyết gia ngù ngờ
vãi linh hồn", The naive and
the sentimental novelist, ông nhắc tới G. Lukacs,
cuốn Lý Thuyết Tiểu Thuyết
và có ý định sử dụng nó
vào những bài đọc, The Norton Lectures, ở Harvard University.
Bài viết thú
lắm [bài viết nào cũng thú lắm],TV sẽ post,
và dịch.
http://harpers.org/archive/2017/03/
[Memoir]
WITHOUT A FIGHT
By Adam Zagajewski, from Slight Exaggeration,
a memoir that will be published next month by Farrar, Straus and Giroux.
Zagajewski is a poet and essayist. Translated from the Polish by Clare
Cavanagh.
Two days in Berlin in July, a public conversation on how
aging affects writing. I was surprised at first that I had been asked
to take part in a conversation on this subject-but then I recalled, with
some distress, that I'd reached an age that gives you the right to answer
such questions. I took the position that aging, for those who perform
mental, spiritual labor-or perhaps simply for everyone-is like a duel,
immensely difficult and inevitably lost, between the fading body and the
spirit, which sometimes remains undiminished or becomes even stronger, or
maybe even-at moments-is intoxicated by the thought of its increasing solitude.
Abandoned by its faithful companion, the body, the spirit grows ever lonelier,
like those courageous soldiers in war films who single-handedly protect
their squad's retreat, even at the price of death. The duel is always lost,
yes, but the fight may be thrilling, inspiring, it may yield moments of true
exaltation. Sometimes we happen to see, in reality or in some documentary,
an old artist or poet who walks with difficulty but whose eyes still shine
with spiritual presence, and this seems to be something magnificent, the
frail body and in it a little flame of fearless pride, the light of endless
questing, a challenge cast to sickness, weakness, age. Doomed to defeat,
yes, since one day the light will die. Though we don't know even that, we
can't know, another light may flare up then. We can't know, but we live with
that hope. I argued quite eloquently, I thought. When I got back home to
Krakow, I looked in the dictionary and realized that in German, "duel" is
das Duell, not der Duell, but
I'd kept saying der Duell. Over and over. I'd used
all the wrong forms. I'd suspected that I might make mistakes, I'd been anxious.
Had my arguments survived my grammatical blunder? My fellow discussants tactfully
(too tactfully?) ignored my error. From now on I'll remember:
das Duell, not der. I'm still dwelling on this mistake,
I've given it a whole paragraph: it just goes to show that I still lack
the wisdom I see in the eyes of some old men and women, I'm not even close.
Mới đọc, trên số mới nhất của tờ Harpers's, Adam Zagajewski
sắp cho ra lò 1 cuốn hồi ký.
Bèn nhớ đến bạn Dã Viên, và cái
còm của vị bằng hữu dân Huế chưa từng được gặp:
Như hầu hết các bài
thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà
thơ này là tới nhất (mặc dù tôi không
đủ năng lực tiếng Anh để kiểm chứng), khác với thơ dịch
Simic, khó nuốt, (xin lỗi bác, đây chỉ là
cảm nhận riêng mà thôi).
Và bèn phát giác ra 1
điều thực là thần kỳ, Lão Tặc Thiên quả là
quá chu đáo, khi chọn 1 nhà thơ như Adam Zagajewski,
để mà giới thiệu GCC, 1 tên chẳng hề biết thơ là
cái chó gì!
Ui chao, quả là "quá" như thế!
Nhạc, Lão chọn Yanni, và cái kỷ niệm
lần đầu được nghe ông, mới tuyệt vời làm sao, và
hình như cũng đã viết tí ti về nó.
http://harpers.org/archive/2017/03/the-emigrants/
From the March 2017 issue
The Emigrants
By Friedrich Trump
Download Pdf
Read Online
From a letter written in 1905 by Friedrich Trump, Donald
Trump’s grandfather, to Luitpold, prince regent of Bavaria. Trump
had been ordered to leave Bavaria for failing to complete mandatory military
service and to register his initial emigration to the United States
twenty years earlier. Prince Luitpold rejected Trump’s request for
repatriation; the family later settled in New York. Translated from
the German by Austen Hinkley.
Most Serene, Most Powerful
Prince Regent! Most Gracious Regent and Lord!
I was born in Kallstadt on March 14, 1869. My parents
were honest, plain, pious vineyard workers. They strictly held me
to everything good — to diligence and piety, to regular attendance
in school and church, to absolute obedience toward the high authority.
After my confirmation, in 1882, I apprenticed
to become a barber. I emigrated in 1885, in my sixteenth year. In
America I carried on my business with diligence, discretion, and prudence.
God’s blessing was with me, and I became rich. I obtained American
citizenship in 1892. In 1902 I met my current wife. Sadly, she could
not tolerate the climate in New York, and I went with my dear family
back to Kallstadt.
The town was glad to have received a
capable and productive citizen. My old mother was happy to see her
son, her dear daughter-in-law, and her granddaughter around her; she
knows now that I will take care of her in her old age.
But we were confronted all at once, as
if by a lightning strike from fair skies, with the news that the
High Royal State Ministry had decided that we must leave our residence
in the Kingdom of Bavaria. We were paralyzed with fright; our happy family
life was tarnished. My wife has been overcome by anxiety, and my lovely
child has become sick.
Why should we be deported? This is very,
very hard for a family. What will our fellow citizens think if honest
subjects are faced with such a decree — not to mention the
great material losses it would incur. I would like to become a Bavarian
citizen again.
In this urgent situation I have no other
recourse than to turn to our adored, noble, wise, and just sovereign
lord, our exalted ruler His Royal Highness, highest of all, who has
already dried so many tears, who has ruled so beneficially and justly
and wisely and softly and is warmly and deeply loved, with the most
humble request that the highest of all will himself in mercy deign to
allow the applicant to stay in the most gracious Kingdom of Bavaria.
Your most humble and obedient,
Friedrich Trump
Như vậy là gia đình Anh Cu Chăm tới Mẽo, là
do bị trục xuất - via deportation orders - như tờ báo cho biết.
[Debriefing]
FOR WHOM THE BELL TOLLS
From a letter written in July 1961
by the psychiatrist Howard Rome, who treated Ernest Hemingway at
the Mayo Clinic, in Rochester, Minnesota, before the writer's suicide
earlier that month. The letter is addressed to Hemingway's widow, Mary.
Ernest Hemingway, a biography by Mary Dearborn, will be published in May
by Knopf.
Dear Mary,
As you might imagine, I've asked myself the same questions.
A discussion of suicide was threaded through all of our talks from
the very first day. He said that I could trust him; in fact, he pointed
out that I had no alternative but to trust him. In demonstration of
this, he then pointed out that if he really wanted to destroy himself
there were mirrors of glass, belts, ways in which he could secrete medications
and the rest. Unless I could trust him and he trust me, we had not the
beginnings of a means to work effectively. I said I needed his word,
which would be good enough for me, and he said I had it, and we formally
shook hands to seal the bargain.
From that time on, he was on his own.
He went out almost daily for walks, swims, target shooting, meals,
trips to the Mississippi, and was meticulous about announcing his comings
and goings to the nurses.
Our conversations repeatedly got back
to the future: what were the pros and cons of a permanent residence
in Idaho against someplace in Europe or Africa?
I was convinced that the suicidal risk
was minimal. It was this that prompted me to say to you that I felt
I had to trust him, that if he were ever to get back to work, which
was life for him, he had to get to it free of doctors, nurses, and
all of the encumbrances which were a perpetual reminder of sickness.
I felt that he was being absolutely frank
with me; particularly was I convinced of this when he freely talked
about his fears. They weren't the usual kind. For the most part they
centered on a deep concern about doing things the right way.
When we talked about his writing, I came
to be convinced not only of his need but also of his desire to get
back to work.
This is why I felt his discharge from
the hospital was necessary. He was keen to go but, as I said, didn't
push it, and the decision was mine. Before you came back from Chicago
he was enthusiastically involved in sorting his papers, and there was
an air of expectation to all of the preparations, which he undertook with
gusto. He talked to a variety of people about various routes; he weighed
the pros and cons of flying versus driving; as far as I could see, this
was hardly the activity of a man bent on suicide.
The core question is what more could
or should have been done. Should he have gone to a mental hospital
for safeguarding? What more signs would one have to have to tell
that he had recovered? Thinking about these has led me to the conclusion
that had I to do it over again today, I would do again as I did then.
I think I can appreciate what this has
meant to you; the whole ghastly, horrible realization of its finality.
All of the endless echoes of why, why, why, why. And the totally unsatisfying
answers.
Sincerely,
Howard
Thư của y sĩ gửi cho bà vợ Hemingway, về vụ ông
chồng tự làm thịt mình: Chuông Gọi Hồn Ai
One Art
The art of losing isn't hard
to master;
so many things seem filled with the intent
to be lost that their loss is no disaster.
Lose something every day. Accept
the fluster
Of lost door keys, the hour badly spent.
The art of losing isn't hard to master.
Then practice losing farther,
losing faster:
places, and names, and where it was you meant
to travel. None of these will bring disaster.
I lost my mother's watch. And
look! my last, or
next-to-last, of three loved houses went.
The art of losing isn't hard to master.
I lost two cities, lovely ones.
And, vaster,
some realms I owned, two rivers, a continent.
I miss them, but it wasn't a disaster.
-Even losing you (the joking
voice, a gesture
I love) I shan't have lied. It's evident
the art of losing's not too hard to master
though it may look like (Write it!) like
disaster.
-Elizabeth Bishop, The Complete Poems, 1927-1979,
Farrar, Straus & Giroux
[Robert Hass: Now & Then]
Một Nghệ Thuật
Nghệ thuật mất thì không
khó để trở thành một “sư”;
Rất nhiều thứ, có mặt trên cõi đời
này, là để mất đi, 1 cách hăm hở,
Ra ý, ta có ra khỏi đời mi, thì đâu
có phải là 1 thảm họa,
Vả chăng, mi cũng đâu có thương yêu
gì ta, hử, GCC?
Mất 1 cái gì đó,
mỗi ngày, mọi ngày.
Chấp nhận vô thường, mất nhộn nhịp
Nào chùm chìa khóa,
Nào những giờ phút qua đi một cách
đếch ra cái chó gì!
Nghệ thuật mất đâu có khó để mà
làm 1 bậc đại sư phụ.
Rồi thực tập nó, làm
sao mất mau lẹ hơn, xa mãi hơn: nơi chốn, tên tuổi,
những thánh địa mà bạn hằng mong thăm viếng
[căn nhà ở đường PDP ư?]
Chẳng có cái chi trong ba thứ làm
xàm đó sẽ mang đến thảm họa
Tớ mất cái đồng hồ của
mẹ tớ.
Mà nhìn kìa, căn nhà sau cùng,
kế cái sau cùng, của ba căn nhà thân thương,
thì đều đi đong!
Nghệ thuật mất, dễ ợt, không học cũng thành
bậc sư
Gấu mất một thành phố,
rồi hai thành phố, toàn những thành phố cực thân
thương.
Rồi rộng rãi hơn, thoáng hơn, Gấu mất mẹ
một đất nước.
Vài cõi Gấu sở hữu, hai con sông, một
đại lục
Gấu nhớ quá, làm sao không, nhưng đếch
phải 1 thảm họa
Ngay cả mất Em (một giọng nói
tếu tếu, một cử chỉ mà Gấu cực mê),
Gấu không nói dối. Thì hiển nhiên
rồi, nghệ thuật mất thì không khó làm chủ
Tuy rằng, nó cẩm như (Này, viết
ra liền nhe!), một thảm họa.
Whoever wishes
to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in forgetting
absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice Blanchot
Người nào mong mỏi hoài
nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên,
tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên
tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này
mà kỷ niệm được hình thành.
Người ta biết rằng sẽ quên, không
chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng
nhớ thành ký ức, để sau này khỏi quên đó
mà .
K
I seek the crucial region of
the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và
tình anh em đụng độ (1)
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/11.html
By Claudia Roth Pierpont
She was vigilant about giving
nothing away in her poetry, but a new biography examines her harrowing
personal life.
Keep This to Yourself
There are country roads now that are empty.
They'll hold on to the light of the day
A bit longer, mindful some boy
May be heading home after a game.
Whoever he is, he'll have to hurry.
This lovely moment won't last long.
The road before him lies white
Here and there under the dark trees,
As if some mad girl in the neighborhood
Had emptied her linen closet
And had been spreading her things
Over the soft late summer dust.
Nhím cho riêng mi
Có những con đường nhà quê bi
giờ trống trơn
Chúng sẽ níu kéo ánh sáng
của ngày
Lâu hơn một tị, chắc là có tí
quan hoài tới 1 đứa bé nào đó
Có thể trên đường về nhà, sau
một trò chơi
Đứa nào thì đứa nào, thằng bé
phải vội vã
Chút khoảnh khắc rất đỗi đáng yêu
này chẳng thể kéo dài
Con đường trải dài trước thằng bé một
màu trắng
Đây, đó, dưới những cái cây
sẫm đen
Như thể một cô gái lối xóm
Soạn cái tủ đựng quần áo của cô
Và bèn trải ra những cái xú
chiêng, những cái xịp
Trên lớp bụi mờ của một mùa hè,
nhẹ, muộn.
Charles Simic
Thơ Simic, thoạt đầu, Gấu không dám đọc,
vì sợ. Nhất là cái lần đọc bài "Đọc
Lịch Sử" của ông, THNM, nhớ đến cái chết của ông
cụ của Gấu, bị chúng làm thịt hồi đầu “Kách
Mệnh”, thuổng cách viết của Trùm Vẹm. Sau quá
mê.
Bài trên, mà không mê
sao?
Charles Simic
SHELLEY
for M. Follain
Poet of the dead leaves driven
like ghosts.
Driven like pestilence-stricken multitudes.
I read you first
One rainy evening in New York City.
In my atrocious Slavic accent.
Saying the mellifluous verses
From a battered. much-stained volume
I had bought earlier that day
In a secondhand bookstore on Fourth Avenue
Run by an initiate of the occult masters.
The little money I had being
almost spent.
I walked the streets. my nose in the book.
I sat in a dingy coffee shop
With last summer's dead flies on the table.
The owner was an ex-sailor
Who had grown a huge hump on his back
While watching the rain. the empty street.
He was glad to have me sit and read.
He'd refill my cup with a liquid
dark as river Styx.
Shelley spoke of a mad. blind. dying king;
Of rulers who neither see. nor feel. nor know;
Of graves from which a glorious Phantom may
Burst to illumine our tempestuous day.
I too felt like a glorious phantom
Going to have my dinner
In a Chinese restaurant I knew so well.
It had a three-fingered waiter
Who'd bring my soup and rice each night
Without ever saying a word.
I never saw anyone else there.
The kitchen was separated by a curtain
Of glass beads which clicked faintly
Whenever the front door opened.
The front door opened that evening
To admit a pale little girl with glasses.
The poet spoke of the everlasting
universe
Of things.... of gleams of a remoter world
Which visit the soul in sleep....
Of a desert peopled by storms alone ....
The streets were strewn with
broken umbrellas
Which looked like funereal kites
This little Chinese girl might have made.
The bars on MacDougal Street were emptying.
There had been a fistfight.
A man leaned against a lamppost, arms extended as
if aucified.
The rain washing the blood off his face.
In a dimly lit side street,
Where the sidewalk shone like a ballroom mirror
At closing time-
A well-dressed man without any shoes
Asked me for money.
His eyes shone, he looked triumphant
Like a fencing master
Who had just struck a mortal blow.
How strange it all was.... The
world's raffle
That dark October night....
The yellowed volume of poetry
With its Splendors and Glooms
Which I studied by the light of storefronts:
Drugstores and barbershops,
Afraid of my small windowless room
Cold as a tomb of an infant emperor.
SHELLEY
Thi sĩ của người chết rời bỏ,
bị xua đuổi như những con ma
Như đám người bị dịch bịnh
Tôi đọc bà lần đầu
Một buổi chiều mưa ở New York City.
Trong giọng Slavic tàn
khốc
Tôi đọc những câu thơ ngọt ngào
Trong cuốn thơ tả tơi, nhem nhuốc
Tôi mua vào lúc đầu ngày
Tại một tiệm bán sách cũ ở Đại Lộ Thứ
Tư
Chủ tiệm là 1 tay mới được kết nạp để trở
thành một
trong những sư phụ của 1 thứ tôn giáo
thần bí
Tí tiền còm mà
tôi có, kể như xong
Tôi bước trên phố, dí mũi vô
cuốn thơ.
Tôi ngồi trong 1 tiệm cà phê dơ
dáy
Với những con ruồi chết
của mùa hè sau cùng, trên
mặt bàn.
Người chủ tiệm là 1 tay cựu thủy thủ
Lưng ông ta có 1 cái bướu tổ
chảng
Lớn dần theo những giờ ngắm mưa,
ngắm con phố trống rỗng.
Ông ta mừng ơi là mừng khi thấy tôi
ngồi, và đọc thơ
Và châm thêm ly cà phê
với thứ nước
đen như nước kênh cầu Thị Nghè!
Shelley nói về 1 vì
vua khùng, mù, hấp hối;
Những tên cai trị hết còn nhìn,
cảm, biết;
Những ngôi mồ, từ đó, một Bóng
Ma có thể
Đột ngột xuất hiện để chiếu sáng cái
ngày dông bão của chúng ta
Tôi cũng cảm thấy mình
như 1 bóng ma huy hoàng
Đi dự bữa ăn tối của mình
Tại một nhà hàng Tẫu mà tôi
quá rành.
Ở đó có một người bồi chỉ ba ngón
tay
Mang món xúp cho tôi mỗi đêm
Đếch bao giờ mở miệng lèm bèm dù
chỉ 1 lời
Tôi đếch thấy ai nữa ở
đó
Nhà bếp thì chia cách bởi một
bức rèm
Làm bằng những chuỗi hạt thuỷ tinh
Chúng leng keng nhè nhẹ khi cửa trước
mở
Bữa tối hôm đó, cửa trước mở
Cho vô một cô gái nhỏ xanh xao
với những cái ly.
Nhà thơ nói về
một vũ trụ hằng hằng
Về những sự vật… về những tia sáng yếu ớt
đến từ một thế giới xa hơn
Viếng thăm linh hồn khi ngủ…
Về một sa mạc cư dân là bão tố
không thôi…
Những con phố lốm đốm những cái
ô, dù bể, gãy, thủng, rách…
Trông chẳng khác gì những cánh
diều đám ma
Có thể cô bé con người Tầu làm
Những quầy rượu ở con phố MacDougal vắng hoe.
Có 1 trận đấm đá, so găng.
Một người đàn ông tựa người vô
cái trụ đèn, tay duỗi dài ra, như bị đóng
đinh trên cây thập tự
Nước mưa rửa sạch máu trên mặt anh ta.
Trong một con phố nhỏ, ánh
đèn lù tù mù
Hè đường sáng lên như tấm gương
ở phòng khiêu vũ
Vào lúc đóng cửa –
Một người đàn ông, ăn mặc thật là
bảnh, đếch mang giày
Hỏi xin tiền tôi
Mắt anh ta sáng rực lên, vẻ chiến thắng
Như một tổ sư kiếm,
Vừa trúng 1 đòn chí tử.
Kỳ lạ làm sao tất cả…
cặn bã của thế giới
Đêm tháng Muời u tối…
Cuốn thơ màu vàng
Với những Huy hoàng và Âm u của
nó
Tôi đọc dưới anh đèn đằng trước cửa
tiệm: Tiệm thuốc, tiệm cắt tóc
Sợ căn phòng nhỏ, đếch cửa sổ của tôi
Lạnh như nấm mồ của một ông vua con nít.
Cặn bã, dơ dáy,
cuốn thơ màu vàng... Gấu
bỗng nhớ tới nhóm Mở Miệng và đòn VC đang đánh
tới tấp lên con “dê tế thần" là em NT kiều diễm
[?]
Hà, hà!
"Dê tế thần", theo nghĩa của Kafka. Không
phải cú NVGP, quy hồi vĩnh cửu, theo GCC.
NVGP dính tới chính trị. Cú
này, cú CVD trước đó, văn chương.
Nhà văn là 1 thứ dê tế thần.
Nhờ họ mà VC an tâm gây tội chẳng cần hối lỗi!
Helen Vendler, chuyên gia
về thơ, nổi tiếng, trong bài Totemic Sifting, điểm
mấy cuốn của Simic [Cuốn sách của
Thần và của Quỉ, The Book of Gods and Devils, Khách sạn Mất
ngủ, Hotel Insomnia, và Dime-Store Alchemy], lôi bài
thơ Shelley ra lèm bèm
về hai chi tiết thật quái, là "cặn bã thế giới", và
cái "mồ của tên hoàng đế trẻ con", GCC post ở đây:
The two books of poems under scrutiny here, while
preserving Simic's coercive style, vary in content. The Book of Gods and Devils is often
autobiographical, sometimes covertly (as is Simic's wont) but at
other times overtly so. There is, for example, a touching glimpse
of Simic's first reading of Shelley in a "dingy coffee shop" in New
York: The poem alternates between urban wreckage- drunks, the homeless,
broken umbrellas-and the visionary reaches of Shelley's social prophecies:
How strange it all was…. The world's raffle
That
dark October night…..
The
yellowed volume of poetry
With
its Splendors and Glooms
Which
I studied by the light of storefronts:
Drugstores
and barbershops,
Afraid
of my small windowless room
Cold
as a tomb of an infant emperor.
("Shelley")
What distinguishes this excerpt,
and makes it something more than a reminiscence of adolescent idealization
juxtaposed with urban banality, is the presence of two startling
phrases- "the world's raffle," and the "tomb of an infant emperor."
Neither of these is at all expectable, and one halts in coming to
them as before a surrealist effect. Neither is strictly speaking surreal;
both can be pressed into sense. But the essential lawless nature of
Simic's imagination, darting against his coercive structures, is continually
escaping the very prisons he has himself built.
Hồi nhỏ, biết bố mất tích,
và nghe kể, bố bị dìm sống, dưới sông, Gấu,
mỗi lần tắm sông, tắm ao, là bèn lặn sâu,
cố nhịn thở, để như cùng chịu cái chết vì nghẹt
thở như bố.
Simic cũng có kinh nghiệm về 1 ông bố
bị Gestapo bắt [được thả sau đó], nhưng cái cảm
tưởng của ông, khi còn là con nít,
cũng chẳng khác gì của Gấu. Ông có 1
bài thơ tả cảnh cả gia đình đợi suốt đêm coi
bố có được trở về hay không.
Như hầu hết các bài
thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà
thơ này là tới nhất (mặc dù tôi
không đủ năng lực tiếng Anh để kiểm chứng), khác với
thơ dịch Simic, khó nuốt, (xin lỗi bác, đây chỉ
là cảm nhận riêng mà thôi).
Ðộc giả TV
Thơ Simic trầm trọng hơn so với
Zagajewki. Trong thơ Simic có cái quá khứ Mít. Có
thể vì thế mà chúng ta thích đọc thơ
Zagajewski hơn chăng?
Bài dưới đây mà
chẳng trầm trọng sao?
Gấu cứ nghĩ đến 1 anh cu Gấu,
của một thời vị lai, đang đọc sử Mít, và chứng kiến
cái cảnh ông cụ của Gấu bị lịch sử cho đi mò
tôm!
READING HISTORY
for Hans Magnus
At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet.
With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.
How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,
Someone who is walking away from
me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,
Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.
Đọc
Sử Ký
Gửi Hans Magnus
Đôi khi đọc ở đây
Tại thư viện
Tôi được đưa mắt nhìn
Những người bị kết án tử hình
Những thế kỷ đã qua
Và những đao phủ của họ
Tôi nhìn mỗi khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa tuyên án
Lạ làm sao, là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi đó mình chưa ra
đời!
Với cặp mắt nhắm tít,
tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc, chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau cùng trên trái
đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi thống khổ của nó
Bao la, tối, không cách
nào xuyên thủng,
Là những bầu trời sáng sớm
Của những con người bị dẫn tới cái chết của
họ
Trong một thế giới mà tôi thì
hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của tôi, tôi vẫn có
thể ngắm
Cái lưng lảo đảo,
Của một người nào đó,
Một người nào đó đang bước xa ra khỏi
tôi
Với hai tay bị trói
Cái đầu xám của người đó thì
vẫn còn trên hai vai
Một người nào đó
Trong tí xíu thời gian còn lại
của cuộc đời của mình
Biết, một cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về tôi, như là Thượng
Đế
Như là Quỉ
Thơ
Mỗi
Ngày
Trẻ con chơi đá banh ở một công viên rộng
lớn
bên dưới Đài Kỷ Niệm Điện Biên
và bầu trời tận thế thì đỏ mọng,
‘không gian bỗng đỏ rực, rồi đêm xuống trùm
lên tất cả’
Tại sao cái sự hăm dọa bất thần như thế
Như thể có 1 người nào đó ao ước
biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt sạch Trường Sơn, thì cũng đốt]
Mặt trời biết điều đó
Bầu trời cũng biết điều đó
Nước sông Sài Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có Bác H trong ngày vui
như thế này”,
bỗng ré lên như một tiếng cười man rợ
từ chiếc loa của Ban Thông Tin Phường Bến Nghé
Chỉ có một ngôi sao ở thật cao trên
đầu chúng ta,
thì vẫn như lạc lõng trong suy tư,
với ngón tay đặt lên đôi môi
Quên tên tác giả, người dịch : Quoc Tru Nguyen
Tks. Nguyên tác ở đây, http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/26.html
Có mấy bài thơ, nguyên tác,
dính chùm với nhau, chưa kể lời giới thiệu của Milosz,
mắc mớ tới xứ Mít.
1. Mít không thể làm được 1 bài
thơ như vầy - theo Milosz, chúng "quên"!
2. Bài "Như có Bác Hồ", thì
như Szymborska, nhà thơ Nobel Ba Lan - qua bài thơ
sau đây, cũng có trên trang TV được dẫn - chứng
tỏ, có ông Trời sắp xếp tất cả.
EXAMPLE
A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.
With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.
Wislawa Symborska: Here
Thí dụ
Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi
Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái
chuyện tiếu lâm của ta!
[Note: Bản tiếng Việt có tí lệch pha với
nguyên tác, ở cái từ "violence", bạo lực, lệch,
lé ra thành, "lịch sử Mít"]
Ui chao, tiếu lâm thật: VC quả đã làm
thịt ông bố, nhưng chừa ông con, để sau này làm
nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:
Như có Bác Hồ trong ngày
vui đại thắng!
Bạn có thể áp dụng bài thơ trên,
cho rất nhiều trường hợp, với những kẻ, lịch sử tha chết để sau đó,
làm 1 công việc, như trên!
Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông, hầu đờn Bắc Bộ Phủ.
Virtue, after all, is far from
being synonymous with survival;
duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót, nói cho cùng, là
do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).
Đành phải cám
ơn VC 1 phát!
Re: TTT
http://www.tanvien.net/Viet/HNB_Case.html
Chiều ngồi quán
Chùa (La Pagode) Sài Gòn,
nhưng làm thơ thì phải có
"một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi".
Chúa ơi !
NDT
Chúa ơi!
Rõ ràng
là, bài Dạ Khúc của TTT, không
đọc được, thì làm sao đọc... Beckett?
Bài "Phục Sinh" làm dáng
và rỗng, chỉ được cái phá cách,
self-esteem vào thời đó.
LTH.
TTT ngay từ khi mới xuất
hiện, là đã bị chửi tơi bời hoa lá
cành rồi.
Đâu phải đợi đến khi ông
nằm xuống, để được 1 tên cũng cùng thời với
ông, là NDT lôi thơ ra chê đâu.
Nhưng thà là như thế.
Một khi 1 tác giả đã
mất đi, viết về họ, là cả 1 "tử công phu" theo
Gấu. Phải có 1 cái nhìn hết sức đứng
đắn, và hơn thế, phải có những phát hiện
mới về tác giả mà mình đề cập tới.
Blog NL đọc TTT, coi Liên
Điêm là bi khúc, tuyệt.
NQT
Hôm
trước đang nói dở câu chuyện về "bi ca"
tức "élégie", Rilke và nhà thơ
Việt Nam nào thực sự viết "bi ca", thì vướng tí
chút lộn xộn :p nên giờ mới nói tiếp được.
Bi ca là một vấn đề hết sức
lớn của văn chương phương Tây. Tôi từng dịch
một bài (xem ở
đây), một người đã gọi ngay một người
là "élégiaque", tức là một cách
vinh danh rất lớn; vì kinh ngạc quá nên
tôi đã dịch ngay bài ấy: hai ông thầy
của tôi, một trực tiếp, một gián tiếp, xưa kia
chẳng ưa gì nhau, thế mà về già lại đổ đốn đi
ca ngợi nhau :p
Thơ Việt Nam nếu có một thứ
rất đặc biệt, thì là "thơ thể hành".
Đặc điểm của thơ thể hành là
rất dễ làm. Ai cũng làm được, gần gần như
lục bát. Tôi chỉ cần ngồi năm phút là
tạo ra được một bài nhìn qua rất là giống
"Tống biệt hành" (không hề nói phét).
Lời lẽ hoang vắng, đầy mélancholie và nostalgie,
chữ nghĩa khúc khuỷu, nhịp thơ uất hận vân vân.
Nhưng đó là nhìn vẻ
ngoài. Thơ thể hành dễ làm nhưng có
một đòi hỏi cốt yếu, chệch một li là hỏng: bài
thơ phải thực sự nhất khí quán hạ.
"Thăm mả cũ bên đường" của Tản Đà chưa hề ăn thua, mà
tôi thấy đỉnh cao của thể này chính là "Giời
mưa ở Huế" của Nguyễn Bính.
Người ta rất ca ngợi bài "Ta
về" của Tô Thùy Yên, nhưng đó là
một bài thơ hỏng.
Còn bi ca? Nhà thơ Việt
Nam duy nhất viết bi ca là Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong
tập Mặt trời tìm thấy, là
một kiệt tác lớn:
bài bi ca này của Thanh
Tâm Tuyền còn đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của
nó đặt vào tương lai, một hiện tượng rất quái
gở....
Cái sự kiện, khi TTT nằm xuống,
được hải ngoại vinh danh, là do thái độ đạo
hạnh của ông, hơn là do thơ, theo GCC.
Bài viết trên
đây, nhớ là Tin Văn cũng đã lèm
bèm về nó rồi, nhưng không làm sao
kiếm ra được.....
Thơ TTT, theo Gấu, đi đúng cái
đường mà Brodsky nhận xét, về 1 thi sĩ thứ
thiệt, càng già càng bảnh. (1)
Nhất: Thơ tù. Rồi tới Liên
Đêm, rồi tới Tôi không
còn cô độc.... Nhưng Tôi không
còn cô độc có những nét cực kỳ ngây
thơ, của TTT khi còn trẻ, ở Hà Nội, cái gì
gì, "nụ hôn đầu ôm mái tóc lang
thang", thí dụ.
Tks
NQT/Đài Sử
(1)
Đà Lạt
http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/da_lat_7.html
Volkov: Viết về Stravinsky, Auden cho
rằng chính cái gọi là tiến hoá
tách biệt một nghệ sĩ bậc thầy với thứ cà mèng.
Đọc hai bài thơ của một thi sỡi cà mèng,
bạn không thể nào nhận ra, bài nào
viết trước, bài nào sau. Nói như vậy có
nghĩa, khi tới một độ chín nào đó, nhà
thơ cà mèng bèn dừng lại, và cứ thế
dậm chân tại chỗ. Còn thứ nghệ sĩ lớn lao đếch bao giờ
hài lòng với đỉnh trời này, bèn leo
lên đỉnh trời cao hơn...
Brodsky: Trời hỡi, bạn nói đúng
quá đi mất. Người Nhật nói tới sự mạnh khoẻ
trong tiến trình sáng tạo. Khi một nghệ sĩ đạt
đến sự trưởng thành, anh ta bèn đổi văn phong,
thay cả tên của mình. Hokusai chẳng hạn, có chừng
ba chục thời kỳ khác nhau.
Bạn nhìn ra một vô cùng
cách biệt giữa Thơ Ở Đâu
Xa và những tập thơ trước đó của
TTT.
Điều này dễ hiểu, một trước, một
sau, Trại Tù.
Nhưng lạ nhất, là sự vô cùng
cách biệt, giữa Một Chủ Nhật Khác
và những tác phẩm trước đó.
Có lần, một anh bạn cho biết, anh
không thích Một Chủ Nhật
Khác bằng Bếp Lửa.
Và anh giải thích: không
có đám mình trong đó.
Cái anh chàng Kiệt bỏ chạy,
rồi vội vàng bò về, vừa kịp để... chết, làm
sao lại là một trong đám mình được?
*
Ở đầu truyện có cảnh Kiệt, đang
học trong quân trường Thủ Đức, chắc vậy, được ngày
phép cuối tuần, thay vì như mọi người, về hú
hí với vợ con, chàng bèn nhẩy xe lô,
ra bến xe đi một lèo xuống Mỹ Tho, có thể Cai Lậy, kiếm
khách sạn ngủ, đêm thèm chết quá, bèn
cứa mạch máu tay, sao không chết, bèn lủi thủi
về nhà, bị vợ tra vấn quá, phịa chuyện gặp người tình
cũ, cả hai đồng ý cùng chết, nhằm trốn tránh
ba cuộc: Cuộc đời, cuộc tình, cuộc chiến.
Tới cuối chuyện, cảnh này mới thực
sự xẩy ra, như trên cho thấy.
Độc giả tự hỏi: Khi tác giả viết
đoạn đầu, liệu ông đã nhìn ra đoạn sau?
Lạ, cảnh trên Hai Lúa cũng
đã từng trải qua. Ấy là cái chuyện một
ngày cuối tuần về Mỹ Tho, Cai Lậy, để kiếm một cô
gái, chỉ mới nghe được tên.
Những ngày đó, Sài
Gòn chưa hế biết đến chiến tranh.
Tôi biết anh còn muốn kể
lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang
trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây
cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa
bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận
ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì
anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông
nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên,
vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau
khổ, sự thông cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá,
anh nhận ra một khuôn mặt khác, một cuộc đời khác,
đúng không, đúng không?...
Tự Truyện
Joseph Brodsky lại đưa ra
một lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu
vắng cái gọi là "cảm xúc nói ra lời hung
bạo" (biểu hiện bạo động của cảm xúc, violent expression
of emotion), trong thơ của những nghệ sĩ phổ cập, đại chúng,
như Pushkin, Mozart, thí dụ vậy.
"Không có biểu hiện hung
bạo của cảm xúc ở Mozart, bởi vì ông
vượt lên trên cõi đó."
-Nhưng như vậy là thi sĩ muốn nhắm
tới một thứ thơ "trung tính", vượt lên trên
mọi cảm xúc?"
Nhà thơ trả lời, đây là
vấn đề thời gian. "Cội nguồn của âm điệu [của thơ],
là thời gian. Bạn chắc còn nhớ, tôi đã
từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời
gian được sắp xếp lại?… "Thời gian nói với từng cá
nhân chúng ta bằng những giọng điệu thay đổi. Thời
gian có giọng trầm bổng của riêng nó…"
Thời gian có giọng trầm bổng của
riêng nó.
Mát
Điều này giải thích những
dòng thơ "thiền" trong Thơ Ở Đâu Xa với những
dòng thơ trước đó của Thanh Tâm Tuyền
Mar 24, 2015
Văn học miền Nam: Thanh Tâm Tuyền
Thơ ở đâu xa không phải là
một tác phẩm văn chương đơn thuần, mà đó
là lời bia mộ cho cả một thời.
Blog NL
Re: “Ta về” của TTY:
Nhận xét của NL, theo GCC, khí nặng,
giống lần chê Bọ Lập, văn chương chỉ trên bướm 1 tí,
chưa tới được cái đầu gối!
“Ta Về”, cả bài thơ là quy về 1 điểm
xoáy, pivot, là câu thơ “Ta về như bóng
ma hờn tủi”. “Nhất quán” quá sao không?”
