A TALK WITH
FRIEDRICH NIETZSCHE
Most highly
respected Professor Nietzsche,
sometimes I
seem to see you
on a
sanatorium terrace at dawn
with fog
descending and song bursting
the throats
of the birds.
Not tall,
head like a bullet,
you compose
a new book
and a
strange energy hovers around you.
Your
thoughts parade
like
enormous armies.
You know now
that Anne Frank died,
and her
classmates and friends, boys, girls,
and friends
of her friends, and cousins
and friends
of her cousins.
What are
words, I want to ask you, what
is clarity
and why do words keep burning
a century
later, though the earth
weighs so
much?
Clearly
nothing links enlightenment
and the dark
pain of cruelty.
At least two
kingdoms exist,
if not more.
But if
there's no God and no force
welds
elements in repulsion,
then what
are words really, and from whence
does their
inner light come?
And from
where does joy come, and where
does
nothingness go? Where is forgiveness?
Why do the
incidental dreams vanish at dawn
and the
great ones keep growing?
Adam
Zagajewski: Without End
Lèm bèm với
Nietzsche
Nietzsche,
triết gia vĩ đại,
Một bữa Gấu
thấy ông ta ngồi
ở sân thượng nhà an dưỡng
vào lúc sáng tinh mơ, sương mù la đà,
chim ca hát
Cao, đầu giống
như viên đạn,
Ông ta soạn
một cuốn sách mới
Và nội lực ở
trong người ông
tỏa ra thành một màn sương khói chung quanh ông
Tư tưởng của
ông diễn hành như những binh đoàn tiếp nối nhau,
[như trong câu
hát của PTD, những binh đoàn kéo nhau ra
tiền tuyến,
đường ra trận mùa này đẹp lắm….]
Ông ta biết
Anne Frank thì đã chết
Cùng bạn học,
bạn bè, trai, gái,
bạn của bạn cô
bé, và bà con của cô
Những từ là cái gì,
tôi muốn hỏi ông ta,
cái gì thì là sự trong sáng, rõ ràng,
và tại sao những từ
vẫn tiếp tục bốc cháy cả 1 thế kỷ sau đó,
mặc dù trái đất thì đã quá nặng?
Rõ ràng là
chẳng có gì kết nối sự sáng ngời thông tuệ,
với nỗi đau đen của sự độc ác
Ít ra có hai
vương quốc hiện hữu
Nếu không muốn
nói là còn nhiều, nhiều lắm.
Nhưng, nếu
không có Chúa và không có sức mạnh
nối những phần tử xô đẩy nhau thì
những từ
thực sự nghĩa là gì, và
từ đâu mà chúng có được thứ ánh sánh nội ở trong chúng?
Và niềm vui đến
từ đâu, và từ đâu hư vô đến?
Sự tha thứ thì ở đâu, ở đâu có thứ của hiếm đó?
Và tại làm
sao những giấc nhỏ, tình cờ,
như của Gấu thì lại biến mất vào lúc rạng đông,
Trong khi những
giấc mộng lớn ăn cướp Miền Nam của VC,
thí dụ, thì cứ vưỡn còn hoài, và còn tiếp
tục lớn lên mãi?
IN WARSAW
What are you
doing here, poet, on the ruins
Of St. John's
Cathedral this sunny
Day in
spring?
What are you
thinking here, where the wind
Blowing from
the Vistula scatters
The red dust
of the rubble?
You swore
never to be
A ritual
mourner.
You swore
never to touch
The deep
wounds of your nation
So you would
not make them holy
With the
accursed holiness that pursues
Descendants
for many centuries.
But the
lament of Antigone
Searching
for her brother
Is indeed
beyond the power
Of
endurance. And the heart
Is a stone
in which is enclosed,
Like an
insect, the dark love
Of a most
unhappy land.
I did not
want to love so.
That was not
my design.
I did not
want to pity so
That was not
my design
My pen is
lighter
Than a
hummingbird's feather.
This burden
Is too much
for it to bear.
How can I
live in this country
Where the
foot knocks against
The unburied
bones of kin?
I hear
voices, see smiles. I cannot
Write
anything; five hands
Seize my pen
and order me to write
The story of
their lives and deaths.
Was I born
to become
a ritual
mourner?
I want to
sing of festivities,
The
greenwood into which Shakespeare
Often took
me. Leave
To poets a
moment of happiness,
Otherwise
your world will perish.