Nhân nhắc tới "Giời Mưa Ở Huế", nhớ có
đọc, lâu rồi, chẳng nhớ 1 tí, bèn gõ Gúc:
http://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-B%C3%ADnh/Gi%E1%BB%9Di-m%C6%B0a-%E1%BB%9F-Hu%E1%BA%BF/poem-gmvukXzEWBDFDzFW8WunkA
Giời mưa ở Huế
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây
Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầy
Đò vắng khách chơi nằm bát úp
Thu về lại giở gió heo may...
Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi đây
Thuốc lào hút mãi người ra khói
Thơ đọc suông tình hết cả hay
Túi rỗng nợ nần hơn Chúa Chổm
Áo quần trộm mướn, túng đồ thay
Hàng xóm có người con gái
lẻ
Ý chừng duyên nợ với nhau đây
Chao ôi! Ba bốn tao ân ái
Đã đủ tan tành một kiếp trai.
Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!
Đành phụ nhau thôi, kẻo đến ngày
Khăn gói gió đưa sang xứ lạ
Ai cười cho được lúc chia tay?
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Xa xôi ai nhớ mà thương nhớ?
Mà nhớ mà thương đến thế này!
Cố nhân chẳng khoá buồng xuân lại
Vung vãi ân tình khắp đó
đây
Mưa chiều, nắng sớm, người ta bảo
Cả đến ông giời cũng đổi thay!
Gia đình dọn cả lên Hà Nội
Buôn bán loanh quanh bỏ cấy cầy
"Anh em cánh nhạn người Nam Bắc
Tâm sự hồn quyên lệ ngắn dài..."
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Hôm qua còn sót hơn đồng bạc
Hai đứa bàn nhau uống rượu say
Nón lá áo tơi ra quán chợ
Trơ vơ trên bến nước sông đầy
Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả
Chén ứa men lành, lạnh ngón tay.
Ôn lại những ngày mưa gió cũ
Những chiều quán trọ những đêm say
Người quen nhắc lại từng tên một
Kể lại từng nơi đặt dấu giày
Trôi dạt dám mong gì vấn vít
Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây
Tỉ tê gợi nhớ niềm tâm sự
Cúi mặt soi gương chén rượu đầy
Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ
Đôi lòng hoà một vị chua cay
Đứa thương cha yếu thằng thương mẹ
Cha mẹ chiều chiều ...con nước mây
Hoa rao bán nhuỵ tình nên vợ
Chim nửa bình minh bóng trúc gầy.
Không hiểu vì đâu hai đứa lại
Chung lưng làm một chuyến đi đầy?
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày...
Mai đây bỏ Huế rồi quên Huế
Quên được làm sao bữa rượu này.
Huế 1941
Mai đây bỏ Huế rồi quên Huế
Quên được làm sao bữa rượu này.
Đúng chất Bắc Kít.
Tệ bạc, phách lối!
Hà, hà!
NQT
V/v Bọ Lập. NL nhận ra chân tướng tên này
trước GCC. Tên này, và cả đám lu bu quanh
hắn, không tên nào có chút “đực
chất”. Cái vụ Bọ Lập bị Cớm VC bắt, sợ do chính hắn dàn
dựng.
Cũng 1 thứ cực bửn, như đàn anh của hắn, là
tên già NN.
Phải có 1 tên có tí dũng
khí, cởi trần cởi truồng bò ra nghĩa địa Ngụy sám
hối, thì xứ Mít mới có cơ may sống lại.
GCC thực sự tin như vậy.
NTST Poems
Với nhóm Dân Saigon Xưa
Gần đây được đoc trang Dân Saigon
Xưa, Do bác Quan Nguyen Thanh chủ biên, thích
mê tơi, muốn bày tỏ tình yêu Saigon của
TN (NTST) tui như quý ban trong nhóm,xin chép
lại bài Mười Dấu Chân Qua (trong loạt bài Ngọc
Đông Yêu Dấu) hầu quý bạn,
MƯỜI DẤU CHÂN QUA
... See More
MƯỜI DẤU CHÂN QUA
Sóng thức lung linh chiều ráng
đỏ
Vươn tay nối ấm thôn vườn xanh
Sông thơ mộng uốn vòng lưng phố
tà áo Bạch Đằng quấn gót
chân.
Nhớ xưa Tao Đàn vườn cổ tích
Cây thị già thương cô Tấm
rơi
Đám trẻ thiên thần tranh nhau
lượm
Hương thị lẽ nào giấu được ai.
Ngoắt taxi Passage Eden *
Nhìn ra thế giới cuối hành lang
Những Jim những B.B. đẹp lộng**
Tài hoa bùng vỡ thước phim vàng.
Sóng bước mơ hồ vào Xuân Thu***
Mỗi người một góc đọc cẩu âu
Ra cửa tay thơm tay quà sách
Thơ sầu trao khi chưa biết sầu.
Trốn nắng trưa vào thương xá Tax
Một mình vô định bước chân
ngoan
Không mua ngắm nghía lòng
dưng rỗng
Rộn chút vui đèn kính
sáng choang.
Tà lụa bay tung rừng bướm trắng
Chấp chới sân trường vỗ sóng
khơi
Tuổi ngọc Gia Long hồn nhiên gió
Trống vang giòn động thức tương lai.
Có cô thiếu nữ qua Givral
Hương vây tâm tưởng hồn lan man
Văn nhân ký giả trong ngoài
nước
Sôi sục u trầm nỗi chiến tranh.
Quãng trời thênh Nhà thờ Đức Bà
Ngọn băng sơn hồng neo biển lửa
Hải lưu người về mơ đất hứa
Muôn trùng thiêng tắt ngọn
phong ba.
Sài Gòn thương biếc những hàng
me
Chim chuyền trong lá lá phiêu
du
Thôi bay rớt đọng vàng hiên
vắng
Tán xanh xòe thả bóng
thiên thu.
Trăm năm chàng đến như mộng du
Vào ra trận mạc máu đổi thơ.
Ru đời nôi phố tương tư phố
Đời khép
Hồn trầm
Cỏ đã thu...
* Passage Eden : hàng lang Eden (Quận 1). Cuối
hành lang là rạp chiếu phim Eden
** Jim/Jimmy : James Dean (1931-1955), sao điện
ảnh Mỹ. B.B : Brigitte Bardot (1934- ) sao điện ảnh Pháp
*** Xuân Thu (Albert Portail), tên
một nhà sách ngoại văn ở Sài Gòn
Nguyễn thùy song thanh
2012
Vào ra trận mạc, máu đổi thơ
Thơ sầu trao khi chưa biết sầu.
Tuyệt!
Khen hoài được hoài!
Hà, hà!
Tks
NQT
"cẩu âu"?
Chắc là "cầu âu", như, "đọc cầu
âu"?
Note: Thấy đã sửa, cầu âu.
Câu thơ "Có cô thiếu nữ qua Givral"
thì lại làm nhớ, lần đưa "cô bạn" và mấy đứa
em của cô vô đây.....
TAX, thì cũng đầm đìa kỷ niệm....
Tks. Many Tks. NQT
Valentine's
Day

1 Year Ago Today
Người êu dấu của Gấu
Theo D. Khrams
Trong bức hình thật là OK, chụp bộ mặt của
em,
Cặp mắt là hai lỗ châu
mai
Không, để Gấu nói lại,
Hai mắt của em thì như hai
con ruồi chết đuối trong ly sữa
Hay, như hai tí nhau Draculas!
Thôi, kệ cha cặp em mắt mà lũ Mít
chuyên mần thơ tán gái, gọi là cửa sổ
của tâm hồn!
Để Gấu nói về miệng của em
Miệng của em thì đúng
là căn lều
Nơi chó sói làm
thịt bà nội của cô bé quàng khăn
đỏ, cháu ngoan Bác Hồ
A, thôi, hãy vờ miệng của em đi
Để Gấu lèm bèm về cặp
dzú của em
Lúc này, lúc
nọ, con mắt lé của Gấu thường lén nhìn
Chỉ lén 1 tí như thế,
mà Gấu xém điên cái đầu!
Thôi, tốt hơn hết, hãy “lói” về cặp
cẳng của em.
Khi em đi 1 đường ghé cái
xô pha,
Thì chẳng khác gì
tên quản giáo mở gói quà
Trong gói quà có
cái bánh ngọt
Trong cái bánh ngọt,
cái giũa xinh xinh
Nó giũa tên em,
Như giũa cái cùm, quanh
cổ Gấu Cà Chớn
Hà, hà!
Charles Simic
Note: Post
trên FB thời gian ở Lào, không vô Tin Văn được.
Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai
ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên
ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là
ánh sáng
còn tôi thì làm
bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống
bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có
lẽ, sự thương hại.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
Osip
Mandelstam
Trong The Noise of Time, Tiếng động của thời
gian, lời giới thiệu, có một giai thoại thật thú
vị liên quan tới Pasternak, vụ bắt nhà thơ Osip Mandelstam
và một cú phôn của Bác Xì, từ Điện
Cẩm Linh.
Liền sau khi Osip bị bắt, nhà
thơ được Stalin đích thân hỏi tội. Đây là
một đặc ân chưa từng một nhà thơ nào được hưởng,
do quyền uy của nhà thơ [perhaps the profoundest tribute ever
paid by the Soviet regime to the power of Mandelstam’s pen]. Do chính
Boris Pasternak kể lại.
Một bữa bà vợ Mandelstam đến gặp ông
năn nỉ xin can thiệp để Osip được thả. Đó là lần
đầu tiên ông biết Osip bị bắt. Cả hai không hề là
bạn thân. [Ngay cả về thơ, thì hai ông cũng đếch
chịu nhau, theo như Pasternak nhận xét, thơ Osip từ trong sáng
qua hũ nút, còn Pasternak, từ rắc rối qua giản dị]. Tuy
nhiên, do bà vợ M. năn nỉ quá, P. hứa sẽ làm
hết sức mình. Đúng vào thời gian đó, có
một ông to lắm ở trong BCT lăn cổ ra chết, và theo đúng
nghi thức, xác của ông ta phải chường ra tại Nhà
Hội [the Columned Hall of the House of Unions], cho những quan Xô
Viết đến thăm lần chót. P. đến, và nhận thấy trong đám
này có Bukharin, và bèn tới năn nỉ giùm
bà vợ Osip. B. nói, khó đấy, nhưng sẽ cố. Vài
đêm sau đó, một đêm, trong bữa tụ tập tại nhà
P. giữa đám Bọ L., Bọ
PXN… [?], thì điện thoại reo. Giọng người bên đầu kia hỏi,
có đồng chí Pạt tẹc nặc đó không; đồng chí
Xì muốn nói chuyện, từ điện Cảm Linh. Một lát sau,
có giọng nhừa nhựa nghe ra dân Georgian:
-Phải Pạt đó không?
Đây là Xì ta lìn.
-Good Evening, Comrade Stalin. By the way, this
is not a leg-pull, is it? [Này đừng có bịp tụi này
nhé]
-No, no, this is Stalin, all right.
Nghe tên Stalin cả phòng im ắng. Pạt
nói:
-Hiện trong phòng có 26 người. và
họ đều đang nghe. Có được không? [Does that make
any difference?]
Xì nói, OK, này, về Mandelstam,
thì sao?
-Tôi muốn làm điều gì đề giúp
anh ấy.
-Anh có nghĩ, anh ta là một nhà
thơ bảnh, a very good poet?
-Đồng chí Xì. Đồng chí cũng
biết là chẳng nên hỏi một nhà thơ, anh ta
nghĩ gì, về một nhà thơ khác. Cũng như chẳng
ai hỏi một người đàn bà đẹp, về một người đàn
bà đẹp khác.
-Đồng chí nói như vậy, có
nghĩa là, đồng chí không khoái thằng
chả đó? [Then am I to take it you don’t think much of him?]
-Không, không, đồng chí lầm
rồi. Tôi là một nhà thơ thật khác
ông ta. Chỉ có vậy. Tôi nghĩ, ông ta là
người viết bảnh, a good writer.
-“Tốt lắm, cám ơn”. Ngưng. “Tại sao không
ghé tôi chơi?”
-Cái này thì hơi bị kẹt. Đúng
ra, ở địa vị đồng chí, thì đồng chí phải mời,
thì tôi mới dám tới.
Xì cười lớn và chúc Pạt một
buổi tối ra trò. Ngày hôm sau Mandelstam được
thả. [Nhưng chẳng được lâu].
*
Chói lọi mới chẳng trói
lại!
Này đừng có bịp tụi này đấy
nhé!
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Happy New Year
Mung Ba Tet with Family in Vientiane Lao -
Thơ
Mỗi
Ngày
«Ne pas vivre plus qu'on ne peut se souvenir »
Đừng sống quá cái
sức nhớ của mi ? Sống tới đâu, nhớ tới đó.
Sống tới đâu, đọc tới đó, sống tới đâu
khổ tới đó….
Hà, hà !
http://tanvien.net/new_daily_poetry/Borges_Page.html
Bất giác lại nhớ Mai Thảo, và một lần
ngồi Quán Chùa. Ông nhắc tới TTT, và
nói, hắn ta nói, mi cầm một cây lao, quay
người lại, và phóng về quá khứ. Cây
lao cắm tới chỗ nào, là hồi nhớ của mi tới đó
!
Sau đó, có lần
ngồi với ông anh, nhân nhắc tới bạo động trong
thơ của ông, Gấu bèn nhớ tới giai thoại trên,
bèn kể. Ông anh chắc là cũng thấy thú,
bèn xì ra 1 kỷ niệm, 1 lần dậy học, ở cuối lớp có
1 tay học trò chỉ lo dỡn, ông bực quá, bèn
vo cái khăn lau bảng thành 1 cục, và thẳng tay
ném tới anh học trò, rồi quát, mang nó
lên đây.
Quả bóng bay tới chỗ anh
học trò, anh cúi xuống nhặt, líu
ríu mang lên cho ông Thầy.
The Just
A
man who cultivates his garden, as Voltaire
wished.
He
who is grateful for the existence of music.
He
who takes pleasure in tracing an etymology.
Two
workmen playing, in a café in the South,
a
silent game of chess.
The
potter, contemplating a color and a form.
The
typographer who sets this page well,
aaathough
it may not please him.
A
woman and a man, who read the last tercets
aaaof
a certain canto.
He
who strokes a sleeping animal.
He
who justifies, or wishes to, a wrong done him.
He
who is grateful for the existence of a Stevenson.
He
who prefers others to be right.
These
people, unaware, are saving the world.
Translated
by Alastair Reid from: “Insomnia”, Six Poems by
Jorge Luis Borges, Harper’s Magazine, February, 1999
Tên chính trực
Tên
đờn ông, kẻ săn sóc mảnh vườn
của hắn, như Voltaire mong muốn
Kẻ
biết ơn sự hiện hữu của âm nhạc
Kẻ
lấy làm hài lòng, khi đi 1 đường tầm nguyên
Hai
công nhân lặng lẽ nhâm nhi 1 ván
cờ ở 1 quán cà phê ở xứ Nam
Kít
Tên
thợ máy nhà dây thép chiêm ngưỡng và
kính trọng BHD, ây a, xin lỗi, một màu
sắc, một hình thể
Người
thợ in, làm trang sách này thật
ra hồn, tuy nhiên, đã chắc gì,
anh ta thích thú?
Một
người đàn bà, và một người đàn
ông, đọc đoạn thơ cuối của 1 khổ thơ nào
đó
Một
kẻ nào đó, ngủ đi anh, mộng bình
thường, như 1 đứa con nít, hay 1 con mèo
đang ngái ngủ trên tay em!
Kẻ
chỉnh lý hay mong chỉnh lý, một lầm
lỡ mà ai đó, gây ra cho anh ta
Kẻ
biết ơn có Stevenson ở trên đời này
Kẻ
thích những kẻ khác có lý.
Những
người này, không biết, là họ
đang cứu vớt thế giới
PAUL CELAN RECALÉ
AU NOBEL
Paul Celan, “xém", được Nobel [recalé:
failed, hụt]?
En 1966, la poétesse allemande Nelly Sachs et
l'écrivain israélien Samuel Joseph Agnon obtenaient le
prix Nobel de littérature. Mais qui figurait sur la liste de
sélectionnés ?
L'Académie suédoise a rendu publiques
ses archives, qui révèlent la présence du nom de
Paul Celan. Ainsi le prix Nobel manqua un monument de la poésie.
L'auteur de « Lait noir » ne fut jamais couronné
et se suicida en 1970. Autre surprise, dans cette liste : la
large représentation de la littérature française
à travers Marcel Pagnol, René Char, Henry de Montherlant,
Jean Giono, Henri Bosco et Jean Anouilh.
Viện Hà Lâm Thụy Điển cho khui hồ
sơ Nobel, có tên Paul Celan.
Như thế là giải Noebl đã bỏ qua
1 "đài thơ". Tác giả "Sữa Đen" chẳng bao giờ được
trao tặng vòng hoa Nobel, và tự trầm vào
năm 1970.
http://www.tanvien.net/TG_TP/Paul_Celan.html
Paul Celan
Mẹ có đau khổ không mẹ ơi
PAUL CELAN AND LANGUAGE
JACQUES DERRIDA
Q: Would you say that one must
have been, like Celan maybe, capable of living the death of language
in order to try to render that experience "live"?
A: It seems to me that he had
to live that death at each moment. In several ways. He must have
lived it everywhere where he felt that the German language had
been killed in a certain way, for example by subjects of the German
language who made a specific use of it: the language is manhandled,
killed, put to death because it is made to say in this or that way.
The experience of Nazism is a crime against the German language. What
was said in German under Nazism is a death. There is another death,
namely the canalization, the trivialization of language, of the German
language for example, anywhere, anytime. And then there is another death,
which is the one that cannot happen to language because of what it is,
that is to say: repetition, slide into lethargy, mechanization, etcetera.
The poetic act thus constitutes a kind of resurrection: the poet is someone
who is permanently involved with a language that is dying and which
he resurrects, not by giving it back some triumphant aspect but by making
it return sometimes, like a specter or a ghost: the poet wakes up language
and in order to really make the "live" experience of this waking up, of
this return to life of language, one has to be very close to the corpse
of the language. One has to be as close as possible to its remains. I wouldn't
want to give in to pathos too much here, but I suppose that Celan had constantly
to deal with a language that was in danger of becoming a dead language.
The poet is someone who notices that language, that his language, the language
he inherits in the sense I mentioned earlier, risks becoming a dead
language again and that therefore he has the responsibility, a very
grave responsibility, to wake it up, to resuscitate it (not in the
sense of Christian glory but in the sense of the resurrection of language),
neither as an immortal body nor as a glorious body but as a mortal body,
fragile and at times indecipherable, as is each poem by Celan. Each poem
is a resurrection, but one that engages us with a vulnerable body that
may yet again slip into oblivion. I believe that in a certain way all
of Celan's poems "remain indecipherable, keep some indecipherability,
and this decipherability can either call interminably for a sort of interpretation,
a resurrection, new breaths of interpretation or fade away, perish again.
Nothing insures a poem against its death, because its archive can always
be burned in crematory ovens or in house fires, or because, without being
burned, it is simply forgotten, or not interpreted or permitted to slip
into lethargy. Forgetting is always a possibility.
From an interview with Evelyne
Grossman, Europe 861-62
(January -February 2001): 90-91.
Ông muốn nói, một
người phải, như Celan, thí dụ, có khả năng sống
cái chết của ngôn ngữ để làm cho kinh nghiệm
này thành “sống”?
Theo tôi, ông ta
phải sống cái chết đó từ mỗi thời điểm, khoảnh
khắc. Theo một vài đường hướng. Ông ta phải sống nó
ở mọi nơi, một khi mà ông ta cảm thấy, rằng, cái
ngôn ngữ Đức đã bị làm thịt, theo một cách
nào đó, bởi lũ Nazi Đức. Lũ này đã
sử dụng tiếng Đức một cách đặc biệt để hưởng lợi, trục lợi,
từ đó [nước Mít là một, sông có
thể cạn núi có thể mòn, song chân lý
này không bao giờ thay đổi, thí dụ]: Tiếng nói,
ngôn ngữ Mít bị lũ VC thao túng, làm
thịt, khi bắt phải nói thế này, thế nọ, nói
khác là đi tù cải tạo mút mùa lệ
thủy. Kinh nghiệm Nazi/VC là một tội ác đối với ngôn
ngữ Mít/Đức. Điều được nói dưới chế độ VC/Nazi là
một cái chết. Còn một cái chết khác, là
đào rạch, tầm thường hóa ngôn ngữ, bất cứ lúc
nào, bất cứ ở đâu. Và rồi còn 1 cái
chết khác nữa, một cái chết đúng ra không
thể xẩy ra cho ngôn ngữ, bởi vì nó là ngôn
ngữ, đó là, sự lập đi lập lại, chìm vào
hôn mê, máy móc hoá, etcetera. Hành
động thơ ca do đó tạo ra một hình thức tái sinh,
nhà thơ là một người thường trực mắc míu với một
ngôn ngữ đang chết, và anh cố làm nó tái
sinh, không phải bằng cách đem cho nó một khiá
cạnh, sắc thái huy hoàng, chiến thắng nào đó,
nhưng mà là, làm cho nó, đôi khi,
trở lại như một bóng ma [Ta về như bóng ma hờn tủi. TTY]:
nhà thơ đánh thức ngôn ngữ, và như thế, anh
ta thực sự làm “sống’ cái kinh nghiệm đánh thức
đó, cái sự trở về lại với đời sống của ngôn ngữ, người
phải luôn luôn thật cận kề với cái cái xác
thân ngôn ngữ. Người phải gần gụi tới mức tối đa mà
người đó có thể, với cái còn lại, tro cốt,
tro than của ngôn ngữ. Tôi không muốn làm cái
trò thở than, vãi linh hồn ở đây, nhưng tôi
giả dụ, đề xuất rằng thì là Celan đã phải hằng hằng,
liên luỷ ăn thua đủ [deal] với 1 ngôn ngữ đang trong cơn nguy
nàn trở thành 1 ngôn ngữ chết. Nhà thơ là
một kẻ nào đó, và kẻ này nhận ra rằng ngôn
ngữ, ngôn ngữ của anh ta, ngôn ngữ mà anh ta thừa
hưởng như tôi mới vừa nói, có nguy cơ lại trở thành
1 ngôn ngữ chết, và do đó, anh ta có trách
nhiệm, một trách nhiệm nặng nề, là đánh thức nó
dậy, làm cho nó tái sinh [tái sinh ở đây
không có nghĩa tràn đầy hào quang, ân
sủng theo Ky Tô giáo, nhưng mà là theo nghĩa,
sự tái sinh của ngôn ngữ), không phải như là
một cái bất tử, cũng không phải như là 1 cái xác
đầy vinh quang [như Xác Ướp của Bác ở trong Lăng Ba Đình,
thí dụ đểu!], nhưng là 1 cái xác phàm
có sống có chết, mảnh mai, mỏng manh, và đôi
khi, không thể giải mã, như mỗi bài thơ của Celan. Mỗi
bài thơ là 1 tái sinh, một sự tái sinh khiến
chúng ta có thể dấn thân vào 1 cơ thể tầm thường,
yếu ớt, rất dễ bị tổn thương, và có thể, rất dễ lại chìm
vào cõi mê, vào giấc hôn thụy. Tôi
tin rằng, theo một đuờng hướng nào đó, tất cả những bài
thơ của Celan không thể giải mã được, chúng giữ 1
cái sự không thể giải mã nào đó. Và
cái sự không thể giải mã này kêu gọi
một thứ "lại dẫn giải", một tái sinh, những hơi thở mới của diễn
giải, hay... diễm xưa dần, và lại điêu tàn,
huỷ diệt. Chẳng có gì bảo đảm [insure: bảo hiểm] một bài
thơ chống lại cái chết của nó....
Note: Bài viết của Derrida,
tuy ngắn, nhưng thật quan trọng, về 1 vấn nạn mà Mít
gần như lơ là, tức là về ngôn ngữ Mít,
sau Lò Cải Tạo.
Khi dịch "Phép Lạ Hổng",
của Steiner, Gấu đã lờ mờ nhận ra điều này, và
chôm 1 câu trong bài, làm đề từ cho
bài điểm cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc
Tấn:
For let us keep one fact clearly
in mind: the German language was not innocent of the horrors
of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ
Đức không thơ ngây vô tội trước những điều
ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép
Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
In Memoriam Paul Celan
Lay these words into the dead
man's grave
next to the almonds and black
cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops,
eyes,
and Thou, O bitterness that pillows
his head.
Lay these words on the dead man's
eyelids
like eyebrights, like medieval
trumpet flowers
that will flourish, this time,
in the shade.
Let the beheaded tulips glisten
with rain.
Lay these words on his drowned
eyelids
like coins or stars, ancillary
eyes.
Canopy the swollen sky with sunspots
while thunder addresses the ground.
Syllable by syllable, clawed and
handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour of lamentation,
the void's turn, mournful and
absolute.
Lay these words on the dead man's
lips
like burning tongs, a tongue of
flame.
A scouring eagle wheels and shrieks.
Let God pray to us for this man.
NTST Poems
"And miles to go before I sleep/ And
miles to go before I sleep.
"And miles to go
before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see
that the same words have two different meanings. In the first
of the last two verses, the words stand for miles and going and
sleeping. And in the last line, sleep stands for death.
And that, I think, is the chief achievement
of Frost. He could write poems that seem simple, but every
time you read them you are delving deeper and finding many winding
paths and many different senses. So Frost has given us a new idea
of metaphor. He gives us metaphor in such a way that we take it as
a simple, straightforward statement. And then you find that it is
a metaphor. "And miles to go before I sleep/ And miles to go before
I sleep." There we see that the same words have two different meanings.
In the first of the last two verses, the words stand for miles and going
and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.
Borges:
Và đó là thành
tựu “lớn nhất, chủ, trùm...” [chief] của Frost. Ông
có thể viết những bài thơ xem ra thì thật
giản dị, nhưng mỗi lần chúng ta đọc, là mọi lần
chúng ta đào bới sâu thêm, và tìm
ra không biết bao nhiêu là lối đi, và
nghĩa nghiếc khác nhau.
Và thế là thi sĩ đem tới
cho chúng ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông
cho chúng ta ẩn dụ, theo cái cách mà
chúng ta coi nó như là 1 phát biểu
tự nhiên, giản dị, thẳng 1 lèo. Và thế rồi, bạn
ngộ ra, đây là 1 ẩn dụ:
Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!
Ông [Borges] đồng ý với…
Gấu, ẩn dụ không đơn giản, nhiều khi, tưởng là
ẩn dụ, nhưng thực sự, là đốn ngộ, là mặc khải.
Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa
hè “Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung",
nhìn sang nhà hàng xóm, thấy
cái áo cánh trắng phất phơ bay trong gió,
ngạc nhiên tự hỏi, áo ai nhỉ, và nhớ ra
là Loan, đi học Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ
là bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "siêu hình
mà nói", Dũng khám phá ra tình
yêu của mình!
Đoạn
văn dưới đây là phần chính bài
nói chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
trong Đêm Thơ Vũ Hoàng Chương ngày
16-1-1975 tại phòng trà Khánh Ly,
đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm
Tuyền
Sự hiện diện
của các bạn cùng chúng tôi hôm nay
là một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Chẳng những cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm
thơ - không biết, không thể làm gì khác
- mà còn cho tất cả mọi thi sĩ và qua các
thi sĩ là một cuộc tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh
Thơ? Tại sao tôn vinh Thơ? Thơ quan hệ chi đến
đời sống chúng ta? Sướng ích chi mà
có những người để một đời như Vũ Hoàng
Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có
thể không biết - thật chăng? Có lẽ cũng
chỉ là một cách nói riêng của
thi sĩ. Riêng chúng ta có biết, chúng
ta biết tận trong thâm tâm chúng ta, biết
qua động cơ thúc đẩy cuộc hội họp tối nay được chính
chúng ta dấu diếm bằng những lý lẽ rất tầm
thường hằng ngày. Chúng ta biết rằng chúng
ta muốn gặp mặt nhau, nhìn mặt nhau đêm nay: “Lũ
chúng ta lạc loài năm bảy đứa - Bị quê hương
ruồng bỏ giống nòi khinh.” Chúng ta biết rằng
khi mọi giá trị thiêng liêng đều chẳng
còn đáng gì, đều bị liệng bỏ dần dọc
theo đời người thì thơ vẫn còn lại. Phải thế chăng?
Dù cho thơ có thể chẳng thay thế được các
giá trị thiêng liêng. Không là
giá trị thiêng liêng - có bao giờ
thơ như thế? - thì nó vẫn ở cùng trong đời
sống chúng ta - như lúc này, giây phút
này đây - và nó đủ năng lực để cuốn
đời sống chúng ta đến chân trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng
chúng ta đang sống, sống lạ lùng, sống với ta và
sống với người.
Chúng ta
còn có thể nói đến những điều
ghê gớm hơn nữa về thơ nhưng rồi thơ lại còn
có thể vượt ra ngoài mọi điều ghê
gớm ấy. Tuy nhiên nói cho đến cùng (biết
đâu là cùng?) Thơ vẫn chỉ là
lẽ thường của đời người, là sự thường của kiếp sống -
ngắn ngủi và vô hạn như một tiếng hát.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non
đá lở, này sông cát bồi.
Và
lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống
là Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống
với mọi người rốt cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là
sống với một số người nào đó, một bộ lạc nào
nhất định. Nói như Đinh Hùng Thơ là
“tiếng ca bộ lạc.” Đêm nay chúng ta quây
quần nơi đây nào khác, như giữa đám
rừng dầy hung bạo có ngọn lửa kia đốt lên và
tiếng trống kêu gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng
thẳm của Thơ mời chúng ta đến tôn vinh cho Thơ. Thơ
như nhịp trống bập bùng gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn,
cầm chân ta ở lại vui chơi, giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn
vinh cho Thơ cũng là tôn vinh qua các
thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm thơ,
không biết và cũng không thể làm
gì khác. Giữa chúng ta có một
vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ.
Làm thơ hành động tối thậm phi lý,
mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa
đời người vào cõi phi lý. Ngõ
ngách phi lý ấy là chính
chúng ta, cõi phi lý ấy chính là
đời chúng ta. Như đêm nay không giống
mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống
một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi,
quên lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối
duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì
vẫn là cái “không thể làm” được ở
đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không
làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải
không? Tự nhiên cái sự thể nó
như thế. Trầm trọng cũng là tự nhiên của
thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm
nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm
thơ suốt một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ
Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn
xanh bóng trăng” từ “Phách ngọt đàn
say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng
phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị
thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn
chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta không
thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến
đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng
ta trong giây phút này có biết chúng
ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang
biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm
với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là
một cách nói thôi. Như Trang nói
chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có
“tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm bao lớn.”
Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn
đời? Ai biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người
làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói.
Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói
chi những chuyện ấy. Thơ là lời và
hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần
nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng
Chương.
16-1-1975
(Văn, giai phẩm,
14-2-75)
AT 1:50 PM
Nguồn
Điều Borges phán, về ẩn dụ, cũng
chính là điều TTT phán, về… thơ, khi
ông vinh danh Vũ Hoàng Chương trước khi mất "nước
Xề Gòn":
“Thơ là lời hơn lời”
Cái đấng thi sĩ dởm Nguyễn Đăng
Thường, “khiêm tốn” nhận thơ của hắn ta là thơ
đời thường, ngôn ngữ đời thường, suốt đời không
làm nổi, chỉ 1 câu thơ, đọc không nổi bài
thơ Dạ Khúc, của TTT, làm sao “ngộ” ra được chân
lý giản dị trên, thơ là lời hơn lời. Vẫn là
lời – ngôn ngữ đời thường như hắn nói – nhưng cũng
chính ngôn ngữ đó, hơn lên 1 tí,
là thành thơ:
In the first of the last two verses,
the words stand for miles and going and sleeping. And in
the last line, sleep stands for death.
Câu thơ trước, cầm tay xin địa
chỉ
Câu thơ sau, thì đã
là ngàn thu sau!
http://www.tanvien.net/Viet/HNB_Case.html
Chiều ngồi quán
Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng
làm thơ thì phải có "một chút
Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Chúa
ơi!
Rõ ràng là, bài
Dạ Khúc của TTT, không đọc được, thì làm
sao đọc... Beckett?
HNB
Case
“The tears of the world
are a constant quantity. For each one who begins
to weep somewhere else another stops. The same is true of
the laugh.”
― Samuel Beckett, Waiting
for Godot
Trong những điều được
nói về Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt,
hoặc tô điểm. Duy có điều này: Nó
thực sự là một địa ngục.
-Nước mắt cũng có
hạn. Nơi này đổ ra nhiều thì nơi khác
dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói,
đừng lạm dụng cảm xúc?
-Người ta chỉ đọc khi
xúc động. Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc
của độc giả cũng như của chính mình.
NQT: Bụi
Cái truyện ngắn
Bụi, của GCC, được viết ở Trại Cấm
Sikiew, Thái Lan. Đúng thời gian đó,
Gấu vớ được "Trong khi chờ Godot", bản tiếng Anh.
Câu, “Nước mắt cũng
có hạn… “, hóa ra chôm của Beckett,
lúc nào không biết, nó ăn mẹ
vô tiềm thức, rồi phọt ra.
Cũng thế với Beckett,
hà, hà!
Một cách nào
đó, ông viết, ở 1 Trại Cấm nào
đó, những câu văn thần sầu của ông.
Thua, thua nữa, thua cho bảnh, là từ
Worstward Ho:
“All of old. Nothing
else ever. Ever tried. Ever failed. No matter. Try again.
Fail again. Fail better.”
― Samuel Beckett, Worstward
Ho
Trong
cuốn tiểu sử của ông, Trầm Luân vào
Danh Vọng, “Damned to Fame”, chương dành cho Thua
Cho Bảnh, "Fail Better", chứng minh điều GCC phán,
Beckett viết văn từ 1 trại tị nạn. Đúng hơn, từ cái
bóng của Lò Thiêu, đúng hơn nữa, ông
viết cho nạn nhân Lò Thiêu.
Một số từ ngữ mà
ông sử dụng trong "Tiến Lên Tàn
Mạt, Già Hồ", là để mô tả tình
trạng thiếu ăn của nạn nhân Lò Thiêu
Nếu Nazi có giải
pháp chót, thì Beckett có
“grand finale”, chữ của Beckett. Kịch “Catastrophe”, thảm
họa, viết bằng tiếng Pháp – bà vợ của ông,
Suzanne, dùng từ này, khi biết tin ông
được Nobel văn chương - được Beckett đề tặng Vaclav Havel.
Sau khi ra tù, Havel chơi 1 cái kịch đáp
lễ, Lỗi Lầm, “The Mistake”. Hai kịch bổ túc cho nhau. Havel
nói với một đấng Mẽo, một cách khiêm tốn,
tôi không có ý đứng ngang hàng
với ông ta, như là hai nhà soạn kịch - đừng
bắt hai ông đứng kế nhau nhe, Thầy Phúc - "I am not suggesting
that I am equal as a playwright to Samuel Beckett".
Beckett phải mất 7 tháng
chỉ để viết bản nháp đầu tiên, the
first draft, của Worstward Ho, [Hồ,
Hồ, Tiến Lên Tàn Mạt. “Hồ, Hồ”, là
từ tiếng reo hò, thời cả thế giới ủng hộ Bắc Kít].
Vào thời gian, trong mùa đông 1981-82,
ông suy sụp, bịnh, Ông viết cho bạn, "Chiến đấu
với văn xuôi bất khả. Tiếng Anh. Với tởm lợm”:
BACK IN PARIS for the
summer, after meeting his German publisher, Dr. Siegfried
Unseld, for coffee in the PLM hotel on Sunday morning, August
9, 1981,84 Beckett returned to his desk to write three brief
paragraphs of a new piece of prose in English. After starting
with his 1960s concern with imagining "a body" and "a place"
where there was neither, he wrote: "All before. Nothing else
ever. lwer tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail again.
Fail better." The will to "fail better" provided this text with
its initial impetus. And, in order to fail better, the strategy Beckett
adopted was to strive for the worst.
He
took his cue from Edgar's speech in King
Lear. He copied out quotations from three different
points in the speech into his little commonplace book:"The
lamentable change is from the best, / The worst returns to laughter";
"Who is't can say, I am at the worst"; and "The
worst is not so long as one can say, This is the worst." For some
time, when he alluded to his new text in letters, he entitled it
"Better worse." Later on, he called the book Worstward Ho,
playing on the title of Webster and Dekker's play Westward Hoe
(1607) and Charles Kingsley's better known novel Westward Ho! (1855).
At one level, the text, like III Seen III Said,
is concerned with the failure of language:
when anything is said, it must inevitably be missaid. So language is
deliberately pared down, reduced to a few lexical items assembled
in a variety of combinations, so that it reaches out toward an
"unworsenable worse." It is part of the strategy to be rid of Romantic
accretions. So images evoking human memories or literary allusions
are excised. That at least is how it first appears.
Bạn, đọc văn Mít Butor,
cũng 1 thứ “Romantic” mà Beckett vứt vô sọt
rác (to be rid of).
Vậy mà thất bại rực rỡ.
Kiệt tác!
Chỉ nội mấy dòng GCC trích
dẫn, là đủ chửi bố mấy đấng bịp bợm!
Và, quả đúng, hai
đấng này, không đọc nổi Beckett!
Cái thất bại được thấy
ra, chỉ ra, từ Beckett, một phần, là do/của ngôn
ngữ: Khi cái gì được nói ra thì
nó bắt buộc phải là nói trật, trìa:
When anything is said, it must inevitable be missaid.
Thê thảm hơn thế nhiều,
đây là hiện tượng đói ăn, thiếu dinh
dưỡng, chết dần chết mòn, không phải chỉ của
ngôn ngữ, mà là của nạn nhân Lò
Thiêu.
“Every word is like
an unnecessary stain on silence and nothingness.”
― Samuel Beckett
Mọi từ thì
cũng như vết trầy không cần thiết lên im
lặng và hư vô.
V/v Không đọc được.
GCC đã từng thú nhận,
không đọc được Dickinson, và không chỉ
Dickinson, mà còn nhiều nhà thơ khác,
và trước đó, không đọc được thơ.
Tuy nhiên, chưa bao giờ không
đọc được, mà chê 1 tác giả, như NDT và
bà Huệ, chủ diễn đàn Gió O. Bà
này chê thơ TTT, thua cả thơ Nguyễn Đăng Thường,
và Nguyễn Đăng Thường cũng nhân đó, bèn
chê TTT tơi bời hoa lá cành. Sa-đích.
[Không phải từ của GCC]. Thua cả thơ Đỗ Quí Toàn!
Ui chao đến thơ TTT mà còn
không đọc được, thì làm sao đọc được
Beckett?
Lê Thị Huệ: So sánh hai bài thơ "Tiễn Một Nguời Vào
Dĩ Vãng Đậm Màu" với bài thơ
"Phục Sinh" của Thanh Tâm Tuyền. Là một
khoảng cách lớn lao. Bài Phục
Sinh làm dáng và rỗng, chỉ được cái
phá cách, self-esteem vào thời đó.
Bài "Tiễn Một Người Vào Dĩ Vãng Đậm
Màu", già dặn, trí tuệ cũng phá
cách nhưng cái phá cách của một lõi
trí. Anh có tự cảm thấy
cái khoảng cách chữ nghĩa giữa anh và nhà
thơ lãnh tụ thơ Tự Do thời 1960 ở Việt Nam.
Nguyễn Đăng Thường: Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền được công nhận
là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ tôi
là ngôn ngữ đời thường, có thể chưa
được đóng mộc. Khi nhại, hay cập nhựt Bài Ngợi
Ca Tình Yêu của Thanh Tâm
Tuyền với tựa đề mới Bài Ngợi Ca Chó Đá,
tôi nghĩ tới nội dung bài thơ
của Thanh Tâm Tuyền, và hiện tình đất nước
ta hôm nay nhiều hơn ngôn ngữ, dù nội dung và
hình thức như hình với bóng, không
thể tách đôi. Tác phẩm bị giễu nhại vẫn còn
y nguyên, nhưng đã có thêm những tác
phẩm song đôi. Tác phẩm bị, được giễu nhại nhiều nhứt,
là bức tranh La Joconda, cho ra
đời vô số những tranh "nhại họa" vô cùng thú
vị. Salvador Dalí cũng nhại tranh Andy Warhol với các
tranh Marilyn Mao. Các lãnh tụ
độc tài vì bất an nên rất sợ bị chế giễu. Cậu Ủn
Bắc Hàn là một thí dụ.
http://www.gio-o.com/NguyenDangThuong/NguyenDangThuongPhongVan4.htm
Thơ của vị bằng hữu NTST có tới
tam tuyệt, cực kỳ cao ngạo, cực kỳ cao sang, và cũng
cực kỳ tâm sự, riêng tư - đúng như thế,
GCC chưa từng khen ai theo cái kiểu đãi bôi, hay,
phán loạn cào cào, không có
chứng từ dẫn chứng, nhưng quả có 1 sự rắc rối, khó
hiểu, ở đây.
Vị này, Nam Kít, và,
dân Nam, họ rất ưa xuề xòa.
Tâm sự, riêng tư, OK, nhưng
cao ngạo, cao sang, vô lý quá, hà,
hà!
Đàn bà ba miền, theo GCC,
cái gọi là cao sang, thường là thuộc
dân Huế.
Tinh tế, tế nhị, Bắc Kít.
Nam Kít, kể như chẳng có
gì hết.
Vậy mà bà này, ôm
"tam tuyệt" vào thơ của bà, quái dị
thực!
Ngồi một lát cho ấm ghế
đá
Một lát
thôi lệ ấm bàn tay
Ui chao, chỉ cần hai câu thơ thôi,
là đã ôm hết cả cõi thơ, cả
cõi đàn bà, vô mình rồi!
NQT
Phục sinh
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo
đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu
tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ
sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho
nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì
thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang
tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn
đời
tôi gào tên tôi thảm
thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh
từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết
người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh
tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi
tôi thèm sống như thèm
chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành
trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật
TTT
Bài "Phục Sinh" làm dáng
và rỗng, chỉ được cái phá cách,
self-esteem vào thời đó.
LTH.
self-esteem? [tự sướng?].
Chắc cũng giống xeo phi?
Và chắc là do câu thơ “tôi
gọi tên tôi cho đỡ nhớ"?
Nhớ, lần cả đám bạn ông em, Thất
Hiền, xúm nhau lại "tra tấn" ông anh vì bài
thơ này, vì cái từ "sao", trong "buổi chiều
'sao' vỡ vào chuông giáo đường"....
"Ðâu phải mưa ô buy
vào thành phố"...
1954, vào Nam, thi sĩ Thanh
Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên
có những dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những
dòng nhạc của một "Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội",
hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ
loáng thoáng, trong tập "Tôi không còn
cô độc", đã một thời làm ngơ ngẩn cả đám bạn bè
hồi cùng học trung học.
Ngớ ngẩn, đúng hơn.
Số là Phạm Năng Cẩn rất mê
câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại
khiến Nguyễn Quốc Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô
buy là mưa gì? Tôi nhớ là, bạn Cẩn
ngớ ra, và... cương đại: mưa ô buy là một thứ
mưa bụi (buy biến thành bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim cương
trên những chiếc áo Mùa Thu, Hà Nội!
Sủng coi bộ không hài
lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong
lúc cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ
trả lời: ô buy là một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô
buy là mưa đại bác, mưa trái phá!
Sau này tôi được biết,
người miền nam gọi trái phá là trái
ô buy. Họ gọi phạm nhe là người y tá, và
hồi mới vào Sài Gòn, tôi đã
từng khổ sở vì không hiểu nghĩa của nó, sau
cùng truy ra, là do từ tiếng Pháp, infirmier.
Nước Pháp, “hóa thân”
vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa
thân” vào từ ô buy, và được một nhà
thơ miền bắc âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi
chao số phận của “trái đại bác” Tây, nhờ một miền
đất, rồi nhờ một nhà thơ, biến thành cơn mưa bụi ở một
miền đất khác, trong cùng một quê nhà,
sao mà may mắn hơn cái từ chiên hẩm hiu thế!
Bởi vì không phải ngẫu
nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”:
ông vẫn bị những cơn mưa từ cái thành phố
mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không
phải ngẫu nhiên mà ông bạn ngày xưa
của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh....
Patti Page
Patti Page, who has died aged
85, had a huge hit in the United States with How Much Is That
Doggie In The Window? and became the biggest-selling female star
of the 1950s.
Patti Page, nữ danh ca số 1
của 1 thời, đã mất, thọ 85 tuổi
Ui chao, Em này đúng
là thần tượng của Anh Cu Gấu nhà quê Bắc
Kít.
Và có thể - có thể gì
nữa - của nhà thơ TTT, vì nhà thơ hẳn
là cũng quá mê em, và Jazz.
O, Let me go, lover, Smoking my sad cigarette… Trong Tôi Không Còn Cô Độc,
TTT cũng có vài bài vinh danh Jazz, hình
như thế.
Trong Liên Đêm.
Thí dụ bài này, nền của
nó chẳng là tiếng kèn của Jazz ư:
Dạ khúc
Anh sợ những cột đèn
đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến
công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán
rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã
nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than
van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng
dậy
người bán hàng đã ngủ
sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai
(1)
Bài thơ này có
1 giai thoại thú lắm, do chính thi sĩ kể và
được 1 em ca sĩ xì ra. Bài thơ được phổ nhạc và
mấy em cứ hát sai đi [chắc là cố tình] "đưa
em vào quán trọ".
Nghe nói, thi sĩ bực
lắm.
Nếu là Gấu, thì không
bực!
Bài thơ thần sầu,
Anh là thằng điên
khùng
Ôm em trong tay mà đã
nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát
mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Chiều ngồi quán
Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng
làm thơ thì phải có "một chút
Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Chúa
ơi!
Note: Tên này, bửn thực!
NQT
Hắn ta có thể chê thơ
TTT, hơn thế nữa, khi ông còn sống, nhóm Sáng
Tạo còn, vì hắn sống cùng thời với họ.
Bài viết của hắn, đúng là thứ “ai
điếu” mà Brodsky chửi, 1 thứ thuốc thử đạo hạnh của những
tên còn sống, khi viết về những người đã chết.
Cũng thế, là những gì mà tên Lang Băm
viết về Gấu, khi núp váy 1 người đàn bà,
viết cực kỳ nhơ bửn về TTT, về NXH. Bởi thế mà GCC mới dám
phán, lũ Mít viết văn làm thơ, cả từ Bắc cho
tới Nam, thiếu hẳn “cái gọi là” đạo hạnh. Một tên
thi sĩ như tên “TMBLCP”, thì chôm thơ Joseph trên
trang Tin Văn, rồi phán, đọc đâu đó trên Thời
Tập, trong khi hắn đã từng được TTT coi là bạn, và
đã từng được ông làm thơ tặng nữa, tếu thế!
Đi tù VC, TTT mang theo Beckett.
Viết về Beckett, là để tặng cô con gái.
Lạ, cực lạ.
Và Gấu giải thích, cô con
gái của ông là hình ảnh của Hà
Nội, thành phố “nền” của tập thơ đầu tay của ông,
"Tôi không còn cô độc". Bài thơ
“Dạ Khúc”, nền của nó, là Jazz, với những hình ảnh Hà
Nội, "nửa đêm Hà Nội", mà tên sĩ chuyên nghề nhạo nhại thơ người, không
làm sao nhận ra, do đố kỵ.
Cái gì làm cho
TTT nhắc tới Beckett?
Theo Gấu, có 1 cái gì
đó liên hệ giữa ông và Beckett, nếu
như chúng ta chấp nhận cái nick mà Steiner
ban cho Beckett, trong 1 bài viết trên The New Yorker,
“Master of nuance and scruple” [Sư phụ của sắc thái và
ngần ngại”].
Không thể viết sau Trại Tù của TTT,
tương tự sự câm lặng của Beckett.
Beckett's reductio of language-Echo's Bones,
the title of his early book of verse, is a perfect designation-relates
to much that is distinctive of modern feeling. "It was the same,
the word is not too strong" exhibits the tense playfulness oflinguistic
philosophy. There are passages in Beckett nearly interchangeable
with the "language exercises" in Wittgenstein's Investigations;
both stalk the vapid in- flations and imprecisions of our common speech.
Act Without Words (1957)
is to drama what "Black on Black" is to painting, a display of final
logic. Beckett's silences, his wry assumption that a rose may indeed
be a rose but that only a fool would take so scandalous a proposition
for granted or feel confident of translating it into art, are akin
to monochrome canvas, Warhol statics, and silent music. But with a
difference. There is in Beckett a formidable inverse eloquence. Words,
hoarded and threadbare as they are, dance for him as they do for all
Irish bards. Partly this is a matter of repetition made musical; partly
it springs from a cunning delicacy of to and fro, a rhythm of exchange
closely modelled on slapstick. Beckett has links with Gertrude Stein
and Kafka. But it is from the Marx Brothers that Vladimir and Estragon
or Hamm and Clov have learned most. There are fugues of dialogue in
Waiting for Godot-although "dialogue:' with its implication
of efficient contact, is painfully the wrong word-that come nearest
in current litera-
ture to pure rhetoric:
VLADIMIR: We have our reasons.
ESTRAGON: All the dead voices.
VLADIMIR: They make a noise like wings.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like sand:
ESTRAGON: Like leaves.
Silence
VLADIMIR: They all speak at once.
ESTRAGON: Each one to itself.
Silence
VLADIMIR: Rather they whisper.
ESTRAGON: They rustle.
VLADIMIR: they murmur.
ESTRAGON: They rustle.
Silence
VLADIMIR: What do they say?
ESTRAGON: They talk about their lives.
VLADIMIR: To have lived is not enough for
them.
ESTRAGON: They have to talk about it.
VLADIMIR: To be dead is not enough for them.
ESTRAGON: It is not sufficient.
Silence
VLADIMIR: They make a noise like feathers.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like ashes.
ESTRAGON: Like leaves.
Long silence
STEINER: OF NUANCE AND SCRUPLE
Note: V/v cái từ, tiếng Tây,
Beckett, dịch
qua tiếng Anh, sau dịch trở lại tiếng Pháp, thì cái
từ tiếng Pháp, không còn sử dụng được nữa, bữa
nay kiếm ra rồi:
http://www.tanvien.net/Souvenir/Daily_Notes.html
Nói về đặt tít, thì,
nếu Sến cực độc, cực ngắn, gọn, thí dụ, sửa giùm
Gấu những cái tít như Dịch Là Cướp, Miếng Cơm Manh Chữ…
khi Gấu còn cắp rổ theo hầu Sến, và Chợ Cá còn,
thì Cô Tư, cực thần sầu trong cái gọi là
“chiều sâu tâm linh” của từ, thí dụ "Xác
Bụi", "Cúi Xuống Là Đất"...
Gấu Cái lần đầu đọc,
chỉ nội cái tít "Cúi Xuống Là Đất",
là đã lắc đầu bái phục.
Nhưng, 1 cách nào
đó, Gấu Cái bảnh hơn Cô Tư, ở cái phần
“viết như không viết”, như em Sad Seagull của Gấu nhận ra,
hà, hà!
Em phán, Miền Nam của
Thảo Trần bảnh hơn Miền Nam của Cô Tư, vì chưa nhiễm
độc Bắc Kít.
Cô Tư, do gia đình hình như cũng
có tí mắc mớ với Cách Mạng, nên khác
Thảo Trần, có chồng là nhà văn Ngụy, đi tù
VC nhiều lần!
Thua xa… Beckett.
Với ông này cái
tít đúng là tử công phu. Gấu mới lôi
cuốn về Beckett, trên, mua từ đời nào, ra đọc.
Hóa ra thì là Cioran cũng đã
từng gọi Beckett là 1 vì phong nhã.
Trong bài viết ngắn của
ông về bạn mình, Cioran viết về từ Lessness,
của Beckett, dịch từ “Sans”, tên 1 tác phẩm tiếng
Tẩy của Beckett. Cioran bị hớp hồn, ”envouté”, bởi từ này,
và một bữa, un soir, ông biểu bạn, tôi không
làm sao tìm ra 1 từ tiếng Tẩy nào tương đương
với nó [tất nhiên, không phải từ “sans” mà
nó được dịch từ đó ra].
“Tôi không thể nào
ngủ được nếu không kiếm ra 1 từ ra hồn, honorable. Thế là cả
hai bù đầu kiếm, bằng cách kết hợp những từ chung quanh hai
từ sans, và moindre. Và khi từ giã,
cả hai đều thất vọng.
Trở về nhà, Cioran vẫn khổ với nó,
cho đến lúc ông bật ra ý nghĩ, hay là
mò từ nguồn la tinh, và ngày hôm sau,
ông viết cho Beckett, cái từ sinéité,
và tuyệt vời làm sao, cũng
đúng lúc đó, Beckett kiếm ra từ này.
Đúng là 1 giai thoại thần sầu. TV post
sau đây, để chứng minh, là không phịa ra.
Le texte francais Sans s'appelle en anglais Lessness, vocable
forgé par Beckett, comme il a forgé l'équivalent
allemand Losigkeit. Ce mot de
Lessness (aussi insondable que l'Ungrund de Boehme) m'ayant envouté , je
dis un soir à Beckett que je ne me coucherais pas avant d'en
avoir trouvé en francais un équivalent honorable ...
Nous avions envisagé ensemble toutes les formes possibles suggerées
par sans et moindre.
Aucune ne nous avait paru approcher de l'inépuisable Lessness, mélange de privation et d'infini, vacuité
synonyme d'apothéose. Nous nous séparames plutôt
décus. Rentré à la maison, je continuai à
tourner et retourner dans mon esprit ce pauvre sans. Au moment ou j'allais capituler, l'idée me
vint qu'il fallait chercher du côté du latin
sine. J'écrivis le lendemain à Beckett
que sineité me semblait le mot rêvé.
II me repondit qu'il y avait pensé lui aussi, peut-être au
même instant. Notre trouvaille cependant, il faut bien le reconnaitre,
n'en était pas une . Nous tombâmes d'accord qu'on devait
abandonner l'enquête, qu'il n'y avait pas de substantif francais
capable d'exprimer l'absence en soi, l'absence à l'état
pur, et qu'il fallait se résigner à la misère métaphysique
d'une préposition.
E.M. Cioran: Quelques rencontres.
Về cái từ “người phong
nhã”, "l’homme noble", thì Cioran viện tới hai đấng,
Maitre Eckhart và Nietzsche, cũng đã từng viết về
từ này, tức là về Beckett và với Gấu, thì
thêm vô, ông bạn Bạn!
Re: TTT.
TTT ngay từ khi mới xuất
hiện, là đã bị chửi tơi bời hoa lá cành
rồi.
Đâu phải đợi đến khi ông nằm xuống, để được
1 tên cũng cùng thời với ông, là NDT lôi
thơ ra chê đâu.
Nhưng thà là như thế.
Một khi 1 tác giả đã mất đi, viết về họ,
là cả 1 "tử công phu" theo Gấu. Phải có 1 cái
nhìn hết sức đứng đắn, và hơn thế, phải có những
phát hiện mới về tác giả mà mình đề cập
tới.
Bạn NL đọc TTT, coi Liên Điêm là
bi khúc, tuyệt.
NQT
Hôm
trước đang nói dở câu chuyện về "bi ca" tức "élégie",
Rilke và nhà thơ Việt Nam nào thực sự viết
"bi ca", thì vướng tí chút lộn xộn :p nên
giờ mới nói tiếp được.
Bi ca là một vấn đề hết sức lớn của văn chương
phương Tây. Tôi từng dịch một bài (xem ở
đây), một người đã gọi ngay một người là
"élégiaque", tức là một cách vinh danh
rất lớn; vì kinh ngạc quá nên tôi đã
dịch ngay bài ấy: hai ông thầy của tôi, một trực
tiếp, một gián tiếp, xưa kia chẳng ưa gì nhau, thế mà
về già lại đổ đốn đi ca ngợi nhau :p
Thơ Việt Nam nếu có một thứ rất đặc biệt, thì
là "thơ thể hành".
Đặc điểm của thơ thể hành là rất dễ làm.
Ai cũng làm được, gần gần như lục bát. Tôi chỉ
cần ngồi năm phút là tạo ra được một bài nhìn
qua rất là giống "Tống biệt hành" (không hề nói
phét). Lời lẽ hoang vắng, đầy mélancholie và
nostalgie, chữ nghĩa khúc khuỷu, nhịp thơ uất hận vân
vân. Nhưng đó là nhìn vẻ ngoài.
Thơ thể hành dễ làm nhưng có một đòi hỏi
cốt yếu, chệch một li là hỏng: bài thơ phải thực sự nhất
khí quán hạ. "Thăm mả cũ bên đường" của Tản Đà
chưa hề ăn thua, mà tôi thấy đỉnh cao của thể này chính
là "Giời mưa ở Huế" của Nguyễn Bính.
Người ta rất ca ngợi bài "Ta về" của Tô Thùy
Yên, nhưng đó là một bài thơ hỏng.
Còn bi ca? Nhà thơ Việt Nam duy nhất viết
bi ca là Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong tập Mặt trời tìm
thấy, là một kiệt tác lớn:
bài bi ca này của Thanh Tâm Tuyền
còn đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của nó đặt vào
tương lai, một hiện tượng rất quái gở....
Cái sự kiện, khi TTT nằm xuống, được hải ngoại vinh
danh, là do thái độ đạo hạnh của ông, hơn là
do thơ, theo GCC.
Bài viết trên đây, nhớ là Tin
Văn cũng đã lèm bèm về nó rồi, nhưng không
làm sao kiếm ra được..... Thơ TTT, theo Gấu, đi đúng
cái đường mà Brodsky nhận xét, về 1 thi sĩ thứ
thiệt, càng già càng bảnh.
Nhất: Thơ tù. Rồi tới Liên Đêm,
rồi tới Tôi không còn cô độc....
Nhưng Tôi không còn cô độc
có những nét cực kỳ ngây thơ, của TTT khi còn
trẻ, ở Hà Nội, cái gì gì, "nụ hôn
đầu ôm mái tóc lang thang", thí dụ.
Tks
NQT/Đài Sử
Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên ngọc
trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh sáng
còn tôi thì làm bằng bóng
tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương hại.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/36.html
CELLO
Those who don't like it say it's
just a mutant violin
that's been kicked out of the chorus.
Not so.
The cello has many secrets,
but it never sobs,
just sings in its low voice.
Not everything turns into song though.
Sometimes you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't sleep.
Adam Zagajewski
Hồ Cầm
Kẻ không thích,
thì phán,
Ui dào chỉ là cái
vĩ cầm chưa thành vĩ cầm
Bị dàn nhạc đá văng ra
khỏi bản đồng ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có nhiều bí ẩn,
nhưng không bao giờ sụt sùi,
chỉ hát trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải mọi chuyện
thì đều biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn bắt được một tiếng
thì thầm, hay thỏ thẻ:
Anh Gấu ơi,
Ðêm nay, em cô đơn,
Em không thể ngủ được.
Robert Frost
Stopping By Woods on a Snowy
Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Tạm dịch:
Dừng ngựa bên rừng buổi
chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi
nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi
ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy
kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh
chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng
băng
Vào đúng chiều hôm
cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy
cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó,
này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông
ngựa,
Là tiếng gió thoảng và
tiếng mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và
sâu
Nhưng tôi còn những lời
hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn
Thái Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng
Anh, có cái tít là Những lời hứa
phải giữ, Promises To Keep,
từ thơ Frost.
As to the metaphor, I should
add that I now see that metaphor is a far more complicated
thing than I thought. It is not merely a comparing of one thing
to another-saying, "the moon is like ... ," and so on. No-it
may be done in a more subtle way.
Think of Robert Frost. You of course
remember the lines:
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
If we take the last two lines,
the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement:
the poet is thinking of miles and of sleep. But when he repeats
it, "And miles to go before I sleep," the line becomes a metaphor; for "miles," stands for
"days," for "years," for a long stretch of time, while "sleep" presumably
stands for "death." Perhaps I am doing no good for us by pointing
this out. Perhaps the pleasure lies not in our translating "miles"
into "years" and "sleep" into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This craft of verse
Borges lèm bèm:
Về ẩn dụ, tôi có lẽ nên
nói thêm là, nó rất ư “cà
chớn”, rất rắc rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ.
Nó không giản dị chỉ là so sánh sự
vật này với sự vật khác - thí dụ, "mặt trăng
thì như là... " - Không, nó “tế vi” hơn
nhiều.
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
Nếu lấy hai dòng đầu,
thì nó là 1 câu phán của
thi sĩ, về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông
lập lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm"
biến thành "ngày", thành "năm", và
dài dài mãi ra, và "ngủ", có
nghĩa là, ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc lại bài
thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách
dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm
cái tít!
Những lời hứa phải giữ!
Bài tiểu luận lấy làm
tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí,
On Grief and Reason, của Brodsky,
là viết về [vinh danh] Robert Frost.
Brodsky viết:
Vào năm 1959, trong 1 bữa tiệc
mừng sinh nhật lần thứ 85 của Frost, tại New York, nhà
phê bình sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó,
the most prominent literary critic at the time, Lionel Trilling,
đứng dậy, tay cầm ly rượu có cẳng, goblet, phán,
Robert Frost là nhà thơ khủng khiếp, a terrifying
poet. Lẽ dĩ nhiên, có những tiếng ồn ào tiếp
theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng là từ dành
cho Frost:
Now, I want you to make the distinction
here between terrifying and tragic. Tragedy, as you know, is always a “fait accompli”, whereas terror always
has to do with anticipation, with man's recognition of his own negative potential-with
his sense of what he is capable of. And it is the latter that was Frost's
forte, not the former. In other words, his posture is radically different
from the Continental tradition of the poet as tragic hero. And that difference
alone makes him- for want of a better term-America.
Ui chao, đọc 1 phát, Gấu
nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho Hoàng
Đông Phương!
Between Two Worlds
Brodsky ventures, "American poetry
is essentially Virgilian, which is to say contemplative."
Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu
hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm
thơ sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch
sử Nga, có thể lập lại câu hỏi trên, bằng
cách thay tên Auschwitz bằng 1 cái tên
khác, và sự chứng thực, justification, còn
bảnh hơn, even greater, Auschwitz, bởi vì con số những
người chết trong trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều,
so với Lò Thiêu, hay, như nhà thơ Mẽo, Mark
Strand, đã từng chặn họng, retorted, Adorno: “Làm
sao một người có thể ăn trưa [sau Lò Thiêu]?”
Trong bất cứ trường hợp,
thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm
thứ thơ đó [that poetry].
Thơ ca Mít, nhất là đám
Miền Nam sau 1975, đụng đúng cú này,
và TTT trả lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như
đếch có gì xẩy ra?
Note: Phản ứng của Brodsky, trước câu
phán của Adorno, đúng, nhưng sai, do ông
không làm sao phân biệt được Cái Ác
Nazi và Cái Ác Châu, y chang trường
hợp Auden, hay Hass, không đọc được thơ Osip Mandelstam. Thuật
ngữ thường được dùng cho Lò Thiêu, "không
thể nói được", "unspeakble", đúng ra phải dùng
cho Cái Ác Á Châu.
Nhờ "nói được", qua những kẻ sống sót,
như Celan, Levi.... cho nên Âu Châu sống sót
Cái Ác Nazi, và có thuốc chủng, như
Todorov phán: Khử bằng hồi ức.
Cái Ác Á Châu,
vô phương!
Chúng làm Ác, tạo Ác,
và dửng dưng như không:
Thánh Nhân Bất Nhân, Coi
Thiên Hạ Như Chó Rơm!
Bạn chỉ cho GCC thấy, 1 tên Bắc Kít,
nhỏ 1 giọt nước mắt cá sấu , cho 1 tên Ngụy, đi tù
17 niên, như Thảo Trường, thí dụ?
Memory as a Remedy for Evil
Todorov mở ra cuốn sách
nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như
thuốc trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận
xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của
dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên
Trời", và chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng
con, "Deliver us from evil". Câu này ngụ ý, trong
chúng ta có... quỉ, và
chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng
con. Nhưng chúng con, tức loài người thì lúc
nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và
chính tham vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn
trị.
Cái giấc mơ thống nhất
nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ
toàn trị!
Thế mới chết!
(1)
Todorov
Re: Pourtant,
il affirme qu'« on peut aimer passionnément
la littérature, sans pour autant croire qu'hors
des livres il n'y a point de salut ».
Today at 2:42 PM
“on peut aimer
passionnément la littérature, sans pour autant croire qu'hors
des livres il n'y a point de salut”
Bác Gúc dịch:
One can passionately love literature, without
believing that outside of books there is no salvation
Nôm na, mình yêu sách
nhưng đừng nghĩ chỉ có sách mới cứu!
Bac khoe khong?
I am OK. Tks
Osip
Mandelstam
8
It's true, I lie in the earth, moving
my lips,
But what I say will be learned in
every school:
The round earth is rounder in Red
Square,
And its slope asserts itself, willingly,
The round earth is rounder in Red
Square,
And its slope is vast, unexpectedly
Sloping down-to fields of rice-
As long as one last slave is left
alive.
May
1935
Osip Mandelstam: Voronezh Notebooks
Đúng như thế đấy, tớ nằm trong
lòng đất, mấp máy môi
Nhưng những gì tớ phán
thì sẽ được học trong mọi ngôi trường
Trái đất tròn, tròn
hơn, ở Công Trường Đỏ
Và đường cong của nó,
khẳng định chính nó, rất ư là hài
lòng
Trái đất tròn, tròn
hơn ở Công Truờng Đỏ
Và đường cong của nó
rộng rãi, thênh thang, rất ư là không
ngờ
Đường cong trải dài mãi
ra, tới đồng, tới ruộng
Trải dài mãi
Cho đến khi tên nô lệ
cuối cùng, còn lại.
INTRODUCTION
W. H. AUDEN once complained to Joseph
Brodsky: "I. don't see why Mandelstam is considered a great
poet. The translations that I've seen don't convince me at
all"*-a comment that indicates the conflict between Osip Mandelstam's
reputation as one of the greatest poets of the twentieth century
and his equally notorious impermeability to translation, if not
to comprehension itself. Why is Mandelstam so hard to get at? There is,
of course, the density of his language and imagery and the prominent
role of rhyme and rhythm in his work. He was one of the great “orchestrators"
of language, one of the great masters of sound and cadence, which has
posed enormous-some would say insuperable-obstacles to translation.
Related is the tantalizing, and perennial, question of the differences
between Russian and English poetic practice, a question whose scope and
complexity is beyond my capacity to deal with here. But underlying everything,
I think, is the
* Joseph Brodsky, "The Child of Civilization,"
in Less Than One: Selected Essays (New
York: Farrar, Straus and Giroux, 1987), 142.
unique, the radical demand that Mandelstam
places on his readers. All of Mandelstam's poetry is excavated
from the midden of his experience. This is its fundamental, invariable,
characteristic, and essential principle. There was little
of the theoretician and nothing of the mystic in him; he was
the most earthly of men. One can see this clearly in the highly unusual
way he treats three common poetic images, both in the Voronezh
Notebooks and in his earlier poetry, images through which he
expressed his horror at being separated from life. Not just by death-though
death was a real threat when he was composing the Notebooks -by any-thing
that prevented him from immersing himself in physical, palpable
existence. For Mandelstam, the sky (nebo) most
often suggested not some paradise or heaven but sexless, inhuman,
asphyxiating emptiness. The appearance of stars in his poetry indicated,
as his wife, Nadezhda, pointed out, not a movement toward the eternal
but the shrinking away from the essentially human and, therefore,
the coming to an end of the poetic impulse. And air ( vozduhk)-or
rather the lack of it, one of Mandelstam's greatest preoccupations in
the Notebooks-stood in not as an animating principle, not as some cipher
for the soul, but as an earthly element. It represented the most insistent
of the triad of life's physical necessities-food, water, breath-and by
extension the freedom to move in a physical world..
Looking on a Russian Photograph, 1928/1995
It's the classic picture of
doom. Three great poets stand together in 1928, the Revolution just a decade
old, their hearts and brains soon to be dashed out on the rocks of Russian
fascism, the flower of their achievements destined to be crushed by the new
czar, Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak
- each will die in his own tortured way. Mayakovski, rebuffed
in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930,
at the age of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give
out in 1948, cherished projects betrayed, the fifty-year-old
filmmaker persecuted abroad and closely watched at home. Pasternak,
long denied by his government, will finally survive Stalin - yet,
when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize
in 1958, he will not be permitted to accept, his book burned, his
name excoriated in his homeland.
But there they stand in 1928, brave
young hearts, frozen in triumph, the last symbols of a
civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking
- how lucky they are, these three, able to experience lives of
great crisis and choice. Were they not gifted with an energy
that brought them each full-bore into what Justice Oliver Wendell
Holmes called the "passion and peril of their times"?
We shall all lose, it is inevitable.
The issue is how we lose, on what terms. These three men
played out their lives across the dark landscape of a cursed
country, each sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic
mind tortured them with the impossibility of reason.
I do not seek such death. I choose
the milder climes of the USA circa the late twentieth century
- although these times, less sinister certainly than Stalinist
ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the
largest sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime
is the sterile, timid, cynical soul that is never tested by its
time. Though tests too can be boredom. Luxury, television and the
accelerating sameness of information can be far more ruthless
than war or disease.
So I say-in death, rest. There is
much time later to sleep.
Until then party - party hard, suffer
hard. Live lives suffused with cycles of joy and sorrow.
Participate above all in the travails of your time, as artists
your shoulders equal to all working and struggling people,
neither higher nor lower but equal to its spirit in its own time.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein,
Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver Stone
The Paris Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật. Ở cái
xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay
theo Đảng, phò Đảng thì cũng bảnh, cực bảnh,
như bộ ba trên đây.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein,
Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các
bạn.
Ở cái xứ Bắc Kít,
toàn Kít!
Một bức hình
cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà
thơ lớn chụp chung với nhau vào năm 1928, Cách
Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của
họ sẽ nát bấy ra trên những hòn đá của
phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị
nghiền nát dưới gót giầy của sa hoàng mới của
Nga – Stalin. Eisenstein,
Mayakovski, Pasternak - mỗi người
một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng.
Mayakovski, bị cự tuyệt trong tình yêu, bị cầm tù
tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời 36. Trái
tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ
án nâng niu bị phản bội, nhà làm phim
53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh trừng
chặt chẽ khi ở nhà.
Pasternak, đã
từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối
từ, sau cùng sống sót chế độ Stalin – tuy
nhiên khi tuyệt tác của ông
Bác Sĩ Zhivago được trao Nobel, ông
không được phép đi nhận giải, sách bị đốt,
tên bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng, như bức
hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên
ngang, vào năm 1928, ba trái tim trẻ, can
đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau
cùng của 1 nền văn minh trước khi khùng điên,
ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi, thì lại
nhận ra 1 điều, họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả
ba có thể kinh nghiệm những cuộc khủng hoảng lớn, và
chọn lựa lớn.
Làm sao
Ông đã làm sao...