It's madness
to live without joy
And to
repeat to the dead
Whose part
was to be gladness
Of action in
thought and in the flesh, singing, feasts,
Only the two
salvaged words:
Truth and
justice.
Warsaw, 1945
Nè, tên thi
sỡi kia, mi làm cái trò gì ở đây,
Trên những
điêu tàn của Nhà Thờ St. John
Vào một ngày
xuân đẹp nắng như thế này?
Mi nghĩ gì,
vào lúc này, khi gió đùa về đây,
Từ những nát
tan ở khu Vistula,
Bụi đỏ của
đá vụn
Mi thề, mi đếch
bao giờ
làm một kẻ khóc lóc, than thở theo đúng lễ nghi
Mi thề mi chẳng
bao giờ rờ vô
những vết thương sâu hoắm của nước Mít của mi.
Bởi vì nếu
khóc than như thế là mi biến chúng thành thiêng liêng
Thứ thiêng
liêng đặc biệt Mít, rất ư khó chịu, thứ thiêng liêng chết tiệt,
Đeo đuổi dân
Mít từ thuở dựng nước cho tới bi giờ.
Nhưng sự
than thở của Antigone
Dành cho người
anh của nàng
Thì vượt quá
cả quyền uy của sự bền bỉ chịu đựng.
Và trái tim
thì là 1 hòn đá,
trong đó có một tình yêu u tối, như côn trùng,
Của một miền
đất cực kỳ bất hạnh.
Gấu đếch muốn
yêu nước Mít bằng thứ tình yêu cà chớn đó.
Đó không phải
là sở nguyện của Gấu.
Gấu cũng đếch
muốn thương hại kiểu đó.
Cũng đếch phải
sơ đồ của Gấu
Cây viết của
Gấu thì nhẹ hơn nhiều.
Nhẹ hơn cả một
cái lông… chim!
Thứ gánh nặng
đó, quá nặng cho nó,
Để mà mang,
khiêng, chịu đựng.
Làm sao Gấu
sống ở xứ đó
Khi bàn
chân, đi tới đâu, là đụng tới xương của họ hàng, bà con,
Những người
không được chôn cất.
Gấu nghe những
tiếng nói, nhìn thấy những nụ cười.
Gấu không thể
viết bất cứ điều gì; năm bàn tay
nắm lấy cây viết của Gấu và ra lệnh viết
Câu chuyện về
cuộc đời và cái chết của họ.
Không lẽ Gấu
sinh ra
để là 1 tên khóc than theo nghi lễ, Nhà Thờ, hay Cửa Phật?
Gấu muốn hát
về những lễ hội.
Về cánh rừng
xanh mà Shakespeare
thường rủ Gấu vô đó chơi.
Hãy để thi
sĩ cho một khoảnh khắc hạnh phúc,
nếu không, thế giới của bạn sẽ tiêu tùng.
Đúng là
khùng điên, ba trợn,
Nếu sống mà
đếch vui, đếch thú, đếch sướng gì hết!
[Hà, hà!]
Và lập lại
những người đã chết
Lập cái cái
phần vui vẻ, sung sướng hạnh phúc của hành động,
Trong tư tưởng,
trong thân xác còn tươi rói, trong hát hỏng, lễ hội.
Chỉ hai từ cứu
rỗi:
Sự thực và
công lý
Warsaw, 1945
Czeslaw MIlosz: New and Collected Poems
Note: Leave
To poets a
moment of happiness,
Otherwise
your world will perish.
[Lâu lâu phải
cho Gấu tự thổi, nhe!]
TO BOREDOM
I'm the
child of your rainy Sundays.
I watched
time crawl
Over the
ceiling
Like a
wounded fly.
A day would
last forever,
Making
pellets of bread,
Waiting for
a branch
On a bare
tree to move.
The silence
would deepen,
The sky
would darken,
As
Grandmother knitted
With a ball
of black yarn.
Heaven is
like that.
In
eternity's classrooms,
The angels
sit like bored children
With their
heads bowed.
Charles
Simic
Về Buồn Chán
Tôi là thằng
bé những Chủ Nhật mưa của bạn.
Ngó thời
gian bò trên trần nhà
Như một con
ruồi bị thương.
Ngày dài lê
thê,
Làm những mẩu
bánh mì
Ðợi một cành cây
Trên cái cây trần trụi
Chuyển động.