Tố Hữu
Vào tháng 11 năm 1933,
Osip Mandelstam sáng tác bài thơ
trứ danh “Vịnh Stalin”, ‘người leo núi Cẩm Linh’,
‘kẻ sát nhân tên làm thịt dân
quê’. Tháng Năm 1934, ông bị bắt vì
tội 'phản cách mạng', bị tra hỏi trong 2 tuần, nhưng lạ
lùng làm sao, do lệnh trên ban xuống, không
bị làm thịt hay bỏ tù, mà chỉ bị ‘cách
ly nhưng đừng để chết’. Hai vợ chồng trải qua 3 năm lưu vong ra khỏi
những thành phố lớn; khi trở về, sống giữa đám bạn
bè lòng vòng ở Moscow. Tháng Năm 1938,
ông chồng bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù, và
lần này bị đầy đi Vladivostok, chỉ kịp gửi một cái note,
cho ông em/anh, gửi ‘quần áo sạch’; ông không
thoát được mùa đông tại đó. Bà vợ
sống dai hơn ông chồng 42 năm, nhẩn nha nhớ lại thơ chồng. Chúng
ta được biết những chi tiết hiếm quí đó là qua
hồi ký tuyệt vời của bà vợ, “Hy vọng chống lại hy vọng”
Là một độc giả mê cuốn
hồi ý trên, Robert Litell gặp bà vợ
nhà thơ vào năm 1979, cuộc gặp gỡ ông
kể lại ở cuối cuốn tiểu thuyết của ông, một giả tưởng tái
tạo dựng những sự kiện trong 4 năm, từ khi nhà thơ trước
tác bài thơ vịnh Xì Ta lin, cho tới cái
chết của ông, cộng thêm vào đó là
những giọng nói của Osip, của bạn bè của ông,
của thời của họ, cộng giọng nói giả tưởng hóa của tay trùm
cận vệ Xì….
Tribute
to Hoàng Cầm
Có 2 cách đọc Nguyễn
Tuân?
Không chỉ NT, mà còn
Hoàng Cầm, thí dụ.
Nhưng với HC có tí
khác.
Nói rõ hơn, VC, sĩ
phu Bắc Hà đúng hơn, đọc HC, khen thơ HC,
là cũng để thông cảm với cái hèn
của tất cả.
Của chung chúng ta! (1)
1. Tình cờ ghé Blog
của me- xừ Đông B, ông ta gọi cái
món này là 'mặc cảm dòng chính'!
Hình như tụi Mẽo cũng có
thứ mặc cảm này, 'chỉ sợ mình Mẽo hơn tên
hàng xóm'.
Anh VC thì cũng rứa! Nào
là phục hồi nhân phẩm cho Ngụy, nào
là em về đâu hỡi em khi đời không chút
nắng, đời gọi em biết bao lần!
Khổ một nỗi, khi chúng mất
nhân phẩm thì không thể nào phục
hồi được!
"Tớ phục vụ một cái nghĩa
cả cà chớn, và tớ nhận tiền từ nhân
dân Bắc Kít mà tớ lừa bịp họ với những bài
thơ 'lá liếc' nhảm nhí của tớ. Tớ là một tên
bất lương. Nhưng mà này, bản thân tớ thì
là cái thống chế gì ở đây? Tớ chỉ
là một hạt cát trong Cái Ác Bắc Kít…
Đây là lỗi lầm của cái thời mà có
tớ sống ở trong đó”!
Hà, hà!
Hút
vậy hại sức khoẻ lắm.
Câu ấy ai cũng nói. Nhưng nó
theo cả đời rồi. Mình phải cầm đóm lấy mới
ngon. Để người châm hộ không ngon.
Thật ra sống đủ rồi, không
muốn sống đau ốm, thế nên cho trách giời một
tí.
Khốn nạn thực. Từ hải ngoại tốn
công tốn của, chịu nhục, bò về, để châm
đóm cho nhà thơ, mà vưỡn bị chửi, xê
ra cho người ta hút thuốc lào.
Để mi châm hộ, hút,
mất cả ngon!
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
You
invented me. No such person exists, that's for sure,
There's no such
creature anywhere in sight.
No poet can
quench my thirst, no physician has a cure,
The shadow of
your ghost haunts me day and night.
We met in an
unbelievable year,
The energies
of the world were worn through,
The world was
in mourning, everything sagged with
fear,
And only the
graves were new.
In the absence
of light, how black the Neva grew,
The deaf night
surrounded us like a wall . . .
That's exactly
when I called out to you!
What I was doing-I
didn't yet understand at all.
And, as if led
by a star you came to me,
As if walking
on a carpet the tragic autumn had grown,
Into that house
ravaged for the rest of eternity,
From whence
a flock of burned verses has flown.
1956
Mi phịa ra ta.
Làm gì có cô gái nào
tên là BHD, chắc chắn như thế,
Làm gì
có thứ bông hoa lạ như thế ở khắp mọi
nơi, trong tầm nhìn
Chẳng tên
thi sĩ nào có thể làm dịu cơn
khát của ta, không tên y sĩ nào
có thứ thần dược chữa trị,
Cái bóng
của con ma tình, là mi, tên GCC,
làm khổ ta ngày và đêm
Hai đứa ta gặp
nhau đúng trong cái năm không thể
nào tin tưởng được đó
Nhiệt tình
trọn thế gian đốt trọn cuốn lịch
Thế giới ư, tóc
tang tang tóc, mọi chuyện chùng xuống
vì sợ hãi
Chỉ những nấm
mồ là mới.
Thiếu vắng ánh
sáng, con sông Neva bèn càng
đen thui
Đêm điếc
đặc bao quanh đôi ta như bức tường
Đúng là
vào lúc như thế ta gào tên
mi, GCC!
Ta đang làm
gì đây - Ta chẳng thể nào hiểu
Và, như
thể được 1 vì sao dẫn dắt,
Mi bèn
đến với ta....
Selected and
Translated by Lyn Coffin
OSIP MANDELSTAM
I
July 28, 1957
AND LOZINSKY'S
DEATH SOMEHOW broke the thread of my reminiscences.
I no longer dare to recall things that he cannot corroborate
(about the Poets' Guild, Acmeism, the journal
The Hyperborean, and so forth). In recent
years we rarely saw each other because of his illness and
I didn't get a chance to have a real talk with him about some
important matters or to read him my poems from the 1930s ( Requiem).
Probably that accounts for the fact that he continued to
think of me to some degree as the same poet he had known long
ago in Tsarskoe Selo. This became clear when we were both reading
the proofs of my collection From Six Books
in 1940.
* * *
Something
similar happened with Mandelstam, who of course knew
all my poems, but in a different way. He did not know
how to reminisce rather it was a different sort of process
for him that I don't have a name for now, but something doubtless
akin to creativity. (For example, Petersburg in
The Noise of Time seen through the
bright eyes of a five-year-old boy.) Mandelstam was one of the
most brilliant conversationalists. He didn't just listen to himself
and answer himself, which is what almost everyone does nowadays.
In conversation he was polite, quick to react, and always original.
I never heard him repeat himself or "play the same old record”. He
learned foreign language with unusual ease
Poetry
and History: Polish Poetry
after the End of the World
In 1973, when I was twenty-three years
old, I decided to stop in Warsaw during a year
I was traveling in Europe. From that trip I remember
one chilly gray dusk in particular when I walked through
the neighborhood that had once been the Warsaw Ghetto.
People were bustling home from work, but their activity
only seemed to accentuate the eerie and even ghostly
absence of all those missing persons, an annihilated people.
One didn't need to travel to Auschwitz to feel guilty absence
and palpable vacancy. That night I reread Czeslaw Milosz's poems
"A Poor Christian Looks at the Ghetto," "A Song on the End of the
World," and "Dedication." This last poem was addressed to "You whom
I could not save," and dated Warsaw, 1945. Its key stanza has thereafter
set a standard of moral seriousness in poetry:
What is poetry which does not save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats
will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without
knowing it,
That I discovered, late, its salutary
aim,
In this and only this I find salvation.
Milosz's early poems are all haunted
by survivor's guilt, the poignancy of living
after what was, for so many, the world's end. Poetry
here becomes an offering to the dead, a form of
expiation, a hope for redemption.
Reading the work
of Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz,
and Wislawa Szymborska-the half-generation after
Milosz-I soon discovered that all of postwar
Polish poetry was similarly haunted by guilt, initiated
in the apocalyptic fires of history. These writers
shared an important collective experience, and the
formative nature of that experience helped shape
the spirit of their work. Born in the early 1920s, they
grew up during one of the few periods of independence
in Polish history, but they came of age during the terrible
years of World War II. Poland lost six million people during
the war, nearly one-fifth of its population, and the young
writers felt the almost crushing burden of speaking for
those who did not survive the German occupation. "I am twenty-four
/ led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote in "The Survivor."
It was no boast. No wonder, then, that at the conclusion of
"Dedication"
Milosz asks for the dead to free him:
They used to pour millet on graves
or poppy seeds
To feed the dead who would come disguised
as birds.
I put this book here for you, who
once lived
So that you should visit us no more.
Edward Hirsch: How
to Read a Poem and Fall in Love with Poetry
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết
định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là
khi loanh quanh ở cái khu Ghetto.
Phố phường bận rộn, nhưng hình như càng
làm nặng thêm sự vắng mặt u uẩn
của những người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới
Lò Thiêu làm khỉ gì, chỉ
ở đây thôi mà đã cảm thấy cái
sự trống vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng
được!
Tối hôm đó, tôi
đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những
bài thơ đầu đời thơ của ông, ám
ảnh làm sao, là cái mặc cảm
sống sót, cái nỗi thống khổ, “sống,
sau những cái đó”, cái tận cùng
thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng
tặng cho người chết, một hình thức
cứu chuộc.
Đọc Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz,
and Wislawa Szymborska- nửa thế hệ sau Milosz –
tôi liền khám phá ra là, tất
cả thơ ca hậu chiến Ba Lan thì đúng là
bị ám ảnh bởi tội lỗi, bật ra từ những ngọn lửa tận thế
của lịch sử....
Happy New Year
My Grandfather's' Poems
I remember that he wrote them backwards,
In Yiddish, in tiny, slanting, bird-like
lines
That seemed to rise and climb off the page
In a flurry of winged letters, mysterious
signs.
Scrupulously he copied them out
On the inside covers of his favorite books
While my sister and I romped through the
house
Acting like cops and robbers, cowboys and
crooks,
Whooping, shouting, and gunning each other down
In the hallway between rooms, mimicking
fright,
Staggering from wall to bloody wall before
Collapsing in wild giggles at his feet.
Always he managed to quiet us again,
Kissing us each on the upper part of the
arm,
Tucking us in ... We never said prayers,
But later I could hear him in the next
room
Talking to himself in a low, tearing whisper-
All I could fathom was a haunted sound
Like a rushing of waves in the distance,
Or the whoosh of treetops in the back yard.
For years I fell asleep to the rhythm
Of my grandfather's voice rising and falling,
Filling my head with his lost, unhappy
poems:
Those faint wingbeats, that hushed singing.
Edward Hirsch: The Living Fire, New
and Selected Poems
Thơ của Grandpa
Tớ nhớ là hồi đó đó,
ông tớ thường mần thơ bằng tiếng Mít
Những dòng chữ nhỏ nhắn, nghiêng
nghiêng như những chú chim sẻ
Chúng bò lên, leo lên,
rồi té khỏi trang giấy
Những con chữ xôn xao, náo
động, như có cánh, những ký hiệu bí
ẩn.
Tỉ mỉ, ông tớ chép chúng
vô
Những cuốn sổ “thần sầu” của ông
Trong lúc chị tôi và
tôi đùa rỡn suốt căn phòng
Đóng vai cướp, cớm, cao bồi, kẻ
lường gạt
Cho đến khi mệt nhoài té
xuống 1 đống dưới chân ông tôi
Ông tôi vỗ về hai đứa tôi
Xốc mỗi đứa mỗi bên, kéo tới…
Hai đứa tôi chẳng bao giờ cầu nguyện
Nhưng sau đó, chúng tôi
có thể nghe ông tôi trong phòng
kế bên
Nói với chính mình
Những tiếng thì thầm rời rạc, nhức
nhối, có thể nói như thế
Thứ âm thanh ám ảnh
Giống tiếng nước suối ở 1 nơi thật xa
Hay tiếng sương rơi, từ những chiếc lá
cây sau vườn
Trong nhiều năm tôi ru tôi,
bằng những tiếng thì thầm
Nó dâng lên, rồi trôi
giạt
Những bài thơ mất tích, lạc
loài, bất hạnh của ông tôi
Chắc là thứ nhạc sến mà ông
tôi mang về từ nông trường cải tạo VC ở Đỗ Hòa?
2004
Edward
Hirsch
In Memoriam Paul Celan
Lay these words into the dead man's grave
next to the almonds and black cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops, eyes,
and Thou, O bitterness that pillows his head.
Lay these words on the dead man's eyelids
like eyebrights, like medieval trumpet flowers
that will flourish, this time, in the shade.
Let the beheaded tulips glisten with rain.
Lay these words on his drowned eyelids
like coins or stars, ancillary eyes.
Canopy the swollen sky with sunspots
while thunder addresses the ground.
Syllable by syllable, clawed and handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour of lamentation,
the void's turn, mournful and absolute.
Lay these words on the dead man's lips
like burning tongs, a tongue of flame.
A scouring eagle wheels and shrieks.
Let God pray to us for this man.
Simone Weil:
The Year of Factory Work (1934-1935)
A glass of red wine trembles on the table,
Untouched, and lamplight falls across her shoulders.
She looks down at the cabbage on her plate,
She stares at the broken bread. Proposition:
The irreducible slavery of workers. "To work
In order to eat, to eat in order to work."
She thinks of the punch clock in her chest,
Of night deepening in the bindweed and crabgrass,
In the vapors and atoms, in the factory
Where a steel vise presses against her temples
Ten hours per day. She doesn't eat.
She doesn't sleep. She almost doesn't think
N ow that she has brushed against the bruised
Arm of oblivion and tasted the blood, now
That the furnace has labelled her skin
And branded her forehead like a Roman slave's.
Surely God comes to the clumsy and inefficient,
To welders in dark spectacles, and unskilled
Workers who spend their allotment of days
Pulling red-hot metal bobbins from the flames.
Surely God appears to the shattered and anonymous,
To the humiliated and afflicted
Whose legs are married to perpetual motion
And whose hands are too small for their bodies.
Proposition: "Through work man turns himself
Into matter, as Christ does through the Eucharist.
Work is like a death. We have to pass
Through death. We have to be killed."
We have to wake in order to work, to labor
And count, to fail repeatedly, to submit
To the furious rhythm of machines, to suffer
The pandemonium and inhabit the repetitions,
To become the sacrificial beast: time entering
Into the body, the body entering into time.
She presses her forehead against the table:
To work in order to eat, to eat ...
Outside, the moths are flaring into stars
And stars are strung like beads across the heavens.
Inside, a glass of red wine trembles
Next to the cold cabbage and broken bread.
Exhausted night, she is the brimming liquid
And untouched food. Come down to her.
For the Sleepwalkers
Đêm đêm, như 1 tên
mộng du, một mình mi tìm cách trở về
lại Saigon, trở lại Quán Chùa....
Tonight I want to say something
wonderful
for the sleepwalkers who have so
much faith
in their legs, so much faith in
the invisible
arrow carved into the carpet, the
worn path
that leads to the stairs instead
of the window,
the gaping doorway instead of the
seamless mirror.
I love the way that sleepwalkers
are willing
to step out of their bodies into
the night,
to raise their arms and welcome
the darkness,
palming the blank spaces, touching
everything.
Always they return home safely,
like blind men
who know it is morning by feeling
shadows.
And always they wake up as themselves
again.
That's why I want to say something
astonishing
like: Our hearts are leaving
our bodies.
Our hearts are thirsty
black handkerchiefs
flying through the trees at night,
soaking up
the darkest beams of moonlight,
the music
if owls, the motion
if wind-torn branches.
And now our hearts are thick black
fists
flying back to the glove if our
chests.
We have to learn to trust our hearts
like that.
We have to learn the desperate faith
of sleep-
walkers who rise out of their calm
beds
and walk through the skin of another
life.
We have to drink the stupefying
cup of darkness
and wake up to ourselves, nourished
and surprised.
Edward Hirsch: The Living Fire
Đêm nay Gấu muốn
phán một điều thật là cực bảnh tỏng
Dành cho những tên
mộng du đặt quá nhiều niềm tin vào cặp giò
của chúng
Quá nhiều niềm tin vào
sự vô hình
Vào... người đi qua tường
Mũi tên khắc vào
tấm thảm,
lối đi rách mòn đưa tới
cầu thang thay vì cửa sổ
lối cửa mở thay vì tấm gương liền
Gấu cực mê cái kiểu mà
những tay mộng du
thèm bước ra khỏi cái túi
thịt thối tha - từ của Phật Giáo để gọi cái
body thật thơm, thật ngon như múi mít của… -
và đi vào đêm đen
Tay giơ lên chào mừng bóng
tối
Gấu biết đến tay này,
là qua bài thơ tưởng niệm Brodsky. Sau đó,
chơi mấy cuốn của chả. Cực mê Simone Weil, và mấy
tay dính dáng tới Lò Thiêu.
The Incident of the Dead Face
[1925]
"Please
come see her. This is what's become of her. Oh, how she wanted
to see you once more." The man's mother-in-law spoke as she
hurriedly led him to the room. The people at his wife's bedside
all looked toward him at the same time.
"Please
take a look at her." His wife's mother spoke again' as she
started to remove the cloth covering his wife's face.
Then
he spoke suddenly, in spite of himself. "Just a moment. Could
I see her alone? Could you leave me alone with her here in the
room?"
His
words aroused sympathy in his wife's family. They quietly left,
closing the sliding partition behind them.
He removed
the white cloth.
His
wife's face had stiffened into a pained expression in death. Her
cheeks were hollow and her discolored teeth protruded from between
her lips. The flesh of her eyelids was withered and clung to her eyeballs.
An obvious tension had frozen the pain in her forehead.
He sat
still for a moment, staring down at this ugly dead face. Then,
he placed his trembling hands on his wife's lips and tried to
close her mouth. He forced her lips shut, but they fell open limply
when he released his hands. He closed her mouth again. Again it opened.
He did the same thing over and over, but the only result was that the
hard lines around his wife's mouth began to soften.
Then
he felt a growing passion in his fingertips. He rubbed her
forehead to try to relieve its look of grim anxiety. His palms
grew hot.
Once
more he sat still, looking down at the new face.
His
wife's mother and younger sister came in. "You're probably tired
from the train ride. Please have some lunch and take a rest. . .
. Oh!" Tears suddenly trickled down the mother's cheeks. "The human spirit
is a frightening thing. She couldn't die completely until you came
back. It's so strange. All you did was take one look at her and her
face became so relaxed.... It's all right. Now she's all right."
His
wife's younger sister, her eyes clear with an unearthly beauty, looked
into his eyes, which were tinged with madness. Then she, too, burst
into tears.
JMH [J.Martin Holman]
Note: Valentine's Day. Kèm
với Thơ, Tin Văn
đi vài đường truyện ngắn!
Câu chuyện về bộ mặt của người
chết.
“Xin tới nhìn mặt nàng”. “Ôi
chao nàng mới mong làm sao, được nhìn mặt
chồng một lần chót”.
Bà mẹ vợ hối hả nói trong lúc
dẫn người con rể vô căn phòng. Tất cả những người
có mặt trong căn phòng, cùng lúc cùng
nhìn về phía người mới bước vô.
“Hãy nhìn cô ta”, người mẹ vợ
vừa nói vừa kéo tấm vải che mặt người chết.
Người chồng bất thình cất tiếng. “Xin chờ
1 chút. Xin cho phép tôi được ở một mình
với cô ta”
Có sự thông cảm trong gia đình
người vợ. Họ rời căn phòng và kéo cánh
cửa phòng lại sau họ.
Người chồng lúc này bèn kéo
tấm vải che mặt vợ.
Bộ mặt bà vợ bày ra nỗi đau của cái
chết. Má trũng xuống, răng vêu khỏi lợi, mi mắt không
1 chút sinh khí, như dính chặt vào
tròng mắt.
Rõ ràng là nỗi thống khổ của
cái chết như đóng băng trên mặt người quá
cố.
Người chồng cứ thế ngồi 1 lúc, nhìn
xuống mặt người vợ của mình ngày nào.
Rồi anh ta để những ngón tay run rẩy của
mình lên môi vợ, cố tìm cách
khép môi nàng lại.
Cặp môi cố cưỡng lại. Và anh chồng
cố, cố, cố nữa.
Và cặp môi sau cùng đành
mềm ra 1 tí.
Anh chồng cảm thấy 1 nỗi đam mê dần dần trồi
lên, ở nơi những ngón tay của mình. Anh lấy
tay lau trán, cố xoá nỗi xốn xang, và cảm thấy
lòng bàn tay của mình nóng bỏng.
Và rồi anh chồng ngồi chết sững 1 lúc
lâu, cứ thế nhìn xuống mặt vợ.
Bà mẹ vợ, cô em vợ trở vô phòng.
“Anh chắc còn mệt vì chuyến đi, xin
ra ngoài nghỉ ngơi và sau đó dùng
bữa… Ôi, coi kìa!”
Nước mắt tràn ra từ nơi mắt bà mẹ
vợ.
“Ôi chao, đúng là tình
vợ chồng mới lớn lao làm sao. Con bé không
làm sao đi được cho tới lúc được nhìn thấy mặt
chồng. Coi kìa, lúc này nó mới thanh
thản thế nào!”
Cô em vợ, mặt toát ra 1 vẻ đẹp thánh
thiện, nhìn ông anh rể, trong cái nhìn
có tí man dại, và, bật lên khóc
nức nở.
[GCC dịch]
A letter came from the husband
who had despised her and abandoned her. Two years late,
and from a faraway place.
(Don’t let the child bounce that
rubber ball. That sound reaches me even here. That sound
strikes my heart.)
She took the ball away from her
nine-year-old daughter. Another letter came from her
husband. The address was different from the one before.
(Don’t let the child wear shoes
to school. That sound reaches me even here. That sound
crushes my heart underfoot.)
Instead of shoes, she dressed her
daughter in soft felt sandals. The little girl cried, and
didn’t go to school at all. Another letter came from her husband.
It was only a month after the second one, but in those words he
seemed suddenly aged.
(Don’t let the child eat out of
earthenware bowls. That sound reaches me even here. That
sound shatters my heart.)
She fed her daughter from her own
chopsticks, as though the girl were a child of three. Then
she thought back to happier days when her daughter truly was
a child of three and her husband was at her side.
Impulsively, the little girl went
and took her own bowl from the china cabinet. The mother
snatched it away and hurled it violently against the stones
in the garden. Sound of her husband’s heart shattering. All
at once she twisted her face and flung her own bowl after it. This
sound, is it not her husband’s heart shattering? She heaved
the dining room table into the garden. And this sound? She
threw her whole body against the walls and beat them with her fists.
Flinging herself like a spear through the sliding door, she tumbled
out into the garden beyond. And this?
“Mama, mama, mama!”
Her daughter followed after her,
crying, but she slapped the girl sharply on her cheek.
Oh, hear this sound!
Like an echo of that sound, another
letter came from her husband. From a new address, even
further away than the ones before.
(Don’t make a single sound, either
of you. Stop the clocks in the house. Don’t open or close
the doors. Don’t even breathe.)
“Either of you, either of you, either
of you!”
Tears fell in large drops as she
whispered that—and then all was silent. Not a sound, not
the faintest noise, not ever again. The mother and her daughter
were dead, after all.
And curiously, her husband was dead
alongside them.
CHẾT CHUNG VÌ TÌNH
(Shinjuu, 1925)
Nàng nhận được một lá
thư từ người chồng đã chán ghét mình
và bỏ nhà ra đi. Thư ấy gửi từ một miền xa, bẵng
đi một dạo cũng tới hai năm.
-Đừng cho con chơi với mấy quả bóng
cao su! Ở đây mà còn nghe tiếng động
vọng tới. Tiếng đó như nhói vào tim tôi.
Nàng bèn giằng lấy
quả bóng từ trong tay đứa con gái mới lên
chín.
Lá thư của người chồng lại
đến.Địa chỉ người gửi đề trên phong bì khác
với lần trước.
(-Đừng cho đứa nhỏ đi ủng tới trường!
Ở đây mà còn nghe tiếng chân
vọng tới. Tiếng ủng nó đi như dẫm lên tim tôi).
Nàng bèn cho thay
đôi ủng của cô con gái ấy bằng đôi
dép cỏ đi êm ái hơn. Thế nhưng đứa bé
khóc và hết chịu đi học.
Thêm lần nữa, thư người chồng
lại đến, sau lá thứ hai độ một tháng. Nàng
có cảm tưởng chữ viết trong thư chợt già đi
hẳn. (Đừng cho con ăn cơm bằng bát sành! Ở đây
mà còn nghe tiếng nó vọng tới. Tiếng đó
như phá vỡ tim tôi.)
Nàng mới lấy đũa mình
gắp cơm đút cho con như thể nó mới lên
ba. Và nàng nhớ lại cảnh hồi đứa con gái
mới lên ba, người chồng vui vẻ đứng bên cạnh hai
mẹ con.
Con bé con tự tiện lấy cái
bát sành của nó từ trong chạn bát
mang tới. Nàng bèn giật lấy bát và
giận dữ ném lên phiến đá ngoài vườn.
Có tiếng trái tim của người chồng vỡ tan. Bỗng nhiên
nàng quắc mắt, lông mày dựng ngược, rồi nàng
ném cả cái bát của mình ra luôn.
Không biết tiếng động vừa gây ra có phải là
tiếng động đã làm vỡ trái tim người chồng
hay không? Nàng bèn ném tung cả mâm
bàn ra ngoài vườn. Hay là vì tiếng động
này ? Nàng tông người thật mạnh vào tường
và đưa nắm tay đấm lên tường liên hồi. Thân
hình nàng mới đó còn vướng như một mũi
giáo lên cánh cửa giấy chắn gian buồng, thế mà
đã lọt qua bên kia và đổ gập xuống không biết
lúc nào. Còn cái tiếng này thì
sao?
-Mẹ ơi, mẹ ơi! mẹ ơi!
Nàng đưa tay tát bốp
vào mặt đứa con gái vừa khóc vừa chạy
đến bên mẹ. Nghe cái tiếng này đi nào!
Giống như âm hưởng tiếng động
ấy vọng về, một lá thư khác của người chồng
lại đến.Lần này nó mang dấu bưu điện nơi gửi,
một vùng đất mới và xa xôi.
"Mấy người tuyệt đối đừng gây
thêm một tiếng động nào nữa Đừng đóng
hay mở mấy cánh cửa giấy ngăn buồng. Đừng thở nữa.
Và cũng đừng cho đồng hồ trong nhà mấy người tích
tắc!"
-Mấy người! mấy người! cứ gọi là
mấy người!
Nàng thì thào
và để mặc nước mắt chảy xuống ràn rụa. Thế
rồi nàng không làm bất cứ cái
gì để phát ra một tiếng động nào nữa.
Vĩnh viễn không còn
một tiếng động vo ve.Tóm lại, hai mẹ con nàng
đã chết.
Thế rồi, một điều hết sức kỳ lạ
đã xảy ra: người chồng của nàng cũng thấy
nằm chết trên gối bên cạnh họ.
(Dịch xong ngày
28/02/2009)
http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/nntd074/nntd074_mucluc.htm
Tearing and Mending
(the first three minutes and
seven seconds of
"Hiroshima Mon Amour")
After rewind and replay it's still unclear
how the burned skin of the embrace
flinches into intimacy, into focus,
then changes into dust, then rain;
the tenderness of love's erotesis,
the way her fingers press into the soft
of his back, into its folds and the otherness
of its give asking questions she can never
forget. He answers back, his body ablaze
with remembered dawns, each movement
of his mouth cracked with the fricative
of war; their torn hearts hiding the memory
of shadow and stone, transfigured
into rain, then dust, then flesh and bone.
Rachel Boast
The Griffin Poetry Prize Anthology
2014
Số cũ, có Simic. Số mới,
có mấy bài thật là thần sầu. Câu thơ,
bìa sau, của Seamus Heanley, cũng tuyệt & lạ: Thơ là
ngôn ngữ trên quỹ đạo, Poetry is language in orbit.
The Griffin Poetry Prize, của Canada, được coi là
1 trong những giải thưởng thơ bảnh nhất trên thế giới. Quả
thế thực.
Bèn chứng tỏ, bằng 1 bài thơ của 1
em Tẫu, kèm lời giới thiệu của 1 em mũi lõ.
WANG XIAONI
ELEANOR GOODMAN
Something Crosses My Mind
What is so attractive about Wang Xiaoni's poems
as translated into English by Eleanor Goodman is her quiet, loving,
meditative distance to the mostly anonymous and lonely heroes she
clearly knows well. And her attitude to time, which she keeps dragging
out of its anchored localities (and barely marked history) to extend
and connect, or fuse with specific spaces that she also enlarges in
size and scope. Moments prolong into a century or a life, imaginary beasts
meld with real animals, description becomes an act of meditation. In a few
lines, a village can take on the dimension of a vast landscape - and yet
still remain that particular village. And while Xiaoni's characters may
not speak, they seem to have a real insight into our experience and lives.
In a way nothing much happens in her magic lyricism: the wind blows,
the ocean rises, people work or move from one place to another, or wait,
or just leave some place, and they have souls (which behave like shadows).
Reading her, I found myself repeating Auden's phrase ''About suffering
they were never wrong, / The old Masters." Wang Xiaoni is a terrific contemporary
poet gracefully extending the great classical Chinese tradition.
Seeing the Ocean from a Night Flight
Everything becomes small
only the ocean makes the night's leather clothes
open up the further out it spreads.
Flying north
to the right is Tianjin
to the left is Beijing
two clusters of moths flinging themselves at fire.
Then the East China Sea suddenly moves
the wind brings silver bits that can't be more shattered
and many thick wrinkles whip up
I see the face of the ocean
I see the aged seashore
trembling and hugging the world too tightly.
I have seen death
but never seen death come back to life like that.
Milosz
FLIGHT
When we were fleeing the burning
city
And looked back from the
first field path,
I said: "Let the grass
grow over our footprints,
Let the harsh prophets
fall silent in the fire,
Let the dead explain to
the dead what happened.
We are fated to beget
a new and violent tribe
Free from the evil and
the happiness that drowsed there.
Let us go "-and the earth
was opened for us by a sword of flames.
Goszyce,
1944
Poetry and History: Polish
Poetry after the End of the World
In 1973, when I was twenty-three
years old, I decided to stop in Warsaw during a year
I was traveling in Europe. From that trip I remember one chilly
gray dusk in particular when I walked through the neighborhood
that had once been the Warsaw Ghetto. People were bustling
home from work, but their activity only seemed to accentuate the
eerie and even ghostly absence of all those missing persons, an
annihilated people. One didn't need to travel to Auschwitz to feel
guilty absence and palpable vacancy. That night I reread Czeslaw
Milosz's poems "A Poor Christian Looks at the Ghetto," "A Song on the
End of the World," and "Dedication." This last poem was addressed to
"You whom I could not save," and dated Warsaw, 1945. Its key stanza
has thereafter set a standard of moral seriousness in poetry:
What is poetry which
does not save
Nations or people?
A connivance with official
lies,
A song of drunkards whose
throats will be cut in a moment,
Readings for sophomore
girls.
That I wanted good poetry
without knowing it,
That I discovered, late,
its salutary aim,
In this and only this
I find salvation.
Milosz's early poems
are all haunted by survivor's guilt, the poignancy
of living fi r what was, for so many, the world's end. Poetry
here becomes an offering to the dead, a form of expiation,
a hope for redemption.
Reading
the work of Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz,
and Wislawa Szymborska-the half-generation after Milosz-I
soon discovered that all of postwar Polish poetry was
similarly haunted by guilt, initiated in the apocalyptic fires
of history. These writers shared an important collective
experience, and the formative nature of that experience helped
shape the spirit of their work. Born in the early 1920s, they
grew up during one of the few periods of independence in Polish
history, but they came of age during the terrible years of World
War II. Poland lost six million people during the war, nearly one-fifth
of its population, and the young writers felt the almost crushing
burden of speaking for those who did not survive the German occupation.
"I am twenty-four / led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote
in "The Survivor." It was no boast. No wonder, then, that at the
conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead
to free him:
They used to pour millet
on graves or poppy seeds
To feed the dead who
would come disguised as birds.
I put this book here
for you, who once lived
So that you should visit
us no more.
Edward Hirsch: How
the Read a Poem and Fall in Love with Poetry
IN WARSAW
What are you doing here, poet,
on the ruins
Of St. John's Cathedral
this sunny
Day in spring?
What are you thinking here,
where the wind
Blowing from the Vistula
scatters
The red dust of the
rubble?
You swore never to be
A ritual mourner.
You swore never to touch
The deep wounds of your
nation
So you would not make
them holy
With the accursed holiness
that pursues
Descendants for many
centuries.
But the lament of Antigone
Searching for her brother
Is indeed beyond the
power
Of endurance. And the
heart
Is a stone in which
is enclosed,
Like an insect, the
dark love
Of a most unhappy land.
I did not want to love so.
That was not my design.
I did not want to pity
so
That was not my design
My pen is lighter
Than a hummingbird's
feather.
This burden
Is too much for it to
bear.
How can I live in this
country
Where the foot knocks
against
The unburied bones of
kin?
I hear voices,
see smiles. I cannot
Write anything; five
hands
Seize my pen and order
me to write
The story of their lives
and deaths.
Was I born to become
a ritual mourner?
I want to sing of festivities,
The greenwood into which
Shakespeare
Often took me. Leave
To poets a moment of
happiness,
Otherwise your world
will perish.
It's madness to live without
joy
And to repeat to the
dead
Whose part was to be
gladness
Of action in thought
and in the flesh, singing, feasts,
Only the two salvaged
words:
Truth and justice.
Warsaw, 1945
Nè, tên thi sỡi
kia, mi làm cái trò gì
ở đây,
Trên những điêu
tàn của Nhà Thờ St. John
Vào một ngày
xuân đẹp nắng như thế này?
Mi nghĩ gì, vào
lúc này, khi gió đùa
về đây,
Từ những nát
tan ở khu Vistula,
Bụi đỏ của đá
vụn
Mi thề, mi đếch bao giờ
làm một kẻ khóc
lóc, than thở theo đúng lễ nghi
Mi thề mi chẳng bao
giờ rờ vô
những vết thương sâu
hoắm của nước Mít của mi.
Bởi vì nếu khóc
than như thế là mi biến chúng thành
thiêng liêng
Thứ thiêng liêng
đặc biệt Mít, rất ư khó chịu, thứ thiêng
liêng chết tiệt,
Đeo đuổi dân Mít
từ thuở dựng nước cho tới bi giờ.
Nhưng sự than thở của Antigone
Dành cho người
anh của nàng
Thì vượt quá
cả quyền uy của sự bền bỉ chịu đựng.
Và trái
tim thì là 1 hòn đá,
trong đó có
một tình yêu u tối, như côn trùng,
Của một miền đất cực
kỳ bất hạnh.
Gấu đếch muốn yêu nước
Mít bằng thứ tình yêu cà
chớn đó.
Đó không
phải là sở nguyện của Gấu.
Gấu cũng đếch muốn thương
hại kiểu đó.
Cũng đếch phải sơ đồ
của Gấu
Cây viết của Gấu
thì nhẹ hơn nhiều.
Nhẹ hơn cả một cái
lông… chim!
Thứ gánh nặng
đó, quá nặng cho nó,
Để mà mang, khiêng,
chịu đựng.
Làm sao Gấu sống
ở xứ đó
Khi bàn chân,
đi tới đâu, là đụng tới xương của họ
hàng, bà con,
Những người không
được chôn cất.
Gấu nghe những tiếng
nói, nhìn thấy những nụ cười.
Gấu không thể viết bất
cứ điều gì; năm bàn tay
nắm lấy cây viết
của Gấu và ra lệnh viết
Câu chuyện về
cuộc đời và cái chết của họ.
Không lẽ Gấu sinh ra
để là 1 tên
khóc than theo nghi lễ, Nhà Thờ, hay
Cửa Phật?
Gấu muốn hát
về những lễ hội.
Về cánh rừng
xanh mà Shakespeare
thường rủ Gấu vô
đó chơi.
Hãy để thi sĩ
cho một khoảnh khắc hạnh phúc,
nếu không, thế
giới của bạn sẽ tiêu tùng.
Đúng là khùng
điên, ba trợn,
Nếu sống mà đếch
vui, đếch thú, đếch sướng gì hết!
[Hà, hà!]
Và lập lại những
người đã chết
Lập cái cái
phần vui vẻ, sung sướng hạnh phúc của hành
động,
Trong tư tưởng, trong
thân xác còn tươi rói,
trong hát hỏng, lễ hội.
Chỉ hai từ cứu rỗi:
Sự thực và công
lý
Warsaw, 1945
Thơ và Lịch Sử: Thơ Ba Lan
sau Tận Cùng Thế Giới
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết
định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu
Châu. Kỷ niệm xám xịt, nhất là khi
loanh quanh ở cái khu Ghetto. Phố phường bận rộn,
nhưng hình như càng làm nặng thêm
sự vắng mặt u uẩn của những người đã mất. Bạn chẳng
cần phải tới Lò Thiêu làm khỉ gì, chỉ
ở đây thôi mà đã cảm thấy cái
sự trống vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó,
tôi đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những
bài thơ đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm
sao, là cái mặc cảm sống sót, cái
nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”, cái
tận cùng thế giới đó.
Thơ như thế, là
1 dâng tặng cho người chết, một hình
thức cứu chuộc.
Cái bài
thơ "Bay", nhân ngày Thơ ở xứ Mít, tặng những tên
Bắc Kít may mắn hạ cánh an toàn
ở xứ người, cũng được!
Bay
Khi chúng ta bỏ chạy thành
phố cháy đỏ
Và nhìn
lại từ cánh đồng lúa mì đầu tiên
Gấu phán: Hãy để cho cỏ mọc xóa
vết chân của chúng ta
Hãy để cho những
tên tiên tri, thiên sứ câm
lặng trước ngọn lửa
Hãy để cho người
chết giải thích cho người chết chuyện gì
xẩy ra
Số mệnh của chúng
ta, là cho ra đời một giống Bắc Kít mới, hung bạo
Thoát ra khỏi Cái
Ác Bắc Kít Ngày Xưa!
Nào đi!
Và thế là
mặt đất mở ra cho chúng ta
Bằng một lưỡi gươm lửa!
Brodskiy's study photographed
on June 4, 1972, the same day he was exiled from the Soviet Union.
Photo: Courtesy of Mikhail
Miltchik
Bao thơ tôi, ít nhiều chi,
là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm
gì con người.
"All my poems are more or less about the same
thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky.
Tribute to Dinh Cuong
VHQ
Thơ
Mỗi
Ngày
Văn số sau cùng, ở Sài
Gòn
http://huyvespa.blogspot.com/2017/02/nuoc-mat-truoc-con-muahay-nhung-tap-chi.html
http://www.tanvien.net/tribute/vhc.html
Đoạn
văn dưới đây là phần chính bài nói
chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong Đêm
Thơ Vũ Hoàng Chương ngày 16-1-1975 tại phòng
trà Khánh Ly, đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền
Sự hiện diện
của các bạn cùng chúng tôi hôm nay
là một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Chẳng những cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm
thơ - không biết, không thể làm gì khác
- mà còn cho tất cả mọi thi sĩ và qua các
thi sĩ là một cuộc tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao tôn
vinh Thơ? Thơ quan hệ chi đến đời sống chúng ta? Sướng
ích chi mà có những người để một đời
như Vũ Hoàng Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không biết
- thật chăng? Có lẽ cũng chỉ là một cách
nói riêng của thi sĩ. Riêng chúng ta
có biết, chúng ta biết tận trong thâm tâm
chúng ta, biết qua động cơ thúc đẩy cuộc hội họp
tối nay được chính chúng ta dấu diếm bằng những lý
lẽ rất tầm thường hằng ngày. Chúng ta biết rằng chúng
ta muốn gặp mặt nhau, nhìn mặt nhau đêm nay: “Lũ chúng
ta lạc loài năm bảy đứa - Bị quê hương ruồng bỏ giống
nòi khinh.” Chúng ta biết rằng khi mọi giá
trị thiêng liêng đều chẳng còn đáng gì,
đều bị liệng bỏ dần dọc theo đời người thì thơ vẫn còn
lại. Phải thế chăng? Dù cho thơ có thể chẳng thay
thế được các giá trị thiêng liêng. Không
là giá trị thiêng liêng - có
bao giờ thơ như thế? - thì nó vẫn ở cùng trong
đời sống chúng ta - như lúc này, giây phút
này đây - và nó đủ năng lực để cuốn đời
sống chúng ta đến chân trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng chúng
ta đang sống, sống lạ lùng, sống với ta và sống với
người.
Chúng ta còn có
thể nói đến những điều ghê gớm hơn nữa về thơ
nhưng rồi thơ lại còn có thể vượt ra ngoài
mọi điều ghê gớm ấy. Tuy nhiên nói cho đến
cùng (biết đâu là cùng?) Thơ vẫn
chỉ là lẽ thường của đời người, là sự thường của
kiếp sống - ngắn ngủi và vô hạn như một tiếng hát.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này
sông cát bồi.
Và
lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống là
Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người rốt
cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số người nào
đó, một bộ lạc nào nhất định. Nói như Đinh
Hùng Thơ là “tiếng ca bộ lạc.” Đêm nay chúng
ta quây quần nơi đây nào khác, như
giữa đám rừng dầy hung bạo có ngọn lửa kia đốt lên
và tiếng trống kêu gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi
cùng thẳm của Thơ mời chúng ta đến tôn vinh cho
Thơ. Thơ như nhịp trống bập bùng gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi
tản mạn, cầm chân ta ở lại vui chơi, giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho Thơ cũng là
tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ,
suốt đời chỉ làm thơ, không biết và cũng
không thể làm gì khác. Giữa chúng
ta có một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi
Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành
động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách
phi lý, đẩy đưa đời người vào cõi phi
lý. Ngõ ngách phi lý ấy là
chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính
là đời chúng ta. Như đêm nay không
giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống
một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên
lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối duyên tình
hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái
“không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ
khả nhi vi chi, biết không làm được mà lại cứ làm.
Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên
cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là
tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng
ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một
đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ
“Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng” từ “Phách
ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo
vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị
thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn
chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta không thể
nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu
- hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng ta trong
giây phút này có biết chúng ta
đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết
- biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ như
đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách
nói thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc
chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới
biết được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để
chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói
chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói
miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện
ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến
lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc trong đêm
nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
16-1-1975
(Văn, giai phẩm, 14-2-75)
AT 1:50 PM
Nguồn
VOICES OVER WATER
There are spirits
that come back to us
when we have grown
into another age
we recognize them
just as they leave us
we remember them
when we cannot hear them
some of them come
from the bodies of birds
some arrive unnoticed
like forgetting
they do not recall
earlier lives
and there are distant
voices still hoping to find us
RIVER
Li Po the little
boat is gone
that carried you
ten thousand li
downstream past
the gibbons calling
all the way from
both banks and they
too are gone and
the forests they
were calling from
and you are gone
and every sound
you heard is gone
now there is only
the river
that was always
on its own way
Note: Bài thơ Voices... nhớ là
đã dịch rồi, kiếm hoài không thấy. Bài
thứ nhì, thấy trên net.
LITERATURE
With his New Directions debut in 1938, Delmore Schwartz
was hailed as a genius and among the most promising
writers of his generation. Yet he died in relative
obscurity, wracked by mental illness. Sadly, his literary
legacy has been overtaken by the story of his tragic life.
Among poets, Schwartz was a prototype
for the confessional movement made famous by
Robert Lowell and John Berryman. His stories and
novellas about Jewish-American experience laid the
groundwork for novels by Saul Bellow (whose Humboldt's
Gift is based on Schwartz's life) and Philip Roth.
This volume aims to restore Schwartz
to his proper place in the canon and introduce new
readers to the breadth of his achievement. Included
are selected stories and poems, excerpts from Schwartz's
epic poem Genesis (long unavailable) and his never-completed
book on T. S. Eliot, letters, verse plays, and unpublished
poems.
"Dazzling - a new kind of telling, with urgent bluntness
of its own." -John Ashbery
"Delmore Schwartz catapults past the fickleness of
mere reputation (that posture and position that
Lionel Trilling defined as characterizing a 'figure')
into something close to legend." -Cynthia Ozick
"What complicates and enriches Schwartz's comedy
is a reaching out toward nobility, a shy aspiring
spirituality, a moment or two of achieved purity of
feeling." -Irving Howe
"I wanted to write. One line as good as yours. My mountain.
My inspiration." -Lou Reed
Delmore Schwartz was born in Brooklyn and is one
of America's greatest poets and short-story writers.
Schwartz received the Bollingen Prize in 1959. After
a difficult period, he died of a heart attack in 1966.
Craig Morgan Teicher is a poet and critic whose most
recent book of poems is To Keep Love Blurry. John
Ashbery has won nearly every major American award for poetry,
including the Pulitzer Prize, the National Book Award,
and a MacArthur "Genius Grant." His latest collection is Breezeway.
All Gone into the Dark
Where's
the blind old street preacher led by a little
boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to
himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his
mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese?
Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead?
Rồi tất cả cũng đi vào đêm
tối
Ông
linh mục mù già đường phố được
một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa
Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống
phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn
toàn khoả thân, và rất tự hào
về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz,
có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng
về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn,
được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết
nữa!
Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà
phê
Nhai chả giò, bạn có thể có
linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng
trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình,
về những người chết mới tới?
Charles Simic
LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
Delmore Schwartz
1913–1966
Delmore
Schwartz had, writes Alfred Kazin, "a feeling for
literary honor, for the highest standards, that one can only
call noble—he loved the nobility of example presented
by the greatest writers of our century, and he wanted
in this sense to be noble himself, a light unto the less talented....
So he suffered, unceasingly, because he had often to disappoint
himself—because the world turned steadily more irrational
and incomprehensible—because the effort of his intellectual
will, of his superb intellectual culture, was not always
enough to sustain him.... He was the prisoner of his superb
intellectual training, a victim of the logic he respected
beyond anything else. He was of the generation that does
not come easily to concepts of the absurd."
Mental
illness haunted Schwartz for approximately twenty
years. Marlene Nadle reported that it sent him "in and
out of sanatoriums and into and out of the isolation of
hotel rooms. It was an illness he accepted almost fatalistically."
"Lost he was," said Kazin, "but he was not enough 'lost'
in the demonic poet's tradition of losing himself to this
world and finding himself in a richer world of private vision....
He was not a seer, not a visionary of 'the lost traveller's
dream under the hill,' of the 'holy madness' that Yeats claimed
to find in Ireland itself—the madness that Christopher Smart
knew, and Holderlin, and Blake."
DELMORE SCHWARTZ
He
heard God coughing in the next apartment,
his
life a hospital, he moved from bed to bed
with
us and Baudelaire, except he always had
Finnegans Wake tucked in
his pajamas,
which
must mean, sure as chance,
the
human race is God's phlegm. Penitent,
I
say a prayer in God's throat:
"Mister,
whose larynx we congest,
spit
us into the Atlantic or Hudson ...
let
us be dropped into the mouth of the first fish
that
survived by eating its young-
drink
hot tea and honey Your mother brings You
till
You are rid of Your catarrh, well again.
Let
us swim back to our handiwork."
Far
from the world of Howth Castle, Delmore died
in
a bed-bugged hotel, unclaimed for three days.
A
week before, by chance, I saw him
at
a drugstore counter, doubled over a coffee,
he
moaned, "Faithful are the wounds of a friend,
deceitful
enemy kisses."
He
held my hand too tight, too long .
Melancholy
Eros flew to my shoulder,
spoke
in Greek, Yiddish, and English:
"Wear
his sandals, his dirty underwear,
his
coat of many colors that did not keep him warm."
-Stanley
Moss
NYRB
October 13, 2016
DELMORE SCHWARTZ
Ông nghe Chúa
ho ở phòng kế bên
Cuộc đời của ông
ở bịnh viện,
Từ giường tới giường,
Với chúng tôi
và Baudelaire, ngoại trừ,
Ông luôn
có cuốn
Finnegans Wake cuộn trong quần
ngủ
Nó phải có
nghĩa - chắc như là cơ may –
Con người, là
đờm, rãi của Chúa.
Ăn năn,
Tôi cầu nguyện,
trong cổ họng của Người:
“Thưa Người, chúng
con làm thanh quản của Người tắc nghẽn
Xin khạc chúng
con xuống Atlantic, hay Hudson…
Hãy để chúng
con rớt vô miệng con cá thứ nhất
Sống sót nhờ
ăn thịt lũ con của nó –
Uống trà nóng
và mật ong Mẹ của Người mang đến cho Người
Cho tới khi Người hết
viêm họng, OK trở lại.
Hãy để chúng
con bơi trở lại với việc làm của chúng
con"
Xa thế giới Howth Castle, Delmore mất
Trên cái
giường đầy bọ chét ở khách sạn
Ba ngày chẳng
có ai nhận xác
Một tuần lễ trước đó,
tình cờ, tôi nhìn thấy ông
Ở quầy một tiệm thuốc,
Gập người trên
ly cà phê,
Ông rên
rỉ,
“Tận tụy là
vết thương của tình bạn
Bịp bợm, cái
hôn của kẻ thù”.
Ông cầm tay tôi
thật chặt, thật lâu
Buồn bã, Eros
thổi qua vai tôi,
Nói bằng tiếng
Hy Lạp, tiếngYiddish, tiếng Anh
“Hãy đi dép,
mặc quần áo lót bửn của ông ta,
Cái áo
khoác nhiều mầu không làm ông ta đủ ấm”
Delmore Schwartz
có, Alfred Kazin viết, “cảm
nghĩ về vinh danh văn chương, với những chuẩn mức cao
nhất mà người ta chỉ có thể gọi là
‘phong nhã’ – 'tuồng phong nhã đã
bày ra đấy', ông mê cái phong
nhã của những nhà văn lớn lao nhất của thế
kỷ của chúng ta, và ông muốn ông,
chính ông, cũng được phong nhã như thế,
thứ ánh sáng 'đài gương' soi tới 'dấu bèo'
là ông, 1 tài năng kém cỏi hơn…. Và
thế là ông đau đớn, không ngừng đau đớn, bởi
là vì ông thường xuyên không hài
lòng về mình, bởi là vì thế giới cứ
lầm lầm lũi lũi trở thành vô lý, không
thể hiểu được, bởi vì cái ý chí tinh
thần của ông, cái văn hóa thần sầu của ông,
luôn luôn không đủ để cầm giữ ông… Ông
là tù nhân của sự rèn luyện tinh thần,
bảnh chọe của mình, một nạn nhân của 1 luận lý
mà ông kính trọng hơn bất cứ cái gì
khác. Ông thuộc thế hệ không dễ dàng chấp
nhận những quan niệm về phi lý.”
Valentine's
Day 2017
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/W_Szymborska_1.html
PERSPECTIVE
They passed like strangers,
without a word or gesture,
her off to the store,
him heading for the car.
Perhaps startled
or distracted,
or forgetting
that for a short while
they'd been in love forever.
Still, there's no guarantee
that it was them.
Maybe yes from a distance,
but not close up.
I watched them from the window,
and those who observe from above
are often mistaken.
She vanished beyond the glass door.
He got in behind the wheel
and took off.
As if nothing had happened,
if it had.
And I, sure for just a moment
that I'd seen it,
strive to convince you, O Readers,
with this accidental little poem
that it was sad.
-Wistawa Szymborka
*
Viễn tượng
Họ đi ngang nhau như hai kẻ xa lạ,
Chẳng một lời, một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng xe
Có lẽ nhói một cái,
Hay lơ là một tí
Hoặc lãng quên một tẹo
Và thế là trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất tận
Tuy nhiên chẳng có chi
bảo đảm
Đó là Gấu và CM
Có lẽ đúng là
hai đứa đó
Nếu nhìn từ xa
Đừng dí mắt thật gần
Tôi nhìn hai đứa từ trên
cửa sổ
Và nhìn từ xa, từ phía
bên trên như thế
Thường hú họa
CM biến mất quá cánh
cửa kiếng
Gấu ngồi vô xe
Và tếch
Như chẳng có gì xẩy ra
Giả như có gì
Và tôi, chắc chắn vào
lúc đó
Nhìn thấy như vậy
Và cố gắng thuyết phục bạn,
Ôi nnhững độc giả của tôi
Bằng bài thơ nho nhỏ tình
cờ này
Rằng, buồn, buồn thật đấy
Trong Liêu Trai, có chuyện,
một em chồn, tu luyện tới đỉnh rồi, lỡ gặp 1 em, bèn
mê, thế là đi theo em về, bầu bạn.
Em này,
bị chồng chê, mê tớ gái. Thế là
em chồn bầy cách làm cho em này
đẹp trở lại, và lấy lại được chồng.
Em trả ơn, bằng
cách bầy cho em chồn uống rượu say, để cho ông
chồng làm thịt.
Tỉnh dậy, em chồn
than, ta tu thành tiên, chỉ vì
mê…. gái mà lại trở lại kiếp
chồn!
Trong những tuyển
tập thơ tình, chưa có ai để vô
đó, thứ tình tuyệt vời này, nhỉ?
Cái phim
đang được báo chí khen rầm trời là
1 phim tình “lesbian”, Carol,
hai em mê nhau, phỏng theo tiểu thuyết
của Pạt, Patricia Highsmith, 1 vì nữ hoàng trinh
thám, Gấu cực mê, từ hồi mới lớn.
Ui chao, lại nhớ
đến cô bạn, đúng hơn, cô học trò,
thời gian ở trại cấm Skiew, Thái Lan.
Em than, giá
thầy là.... đàn bà, thì
thầy trò mình tha hồ mà bầu bạn,
mà thủ thỉ!
Em có không
biết bao nhiêu chuyện, để mà kể, mà
chẳng làm sao biết thủ thỉ cùng ai!
CHÙA SIKIEW
Khu C
Bụi
Chiều ngu ngơ phố thị
Ngày ủ dột
Buồn dậy muộn
Câu thơ trong
giấc ngủ bỏ quên
Nhớ em thảm thiết.
Trong câu
thơ chắc có chút hạnh phúc
Cho nên tình
yêu là vất vả đi tìm
Tìm em như
thể tìm chim
Chim bay biển Bắc
anh tìm biển Đông.
Chiều ngu ngơ phố
thị
Mơ gặp em giữa
đám người xa lạ
Với nụ cười thật
ngày xưa
Khi em từ giã.
Kiếp trước tôi
có nợ nần chi ông đâu
Mà sao kiếp
này ông đòi kiếp khác?
Tôi đã
nói ông đừng gặp tôi nhiều
Khi tôi đi
rồi
Ông sẽ khổ
Nhưng thôi
ông hãy quên tôi đi
Quên đi,
quên đi....
Em ở đâu,
ở đâu
Thèm một
chút mồ hôi trên ngấn cổ
Em ở đâu,
ở đâu
Thèm nụ
hôn sầu
Lời biếng nói
Đôi tay mềm
mại
mãi
trong tôi.
Vừa xem lại "The Road Home" của
Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu
hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ có tình
là vĩ đại thôi.
K
NTST Poems
Osip
Mandelstam
Ta không
muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã
tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường....
Toàn bài
thơ, số 21, First Notebook:
21
Not as a butterfly, white as flour,
Will I return to the earth my borrowed dust-
I want my body, intelligent form,
In street and country to be transformed:
Vertebrate body, charred to ash,
Conscious of its own specific size.
Cries of dark green needles of the pines,
Pine wreathes from the depths of wells
Extend our lives and precious time,
Support themselves on death machines-
Red-banner hoops made out of boughs,
Enormous, elementary wreaths!
Comrades of the final call-up rose
To labor in the leaden skies,
In silence the infantry passed by,
Their shouldered arms like exclamations.
And a thousand antiaircraft guns-
Their pupils either brown or blue-
Straggled in disorder-men, men, men-
And who'll come after them?
July 21, 1935-May 30, 1936
OSIP MANDELSTAM
I
July 28, 1957
AND LOZINSKY'S2 DEATH SOMEHOW broke the thread of my
reminiscences. I no longer dare to recall things that he cannot
corroborate (about the Poets' Guild, Acmeism, the journal The
Hyperborean, and so forth). In recent years we rarely saw each
other because of his illness and I didn't get a chance to have a real
talk with him about some important matters or to read him my poems from
the 1930s (Requiem). Probably that accounts for the fact that he continued
to think of me to some degree as the same poet he had known long ago
in Tsarskoe Selo. This became clear when we were both reading the proofs
of my collection From Six Books in 1940.
* * *
Something similar happened with Mandelstam, who of
course knew all my poems, but in a different way. He did not know
how to reminisce rather it was a different sort of process for him
that I don't have a name for now, but something doubtless akin to creativity.
(For example, Petersburg in The Noise of Time seen
through the bright eyes of a five-year-old boy.) Mandelstam was one of
the most brilliant conversationalists. He didn't just listen to himself
and answer himself, which is what almost everyone does nowadays. In conversation
he was polite, quick to react, and always original. I never heard him repeat
himself or "play the same old record”. He learned foreign language with
unusual ease
Thơ
Mỗi
Ngày
NEAREST NAMELESS
So damn familiar
Most of the time,
I don't even know you are here.
My life,
My portion of eternity,
A little shiver,
As if the chill of the grave
Is already
Catching up with me-
No matter.
Descartes smelled
Witches burning
While he sat thinking
Of a truth so obvious
We keep failing to see it.
I never knew it either
Till today.
When I heard a bird shriek:
The cat is coming,
And I felt myself tremble.
Charles Simic: The Voice at 3:00
AM
Xém 1 tí là
đếch có tên
Vô danh thiên địa chi thuỷ
Đạo Đức Kinh
Quí ơi là quí
Thân ơi là thân
Hầu hết thời gian
[Hết cả đời]
Vậy mà Gấu kể như đếch biết
Mi ở đây.
Đời của Gấu,
Một mẩu của vĩnh cửu, của Gấu
Một cú rùng mình nhè nhẹ
Như thể cơn ớn lạnh
Từ.... Văn Điển
Tóm kịp Gấu.
Không sao. No matter. No Star Where!
Descartes ngửi mùi phù thuỷ
bị nướng
Khi ngồi suy tư
Về 1 "chân ný" cực kỳ hiển nhiên
Vậy mà chúng ta đếch làm
sao nhận ra.
Gấu cũng đếch nhận ra
Cho tới bữa nay.
Khi Gấu nghe một con chim la tướng lên:
Con mèo tới kìa!
Và Gấu thấy toàn
thân run lẩy bẩy.
Milosz
FLIGHT
When we were fleeing the burning
city
And looked back from the first
field path,
I said: "Let the grass grow over
our footprints,
Let the harsh prophets fall silent
in the fire,
Let the dead explain to the dead
what happened.
We are fated to beget a new and
violent tribe
Free from the evil and the happiness
that drowsed there.
Let us go "-and the earth was
opened for us by a sword of flames.
Goszyce, 1944
Poetry and History: Polish
Poetry after the End of the World
In 1973, when I was twenty-three
years old, I decided to stop in Warsaw during a year I
was traveling in Europe. From that trip I remember one chilly
gray dusk in particular when I walked through the neighborhood
that had once been the Warsaw Ghetto. People were bustling home
from work, but their activity only seemed to accentuate the eerie
and even ghostly absence of all those missing persons, an annihilated
people. One didn't need to travel to Auschwitz to feel guilty absence
and palpable vacancy. That night I reread Czeslaw Milosz's poems "A Poor
Christian Looks at the Ghetto," "A Song on the End of the World," and
"Dedication." This last poem was addressed to "You whom I could not save,"
and dated Warsaw, 1945. Its key stanza has thereafter set a standard
of moral seriousness in poetry:
What is poetry which does not
save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats
will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without
knowing it,
That I discovered, late, its
salutary aim,
In this and only this I find
salvation.
Milosz's early poems are all
haunted by survivor's guilt, the poignancy of living fi
r what was, for so many, the world's end. Poetry here becomes
an offering to the dead, a form of expiation, a hope for redemption.
Reading the
work of Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and
Wislawa Szymborska-the half-generation after Milosz-I soon
discovered that all of postwar Polish poetry was similarly haunted
by guilt, initiated in the apocalyptic fires of history. These
writers shared an important collective experience, and the formative
nature of that experience helped shape the spirit of their work.
Born in the early 1920s, they grew up during one of the few periods
of independence in Polish history, but they came of age during
the terrible years of World War II. Poland lost six million people
during the war, nearly one-fifth of its population, and the young
writers felt the almost crushing burden of speaking for those who
did not survive the German occupation. "I am twenty-four / led to slaughter
/ I survived," Rozewicz wrote in "The Survivor." It was no boast. No
wonder, then, that at the conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead to
free him:
They used to pour millet on
graves or poppy seeds
To feed the dead who would come
disguised as birds.
I put this book here for you,
who once lived
So that you should visit us
no more.
Edward Hirsch: How the Read
a Poem and Fall in Love with Poetry
IN WARSAW
What are you doing here, poet,
on the ruins
Of St. John's Cathedral this
sunny
Day in spring?
What are you thinking here, where
the wind
Blowing from the Vistula scatters
The red dust of the rubble?
You swore never to be
A ritual mourner.
You swore never to touch
The deep wounds of your nation
So you would not make them
holy
With the accursed holiness
that pursues
Descendants for many centuries.
But the lament of Antigone
Searching for her brother
Is indeed beyond the power
Of endurance. And the heart
Is a stone in which is enclosed,
Like an insect, the dark love
Of a most unhappy land.
I did not want to love so.
That was not my design.
I did not want to pity so
That was not my design
My pen is lighter
Than a hummingbird's feather.
This burden
Is too much for it to bear.
How can I live in this country
Where the foot knocks against
The unburied bones of kin?
I hear voices,
see smiles. I cannot
Write anything; five hands
Seize my pen and order me to
write
The story of their lives and
deaths.
Was I born to become
a ritual mourner?
I want to sing of festivities,
The greenwood into which Shakespeare
Often took me. Leave
To poets a moment of happiness,
Otherwise your world will perish.
It's madness to live without
joy
And to repeat to the dead
Whose part was to be gladness
Of action in thought and in
the flesh, singing, feasts,
Only the two salvaged words:
Truth and justice.
Warsaw, 1945
Nè, tên thi sỡi
kia, mi làm cái trò gì ở
đây,
Trên những điêu
tàn của Nhà Thờ St. John
Vào một ngày
xuân đẹp nắng như thế này?
Mi nghĩ gì, vào
lúc này, khi gió đùa về
đây,
Từ những nát tan ở khu
Vistula,
Bụi đỏ của đá vụn
Mi thề, mi đếch bao giờ
làm một kẻ khóc
lóc, than thở theo đúng lễ nghi
Mi thề mi chẳng bao giờ rờ
vô
những vết thương sâu
hoắm của nước Mít của mi.
Bởi vì nếu khóc
than như thế là mi biến chúng thành
thiêng liêng
Thứ thiêng liêng
đặc biệt Mít, rất ư khó chịu, thứ thiêng
liêng chết tiệt,
Đeo đuổi dân Mít
từ thuở dựng nước cho tới bi giờ.
Nhưng sự than thở của Antigone
Dành cho người anh của
nàng
Thì vượt quá
cả quyền uy của sự bền bỉ chịu đựng.
Và trái tim thì
là 1 hòn đá,
trong đó có một
tình yêu u tối, như côn trùng,
Của một miền đất cực kỳ bất
hạnh.
Gấu đếch muốn yêu nước
Mít bằng thứ tình yêu cà
chớn đó.
Đó không phải
là sở nguyện của Gấu.
Gấu cũng đếch muốn thương hại
kiểu đó.
Cũng đếch phải sơ đồ của Gấu
Cây viết của Gấu thì
nhẹ hơn nhiều.
Nhẹ hơn cả một cái lông…
chim!
Thứ gánh nặng đó,
quá nặng cho nó,
Để mà mang, khiêng,
chịu đựng.
Làm sao Gấu sống ở xứ
đó
Khi bàn chân,
đi tới đâu, là đụng tới xương của họ hàng,
bà con,
Những người không được
chôn cất.
Gấu nghe những tiếng nói,
nhìn thấy những nụ cười.
Gấu không thể viết bất
cứ điều gì; năm bàn tay
nắm lấy cây viết của
Gấu và ra lệnh viết
Câu chuyện về cuộc đời
và cái chết của họ.
Không lẽ Gấu sinh ra
để là 1 tên khóc
than theo nghi lễ, Nhà Thờ, hay Cửa Phật?
Gấu muốn hát về những
lễ hội.
Về cánh rừng xanh mà
Shakespeare
thường rủ Gấu vô đó
chơi.
Hãy để thi sĩ cho một
khoảnh khắc hạnh phúc,
nếu không, thế giới của
bạn sẽ tiêu tùng.
Đúng là khùng điên,
ba trợn,
Nếu sống mà đếch vui,
đếch thú, đếch sướng gì hết!
[Hà, hà!]
Và lập lại những người
đã chết
Lập cái cái phần
vui vẻ, sung sướng hạnh phúc của hành
động,
Trong tư tưởng, trong thân
xác còn tươi rói, trong hát
hỏng, lễ hội.
Chỉ hai từ cứu rỗi:
Sự thực và công
lý
Warsaw, 1945
Thơ và Lịch Sử: Thơ Ba Lan
sau Tận Cùng Thế Giới
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết
định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là khi loanh quanh
ở cái khu Ghetto. Phố phường bận rộn, nhưng hình
như càng làm nặng thêm sự vắng mặt u
uẩn của những người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò
Thiêu làm khỉ gì, chỉ ở đây thôi
mà đã cảm thấy cái sự trống vắng tội lỗi,
mân mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi
đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những bài
thơ đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm
sao, là cái mặc cảm sống sót, cái
nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”, cái
tận cùng thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng
tặng cho người chết, một hình thức cứu chuộc.
Cái bài thơ "Bay",
nhân ngày Thơ ở xứ Mít, tặng những tên
Bắc Kít may mắn hạ cánh an toàn
ở xứ người, cũng được!
Bay
Khi chúng ta bỏ chạy thành
phố cháy đỏ
Và nhìn lại từ
cánh đồng lúa mì đầu tiên
Gấu phán: Hãy để cho cỏ mọc xóa
vết chân của chúng ta
Hãy để cho những tên
tiên tri, thiên sứ câm lặng trước ngọn
lửa
Hãy để cho người chết
giải thích cho người chết chuyện gì xẩy
ra
Số mệnh của chúng ta,
là cho ra đời một giống Bắc Kít mới, hung bạo
Thoát ra khỏi Cái
Ác Bắc Kít Ngày Xưa!
Nào đi!
Và thế là mặt đất
mở ra cho chúng ta
Bằng một lưỡi gươm lửa!
A WOMAN MEETS AN OLD LOVER
"He with whom I ran hand in hand
kicking the leathery leaves down
Oak Hill Path
thirty years ago
appeared before me with anxious face,
pale,
almost unrecognized, hesitant,
lame.
He whom I cannot remember hearing
laugh out loud
but see in mind's eye smiling, self-approving,
wept on my shoulder.
He who seemed always
to take and not give, who took me
so long to forget,
remembered everything I had so long
forgotten."
Cái cảnh gặp lại người
cũ, nhìn từ phía “không phải Mai Thảo”,
thì là như sau đây:
Một người đàn bà gặp lại người yêu
cũ
Với ông ta tôi đã
từng tay trong tay,
Xuống Đồi Thông Hai Mộ
Đuổi lá vàng xào
xạc dưới chân
Ba chục năm trước
Úi giời ơi là
giời
Thằng chả bi giờ mới bi thương thiểu
não làm sao
Mặt mày xanh rờn như mới từ
xứ Mít được con cái bảo lãnh qua Mẽo
Tôi gần như không nhận
ra thằng chả!
Ông ta, chính là
chàng ngày nào!
Đúng là ông ta
ư, chàng ngày nào, cười, không
chỉ bằng tiếng cười sang sảng,
mà còn bằng cặp mắt,
rất ư biết mình có hạng,
Vậy mà khóc mùi
mẫn trên vai tôi.
Chàng, đúng là
chàng, tên ích kỷ có hạng, chỉ
biết lấy mà chẳng biết cho ai bất cứ cái gì
[Đúng Bắc Kít, vùng
nước mặn, chắc cùng quê hương với Cao Bồi?]
Vậy mà không biết là
bao nhiêu năm tháng qua đi,
Bao nhiêu nước chảy qua cầu,
Linh hồn tôi mới phai mờ hình
bóng chàng
Nhìn 1 phát, là
bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện về, như những bóng
ma khủng khiếp!
Note: Bài này dịch
loạn, nhưng đúng là cái cảnh Gấu tưởng tượng ra, khi
gặp lại BHD!
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/26.html
Love Flea
He took a flea
From her armpit
To keep
And cherish
In a matchbox,
Even pricking his finger
From time to time
To feed it
Drops of blood.
Charles Simic
Rận Tình
Hắn chôm con rận
Từ bướm của nàng
Giấu trong bao quẹt
Lâu lâu nựng 1 phát
Và chích máu đầu
ngón tay
Như 1 anh Bắc Kít,
Không phải để viết đơn tình
nguyện
Xẻ dọc Trường Sơn Kíu Nước
Mà để nuôi
Rận tình!
Relaxing in a Madhouse
They had already
attached the evening's tears to the
windowpanes.
The general was busy
with the ant farm in his head.
The holy saints in
their tombs were resting, all except
one who was a prisoner of a dark-haired
movie star.
Moses wore a false
beard and so did Lincoln.
X reproduced the
Socratic method of interrogation by demonstrating the ceiling's
ignorance.
"They stole the secret of the musical
matchbook from me",
confided Adam.
"The world's biggest
rooster was going to make me famous,”
said Eve.
Oh to run naked over
the darkening meadow after the cold
shower!
In the white pavilion
the nurse was turning water into wine.
Hurry home, dark
cloud.
Charles Simic: New and Selected Poems
Thư giãn nơi Nhà Khùng
Chúng đã buộc nước mắt
buổi chiều vào cửa sổ
Võ tướng quân thì
đang bận rộn với cả một nông trại kiến ở trong đầu
Những vì thánh trong những
nấm mồ thì đang nghỉ ngơi, tất cả,
trừ 1 vì đang là tù
nhân của một ngôi sao màn bạc tóc
đen
Moses mang râu giả và Lincoln
cũng vậy.
X chôm phương pháp tra
hỏi của Socrate bằng cách chứng minh sự vô
tri của cái trần nhà
Chúng chôm mẹ mất sự bí
mật của vỉ nhạc của tôi, Adam lầu bầu
Con gà trống bự nhất thế giới
sẽ làm tôi nổi tiếng, Eva phán.
Ui, khoả thân, chạy suốt cánh
đồng sẩm tối sau khi làm 1 cú tắm nước lạnh
mới đã làm sao!
Ở khu lều trắng y tá đang biến
nước thành rượu chát
Về nhà lẹ lên, mây
đen kia!
Charles Simic: The Voice at 3:00
AM
Thơ
Mỗi
Ngày
1945
-You! the last Polish poet!-drunk,
he embraced me,
My friend from the Avant-Garde,
in a long military coat,
Who had lived through the war
in Russia and, there, understood.
He could not have learned those
things from Apollinaire,
Or Cubist manifestos, or the
festivals of Paris streets.
The best cure for illusions is
hunger, patience, and obedience.
In their fine capitals they still
liked to talk.
Yet the twentieth century went
on. It was not they
Who would decide what words were
going to mean.
On the steppe, as he was binding
his bleeding feet with a rag
He grasped the futile pride of
those lofty generations.
As far as he could see, a flat,
unredeemed earth.
Gray silence settled over every
tribe and people.
After the bells of baroque churches,
after a hand on a saber,
After disputes over free will,
and arguments of diets.
I blinked, ridiculous and rebellious,
Alone with my Jesus Mary against
irrefutable power,
A descendant of ardent prayers,
of gilded sculptures and miracles.
And I knew I would speak in the
language of the vanquished
No more durable than old customs,
family rituals,
Christmas tinsel, and once a
year the hilarity of carols.
Berkeley, 1985
Czeslaw Milosz: Selected
Poems 1931-2004
1945
Ông đấy ư? Nhà thơ Ba Lan
cuối cùng!
Say, sỉn, anh ta ôm tôi
Bạn quí từ thời Tiền Phong
Trong chiếc áo khoác nhà
binh
Đã từng kinh qua cuộc chiến Nga,
và ở đó, đã thấu hiểu
Anh có thể không biết chi
nhiều, từ những điều đó, từ Apollinaire
Hay những tuyên ngôn của nhóm
Lập Thể
Hay những buổi hội hè trên
đường phố Paris
Thứ thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa những
ảo tưởng, là,
Đói khát, kiên nhẫn,
và phục tùng.
Trong những thủ đô đẹp đẽ của họ,
họ vẫn thích nói.
Tuy nhiên thế kỷ 20 tiếp tục trôi
chảy.
Đâu phải họ là những người
quyết định, những từ ngữ có nghĩa là gì.
Trên lối đi, khi chùi chân
chảy máu với miếng giẻ
Anh nắm bắt sự kiêu ngạo vô
ích của những thế hệ cao ngất
Xa xa, như anh có thể nhìn,
là mặt đất lè tè, chẳng hy vọng gì
lại được chúc phúc.
Im lặng xám ngự trị mọi bộ lạc,
mọi nhân dân
Sau những tiếng chuông nhà
thờ baroque, sau bàn tay trên cây kiếm
Sau những cãi lộn về free will,
và những tranh luận về diets.
Tôi chớp mắt, thấy kỳ cục, thấy
nổi giận
Một mình với Jesus Mary của tôi
Chống lại thứ quyền lực không làm
sao bài bác lại được
Dòng dõi những người cầu
nguyện sôi nổi
Những điêu khắc bằng vàng,
những phép lạ.
Và tôi biết
Tôi có thể nói
Bằng thứ ngôn ngữ của những người
bị đánh bại
Không trường tồn bằng,
So với những cổ tục, những nghi lễ gia
đình
Kim tuyến Giáng Sinh, và
đến hẹn lại tới,
Sự vui nhộn của những bài hát
mừng.
CHARM SCHOOL
Madame Gabrielle, were you really French?
And what were those heavy books
You made them balance on top of their
heads,
Young women with secret aspirations
We saw strolling past the row of windows
In the large room above Guido's barbershop?
On the same floor was the office of
an obscure
Weekly preaching bloody revolution.
Men with raised collars and roving eyes
Wandered in and out. When they conspired
They spat and pulled down the yellow
shades,
Not to raise them or open the windows
again
Until the summer heat came and your
students
Wore dresses with their shoulders bared
As they promenaded with books on their
heads,
And the bald customer in the barbershop
Sat sweating while overseeing in the
mirror
His three remaining hairs being carefully
combed.
Charles Simic: The Voice at 3:00
AM
Trường Khả Ái
Bà Gabrielle, Bà có
phải thực Đầm không,
Hay, Đầm Rau Muống?
Và những cuốn sách
nặng
Bà bắt họ đong đưa ở trên
đầu
Là những cuốn gì vậy?
Những thiếu phụ trẻ với những hoài vọng bí
ẩn
Chúng tôi thấy họ lướt
qua những hàng cửa sổ
Trong căn phòng rộng
Ở bên trên cửa tiệm cắt
tóc Guido
Cũng trong tầng lầu đó
Cò n có văn phòng
Của 1 hội kín
Hàng tuần rao giảng 1 thứ cách
mệnh
Vừa “tắm tôi”, vừa “mé
mau” có tên là…. Vẹm
Những tên đờn ông Bắc Kít
Cổ áo kéo cao
Mắt đảo xuôi, đảo ngược
Thậm thụt “vô và ra” [“đi
và vào” mới đúng]
Khi âm mưu làm thịt phe
Kuốc Gia
Những Khái Hưng, Hoàng
Đạo, thí dụ…
Chúng ngồi thành 1 cục,
nhổ nước bọt, đờm, nước rãi… văng tùm lum
Kéo những cái bóng
màu vàng của chúng xuống
Và đóng mẹ mấy cái
cửa sổ lại!
Cho tới khi cái nóng khủng
khiếp của mùa hè của xứ Bắc Kít, tới
Những sinh viên của Bà
Bèn mặc áo vai trần
Rong ruổi với những cuốn sách
ở trên đầu
Và cái tay khách
hàng đầu hói
ở tiệm cắt tóc
Ngồi đổ mồ hôi
Nhìn cái đầu bóng
lưỡng của mình trong
gương
Còn đúng ba sợi tóc,
Được chải chuốt rất ư là tới
chỉ!
Le Livre des rêves (1)
(1975)
Dans un essai du Spectator (septembre
1712) repris dans cet ouvrage, Joseph Addison observait que
l'âme humaine, quand elle rêve, débarrassée
du corps, est à la fois le théâtre, les acteurs
et le public. On pourrait ajouter qu'elle est aussi l'auteur de
la fable à laquelle elle assiste. Il y a des passages qui développent
la même idée chez Petrone et chez Góngora.
Une lecture littérale
de la métaphore d' Addison pourrait nous mener à
la thèse, dangereusement séduisante, que les rêves
constituent le plus ancien et cependant le plus complexe des genres
littéraires. Cette thèse curieuse, que nous approuvons
volontiers car elle ne gêne en rien la composition de cette
préface ni la lecture des textes qui suivent, pourrait justifier
une histoire générale des rêves et de leur influence
sur les lettres. Le présent ouvrage, composé d'un mélange de textes choisis
pour le délassement du lecteur curieux, pourrait fournir
certains matériaux. Cette histoire hypothétique
explorerait l'évolution et la ramification de ce genre
si ancien, depuis les songes prophétiques de l'Orient
jusqu'à ceux, allégoriques et satirique, du Moyen Age
et jusqu'aux pures inventions de Lewis Carroll et de Franz Kafka. On
y etablirait, bien entendu, une distinction entre les rêves és
par le sommeil et les rêves inventés par la veille.
Ce livre de rêves,
que les lecteurs rêveront à leur tour, englobe
des rêves nocturnes - ceux que je signe, par exemple
-, des rêves diurnes, qui sont un exercice volontaire de
notre imagination, et d'autres d'origine oubliée: disons par
exemple le rêve anglo-saxon de la Croix.
Le sixième livre
de L'Enéide reprend une tradition de
L'Odyssée et déclare qu'il
y a deux portes divines par lesquelles nous arrivent les songes
: celle d'ivoire, qui est celle des rêves fallacieux, et celle
de corne, qui est celle des rêves prophétiques. Etant
donné les matériaux choisis, il semblerait que le
poète ait senti d'une manière obscure que les rêves
qui anticipent l'avenir sont moins riches que les rêves
fallacieux qui sont une invention spontanée de l'homme qui
dort.
II y a un type de rêve
qui mérite particulièrement de retenir notre
attention. Je veux parler du cauchemar, qui se dit en anglais
nightmare ou jument de la nuit, mot
qui suggera it Victor Hugo la métaphore de « cheval
noir de la nuit » mais qui, selon les étymologistes,
veut dire fiction ou fable de la nuit. Alp, son
nom allemand, évoque l'elfe ou l'incube qui opprime le dormeur
et qui lui impose d'horribles images. Ephialtes,
qui est le terme grec, precede d'une superstition analogue.
Coleridge écrivit
que les images de la veille suscitent des sentiments, tandis
que dans le sommeil les sentiments suscitent des images. (Quel
fut le sentiment mysterieux et complexe qui lui aura dicte le Kubla
Khan, qui fut le don d'un rêve ?) Si un tigre entrait dans
notre chambre, nous aurions peur; si nous avons peur en rêve,
nous engendrons un tigre. Telle serait l'explication des visions qui
nous alarment. J'ai dit un tigre mais étant donne que l'effroi
précede l'apparition improvisée nous pouvons, pour
le comprendre, projeter notre terreur sur une figure quelconque qui,
dans la veille, n'est pas nécessairement terrifiante. Un buste
de marbre, une cave, l'envers d'une monnaie, un miroir. Il n'y a pas
dans l'univers une seule forme qui ne puisse se revetir d'horreur. D'où,
peut-être, la saveur particulière du cauchemar qui est
très differente de l'épouvante ou des épouvantes
que la réalité est capable de nous infliger. Les peuples
germaniques semblent avoir été plus sensibles à
cette menace imprécise du mal que les peuples de filiation latine;
rappelons-nous les mots intraduisibles
eery, weird, uncanrry, unheimlich. Chaque langue produit
ce dont elle a besoin.
L'art de la nuit a envahi
peu a peu l'art du jour. Cette invasion a duré des siècles
; le royaume dolent de la Divine Comédie
n'est pas un cauchemar, sauf peut-être dans le Chant IV,
qui donne une impression de malaise contenu; c'est un lieu où
il se passe des choses atroces. La lecon de la nuit n'a pas été
facile. Les songes de l'Ecriture n'ont pas le style des rêves
; ce sont des prophéties qui mettent en oeuvre d'une facon
trop cohérente un mécanisme de métaphores.
Les rêves de Quevedo semblent être l'oeuvre d'un homme
qui n'a jamais rêvé, comme ce peuple cimmerien mentionné
par Pline. D'autres suivront. L'influence de la nuit et celle du
jour seront réciproques ; Beckford et De Quincey, Henry James
et Poe ont leurs racines dans le cauchemar et troublent souvent nos
nuits. II n'est pas improbable que les mythologies et les religions
aient une origine analogue.
Je tiens à dire
ici ma gratitude envers Roy Bartholomew, sans la studieuse
ferveur de qui il m'eut été impossible de faire
ce livre.
Buenos Aires, 27 octobre 1975.
(1) Anthologie de textes
oniriques rassemblés par J. L. Borges.
1945
-You! the last Polish poet!-drunk, he embraced
me,
My friend from the Avant-Garde, in a long military
coat,
Who had lived through the war in Russia and, there,
understood.
He could not have learned those things from Apollinaire,
Or Cubist manifestos, or the festivals of Paris
streets.
The best cure for illusions is hunger, patience,
and obedience.
In their fine capitals they still liked to talk.
Yet the twentieth century went on. It was not they
Who would decide what words were going to mean.
On the steppe, as he was binding his bleeding feet
with a rag
He grasped the futile pride of those lofty generations.
As far as he could see, a flat, unredeemed earth.
Gray silence settled over every tribe and people.
After the bells of baroque churches, after a hand
on a saber,
After disputes over free will, and arguments of
diets.
I blinked, ridiculous and rebellious,
Alone with my Jesus Mary against irrefutable power,
A descendant of ardent prayers, of gilded sculptures
and miracles.
And I knew I would speak in the language of the
vanquished
No more durable than old customs, family rituals,
Christmas tinsel, and once a year the hilarity
of carols.
Berkeley, 1985
Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004
The Forging
Like the blind man whose hands are precursors
that push aside walls and glimpse heavens
slowly, flustered, I feel
in the crack of night
the verses that are to come.
I must burn the abominable darkness
in their limpid bonfire:
the purple of words
on the flagellated shoulder of time.
I must enclose the tears of evening
in the hard diamond of the poem.
No matter if the soul
walks naked and lonely as the wind
if the universe of a glorious kiss
still embraces my life.
The night is good fertile ground
for a sower of verses.
J.L. Borges: Poems of the Night
Rèn
Như anh mù
Tay của chàng là tiền thân,
Dẹp tường tiệc qua một bên
Thoáng nghía thấy những thiên
đường
Chầm chậm, xốn xang,
Tớ cảm thấy
Đêm kêu ‘krắc” phát
Và những dòng thơ bèn
bò ra
Tớ phải đốt cái bóng tối khủng
khiếp
Trong trận lửa trong sáng:
Màu tím của những từ
Trên đôi vai ăn đòn của
thời gian.
[Cái gì gì, trên đôi vai ta hai vầng
nhật nguyệt!]
Tớ phải rào những giọt nước mắt của
buổi chiều
Vào viên kim cương cứng rắn của
bài thơ.
Đếch cần biết, như thế nào
Linh hồn,
Trần trụi hay cô đơn
Như ngọn gió
Lang thang
[Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân
thì]
Và,
Nếu vũ trụ của nụ hôn thần sầu của em
của tớ
Vẫn ôm lấy đời tớ
Thì,
Đêm, ôi đêm
Mảnh đất mầu mỡ
Để gieo những vần thơ.
Note: Trên net, có 1 tay
lèm bèm về bài thơ này, OK lắm:
http://quarterlyconversation.com/poems-of-the-night-by-jorge-luis-borges
In his introduction Kristal
notes that Borges claimed many poems came to
him in dreams. He called them “gifts of the night, or more
precisely, of the dawn.” Poems of the Night
includes sixty-five poems in Spanish, and English versions by
fourteen translators. All the vital Borgesian themes are represented—death,
mirrors, darkness and blindness, multiple selves, labyrinths,
knives, books, reality as fiction, fiction as reality, the vertigo
of infinity.
Giải Oan
Ba mươi năm qua rồi đó
em
Rừng em nằm sương nhỏ
từng đêm
Bao nhiêu lớp lá
vàng rơi rụng
Mưa nhạt nhòa,
nắng chiếu xuyên nghiêng
Mắt em còn mở nhìn
trời cao
Hay úp mặt ngửi
đất tanh tao
Máu đã
khô nuôi mầm rễ mới
Chảy trong từng mạch
nhựa xôn xao
Ba mươi năm chị thường nằm mộng
Thấy em vùi sóng
nước vỗ bờ
Những đôi mắt quanh
em thù hận
Và tiếng kêu
loài thú hoang sơ
Em có nghe kinh cầu giải
oan
Mõ khua hòa
trên sóng thênh thang
Hồn em có chút
gì xao động
Và tâm em
có được bình an
Da thịt xưa giờ hòa trong
đất
Níu kéo
chi cõi thực cõi hư
Ôi không
muốn mà sao vướng vất
Nỗi oan khiên từ
thuở dựng cờ
Đêm nay rằm trăng rồi sẽ
sáng
Lạnh từ trong chân
tóc chưa tan
Kinh cầu nguyện xin làm
chăn đắp
Khói nhang buồn
sưởi ấm bi thương
Em hãy đi vào nơi
miên viễn
Hãy quên
đi cuộc chiến đã tàn
Em hãy nhập vào
dòng nhựa thắm
Nở mầm non xanh mướt
rừng hoang
Lá sẽ che mộ em đã
lấp
Cỏ sẽ đùa với
gió đi qua
Trong mơ chị sẽ không
còn sóng
Và hồn em ríu
rít chim ca
Thôi em đừng nhớ thiết
tha
Đặng Lệ Khánh
(viết cho em trai, mất tích
trên đường vượt biên qua Thái,
xuyên Campuchia)
THE SECRET
I have my excuse, Mr. Death,
The old note my mother wrote
The day I missed school.
Snow fell. I told her my
head hurt
And my chest. The clock
struck
The hour. I lay in my father's
bed
Pretending to be asleep.
Through the windows I could
see
The snow-covered roofs.
In my mind
I rode a horse; I was in
a ship
On a stormy sea. Then I
dozed off.
When I woke, the house was
still.
Where was my mother?
Had she written the note
and left?
I rose and went searching
for her.
In the kitchen our white
cat sat
Picking at the bloody head
of a fish.
In the bathroom the tub
was full,
The mirror and the window
fogged over.
When I wiped them, I saw
my mother
In her red bathrobe and
slippers
Talking to a soldier on
the street
While the snow went on falling,
And she put a finger
To her lips, and held it
there.
Bí Mật
Xin lỗi, me-xừ Thần Chết,
Cái “note” cũ, mẹ
tớ viết
Bữa tớ trốn học
Tuyết xuống
Tớ bảo bà bô
Sao con bịnh quá
Tớ nằm trên cái
giuờng của ông bô
Giả đò ngủ
Qua cửa sổ
Tớ nhìn những mái
nhà phủ tuyết
Trong đầu
Tớ thấy tớ cưỡi ngựa;
Tớ ở trên 1 cái
tầu
Trên biển dông
bão
Và rồi tớ... ngủ
Khi tỉnh giấc
Nhà thì vẫn
nhà
Bà cụ đâu nhỉ?
Hay là bà
viết cái “note”, rồi bỏ đi đâu đó?
Tớ dậy kiếm bà bô
của mình
Ở nhà bếp, một con
mèo trắng ngồi
Hờ hững - từ này
chôm của Thầy Kuốc – chơi cái đầu cá
đầy máu
Trong buồng tắm, bồn nước
đầy
Gương, kính, cửa
sổ mờ hơi nước
Tớ bèn lau
Và nhìn thấy
bà cụ của mình
Đi dép
Mặc áo tắm màu
đỏ
Ở dưới đường
Nói gì đó,
với 1 anh lính
Trong khi tuyết xuống
Và bà đưa
1 ngón tay lên miệng
Và cứ để nguyên
mãi như thế.
Thật kỳ cục. Đọc bài
thơ của K, thì bèn đọc liền bài
thơ trên.
Trong The Voice at 3
AM.
Bonus bài dưới đây, cũng thật là tuyệt.
THE HEARSE
for G.
Your hearse pulled by fortune-teller's
white mice
Pulled by your mother and
father
Pulled by the wind and rain
Pulled by teenage Jesus
already carrying his cross
Pulled by your first love
Pulled by every dog you
ever owned
Pulled by the fly whose
legs you plucked
*
A hearse like a rain-streaked
telephone booth
Full of fire-sale leaflets
The receiver off the hook
A hiss as if a record had
just ended
Some happy song played sadly
Your shirttails sticking
out of a rear gate
Trying to make their getaway
*
You crawled out of your
hearse
To help a fallen horse to
his feet
Rows of sugar maples lined
the road
Necessity the old coachman
held the reins
A crow like a defrocked
priest sat by his side
The hearse with whorehouse
curtains
*
It's a ghost ship and on
that ship
A pool table where you'll
play snooker
With three veiled women
Everything
is made of light even the dark night
The candles whisper
As they draw close to watch
The great nothing hoard
its winnings
Ui chao. tình cờ
đọc lại bài thơ của K
Như chưa từng đọc bao giờ.
Thế rồi mấy bài sau,
cứ thế ùa ra.
Take Care.
Both
NQT
Thơ của Simic, đọc sao thê
lương quá đỗi.
Có thể vì
thế, ông có nick "Nhà siêu
hình trong bóng tối"?
Và bà đưa 1
ngón tay lên miệng
Và cứ để nguyên
mãi như thế.
Everything is made of light
even the dark night
Xe Tang
Xe tang của mi, được 1 con
mèo trắng kéo
Con mèo, là
của 1 bà thầy bói
Bà này đã
từng phán, mi là 1 đứa trẻ mồ côi!
Được ông bô và
bà bô của mi, đẩy
Và gió và
mưa bèn phụ thêm
Và, phụ thêm,
còn 1 đấng con nít: Chúa Jesus
Khi Người mới 10 tuổi!
Vậy mà đã vác
cây thánh giá tổ chảng!
Người yêu đầu của mi
nữa chứ
Cái cô phán,
bi giờ ta hết lãng mạn rồi
Và, ta không
hiểu tình yêu là cái chó
gì!
Rồi mọi con chó mi
chưa từng sở hữu, dù chỉ 1 con!
Cộng 1 thêm 1 con ruồi,
chân của nó mi đã từng vặt trụi!
Xe tang y chang ki-ốt điện thoại
Mặt kiếng loang lổ mưa
Đầy giấy rao bán đồ vỡ nợ, đồ
lạc xoong
Điện thoại văng khỏi giá
Huýt 1 phát, như thể
cuộc nói chuyện vừa chấm dứt
Một bài hát hạnh phúc,
chơi thật buồn
Cái đuôi áo của
mi lách ra cửa sau
Cố tìm đường chuồn
Mi bò ra khỏi xe tang
Tìm cách nâng cái
chân què của con ngựa
Những hàng cây phong đường
trải dài con lộ
Ông già cố níu
sợi dây cương
Một con quạ giống như 1 vì thầy
tu bị cởi áo ngồi kế bên ông ta
Xe tang với những bức rèm nhà
thổ
Đó là 1 con tầu ma và
trên con tầu
Ở 1 cái bàn đánh
cá, mi sẽ chơi snooker
Với ba người đàn bà mặt
che mạng
Mọi thứ mọi điều thì
đều được làm ra bằng ánh sáng ngay cả đêm tối
Những ngọn đèn cầy thì
thào
Khi chúng xúm lại gần
để ngắm
Kho dự trữ lớn lao chẳng có
gì, những cú thắng của nó.
Note: Cái vụ được thày
bói phán, mi là 1 đứa bé
mồ côi, là có thực, và đã
kể ra rồi!
Nó xẩy ra đúng
vào thời gian ông cụ của Gấu qua sông, rồi không
về nữa.
Ba mươi Tết, năm 1945.
Thằng khốn, là Gấu, đọc
ở đâu đó, cái từ "mồ côi",
mê quá, chẳng biết nghĩa là gì,
bèn phán ngay vào thằng em trai.
Đứa sau này tử trận.
Bị người lớn tát cho
vài phát, đển nổ con mắt!
Thơ
Mỗi
Ngày
Dark Is the Night
Crumpled under a doomsday sign,
You roamed the streets
Convinced the day will come
You'll be meeting the Lord,
His face coming briefly into view
As the crowd pushes and parts open
At the subway entrance.
Come night, you vanished
With your soiled white raincoat,
Your gray beard and flowing hair
And your homemade sign
Warning of God's displeasure.
One time, with nothing better to do,
I followed your usual route,
Peeking into doorways and alleyways
Favored by the old and the destitute,
Wondering if you had a friend,
Or were you all alone in the world?
Charles Simic: Master in disguises
Tối như Đêm, Đêm như Tối
Nát bấy người dưới tấm
biển tận thế
Mi mò theo những con phố
Tin chắc ngày sẽ tới
Mi sẽ được gặp Chúa
Khuôn mặt của Người thoáng hiện ra
Khi đám đông xô đẩy nhau, để
lộ ra 1 khoảng trống
Ở lối xuống đường xe điện ngầm
Đêm xuống, mi biến mất
Với chiếc áo mưa trắng dơ dáy
Bộ râu xám của mi, mớ tóc lòa
xòa của mi
Và tấm biển tự làm của mi
Cảnh báo sự không hài lòng
của Người
Một lần, quá rảnh rỗi, và không
làm sao kiếm được điều gì khá hơn để làm
Thế là ta bèn mò theo mi
Theo lối đi quen thuộc
Nghé những hẻm, những ngõ, những
hành lang
Chốn ưng ý của những người già, những
kẻ khốn khó
Bèn lầm bầm
Không hiểu mi đã từng có 1
đấng bạn quí
Hay trơ cu lơ ở trên cõi đời này?
Same-as-Ever
There was a stonemason's yard,
But its dozen gravestones
Had no names on them yet.
Otherwise, not much to see here.
Early evening, the small stores
On Main Street already closed.
A few porch lights here and there.
The silence of bowed heads
Saying grace and gritting their teeth.
Nothing ever happens here,
Except for these foreign wars
That maim the young boys
And leave their golden girls
To hustle drinks in local dives.
Charles Simic: Master of Disguises
Vũ Như Cẩn
Đây là vườn của người thợ xây
đá
Những tấm bia mộ thì chưa có
tên của ai hết
Chừng trên chục
Ngoài ra, chẳng có chó
gì nữa, để mà coi!
Mới xém chiều
Những cửa tiệm nhỏ ở đường Tự Do ngày
nào đã đóng cửa
Vài ánh đèn ở cổng,
chỗ này, chỗ kia
Cái im ắng của mấy cái đầu, cúi
đầu
Vừa nói lời ân sủng, vừa xỉa
răng!
Chưa hề có cái chó gì
xẩy ra ở đây
Ngoại trừ mấy cuộc chiến
Do bè lũ thực dân cũ và
mới gây ra
Làm thịt sạch vài thế hệ zai
mít, hay mít zai
Lùa gái Mít vô
snack bars
Hay vô giường, hầu hạ quan thầy Tẫu!
Bright and Early
Out of a bad dream's
Smoldering ruins,
A flight of crows'
Bloodied and dripping wings
Soared high over me
This morning
Like flying scissors
Snipping at threads,
Making my puppet head
Jerk sideways,
My feet jitterbug
On the patch of ice in the yard.
Charles Simic: Master
of Disguises
Sáng và Sớm
Từ những điêu tàn âm ỉ
của một cơn mộng dữ
Một đàn quạ phọt ra
Máu chảy ròng ròng từ
cánh
Bay quần quần ở trên đầu tớ
Sáng nay
Như những cây kéo bay
Cắt chỉ
Làm cái đầu búp bế của
tớ (1)
Co giật
Chân của tớ như bị điện giựt
Trên lối đi băng giá
Ở vườn nhà
(1)
Re: puppet
Puppet Maker
In his fear of solitude, he
made us.
Fearing eternity, he gave us time.
I hear his white cane thumping
Up and down the hall.
I expect neighbors to complain, but
no.
The little girl who sobbed
When her daddy crawled into her bed
Is quiet now.
It's quarter to two.
On this street of darkened pawnshops,
Welfare hotels and tenements,
One or two ragged puppets are awake.
Charles Simic
Lão Tặc Thiên
Sợ cô đơn, Lão bèn
nặn ra lũ chúng ta
Sợ vĩnh cửu, bèn cho chúng
ta thời gian
[Đủ để làm đủ Tứ Khoái]
Tớ nghe tiếng ba toong của Lão
Lên và xuống hành
lang
Tớ hy vọng lối xóm phàn
nàn, nhưng không
Cô bé khóc ư
ử
Khi ông bố bò vô
giường
Bi giờ chắc là ngủ rồi
Cỡ hai giờ thiếu mười lăm.
Trên con phố với những tiệm
cầm đồ tối thui
Những khách sạn của dân
ăn tiền trợ cấp xã hội, và những khu nhà
tập thể
Hai hay ba con rối tã tượi
đã mở mắt
Note; Bài này, mới
được 1 vị độc giả đi 1 cái còm thần sầu,
nhưng giữ riêng, không post được.
V/v Charles Simic, Gấu nhớ là
hồi đầu, đọc, sợ, mãi sau mới quen được.
Tập thơ mới nhất, toàn những
bài ngắn, nhưng thật là tuyệt vời.
Đúng cái ý của
Brodsky, gừng càng già càng cay.
Đó, đó, lại lăm le mở hé
cửa quá khứ. Bỏ đi tám ơi .
Tại sao lại hai giờ thiếu mười
lăm ? Giờ khắc này đánh dấu hay biểu hiện một
điều gì ? Là lúc các con rối khác
quá mỏi mệt để khóc ? Là lúc các
con rối khác nữa chưa lục đục mang mặt nạ để cười ? Là
khoảnh khắc nhỏ nhoi để sống cho mình trong yên lặng
?
Thơ
Mỗi
Ngày
Baudelaire in Brussels
Frederick Seidel
Issue 219, Winter 2016
Some people say sex is like riding
a rainbow.
Maybe theirs is.
I say I fall on a grenade each time.
My rainbow-on-a-runway took off practically
Straight up from the infirmary
To reach the thermosphere,
And blew up above Brussels, Paris,
etc.—
And here’s the nurse. Nurse!
I had a stroke.
I had another stroke.
I can’t lift my prepuce head from
the bed.
Someone said my poison poems
Are flowers someone brought into the
room,
Flowers that leave behind a sonic
boom.
Baudelaire ở Brussels
Có người phán sex, [cưỡi
em], thì cũng giống như cưỡi 1 cái cầu vồng!
Có thể của họ thì như
thế
Với tôi, thì là,
tình yêu như trái phá
Con tim mù lòa
Nghĩa là,
Tớ vấp phải 1 trái lựu đạn
Tớ thấy mình bay một phát
Từ bịnh viện
Lên tới bầu khí quyển thermosphere
Và nổ 1 phát
Đâu đó bên trên
Brussels, Paris etc. -
Và đây là y tá.
Y tá!
Tớ bị cú stroke
Cú nữa
Tớ không làm sao nhấc cái
đầu bao qui đầu khỏi giường
Có người nói những bài
thơ thuốc độc của tớ
Là hoa ai đó mang vô
phòng
Những đóa hoa bỏ lại đằng sau
1 cú “bùm” 1 phát!
POEMS FEBRUARY 6, 2017 ISSUE
THE INFINITE
The infinite yawns and keeps
yawning.
Is it sleepy?
Does it miss Pythagoras?
The sails on Columbus's
three ships?
Does the sound of the
surf remind it of itself?
Does it ever sit over
a glass of wine
and philosophize?
Does it peek into mirrors
at night?
Does it have a suitcase
full of souvenirs
stashed away somewhere?
Does it like to lie in
a hammock with the wind
whispering sweet nothings in its ear?
Does it enter empty churches
andlight a single
candle on the altar?
Doe it see us as a couple
of fireflies
playing hide-and-seek in a graveyard?
Doe it find us good to
eat?
Note: Bài thơ mới
nhất của Charles Simic.
Hết credit, GCC phải dùng 1 cái
PC khác, mới đọc được.
Và bèn chôm
liền!
Bất Tận
Bất Tận ngáp suốt
Buồn ngủ ư?
Hay nhớ Pythagoras?
Những chuyến vượt biển của
ba con thuyền của Columbus?
Tiếng sóng làm
nó nhớ, chính nó?
Nó đã từng
ngồi nhâm nhi một ly rượu vang
Và triết lý
vụn?
Đêm đêm, nó
liếc xéo, gương?
Nó có cái
cà táp đầy những kỷ niệm
Dzím đâu đó?
Nó có bao
giờ thèm ngả lưng 1 phát
Trên võng
Nghe tiếng gió thầm
thì những hư vô ngọt ngào?
Nó đã từng
vô 1 ngôi nhà thờ vắng hoe
Và đốt 1 cây
đèn cày nơi bàn thờ?
Nó có nhìn
chúng ta chơi trò hú tìm
nơi nghĩa địa
Với mấy con đom đóm?
Nó có thèm,
đợp, chúng ta?
Note: Bất Tận?
Đang đọc Borges, sách
Tựa, bèn chơi luôn
Paris. Nov, 99, lần qua Tây
gặp HPA, tá túc nơi Kiệt Tấn, chùa Khánh
Anh...
Trong bài viết
về Lá Cỏ, Borges phán:
Whitman là số nhiều rồi,
nhưng như thế chưa đủ, ông ta quyết định, tớ là
vô cùng tận.
Tuyệt!
Whitman était déjà
pluriel; l'auteur décida qu'il serait infini. Il
fit du héros
de "Feuilles d'herbe" une trinité ; il lui adjoignit
un troisième personnage, le lecteur, le changeant
et successif lecteur. Celui-ci ne cesse de s'identifier au protagoniste
de l'oeuvre; lire Macbeth c'est d'une certaine facon être
Macbeth; un livre de Victor Hugo s'intitule Victor Hugo par un
témoin de sa vie; Walt Whitman fut, semble-t-il, le premier
à utiliser jusqu'au bout, jusqu'au bout interminable
et complexe, cette identification momentanée…..
Tớ
sẽ nói một điều dị giáo, lăng mạ, không
giống ai.... : Tớ tin là Flaubert quan trọng hơn nhiều
so với Kafka.
ML, Mai 2013
The
New Yorker Briefly Noted, Dec 12, 2016
Tôi nghĩ,
bằng toàn bộ cuộc đời mình, Tạ Chí
Đại Trường cho thấy chính xác điều
ngược lại. Điều ngược lại này nói một cách
tường minh là: người ta không làm
được gì nếu có đầy đủ mọi thứ gì tưởng
chừng như là cần phải có. Những năm dài
không có sách để đọc lại là cơ
hội cho Tạ Chí Đại Trường thoát
khỏi vòng (sự "thoát khỏi vòng" này
cũng đặc biệt rõ ở Tư Mã Thiên, ta sẽ
sớm nói đến).
Note: Ý
lạ. Lạ nữa, là,
cái tay viết tiểu sử Flaubert, cho biết, cuộc đời Thầy,
the Master, cũng y chang như thế.
Tớ tin rằng, cái gọi
là hạnh phúc chỉ có ở xứ Bắc
Kít, trong mấy cái ao tù đọng, đóng
váng.
Ao thì
lấy đâu ra bão tố?
Cả 1 cuốn
tiểu sử của Bậc Thầy Flaubert - nhớ, hình
như Borges phán, tôi sợ rằng Flaubert
còn bảnh hơn Kafka - là dựa vào câu
phán, cùng là cuộc đời nhàm
chán của F: chàng ngồi lỳ 1 đống, viết
1 ngày 14 tiếng!
Hãy
để cho chúng tớ ghiền mực, thay vì xì ke,
bởi vì nhân loại làm gì có
"riệu" tiên, của những vị thần?
Note: Bài trên số ML
dẫn trên, giới thiệu băng "vidéothèque
de Babel": 7 tiếng đồng hồ về Borges. Người phán
nhiều câu thật mê. Tôi mới yêu Buenios
Aires làm sao, J'aime tellement B.A., có lẽ đần
độn nhất, une des plus laides, nhạt nhòa nhất, des plus
blêmes, trên thế giới, đến nỗi, nhiều khi tôi
hoài nhớ nó, ngay trong khi đang ở nó:
Tuyệt!
Đúng là tâm
trạng của Trịnh Công Sơn, khi viết về Saigon, sau
30 Tháng Tư:
Em ra đi nơi này vẫn thế.
Đi 1 phát, là mất
em!
Borges chẳng đã từng viết
về những kẻ sở hữu đủ thứ bản đồ, trái cầu, atlas...
thế giới, mà không bao giò dám
đi quá đầu ngõ!
Đi mãi xa mà vẫn quanh
quẩn đâu đây!
Kỷ niệm 100 năm,
sinh nhật Jorge Luis Borges (August 26, 1899- August 26,
1999)
"Borges và Tôi "
Hiếm nhà văn được như Borges:
ông đi vào truyền thuyết, ngay từ...
Hiếm
nhà văn được như Borges: ông đi vào
truyền thuyết, ngay từ khi
còn sống, không như một nhà văn nổi tiếng,
mà là một huyền tượng. Trong chuyện Tàu
có trường hợp tương tự: Để trốn tránh cơn giận
dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó,
Wang Fo rời cuộc đời, bước vào bức tranh ông vẽ.
Trường hợp Borges rắc rối hơn: Sau khi trở thành huyền
tượng, ông tiếp tục sống thêm nhiều năm, làm
phiền cho chính ông trước tiên, như thể có
hai, Borges, và "Borges", và ông đành
phải chấp nhận sự nhập nhằng, đôi khi cũng cố gắng trần
tình: Không phải tôi đâu, mọi chuyện là
do gã kia, Borges. Tôi, tôi đang đi trên
đường phố Buenos Aires, nhẩn nha nhìn phố xá. Tôi
nhận được tin tức của Borges, qua bưu điện, nghe đâu ông
ta được đề nghị một chân nào đó, hay là
được đưa vào một cuốn tiểu sử... tôi thích những
chiếc đồng hồ bằng cát, thích nhâm nhi ly cà-phê,
thơ xuôi Stevenson, ông ta cũng chia sẻ những sở
thích tương tự... Của đáng tội, nếu nghĩ rằng
giao tình giữa tôi và ông ta tồi tệ,
tôi sống và mặc kệ chuyện đời, miễn sao Borges tha
hồ thêu dệt văn chương của 'ông ta', vậy là đủ
cho tôi rồi (Borges và Tôi).
Còn nữa: bởi vì số
mệnh muốn ông không nhìn thấy gì,
vào lúc 45 tuổi, người ta bèn gọi ông
là Homer, hoặc Milton, những huyền tượng về thi sĩ mù.
Đọc
Borges, mỗi độc giả tìm ra một câu chuyện khác
nhau. Maurice Blanchot, như ở trên, đã nghĩ, mình
tìm ra cái vô cùng của văn chương. John
Barth lại coi đây là sự kiệt cạn (épuisement) của
nó. Nabokov coi mê cung của Borges là cõi
nhân gian bé tí, bé nhất nếu so với mê
cung của Kafka, rồi tới mê cung của Alain Robbe-Grillet. Mê
cung của Kafka vẫn còn có người, dù là "như
một con chó". Mê cung của Robbe-Grillet chỉ còn đồ
vật.
Như một huyền tượng, ngay
trong đời thường, trong những ngày cuối đời: Khi Borges
chọn Genève để chết, ông bảo Maria hãy kiếm
một căn nhà tại khu phố cổ của thành phố, nơi ông
đã sống trong thời gian xẩy ra Đệ nhất thế chiến, với
cha mẹ và người chị (hoặc em). Mặc dù mù,
ông vẫn nhớ, và "nhìn ra" nơi chốn cũ, và
bà vợ đã tìm được con phố, căn nhà
ngày xưa. Borges già gặp lại Borges trẻ, và cùng
chết ở một nơi cả hai đã từng sống.
V/v Golem.
Borges Golem
Note:
Trong 1 bài viết hồi còn giữ mục Tạp
Ghi cho tờ Văn Học, Gấu có đi 1 bài về Borges,
từ 1 cái nguồn tiếng Tẩy, và có dịch
từ Golem, là Phôi Thai.
Nhảm!
Golem là tên 1 con
vật tưởng tượng, và nó có nghĩa
- "Golem"
was the name given the man created out of a combination
of letters; the word literally means" an amorphous or lifeless
substance." - và là tên 1 bài
thơ của Borges.
Để tạ lỗi , lần này,
đi 1 bài trong Những Con Vật Tưởng Tượng,
trong có con “Golem”, và 1 bài thơ của
Borges, có tên là Golem.
http://www.tanvien.net/tgtp/tgtp11_borges_toi.html
Phôi thai
Ở Crayle, người Hy-lạp
- liệu anh ta có lầm không? -
Khi nói chữ là
mẹ của sự vật:
Trong những con chữ hồng
có mùi thơm của hoa hồng,
Và dòng
Nil luồn lách qua những con chữ của từ Nil.
Vậy thì có
một Cái Tên khủng khiếp, từ đó
yếu tính
của Thượng Đế được mã
hóa - và đó là một từ
của con người,
Bảng mẫu tự đánh
vần, bàn tay ghi lại;
Kẻ nói lên
có Sức Mạnh-Toàn Năng.
Những ngôi
sao biết Cái Tên này. Adam cũng
vậy,
Ở Khu Vườn; nhưng liền
đó, anh ngỡ ngàng và hoang mang:
Tội lỗi đục gỉ anh ta,
những người thần bí giáo bảo vậy;
Mọi dấu vết đến đây
là ngưng. Như thế đấy.
Jorge Luis Borges Thi
Phẩm (1925-1965).
(Theo bản tiếng Pháp
của Nestor Ibarra, Gallimard). (1)
(1)
LE GOLEM
Dans Cratyle, le Grec - et se
trornperait-il ? _
Dit que le mot est l'archétype de la chose:
Dans les lettres de rose
embaume la fleur rose,
Et le Nil entre en crue aux lettres
du mot Nil.
Un Nom terrible existe donc,
par quoi l'essence
De Dieu même est chiffrée - et c'est un
mot humain,
Qu'épelle l'alphabet,
que peut tracer la main;
Celui qui le prononce a la Toute-Puissance.
Les étoiles savaient ce
Nom. Adam aussi,
Au Jardin; mais bientôt
il s'étrange et se brouille :
Le péché, disent
les cabalistes, le rouille ;
Toute trace s'en perd à
la fin. C'est ainsi.
Mais la candeur de l'homme et
sa soif de merveilles
Et son art sont sans fond. Un
jour, le peuple élu
Tenta de retrouver le vocable
absolu ;
Toute la juiverie y consumait
ses veilles.
C'est ici que Juda Léon
va survenir,
Vive et verte mémoire,
et non point ombre vague
A peine insinuée au vague
devenir :
II est resté, Juda Léon,
rabbin de Prague.
Juda Leon saura ce que Dieu sait.
Brulé
De génie, il ajoute, il
retranche, il permute
Les lettres - et l'emporte en
fin de haute lutte.
II a trouvé Ie Nom. Et
ce Nom est la Clé,
Est l'Echo, le Palais, et l'Hôte,
et les Fenêtres.
Un pantin faconné d'une
grossière main.
Par le Nom recoit vie: il connaitra
demain
Les arcanes du Temps, de l'Espace
et des Lettres.
Levant sur l'univers des regards
somnolents,
L'hominien percut des formes
confondues
A des couleurs, et dans une rumeur
perdues ;
Novice, il s'essayait à
des gestes tremblants.
II se sentit bien tôt prisonnier,
comme un homme,
D'un sonore filet: l'Après
et l'Aujourd'hui,
Et la Droite et la Gauche et
le Plus et le Comme,
Le Maintenant, le Cependant,
le Moi, le Lui.
Mais comment désigner
la rude créature?
Le cabaliste-Dieu la sumomma
Golem.
(Tout ce que je rapporte est
constant, et figure
En quelque endroit du docte ouvrage
de Scholem.)
Voici mon pied.
ton pied ... Patient pédagogue,
Le rabbin au Golem apprenait
l'univers.
II se passa trois ans avant que
le pervers
Sut balayer tant bien que mal
la synagogue.
Fallait-il mieux écrire
ou mieux articuler
Le Nom? Quelque bévue
avait été commise :
Haute sorcellerie à la
fin compromise,
Le candidat humain n'apprit pas
à parler.
Parcourant le reduit et sa brume
morose? .
Ses yeux allaient cherchant ceux
du magicien ; .
Et c'était un regard moins
d'homme que de chien;
Si les choses voyaient, moins
de chien que de chose.
Je ne sais quoi de lourd, d'abrupt
chez le Golem
Faisait fuir sur ses pas le chat
de la voisine.
(II n'est pas question de ce
chat dans Scholem ;
Cependant, a travers les ans,
je le devine.)
Filial, Ie Golem mimait l'officiant,
Et tel son dieu vers Dieu levait
ses paumes graves;
Parfois d'orientaux salamalecs
concaves
Longuement l'abimaient, stupide
et souriant.
Le rabbin contemplait son oeuvre
avec tendresse,
Mais non sans quelque horreur.
Je fus bien avisé,
Pensait-il, d'engendrer ce
garcon malaisé
Et de quitter l'Abstention, seule
sagesse !
Fallait-il ajouter
un symbole nouveau
A la succession intarissable
et vaine ?
Une autre cause, un autre effet,
une autre peine
Devaient-ils aggraver l'eternel
echeveau ?
A l'heure où passe un
doute à travers l'ombre vague
Sur le pénible enfant
son regard s'arrêtait.
Saurons-nous quelque jour ce
que Dieu ressentait
Lorsque ses yeux tombaient sur
son rabbin de Prague?
1958.
Trong những con chữ hồng
có mùi thơm của hoa hồng
Ta mơ tưởng 1 thế giới, ở đó,
con người có thể chết vì 1 cái
dẩu phảy, Cioran phán
Gấu, chết vì một từ!
Vẫn
chuyện chết vì cái dấu phảy
Lạ, hiếm, phong trần, tã:
Vớ được tại tiệm sách cũ
THE GOLEM, p. 111
Joshua Trachtenberg, in Jewish Magic and
Superstition, writes that the German Hasidim used "the
word golem (literally, shapeless or lifeless matter)
to designate a homunculus created by the magical invocation of
names, and the entire cycle of golem legends may be traced
back to their interest."
Line 20. Though Judah Low,
the seventeenth-century Jewish rabbi from Prague, is credited
with making the Golem, according to Trachtenberg the "legends
of the golem were transferred ... to R. Judah Low b. Bezalel,
without any historical basis." It turns out that John Hollander,
the poem's translator, is a descendant of Rabbi Low (or Loew); after
making his translation, Hollander was inspired to write his own Golem
poem, "Letter to Borges: A Propos of the Golem," which admirably
complements the translation. Hollander's poem is printed in his book
The Night Mirror.
39. Gershom Scholem is the
distinguished Jewish scholar and author of Major Trends
in Jewish Mysticism.
Borges' interest in the legend
of the Golem dates from an early acquaintance with Gustav Meyrink's
Der Golem, the first prose work in German Borges
ever read. See Borges' article on "The Golem" in The Book of
Imaginary Beings, pp. 112-14.
Borges was named Director of the Argentine National
Library after the fall of Peron in 1955.
Line 37. Paul Groussac (1848-1929)
had been a former director of the Biblioteca Nacional and was
also a historian and critic whose prose style Borges has greatly
admired. A short eulogy, written after Groussac's death, is collected
in Borges' Discusión
After writing
the poem, Borges discovered that Jose Marmol, the nineteenth-century
poet and novelist who directed the National Library until his death
in 1871, had also gone blind.
PHOSPHOR READING BY HIS OWN LIGHT
It is difficult to read. The
page is dark.
Yet he knows what it is
that he expects.
The page is blank or a
frame without a glass
Or a glass that is empty
when he looks.
The greenness of night
lies on the page and goes
Down deeply in the empty
glass ...
Look, realist, not knowing
what you expect.
The green falls on you
as you look,
Falls on and makes and
gives" even a speech.
And you think that that
is what you expect,
That elemental parent,
the green night,
Teaching a fusky alphabet.
Wallace Stevens: The
Collected Poems
Lân tinh đọc bằng ánh sáng
của chính nó
Đọc, căng thiệt
Trang sách tối thui
Tuy nhiên nó
biết, điều hắn muốn biết
Trang sách trống trơn,
hay chỉ là một cái khung không
có cái ly
Hay cái ly trống,
cạn, chẳng có gì hết, khi nó
nhìn
Cái màu xanh
của đêm nằm trên trang sách và
chúi mãi vào cái ly trống trơn,
Chúi sâu mãi
vào cái ly trống trơn....
Nhìn, tên “hiện
thực”, không biết, điều mi mong đợi
Cái màu xanh
rớt lên mi, khi mi nhìn
"Rớt", rớt xuống mãi,
"làm", và "cho", ngay cả một câu
nói.
Và mi nghĩ, đó
là điều mi mong đợi
Cái phần cha mẹ cơ
bản, cái ánh sáng màu xanh
Dạy bài học mẫu tự
lưỡng tính.
Sách &
Báo
Mới
Trên số báo
Harvard có 1 bài về Viginia Woolf thật thú
vị. Gấu tính đi, và, tình cờ làm
sao, vớ số báo cũ ML, Oct 2007, có bài
của Linda Lê, trong mục của bà, viết về một
nữ phiêu lưu và nhà văn, "West Hoang Dại",
trong đó,
Woolf kể, bà được gợi hứng như thế nào,
từ West hoang dại, khi viết “Orlando”. W viết cho Vita [West]:
Tớ sống ở trong cậu trong mấy
tháng trời, và bây giờ, tớ ra khỏi
cậu. Cậu thực sự giống ai? Cậu có thực? Tớ phịa ra
cậu?
MARGOT LIVESEY
Nothing Is
Simply One Thing
She always
had the feeling that it was very,
very dangerous to live even
one day.
-Mrs. Dalloway
Note: Bài essay
này quá tuyệt.
GCC mê quá. hăm
he giới thiệu hoài, vì biết, có
mấy vị độc giả ở trong nước mê Woolf lắm, quả đúng
là 1 sự kinh ngạc.
Gấu đã từng kể, lần
khám phá ra Woolf, giữa cuộc chiến khốn
kiếp, và, sau đó, khoe với ông anh nhà
thơ, ông cũng thú quá, cùng với
thằng em.... Ngồi Quán Chùa, ông lim
dim cặp mắt, mơ màng nói với thằng em, cậu phải
đọc nó vài lần, nhớ nhe....
Ui chao, thế mà mất
cả, mất cả ông anh, lẫn Saigon, lẫn Quán
Chùa!
She always had the feeling
that it was very,
very dangerous to live even
one day.
-Mrs. Dalloway
Sống 1 ngày, nguy hiểm
thế ư?
Vậy mà phải sống, cả
cuộc chiến nhơ nhớp, đê tiện, do Bắc Kít
phịa ra, rồi bằng mọi cách, kể cả mời thằng Tẫu vô giường... biến thành hiện thực, với
ba triệu người chết, trong nó, chưa nói, sau nó.
Và cuộc tù thê
lương sau đó!
Someone Is Harshly Coughing as Before
Someone is harshly coughing on
the next floor,
Sudden excitement catching the
flesh of his throat:
Who is the sick one?
Who will knock at the door,
Ask what is wrong and sweetly
pay attention,
The shy withdrawal of the sensitive
face
Embarrassing both, but double
shame is tender
We will mind our ignorant business,
keep our place.
But it is God, who has caught
cold again,
Wandering helplessly in the world
once more,
Now he is phthisic, and he is,
poor Keats
(Pardon, 0 Father, unknowable
Dear, this word,
Only the cartoon is lucid, only
the curse is heard),
Longing for Eden, afraid of the
coming war.
The past, a giant shadow like
the twilight,
The moving street on which the
autos slide,
The buildings' heights, like
broken teeth,
Repeat necessity on every side,
The age requires death and is
not denied,
He has come as a young man to
be hanged once more!
Another mystery must be crucified,
Another exile bare his complex
care,
Another spent head spill its
wine, before
(When smoke in silence curves
from every fallen side)
Pity and Peace return, padding
the broken floor
With heavy feet.
Their linen hands will hide
In the stupid opiate the exhausted
war.
Delmore Schwartz: Once and
for All
From LAST & LOST POEMS (1989)
This Is a Poem I Wrote at Night,
before the Dawn
This
is a poem I wrote before I died and was reborn:
-
After the years of the apples ripening and
the eagles soaring,
After the festival
here the small flowers gleamed like the first stars,
And the horses
cantered and romped away like the experience of
skill; mastered and serene
Power, grasped
and governed by reins, lightly held by knowing
hands.
The
horses had cantered away, far enough away
So that I saw
the horses' heads farther and farther away
And saw that
they had reached the black horizon on the dusk of
day
And were or
seemed black thunderheads, massy and ominous
waves in the doomed sky:
And it was
then, for the first time, then that I said as I must
always say
All
through living death of night:
It
is always darkness before delight!
The long night
is always the beginning of the vivid blossom of day.
LITERATURE
With his New
Directions debut in 1938, Delmore Schwartz was hailed
as a genius and among the most promising writers of his
generation. Yet he died in relative obscurity, wracked by
mental illness. Sadly, his literary legacy has been overtaken
by the story of his tragic life.
Among poets, Schwartz was a prototype for the confessional
movement made famous by Robert Lowell and John Berryman.
His stories and novellas about Jewish-American experience
laid the groundwork for novels by Saul Bellow (whose
Humboldt's Gift is based on Schwartz's life) and Philip
Roth.
This volume aims to restore Schwartz to his proper
place in the canon and introduce new readers to the breadth
of his achievement. Included are selected stories and poems,
excerpts from Schwartz's epic poem Genesis (long unavailable)
and his never-completed book on T. S. Eliot, letters, verse
plays, and unpublished poems.
"Dazzling -
a new kind of telling, with urgent bluntness of its
own." -John Ashbery
"Delmore Schwartz
catapults past the fickleness of mere reputation
(that posture and position that Lionel Trilling defined
as characterizing a 'figure') into something close to legend."
-Cynthia Ozick
"What complicates
and enriches Schwartz's comedy is a reaching out
toward nobility, a shy aspiring spirituality, a moment or
two of achieved purity of feeling." -Irving Howe
"I wanted to
write. One line as good as yours. My mountain. My inspiration."
-Lou Reed
Delmore Schwartz
was born in Brooklyn and is one of America's greatest
poets and short-story writers. Schwartz received the Bollingen
Prize in 1959. After a difficult period, he died of a
heart attack in 1966.
Craig Morgan
Teicher is a poet and critic whose most recent book
of poems is To Keep Love Blurry. John Ashbery has won
nearly every major American award for poetry, including the
Pulitzer Prize, the National Book Award, and a MacArthur "Genius
Grant." His latest collection is Breezeway.
All Gone into the Dark
Where's the blind old street
preacher led by a little boy
Who said the
world will end next Thursday at noon?
Where's the woman
who walked down Madison Avenue
In the summer
crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet
Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington
Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young
man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting
about wanting to kill more Vietnamese?
Mr Undertaker,
sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a
buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like
the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself
around the newly arrived dead?
Rồi tất cả cũng đi vào đêm
tối
Ông linh mục mù
già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng
tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta
đâu rồi nhỉ?
Ðâu
rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison
Avenue
Giữa đám
đông mùa hè, hoàn toàn
khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu
rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi
nhìn thấy ngồi ở
Washington Square
Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu
rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai
bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà
hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả giò,
bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như
tất cả lũ chúng tôi, cùng trong
bóng tối,
Bạn đang tự mình
làm rộn mình, về những người chết
mới tới?
Charles Simic
LONDON REVIEW
OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
- thời gian theo ông nó
đi qua ông hay ông đi qua nó?
Có thể “đọc”
câu trên, qua ý của Brodsky,
thơ là thời gian được sắp xếp lại, that any poem
is reorganized time, cái thiên thu gặp cái
hiện tại:
Trong Borges Tám Bó,
có 1 chương dành cho thời gian: Time
Is the Essential Mystery, Thời gian thì huyền bí
như là yếu tính của nó
University
of Chicago,
March 1980
Time Is the Essential Mystery
I think that time is the one
essential mystery. Other things may be mysterious.
Space is unimportant. You can think of a spaceless universe,
for example, a universe made of music .... The problem
of time involves the problem of ego, for, after all, what
is the ego? The ego is the past, the present, and also the anticipation
of time to come, of the future.
Chính là
trong chương này, Borges cho biết, bà
cụ của ông, là người viết ra dòng chót
của truyện ngắn "The Intruder", mà chính Borges
phán, đây là truyện ngắn tuyệt vời nhất
mà tôi đã từng viết ra, và GCC
áp dụng nó vô xứ Mít, khi cố tìm
1 cái giải thích có tí mùi
"đạo đức", cho Cái Ác Bắc Kít:
Trong bài viết về Borges,
Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên
The New Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”,
Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges,
mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này
hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges. Tò mò, Gấu kiếm
trong “thư khố” của Gấu, về ông, không
có. Lên net, có, nhưng chỉ cho
đọc, không làm sao chôm: “The Intruder”,
câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một
trong họ, giết cô gái để cho tình anh em
lại được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó
mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn
phận quên nàng”. Borges coi nó như là
1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để
trang trí - cho những những câu chuyện
đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà,
The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không
1 tì vết và cảm động một cách lạ
thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng
trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng
hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít,
cùng mê, và 1 thằng đã "làm
thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên
nàng:
Như thể, sau khi Gấu lang thang
xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về
Xề Gòn, và thấy Những
Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!
"The Intruder," a very short
story recently translated into English, illustrates
Borges's present ideal. Two brothers share a young
woman. One of them kills her so that their fraternity may
again be whole. They now share a new bond: "the obligation to
forget her."
Borges himself compares
this vignette to Kipling's first tales. "The Intruder"
is a slight thing, but flawless and strangely moving.
It is as if Borges, after his rare voyage through languages,
cultures, mythologies, had come home and found the Aleph
in the next patio.
Borges: … I remember I wrote
a story called "The Intruder." Two hoodlums, two brothers,
kill a woman because they are jealous of each other.
The one way they had to get rid of her was to knife her. I came
to the last sentence. My mother was writing it down. She disliked
the whole thing. She was sick and tired of hoodlums and knives.
Then I came to a moment when the elder brother had to tell the
younger brother that he had knifed the woman that morning. Or
he had strangled her, I don't know-why go into the gory details?
He had to say that, and I had to find the right words. Then I told
my mother: "How on earth can he say that?" And she said: "Let me think."
This was in the morning. Then, suddenly, in quite a different
voice, she said: "I know what he said." Then I said: "Well, write
it down." She wrote it down and I asked her to read it. She read
it and those words were: "To work, brother, I killed
her this morning." And she found the right words for
me. The story ended. I added a sentence or so. Then she asked me not to
write any more of those blood- and-thunder stories. She was sick and tired
of them. But she gave me the words, and at that moment she became, in
a sense, one of the characters in the story, and she believed in
it. She said "I know what he said" as though the thing had actually
occurred. She gave me the key word for that story called "The Intruder,"
perhaps the best story-or perhaps the one story I have ever written.
Vưỡn trong cái dòng
thời gian làm gì mi vs mi làm gì thời gian
Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
The memory of time
Is full of swords and ships
And the dust of empires
And the rumble of hexameters
And the high horses of war
And shouts and Shakespeare.
I want to recall that kiss, the kiss
You bestowed on me in Iceland.
-H.R.
Ký ức thời gian
Thì đầy gươm giáo và
tầu thuyền
Và bụi bặm đế quốc
Và tiếng ùng ục của những
vần thơ lục bát
Và ngựa chiến
Và tiếng la hét và
Shakespeare.
Tớ chỉ muốn nhớ nụ hôn
Mà em ban cho tớ
Lần ở nghĩa trang Bắc Việt (1)
(1)
Lần
Cuối Sài Gòn
1965. Những ngày
viết "Những ngày ở Sài-gòn". Thời gian
xa cách làm những giọt nước chín mùi,
biến thành những chữ. Cô bé đã lớn,
đã bước vào những năm cuối cùng của bậc Trung
Học. Đã có lần tham gia biểu tình, bãi
khóa. Đã có người yêu đón đưa
những lần tới lớp, những giờ tan trường. Đã bị bà
Giám Hiệu ra thông báo cấm những trò
có hại cho thanh danh nhà trường như vậy. Đã bãi
học không phải để tham gia biểu tình, nhưng để đi
chơi với người yêu. Lợi dụng thành phố đang trong cơn
nhốn nháo, cả hai theo chiếc xe lên nghĩa trang Bắc Việt
để thì thầm những lời yêu đương giữa những nấm mồ và
lắng nghe những người đã chết kể về từng gốc cây ngọn
cỏ.
http://www.openlettersmonthly.com/borges-and-you/
Borges và mi
The
conceit of being a minor poet allows Borges “with pretended
ease” to assume the identity of everyman. Some everyman. If
we can, for the moment, forget the four ponderous volumes of
the Collected Works, or the colossal erudition, or the mastery
of seven or eight languages, or the Nobel Prize he should have won,
Jorge Luis Borges truly was an everyman, inhabiting our identities
as we inhabit his. “Oh destino de Borges, tal vez no más extraño
que el tuyo”: “Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than
yours.”
Ôi số mệnh Borges, chắc cũng lạ
hơn Gấu! Chính vì thèm [hách
xì xằng] là
1 nhà thơ làng nhàng, làm ông
có cái căn cước của bất cứ 1 ai, của mọi người.
Nếu bạn, có 1 lúc, quên kho tàng
đồ sộ là những tác phẩm của ông, hay cái
Nobel mà đúng ra ông phải được, thì
Borges thực sự là bất cứ 1 ai, bất cứ mọi người, an everyman,
cư ngụ trong những căn cước của chúng ta như chúng
ta cư ngụ trong căn cước của ông
Nhưng thèm 1 cú hôn,
thì hẳn thú hơn nhiều, thay vì thèm,
nhìn bướm của 1 em, hay bầu sữa của bà mẹ.
Nhưng, ngoài Bắc Kít ra,
liệu có giống dân nào, thèm nhìn
bướm của 1 em, trước khi từ giã cõi đời?
PHONG CẢNH TRÊN TỌA ĐỘ SỐ KHÔNG
Đó là
lúc con chim ưng dạy tiếng hót bơi qua
(*)
Đó là
tiếng ca đuổi theo làn gió xa xưa nhất
Chúng tôi
trao đổi nhau mấy mẩu chuyện vui
Từ nhiều nơi khác
nhau
Cùng vào
gia đình
Đó là
phụ thân đã xác nhận sự đen tối
Sự đen tối ấy dẫn tới
ánh chớp kinh điển
Cánh cửa khóc
than hốt nhiên đóng sập
Âm vọng đuổi
theo tiếng kêu khóc
Đó là
ngọn bút nở hoa trong tuyệt vọng
Bông hoa ấy chống
lại cuộc hành trình không tránh
khỏi
Đó là
tia sáng tình yêu hồi tỉnh
Chiếu sáng cảnh
quan trên tọa độ số không.
Thiếu Khanh dịch
ASIA LITERARY
REVIEW
Winter 2010
Modern Chinese Poetry - Insistent
Voices
Landscape Above Zero
It was the seagull that taught
the song to swim
It was the song that
found the first wind's source
We shared shards of happiness
Entering the home
from different directions
It was father who recognized
darkness
It was darkness that
led us to sudden lightning
The weeping door slammed shut
And echo pursued its
cries
It was the pen that bloomed
in despair
It was the flower
that refused the necessary journey
It was rays of love that awoke
Lighting the landscape
above zero
Bei Dao
Phong cảnh ở bên trên con số không
Đó là hải âu
dậy bài ca bơi
Đó là
bài ca tìm thấy nguồn gió
Chúng ta chia nhau những
mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều
hướng khác nhau
Đó là người cha
nhận ra bóng tối
Đó là
bóng tối dẫn chúng ta tới ánh
sáng bất thần
Cánh cửa nức nở đóng
sầm lại
Và tiếng vang
đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây
viết nở hoa trong chán chường
Đó là
bông hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là những tia
tình yêu thức giấc
Soi sáng phong
cảnh ở trên con số không
Note: Bài thơ này,
có tới hai bản tiếng Mít, một của
GCC, khi đọc Bei Dao trên tờ Điểm Văn Á,
Asia Literary Review, mê quá [tại sao mê
thì đừng bắt GCC phải tự thú!] Sau, gặp tập thơ
của ông, bèn chơi liền, và được bạn Dã
Viên dịch thẳng từ tiếng Tầu. Vị độc giả này, dân
Huế, rất mê thơ. Rất giỏi tiếng Tầu. Trang TV như vậy là
có thêm 1 vị hộ pháp!
Tks All. NQT
Phong
cảnh trên độ không
Là ó biển dạy tiếng
hát bơi
Là tiếng hát
lần về ngọn gió sơ ngộ
Chúng ta đổi trao những miểng
vụn hân hoan
Tiến vào nhà
từ những phương trời khác biệt
Là người cha xác nhận
bóng tối
Là bóng
tối nối liền ánh chớp kinh điển
Cánh cửa nức nở đóng
sầm lại
Tiếng vang đuổi theo
tiếng nó khóc gào
Là bút trổ bông
trong tuyệt vọng
Là hoa từ chối
cuộc lữ tất nhiên
Là tia sáng tình
yêu choàng tỉnh
Chiếu sáng
phong cảnh trên độ không.
Bei Dao
Dã Viên
dịch từ nguyên
tác
Kính mời bác đọc
bản dịch bài thơ "Đảo" của Bắc Đảo (đọc
song song với bài thơ "Biển" của bác
thì hợp lắm)
Chúc bác
vui nhiều.
Kính
DV
Đa tạ
HA/NQT
Đảo
Mi rong ruổi trong biển sương
mù
không có
buồm
mi ngưng nghỉ dưới đêm
trăng
không có
neo
đường từ nơi này
mất hút
đêm từ nơi này
mất hút
2
Không có ký
hiệu
không có
giới hạn rõ ràng
chỉ có vách
đá dựng với bọt sóng nguyện cầu
lưu lại dấu vết tháng
năm buồn thảm
và một chút
oai nghiêm kỷ niệm cỏn con.
Bầy trẻ đi về phía bờ
cát,
dưới ánh trăng,
con cá kình phía xa,
đang phún lên
những cột nước cao vút.
3
Bầy hải âu đã tỉnh,
cánh nối liền
cánh,
tiếng kêu nghe
sao thê thiết,
làm kinh động
từng phiến lá hoan hợp,
và trái
tim lũ trẻ
Trong thế giới nhỏ bé
này,
lẽ nào chỉ lay
tỉnh những điều đau khổ?
4
Đường chân trời đổ nghiêng,
chấp chới, lật ngược
lại,
một con hải âu
rớt xuống,
máu nóng
uốn cong chiếc lá bồ to rộng.
cái màu
sắc bao trùm của đêm,
đã che đậy cả
tiếng súng nổ.
-Đây là đất cấm,
đây là
kết cục của tự do.
một chiếc bút
lông chim đang cắm trên cát,
mang không khí
ẩm ướt
nó thuộc về mạn
thuyền chao đảo và gió mùa,
thuộc về bờ, thuộc về
sợi mưa nghiêng,
mặt trời của hôm
qua hoặc ngày mai.
nhưng giờ lại ở đây,
viết xuống điều bí
mật được cái chết chứng thực.
5
Trên mỗi ngọn sóng,
lềnh bềnh một chiếc
lông vũ lấp lánh.
Lũ trẻ vun lên từng gò
cát nhỏ
nước biển chảy vòng
qua
như vườn hoa, đong đưa
quạnh vắng
bức liễn ai điếu của
ánh trăng trải về bên trời.
6
A, cây cọ,
chính sự im lặng
của mi,
vung lên thanh
kiếm của kẻ phản loạn.
lại một lần,
gió thổi tung
mái tóc,
như thổi ngọn cờ tung
bay đón gió.
biên giới cuối
cùng,
mãi mãi
ở trong trái tim lũ trẻ.
7
Đêm, đón gió
mà đứng
vì tai kiếp
vì hung thủ ẩn
nấp
trải xuống tấm thảm
mềm êm
bày sẵn từng
hàng cốc vỏ sò.
8
Có bầu trời vô
tội là đủ rồi
có bầu trời là
đủ rồi.
Nghe đây, đàn,
đang gọi về
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên
kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất
cả
Cát ở đây
được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê
hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau
vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên
trời
Chỉ còn ta cô
đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu
già
Giấu chút tình
sầu
Vào lời thì
thầm của biển...
Thơ
Mỗi
Ngày
VOICES OVER WATER
There are spirits that come
back to us
when we have
grown into another age
we recognize
them just as they leave us
we remember
them when we cannot hear them
some of them
come from the bodies of birds
some arrive
unnoticed like forgetting
they do not
recall earlier lives
and there are distant voices
still hoping to find us
Tiếng người trên mặt nước
Có những linh hồn trở
lại với chúng ta
Khi chúng ta ở vào
một tuổi
khác
Chúng ta nhận ra
họ đúng lúc họ từ giã chúng
ta
Chúng ta nhớ họ
khi chúng ta không thể nghe họ
Một số trở lại trong bộ
vó của loài chim
Một số tới, không
để ý, như quên lãng
Họ không nhớ những
đời trước
Và có những
tiếng nói xa vời vợi vẫn hy vọng tìm chúng
ta
A BOOK
Scarcely a thing among things
But also a weapon. It was
forged
In England, in 1604,
And they weighted it with
a dream. It holds
Sound and fury and night
and scarlet.
My palm feels its heaviness.
Who could say
It contains hell: the bearded
Witches who are fates,
the daggars
Which carry out laws of
shadow,
The delicate castle air
That will see you die,
the delicate
Hand capable of bloodying
the seas,
The sword and shouting
of the battle.
That silent uproar sleeps
In the circle of one of
the books
On the quiet shelf. It
sleeps and waits.
[Trans.
Willis Barnstone]
Một Cuốn Sách
Thì cũng 1 vật, trong
vạn vật
Nhưng còn là
1 vũ khí.
Được rèn ở Ăng Lê
vào năm 1604
Và người ta cân
nó, bằng một giấc mộng.
Nó cầm âm thanh,
giận dữ, đêm, và màu đỏ tươi
Lòng bàn tay
tớ cảm thấy nằng nặng
Ai có thể nói,
nó chứa địa ngục:
Những tên phù
thủy rậm râu, chúng là số mệnh
Những tên dao găm
ban phán luật pháp và những
cái bóng
Cái vẻ thanh thoát
của tòa lâu đài
Sẽ nhìn thấy bạn
chết
Cái bàn tay
thanh thoát có thể nhuộm máu
biển cả
Cây gươm và
tiếng gào của trận đánh.
Tiếng gầm gừ câm lặng ngủ
Trong chu vi của một trong
những cuốn sách
Trên giá sách
êm ả.
Nó ngủ và
đợi.
We think of all books,
not only holy writ but the others, as being holy.
And that is right, since our tools, our tools framed by mankind,
are mere extensions of his hand-a sword, a plow. And a telescope
or a microscope is an extension of his eyesight. But in the case
of books, there is far more than that. A book is an extension of the
imagination, of memory. Books are perhaps the only thing we know
of the past, of our personal past also. And yet, what is a book? A
book, when it lies in the bookshelf-I think Emerson has said
so (I like to be indebted to Emerson, one of my heroes)-a book is
a thing among things. And/after all, why should it be revealed?
A book is a thing and there it is. It has no existence of its own.
A book is unaware of itself until the reader comes. And then
I bethought myself of writing a poem about that very simple fact:
that a book is a physical object in a world of physical objects. Since
I had to choose a certain book, I thought of Macbeth. Were I to
choose a single tragedy of Shakespeare, I think I would choose Macbeth,
that tense thing that begins: "When shall we three meet again/ in
thunder, lightning or in rain?" And then goes on: "Life is a tale told
by an idiot, full of sound and fury, signifying nothing." Another
character who speaks "of this dead butcher and his fiendish greed."
Of course Macbeth was far more than a "dead butcher." Then I thought,
well, here is a volume. We find that in this volume the tragedy of
Macbeth is en- closed, all the din, the uproar, the weird sisters.
Weird is not an adjective in this case.
Weird is a noun since it stands for
the Saxon wurd "fate." The witches are also fate,
the weird sisters. And this book is dead, this book is lifeless,
and this book in a sense is lurking, is awaiting us. So I wrote the
last line. I think it runs: "It sleeps and waits."
BORGES AT EIGHTY
VOICES OVER WATER
There are spirits that
come back to us
when we have grown into
another age
we recognize them just
as they leave us
we remember them when
we cannot hear them
some of them come from
the bodies of birds
some arrive unnoticed
like forgetting
they do not recall earlier
lives
and there are distant
voices still hoping to find us
RIVER
Li Po the little boat
is gone
that carried you ten
thousand li
downstream past the
gibbons calling
all the way from both
banks and they
too are gone and the
forests they
were calling from and
you are gone
and every sound you
heard is gone
now there is only the
river
that was always on its
own way
Note:
Cuốn thơ mới ra lò của W.S. Merwin, nhà
thơ Mẽo.
Tay này, Gấu
cũng cực mê, có gần như đủ tác
phẩm của ông, dịch có, thơ có, nhưng
cuốn này, làm vào lúc cũng sắp
đi xa, thật là thần sầu.
Nấn ná mãi,
mới dám mua, vì bìa cứng, mắc
quá, sau đành tặc lưỡi, Tết mà!
Bài thơ sau đây,
là trong số The Paris Review, nhân
đọc cái truyện của Witold Gombrowicz bèn chơi luôn.
Amit Majmudar
NOSTALGIA
Once upon a time. Twice on
her parents' bed.
She freaked out when
she found the human stain
Dried rough in the rough
shape of the male brain.
Cautious ever after,
after that she said
She liked it when I
shot her in the head.
She blew my brains out.
Bang bang, I was dead,
Unarousable there in
the first-floor master.
Sometimes, on long drives,
she'd gun me. Faster, faster
I tongued the olive
pressed between her thighs.
Floaters, she swore,
as bright as rescue flares
Would dive across the
dark behind her eyes.
I pearl dove and never
once came up for air
There in her aunt's
houseboat on Lake Champlain.
The wetter she got the
harder I smelled the rain.
Old Man
Backed myself into a dark
corner one day,
Found a boy there
Forgotten by teachers
and classmates,
His shoulders slumped,
The hair on his head already
gray.
Friend, I said.
While you stood here staring
at the wall,
They shot a president,
Some guy walked on the
moon,
Dolly, the girl we all
loved,
Took too many sleeping
pills and died
In a hotel room in Santa
Monica.
Now and then I thought
of you,
Listening to the squeak
of the chalk
On the blackboard,
The sighs and whispers
Of unknown children
Bent over their lessons,
The mice running in the
night.
Visions of unspeakable
loveliness
Must've come to you in
your misery:
Cloudless skies on long
June evenings,
Trees full of cherries
in our orchard,
To make you ache and want
to be with me,
Driving a cab in New York
City.
Charles Simic: Master
of Disguises
Anh già
Lủi vô
1 góc tối, một bữa,
Gấu thấy 1 thằng bé
ở đó
Bị cả thầy và bạn
vờ
Vai xụ xuống 1 đống
Mớ tóc, ôi
sao, lạ kià, xám tiêu, cũng 1 đống!
Bồ tèo, Gấu gạ chuyện
Trong khi mi ngồi đây
nhìn lên tường
Chúng làm
thịt tông tông
Mấy tên cà
chớn lang thang trên mặt trăng
Dolly, cô gái tất cả chúng ta “thươn”,
Chơi quá liều thuốc
ngủ, và “đai”
Trong 1 phòng khách
sạn ở Santa Monica
Lúc này, lúc
nọ, ta có nghĩ đến mi
Lắng nghe tiếng phấn lạo
xạo, lạo xạo
Trên bảng đen
Tiếng thở dài, tiếng
thầm thì
Của những đứa trẻ vô
danh
Cúi xuống bài
học
Tiếng chuột chạy trong đêm.
Những viễn ảnh tình
ơi là tình
Đáng iêu ơi
là đáng iêu
Không làm sao
nói được,
Hẳn là đến với mi
trong nỗi khốn khổ của mi
Những bầu trời không
mây trong những buổi chiều dài tháng
Sáu
Cây nặng trĩu anh
đào trong vườn của chúng ta
Làm cho mi nhức đầu
và muốn có ta bầu bạn
Làm 1 chuyến tắc
xi lang thang trong thành phố New York.
The Toad
It'll be a while before my friends
See me in the city,
A while before we roam
the streets
Late at night
Shouting each other's
names
To point out some sight
too wonderful
Or too terrifying
To give it a name in
a hurry.
I'm staying put in the country,
Rising early,
Listening to the birds
Greet the light,
And when they fall quiet,
To the wind in the leaves
Which are as numerous
here
As the crowds in your
city.
God never made a day as beautiful
as today,
A neighbor was saying.
I sat in the shade after
she left
Mulling that one over,
When a toad hopped out
of the grass
And, finding me harmless,
Hopped over my foot on
his way to the pond.
Charles Simic
Con Cóc
Sẽ là một chốc lát trước
khi đám bạn bè
Nhìn thấy tôi
trong thành phố
Một chốc lát trước
khi chúng tôi làm náo động
những con phố
Vào lúc
đêm thật khuya
La, rống tên nhau
Chỉ cho thấy một cảnh
tượng tuyệt vời
Hay, sợ ơi là
sợ
Để ban cho nó
1 cái tên, trong vội vã
Tôi, trong một xứ sở
Thức sớm
Nghe chim hót
Đón nhận ánh
sáng
Và khi lũ chim
nín khe
Nghe gió trong
lá
Ui chao hằng hà
lá
Như những đám
đông trong thành phố của bạn
Chúa chưa từng làm ra
một ngày đẹp tuyệt vời như thế này, ngày hôm
nay
Một người hàng
xóm nói
Tôi ngồi trong
cái bóng sau khi bà rời khỏi
Ngẫm nghĩ hoài
câu bà nói
Một con cóc nhẩy
ra khỏi đám cỏ
Và, thấy tôi
vô hại
Bèn tiện đường
nhẩy lên chân tôi
Lóc cóc
ra ao
It likes empty churches
At the blue hour of dawn
The shadows parting
Like curtains in a sideshow,
The eyes of the crucified
Staring down from the
cross
As if seeing his bloody feet
For the very first time.
Charles Simic
Ánh Sáng Mùa Hè
Nó
thích nhà thờ trống rỗng
Vào cái
giờ xanh của buổi sáng tinh mơ
Những
cái bóng bỏ đi
Như những bức màn
trong 1 buổi diễn phụ
Con mắt
của Người bị đóng đinh
Nhìn xuống từ
cây thập tự
Như
thể Người nhìn thấy máu của Người
Ở chân
Lần đầu
Six Poems
Graveside Oration
Our late friend hated blue skies,
Bible-quoting preachers,
Politicians kissing babies,
Women who are all sweetness.
He liked drunks in church,
Nudists playing volleyball,
Stray dogs making friends
Birds singing of fair
weather as they crap.
Điếu văn bên mồ
Ông bạn mới mất của chúng
ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy Chùa
trích dẫn Kinh Phật
Những chính trị
gia hôn con nít
[Và, tất nhiên,
ghét con nít hát, đêm qua
em mơ gặp Bác H. !]
Ghét đờn bà
ngọt ngào như mía lùi
Bạn tôi thích nhậu
ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm
Thích mấy em trần
truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết
bạn
Chim xoa đầu thời tiết,
khi chúng đang ị.
Dead Season
This landscape with its somber
skies
Must have fallen in love
With a story by Edgar Allan
Poe.
One of its birch trees could
be his Eleonora,
And the other, further on,
Ligeia.
Life is a dream within a dream,
Whisper the fallen leaves
under our feet.
The old house, softly
lit from within
By its copper pots and
mirrors,
Seems even more abandoned
this evening.
What if I were to knock on its
door?
Keeping in mind, as I
push it open
And enter cautiously,
that for Poe
Beauty could be the cause
of sudden death.
Mùa Chết
Khung cảnh này với bầu
trời xám xịt của nó,
hẳn là đang khật
khừ vì tương tư,
một câu chuyện
của Edgar Allan Poe.
Một trong những cây
bu lô hẳn là Eleonora của ông ta
Và cái
cây kia, có thể là Ligeia.
Đời là mơ trong mơ,
Những lá khô
dưới chân chúng ta thì thào.
Căn nhà cổ, sáng
nhè nhẹ từ bên trong nó,
Qua mấy cây đèn
đồng, và những tấm gương,
Có vẻ hoang phế
hơn nhiều,
Vào một buổi chiều
tối như thế này.
Chuyện gì xẩy ra nếu tôi
gõ cửa?
Và luôn
nhớ rõ điều này,
Khi rón rén
bước vô căn nhà,
Với Poe,
Cái Đẹp
có thể là nguyên nhân của
cái chết bất thần.
Charles Simic
Ferrari: Điều làm
tôi ngạc nhiên là trong
Personal Anthology và trong New Personal
Anthology, ông lấy cái truyện Thư viện
Babel của ông ra...
Borges: Đó là
do tôi chôm Kafka rõ quá
[tôi toan tính, một toan tính vô
ích, là Kafka]. Mặc dù người ta nói
là kết quả khác nhau - may mắn cho Kafka,
vì cái khác nhau này, nhưng tôi
không buồn vì chuyện này.
Gấu nhớ, có đọc
ở đâu đó, 1 tay nào phán,
Borges mới đúng là đệ tử y bát của
Kafka!
Tuyệt vời thực! Hai tay,
viết khác hẳn nhau, sống khác hẳn nhau,
vậy mà là đệ tử & sư phụ!
BORGES. It's just that
'The Library of Babel' seems to me to be merely an attempt,
a vain attempt, to be Kafka. Although I'm told the result is
different-luckily for Kafka it's different but sadly not for
me. Of course, when I wrote 'The Library of Babel' I was employed
in that small and almost secret Almagro library. I thought that
it was infinite, that it included and was part of the universe.
Note: Nhớ ra rồi!
André Maurois, trong
bài Tựa, cho cuốn
Mê Cung, của Borges!
Borges was a direct
precursor of Borges.
Bài này,
cũng quá tuyệt. Tin Văn post liền, và
dịch sau. Trước mắt, dịch bài của Kis viết về Borges.
Borges
There is no doubt: the short story
or, rather, the art of the short story must be divided
into pre-Borges and post-Borges. I am not thinking so much
of the way he broadened the scope of reality (in the direction
of the fantastic) as of the way he told his stories. The story
of the Maupassant-Chekhov-O. Henry variety, which emphasized
detail and created its mythologemic field by means of induction,
underwent a magic, revolutionary transformation in Borges:
Borges introduced deduction, which is merely another name for a
kind of narrative symbolism, the consequences of which in both theory
and practice are of the same magnitude as the appearance of symbolism
in poetry with Baudelaire. The inductive method, after reaching its
apogee in the three masters of the realistic story mentioned above, had
exhausted its possibilities and- given the principle of the alternation
of sensibilities and the literary reaction it provokes-feels anachronistic
today
[suited]
Danilo Kis: Homo Poeticus,
essays & interviews
34
Once exiled from the home of their
language, writers are left with nothing but that language;
it is the mark of their exile. They go on writing in it as
if the high price they have paid made them the only ones able to
resist the "exile of syntax." And if they have escaped the perilous
semantic homogenization of newspeak, it is primarily because
they are keenly aware that as writers they use more than words alone:
they write with their entire being, with ethos and mythos, with
memory, tradition, and culture, with the impetus of linguistic associations-with
everything that the automatism of language turns into the flick
of a hand (and vice versa).
Danilo Kis: Homo Poeticus
Happy New Year
Adam Zagajewski
NEW YEAR’S EVE, 2004
You're at home listening
to recordings of Billie Holiday,
who sings on, melancholy, drowsy.
You count the hours still
keeping you from midnight.
Why do the dead sing peacefully?
while the living can't free themselves
from fear?
Adam Zagajewski
Đêm Giao Thừa
Bạn ở nhà nghe Duy Khánh ca
Xuân này con không
về
Bạn đếm từng giờ,
Chờ cúng giao thừa
Tại sao người chết ca nghe thật
hiền hòa?
Trong khi người sống không
thể nào rũ ra khỏi sự sợ hãi?
Six
Poets Hardy to Larkin
Hardy
never said much about writing or the difficulties of
it, or the moral difficulties of it. Kafka said that a writer
was doing the devil's work, writing a wholly inadequate response
to the brutishness of the world, and Hardy increasingly felt
this. It's not that it's an immoral activity or an amoral one;
it's just that the act of creation is something to which the
ordinary standards of human behavior do not apply. Hardy never
liked to be touched. He always walked in the road to avoid brushing
against people, and servants were told never to help him on with
his coat and just to drop the shawl around his shoulders and not
tuck him in. The pen had been his weapon in his struggle for life -
and it had been a struggle.
The next poem is a dialogue
with the moon.
Hardy chẳng hề lầu bầu
về viết, hay những khó khăn về viết, hay khó
khăn đạo đức của nó. Kafka phán nhà văn làm,
việc của quỉ, viết trọn một phúc đáp không
thoả đáng về tính thú vật của thế giới, và
Hardy càng ngày càng cảm thấy đúng
như thế. Nó không phải là 1 hành
động đạo đức, hay không đạo đức, mà cái hành
động sáng tạo có 1 điều gì mà lũ chó,
hay phường mắt trắng dã, không hiểu được, hay, không
áp dụng được.
Hardy đếch khoái
ai đụng vô ông ta. Cây viết là vũ
khí của ông ta, trong cuộc chiến đấu với đời – và
quả có cuộc chiến đấu đó thực.
The Little Old Table
Creak, little wood thing, creak,
When I touch you with elbow or knee;
That is the way you speak
Of one who gave you to me!
You, little table, she brought -
Brought me with her own hand,
As she looked at me with a thought
That I did not understand.
- Whoever owns it anon,
And hears it, will never know
What a history hangs upon
This creak from long ago.
The Last Performance
'I
am playing my oldest tunes,' declared she,
'All the old tunes 1 know, -
Those I learnt ever so long ago.'
- Why she should think just then she'd
play them
Silence cloaks like snow.
When
I returned from the town at nightfall
Notes continued to pour
As when I had left two hours before:
'It's the very last time,' she said in
closing;
'From now I play no more.'
A
few morns onward found her fading,
And, as her life outflew,
I thought of her playing her tunes right
through;
And I felt she had known of what was
coming,
And wondered how she knew.
The Just
A
man who cultivates his garden, as Voltaire wished.
He who is grateful for the
existence of music.
He who takes pleasure in tracing
an etymology.
Two workmen playing, in a
café in the South,
aaaa silent game of chess.
The potter, contemplating
a color and a form.
The typographer who sets this
page well,
aaathough it may not please
him.
A woman and a man, who read
the last tercets
aaaof a certain canto.
He who strokes a sleeping
animal.
He who justifies, or wishes
to, a wrong done him.
He who is grateful for the
existence of a Stevenson.
He who prefers others to be
right.
These people, unaware, are
saving the world.
Translated by Alastair Reid
from: “Insomnia”, Six Poems by Jorge Luis Borges, Harper’s
Magazine, February, 1999
Tên chính trực
Tên đờn ông, kẻ
săn sóc mảnh vườn của hắn, như Voltaire mong muốn
Kẻ biết ơn sự hiện hữu của
âm nhạc
Kẻ lấy làm hài
lòng, khi đi 1 đường tầm nguyên
Hai công nhân
lặng lẽ nhâm nhi 1 ván cờ ở 1 quán
cà phê ở xứ Nam Kít
Tên thợ máy nhà
dây thép chiêm ngưỡng và kính
trọng BHD, ây a, xin lỗi, một màu sắc, một
hình thể
Người thợ in, làm trang
sách này thật ra hồn, tuy nhiên,
đã chắc gì, anh ta thích thú?
Một người đàn bà,
và một người đàn ông, đọc đoạn
thơ cuối của 1 khổ thơ nào đó
Một kẻ nào đó,
ngủ đi anh, mộng bình thường, như 1 đứa con nít,
hay 1 con mèo đang ngái ngủ trên tay
em!
Kẻ chỉnh lý hay mong
chỉnh lý, một lầm lỡ mà ai đó,
gây ra cho anh ta
Kẻ biết ơn có Stevenson
ở trên đời này
Kẻ thích những kẻ khác
có lý.
Những người này, không
biết, là họ đang cứu vớt thế giới
Thơ
Mỗi
Ngày
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/22.html
Note: Câu thơ thứ nhì
làm nhớ thơ của Cô Bạn của GCC.
Chỉ 1 câu, đủ là thi sĩ,
đúng ý của Borges:
Hồn Đông Phương thất lạc, buồn Tây
Phương
Quách Thoại có
mấy câu, GCC đọc từ hồi còn trẻ, nhớ hoài,
và hình như, với GCC, ông như thế, đủ
là 1 thi sĩ:
Thơ tình đem đọc lại
Ôi ngày xưa ngày
xưa
Phút ban đầu cuồng dại
Đâu biết gì gió
mưa
Filthy Landscape
The season of lurid wildflowers
Strewn on the meadows
Drunk with kissing
The red-hot summer breezes.
A ditch opens its legs
In the half-undressed orchard
Teeming with foulmouthed birds
And smutty shadows.
Scandalous view of a hilltop
In pink clouds of debauchery.
The sun peeking between them
Now and then like a whoremaster.
Charles Simic: Jackstraws
Phong cảnh dơ dáy
Mùa hoa wildflower tái
mét
Nở vãi đồng
Say mèm hôn gió
nóng đỏ, hạ
Rãnh nước dạng háng
Trong căn vườn nửa kín nửa hở
Ăn nằm với lũ chim sàm sỡ
Và những bóng dâm
tục tĩu
Kìa, ngọn đồi mới dâm
ô làm sao
Với những đám mây hồng
trác táng
Mặt trời chọt chẹt lén
nhìn
Lúc này,
lúc nọ
Như tên chủ nhà
thổ.
Bìa sau
1 số Thơ, chôm
bằng Ipod
Khắc thơ vào dòng sông
Thay vì nhớ chúng!
[Dịch nhảm!]
NIGHT MUSIC
Little brook, running past my
house,
I like the tune you hum to yourself
When night comes,
And only the two of us are awake.
You keep me company
So I don't fear
The darkness round my bed
And the thoughts in my head
Flying crookedly like bats
Between the old church and the graveyard.
Nhạc đêm
Con suối nhỏ chạy qua nhà
tớ
Tớ mê cái điệu ầm ừ của
mi, cho mi nghe
Khi đêm tới
Và chỉ có hai đứa mình
là thức
Mi có tớ là bạn
Như vậy tớ đếch sợ
Bóng tối vây quanh giường
Và những ý nghĩ trong
đầu tớ
Bay ngoằn ngoèo như lũ dơi
Giữa ngôi nhà thờ cổ và
nghĩa địa.
WET MATCHES
Once again the short, gray days,
The low sky, the steady rain
Over these derelict neighborhoods
One catches sight of a train.
Old people hold their heads
In windows of unlit rooms.
Or withdraw quietly
To lie with their faces to the wall.
Sweet summer beyond recall,
The children are in school
Doing their wretched lessons
While their fathers play pool.
Girl in trouble and the boy
to blame,
Soaked through and shivering,
Holding a wet match to her cigarette,
Here comes your bus!
Quẹt ướt
Lại nó, những ngày
cụt, xám, lùn tịt
Mưa hăm he, này, tao đái
lên đầu tụi mi liền giờ nè!
Lối xóm không ai thèm
dòm ngó
Một kẻ kêu lên, ơ kìa,
con tầu!
Lũ già ôm đầu
Bên trong cửa sổ những căn phòng
tối thui
Hay lừ khừ lặng lẽ thối lui
Leo lên giường nằm, quay mặt vô
tường
Mùa hè ngọt ngào
quá xa vời, làm sao nhớ!
Trẻ con ở trường với những bài
học tệ hại
Trong lúc mấy ông bố chơi
bi da
Gái “in trouble”, trai,
“to blame”
Ướt mèm, run lẩy bẩy
Cầm cây quẹt ướt châm điếu
thuốc em
May quá, xe buýt tới rồi
kìa!
DON'T NAME THE CHICKENS
Let them peck in the yard
As they please,
Or walk over to stand
At the edge of the road.
The rooster strutting about
will keep an eye on them,
Till it's time
To withdraw under a tree,
And wait for the heat
To pass and the children
To return to the toys
They left lying in the dust.
For, come Sunday,
One of the chickens may lose its head
And hang by its feet
From a peg in the barn.
Đừng gọi tên những chú gà
Cứ để mặc mẹ chúng mổ
mổ những hạt thóc ở trong sân
Như chúng đang sướng điên
người lên được
Hay lang thang tới bìa con lộ
Chàng gà trống
khệnh khạng
Bèn đi 1 đường để mắt trông
chừng lũ hậu duệ của nó
Cho đến cái lúc mà
Cả đám rút về 1 cái
cây
Đợi cho cái nóng
dịu đi 1 tí
Và lũ trẻ bèn trở về với
mấy món đồ chơi
Chúng bỏ lăn lóc giữa
lớp bụi.
Bởi là vì, vào
ngày Chúa Nhật
Một trong những chú gà
con
Có thể điên cái
đầu
Và bèn treo cổ tự vẫn
Bằng cách móc chân
Vào cái chốt cửa kho thóc.
http://www.tanvien.net/Ecrire/TVX_Huyen_Chi.html
http://www.lelitteraire.com/?p=551
Lướt
net, gặp bài này, giới thiệu cuốn sách
Tựa của Borges.
Trong, có 1 bài Tựa,
Borges viết về 1 cuốn của ông, nhưng chắc Người phịa
ra: Sách của những giấc mộng, "Le Livre des rêves".
Có ghi năm xb: 1975.
Tuyệt.
Giai thoại mở ra bài Tựa
mà chẳng thần sầu sao:
Trong 1 tiểu luận của tờ Spectator
(Tháng 9, 1712), được in lại trong cuốn này,
Joseph Addision nhận xét, hồn người, l'âme humaine,
khi nằm mơ, rũ bỏ được cái xác, thì bèn
trở thành sân khấu, diễn viên, và
công chúng.
Người ta có thể thêm
vô, nó cũng còn là tác
giả của cái ngụ ngôn mà nó tham
dự, elle est aussi l'auteur de la fable à laquelle elle
assiste.
Rêve
circulaire
Le grain de sable
Un jour
ou une nuit – entre mes jours et mes nuits, quelle différence
y a-t-il? – je rêvai que, sur le sol de ma prison,
il y avait un grain de sable. Je m’endormis de nouveau, indifférent.
Je rêvai que je m’éveillais et qu’il y avait
deux grains de sable. Je me rendormis et je rêvai que les
grains de sable étaient trois. Ils se multiplièrent
ainsi jusqu’à emplir la prison, et moi, je mourais sous
cet hémisphère de sable. Je compris que j’étais
en train de rêver, je me réveillai au prix d’un
grand effort. Me réveiller fut inutile : le sable innombrable
m’étouffait. Quelqu’un me dit : « Tu ne
t’es pas réveillé à la veille, mais à
un songe antérieur. Ce rêve est à l’intérieur
d’un autre, et ainsi de suite à l’infini, qui est le nombre
des grains de sable. Le chemin que tu devras rebrousser est interminable;
tu mourras avant de t’être réveillé réellement. »
Je me sentis perdu.
Le sable me brisait la bouche, mais criai : « Un
sable rêvé ne peut pas me tuer et il n’y a
pas de rêves qui soient dans d’autres rêves. »
Une lueur me réveilla.
Cuốn sách
Tựa, tiếng Tây, mua lần qua Paris, thăm Kiệt Tấn,
tái ngộ HPA, cái hẹn cuối thiên niên
kỷ, của hai tên bạn quí, thuộc băng đảng Tiểu
Thuyết Mới ngày nào.
Cuốn Italo, mua lâu
rồi, sống sót cuộc phần thư làm từ thiện
của Cô Út.
Trong cuốn Sách
Tựa, có nhiều cuốn đếch có, Borges phịa
ra chúng, rồi viết lời Tựa.
Thú vị là,
nhân đọc Calvino, "Những cấp bậc của thực tại
trong văn chương", "Levels of Reality of Literature", ông
viết, Borges có nhắc tới Đêm Ả Rập, [tức Ngàn
Lẻ Một Đêm], và theo Borges, đêm thứ
602, là đêm thần kỳ nhất, theo most magical of
all.... Trong bản dịch mà Calvio đang có trong
tay, ông bèn vội kiếm, để thưởng thức: Làm
đếch gì có cái đêm ấy là đêm
gì!
Borges, trong lời Tựa
của cuốn sách Tựa của mình, cảnh cáo
độc giả, đừng nghĩ tôi viết cuốn này, trong
cái dòng Nhã của Những Nhã, Cantique
des Cantiques, Đêm của Những Đêm.... và,
đừng coi Tựa là cái trò áo thụng
vái nhau - cái này thì Mít bị
cực nặng, và Gấu, sở dĩ bị chúng chửi, vì đếch
chịu khen thằng chó nào cả, hà hà - Borges
coi Tựa là 1 dạng phê bình.
Đúng như thế.
Lần Gấu viết bài
Tựa cho cuốn Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi, NMG phán, viết thế này, thì đếch tên nào dám viết về cuốn này
nữa.
Còn KT, thì
quê quá, phán, ở Cali này
thiếu gì người nhờ xoa đầu, xoa đít,
nâng bi, đội dĩa..., mà phải vời đến 1 tên ở Canada.
Kỷ niệm, kỷ niệm
Trăng ơi, cớ sao
mà Mi cứ thơ ấu mãi?
Trăng
ơi, cớ sao mà Mi cứ thơ ấu mãi?
Đây cũng là một vấn nạn
mắc mớ đến Cái Ác.
NMG, khi đọc bài
viết của Gấu, dùng làm bài tựa
cho tập truyện ngắn của NCK, đã chú ý
đến một đoạn ở trong đó, liên quan đến tính
tình của tác giả của nó, là
NCK, và cùng với NCK, là thứ văn chương giống
như vầng trăng thơ ấu mãi của con người.
*
Khi đọc sơ mấy truyện
anh đưa, (Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi], tôi chợt
nẩy ra ý nghĩ, hay là mình thử đề nghị
với anh, với người đọc, một cách viết "kép", theo
kiểu Faulkner, khi viết Những Cây Cọ Dại, The Wild Palms:
hai truyện viết song song, xen kẽ, bề ngoài chẳng có
chi liên hệ.
Ở đây,
có quá nhiều liên hệ. Hai đứa
cùng thời, cùng bị cuộc chiến hành
hạ, và khi thoát ra, mỗi đứa một cách.
Và tôi cũng tin rằng, khó có ai
còn lành lặn, sau một cuộc chiến như thế. Sau
những ngày học tập dài như thế. Tuy vậy, vết thương
của anh, có vẻ không nặng nề, qua những truyện
ngắn kế bên. Anh mang theo vầng trăng qua những trại tù,
và nó cứ thơ ấu mãi, như một cậu học trò
ở trong anh. Cái cậu học trò này, ngày
xưa, chỉ mong được cô giáo gõ cho vài
cái vào tay, sau này bắt chước Anatole France,
nhẹ nhàng an ủi cô giáo, khi cô nằm trên
giường bệnh: "Hãy ngủ đi, ngày mai chúng ta
sẽ lên đường." Cậu học trò, không có
những bước chân sáo, không đi qua vườn Lục Xâm
Bảo, nhưng ngày ngày mang cơm cho cô giáo
của mình. Cậu có một ông bố ở trong quân
đội, có một bà mẹ phải tần tảo nuôi con...
Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có mãi
một vầng trăng thơ ấu, như thế, trong một cuộc sống như thế. Sau một
cuộc chiến như thế. Đây là một phép lạ của những
bài toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ
chăng? Nếu cậu không gặp một cô giáo như thế,
liệu cậu có tìm ra vầng trăng "thề" thơ ấu mãi
hay không? Và cái bài học văn chương,
phải chăng nó cũng bắt nguồn từ đó?
Trăng ơi thơ ấu mãi
Nhưng cái hồn
của văn chương Miền Nam, mà Gấu có lần
phán ẩu, nằm trong nhạc sến, liệu nó còn
nằm ở trong cái vầng trăng thơ ấu mãi?
*
"Đó là một điều cô
dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều
điều. Trước tiên, cô đã nhốt em trong
nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học
tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với
bổn phận viết về nó, như nó là: đen rợn
người ở bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên
dưới .
"C'est une chose que
tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup
de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton rire comme
un écolier dans la classe au mois d'aout, puis tu m'as
rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme il
est: affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê
rợn, phải chăng là những ngày dài,
trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu,
là vầng trăng thơ ấu mãi?
NQT
Christan Bobin, cũng là một phát giác tuyệt
vời của Gấu, tại một thư viện Toronto, ở cái
khu dành riêng cho sách Tiếng Tây
của nó. Văn chương của tay này, thật ứng
vào cái câu văn chương bèn cứ thơ
ấu mãi, mà câu trên là một
ví dụ.
Gấu khám phá
Christian Bobin, đúng là cái
cuốn Cô Bạn Không Làm Sao Mà Dám
Ao Ước, L'Inespérée,
và đúng
cái câu trên.
Bèn bệ ngay cuốn
sách về nhà!
Thú vị làm
sao, là sau này, Gấu có một
độc giả, rất quí trang Tin Văn, và cũng
rất mê Bobin.
Bà hất hàm hỏi, Gấu mà cũng đọc Bobin
ư, tôi có đủ sách của ông
ta, muốn đọc thì tôi gửi cho mà đọc.
Tks again both of U.
NQT
https://chuyenbangquo.wordpress.com/2009/10/25/toi-doc-quyen-tinh-yeu-thoi-tho-ta/
.... Khi ông mang cô
trở về quê cũ thì Fermina lọt vào
mắt xanh của Juvenal Urbino, một ông bác sĩ nổi
tiếng, vì ông là người đã chặn đứng
cơn dịch tả đang hoành hành thành phố
ấy. Fermina thẳng thừng từ chối Florentino bảo rằng chuyện
thư từ hẹn hò thời bé bỏng chỉ là chuyện mơ
mộng hão huyền. Bác sĩ Juvenal Urbino đẹp trai và
hào hoa đã chiếm được lòng nàng.
Cuộc hôn nhân hạnh phúc ấy kéo dài
đến hơn năm mươi năm.
Note: Không phải như vậy.
Hai người có gặp nhau. Và vừa nhìn
thấy anh chàng, cô gái vỡ mộng, không
phải thằng này!
Cú gặp gỡ là 1
xen đỉnh cao của câu chuyện, mà tại sao
mà lại nhớ nhầm, đến nỗi coi thường cô gái
đến mức như thế này? Quái thật!
Gấu đọc Trăm Năm Cô Đơn,
ở Sài Gòn, bản tiếng Việt. Rồi bỏ nước ra
đi, và dược đọc Tình Yêu Thời Thổ Tả, ở
Thư viện của phái đoàn Pháp, ở Trại tị nạn
Thái Lan, của mấy ông Tây ghé thăm
Trại rồi bỏ lại. Mê quá, vì Gấu cũng có
thời làm nghề viết thư mướn, như nhân vật
ở trong truyện.
Tình Yêu Thời Thổ Tả
http://www.tanvien.net/Chuyen_van/cv_5.html
Tình
Yêu Thời Thổ Tả, cái gì vậy cà?
Sau khi ông con được người
yêu cho phép gặp mặt, bà mẹ biết
liền, bởi vì ông con trai nói không
ra tiếng, đêm nằm ngủ gãi sồn sột, lăn qua lăn
lại, đập mình đập mẩy, mất tiêu luôn khẩu
vị. Ghê gớm hơn nữa, trong thời gian chờ đợi người yêu
trả lời thư, tình trạng ông con ngày càng
trở nên nguy kịch: ỉa chẩy, ói mửa… bà
mẹ đưa đi bác sĩ cấp cứu, và sau cùng đành
kết luận: những triệu chứng của tình yêu giống “y
chang” những triệu chứng của bịnh thổ tả!
Cái vụ Gấu đọc Trăm Năm
Cô Đơn, mới ly kỳ rùng rợn, và cũng
đã “tự sướng” trên Tin Văn rồi. “Vấn đề”, là,
Gấu chưa từng bao giờ có ý nghĩ bỏ nước ra đi,
1 lòng 1 dạ với quê hương mỗi người chỉ có
1, và khi đọc Trăm Năm Cô Đơn, đúng là
dòng văn của thầy Faulkner của Gấu, bèn viết 1 bài
điểm sách thần sầu, và gửi cho tờ Thanh Niên
của Huỳnh Tấn Mẫm, nhưng đó chỉ là “cái cớ
“- thuổng từ của Thầy Phúc, khi viết về Vũ Khắc Khoan –
và tiếp theo bài điểm sách, là lá
thư xin việc, xin Cách Mạng, xin báo Thanh Niên
của Trùm VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm cho tên
nhà văn Ngụy ngày nào 1 chân tà
lọt!
Đúng như thế!
Vụ này thi sĩ Đại Hàn
Chung Đô Quan rất rành. Người có đọc
lá thư, và khen, qua Nguyễn Mai, như 1 tác
phẩm văn học!
Nhờ bạn quí ngày
nào thường ngồi Quán Chùa mí
nhau, là Mít Butor, Hoàng Ngọc Biên,
trao cho HTM.
Chàng vứt vô thùng
rác, chắc thế.
Cái cú mặc khải
“không phải thằng này”, chỉ với BHD, Gấu
trúng hai lần. Một lần ở ngã tư Phan Đình
Phùng & Lê Văn Duyệt, nơi sau này
hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Lần thứ
nhì là ở nơi cổng trường Đại Học Khoa Học, Đại
Lộ Cộng Hòa, có thể vì thế, đọc xen đó,
trong Tình Yêu Thời Thổ Tả, cực kỳ nhức nhối. Lần đầu,
em mới 11 tuổi, chạy vội ra khỏi nhà, cũng ngay kế bên,
rồi lại vội vàng chạy về nhà. Thê lương lắm.
Sau này, gặp lại trong cái xen tả Mối Tình
Đầu, trong Istanbul, của Pamuk. Lần thứ nhì, em phán,
ta chưa hiểu tình yêu là gì, Gấu, vừa
thê lương, vừa mệt vì chạy đuổi theo nàng,
vừa giận dữ.
Ngã tư Phan Đình
Phùng & Lê Văn Duyệt
Bảo tàng viện của sự ngây
thơ
GCC tỏ tình mí
BHD khi em 11 tuổi tại góc đường này.
Khi đó chỉ có cái cột đèn
chỉ đường. Nhà em kế ngay bên, phía bên
trái, bên dưới cái băng rôn, quá
chút nữa. Cái máy nước công
cộng cũng kế ngay đó. Quá nữa, trên đường
PDP, tới ngã tư Cao Thắng & Phan Đình Phùng.
Trường mẫu giáo Aurore gần đó. Gấu, khi đó
đang học trường Quốc Gia Bưu Điện, chiều nào cũng đạp
xe chạy vội tới, đứng trên lan can tiệm sách ABC, cũng
là nhà BHD, để kịp nhìn thấy BHD đón
em trở về, ghé máy nước rửa chân. Ngã
tư này có tiệm chụp hình.
(1) Có lần Gấu hộ tống em tới đây
chụp hình để gắn vô học bạ, nhờ vậy,
cũng được ăn theo 1 tấm, sau nhờ họa sĩ Ngọc Dũng đi 1
đường phác họa, trở thành kho tàng đầu
tiên trong đời Gấu!
Và ngã tư trở
thành “lịch sử”: Nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu
ngay trước mắt Gấu, nếu thời gian co dãn, di chuyển hai đầu ngược
xuôi.
Trên đường Lê Văn
Duyệt, phía bên trái bức hình,
là khu Chợ Đũi, ngã tư Lê Văn Văn
Duyệt & Trần Quí Cáp, có quán
cà phê Tàu, nơi Gấu vẫn thường ngồi
chờ BHD đưa em gái đi học, tại trường Kiến Thiết, cũng
ngay đó.
Ui chao, em chạy vội ra, chỉ
để lắc đầu, rồi lại chạy vội về nhà.
Cảnh này sau lập lại
ở Đại Lộ Cộng Hòa, trước cổng Đại Học Khoa
Học Sài Gòn.
Nhưng phải đến khi đọc Pamuk,
Gấu mới nhớ ra ánh đèn chỉ đường, xanh
đỏ, lập lòe trên khuôn mặt của BHD,
in rõ nỗi đau khủng khiếp của Gấu:
Đứng trước một cái nghĩa
địa nhỏ, trong đêm tối lạnh buốt, cảm thấy
những dòng nước của con vịnh Bosphorus chạy rần
rần trong xương tuỷ của cả hai chúng tôi nàng
thầm thì, nàng yêu tôi biết là
bao, và tôi nói tôi có thể
làm bất cứ chuyện gì vì nàng,
và tôi ôm nàng chặt cứng, như là
tôi có thể, với tất cả sức lực, niềm đau, và
hạnh phúc của tôi. Chúng tôi hôn
nhau, một nụ hôn dài, như bất tận, và bất
cứ khi nào tạm ngưng, tôi hé mắt nhìn,
và thấy mầu vàng của ngọn lửa từ phiá bên
kia vịnh bập bùng trên làn da mịn màng
của nàng.
Tình đầu
Trường Quốc Gia Bưu Điện lúc
đó chưa xây, học nhờ trường Quốc Gia
Thương Mại, kế nhà thờ Phanxicô, đầu đường
Phạm Đăng Hưng & Phan Đình Phùng. Gấu
tan học, là đạp xe thẳng con đường PDP tới ngã tư Lê
Văn Duyệt.
Gấu, khoá đầu,
khóa đặc biệt, 2, thay vì 3 năm, điều
kiện Tú Tài 2, trong khi khóa 3 năm chỉ
cần bằng Trung Học. Hai năm, nhưng với Gấu, còn 1 năm,
, nhờ thầy hiệu trưởng Trần Văn Viễn “đặc cách” cho vô
học, chuyện này kể ra rồi.
Ra trường Gấu làm
việc ngay tại Trung Ương Cơ Xưởng VTD, số 11 Phan Đình
Phùng, đúng cái chỗ sau phá
đi xây trường QGBD
|