Im lặng sẽ càng
im lặng
Bầu trời sẽ
càng tối thêm,
Trong khi Bà đan
Với một trái
banh ni lông đen.
Thiên Ðàng
thì như thế đó.
Trong những lớp học của vĩnh cửu
Thiên thần
ngồi như những đứa trẻ buồn chán
Ðầu chúi xuống.
LABOR AND
CAPITAL
The softness
of this motel bed
On which we
made love
Demonstrates
to me in an impressive manner
The
superiority of capitalism.
At the
mattress factory, I imagine,
The
employees are happy today.
It's
Sunday
and they are working
Extra
hours,
like us, for no pay.
Still, the
way you open your legs
And reach
for me with your hand
Makes me
think of the Revolution,
Red
banners,
crowd charging.
Someone
stepping on a soapbox
As the
flames engulf the palace,
And the old
prince in full view
Steps to his
death from a balcony.
Lao động và
Vốn
Ôi cái nệm
giường khách sạn,
mềm mại, êm ái
làm sao
Khi chúng tôi
làm tình
Và điều này
làm tôi ngộ ra sự ưu việt của chủ nghĩa tư bản.
Ở xưởng sản xuất nệm,
Công nhân bữa hôm nay thì đều hạnh phúc,
Hẳn là thế.
Chủ nhật mà,
và họ làm giờ phụ trội
Như chúng tôi,
và không được trả tiền.
Tuy nhiên, cái
cách mà em dạng hai chân của em ra
Và lấy tay với
tôi,
Làm tôi nghĩ
đến Cách Mạng
Băng rôn đỏ,
đám đông lấn tới, lấn tới.
Một người nào
đó đạp nhằm cái hộp đựng xà bông
Trong khi lửa
táp Dinh Ðộc Lập
Và Tông Tông
Diệm, trong cái nhìn toàn thể
Bước vào cái
chết từ bên ngoài ban công
Những người
vô hình
Simic:
The Invisible
Trong vương
quốc của những người đã chết
Tôi vẫn
thường
thơ thẩn đi về...
Hát
ở đâu đâu...
Biển
1
Nó luôn luôn
ở đó.
Những nỗi
ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc
đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm
mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào
chim
Và những đứa
trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám
Chỉ những
chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào
âm u
Rồi buông
mình xuống
Như lắng
nghe một con chuồn chuồn
Có thể biết
khá nhiều về những kẻ vô hình,
Hay là tại
sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế,
mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy
nó, mà đã bay đi mất rồi:
Chuồn chuồn
có cánh thì bay
Có thằng VC
đang rình mày đây nè!
2
Liệu
những
bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà
chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú
viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng
làm điều chúng làm
Trước khi vội
vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày
hôm nay Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng
một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi
một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới
mon men gạ chuyện
Thì bóng đen
này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu
gọi theo?
Thông điệp
nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì
đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể
nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ
đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
4
Đúng vào lúc
bạn tắt đèn
Họ trở lại
Hai người đã
mất
Bạn gọi họ
là hai đấng sinh thành.
Bạn sẽ mơ
đêm nay
Bạn gặp lại
cô bạn gái ngày nào
Cô gái đã từng
yêu bạn
Và một cô
khác nữa
Đã từng cho
phép
Bàn tay của
bạn lùa bên dưới
Chiếc áo bà
ba của cô.
Thay vì vậy,
thì đây là chiếc chìa khóa,
trên cái dĩa
đựng ba thứ lặt vặt,
chẳng thể mở
bất cứ 1 cái cửa
Cái áo mưa
đã xài rồi bạn kiếm thấy ở nhà thờ
[và ở blog của
hòa thượng THT],
Con quạ què
mà người hàng xóm của bạn giữ
Đây là con
ruồi mà bạn đã tra tấn
Cục đá bạn
ném vào người bạn tốt nhất của bạn
Con heo ré
lên một tiếng rùng rợn
Khi mũi dao
thọc vô cổ của nó
5
Người ở đó vẫn
truyền tụng
Về một ông
già mù
Thẩy xúc xắc
bên lề đường
Và giúi tiền
cho mấy đứa con nít
Để chúng cho
ông biết
Con lục, hay
con nhất.
Khi chúng ở
lớp học
Ông hỏi bất
cứ một người
Khi nghe tiếng
chân
Anh đưa thư
đi lòng dzòng
Đám nhà hòm
đưa hòm lên xe tang
Hay chính
ông, Thưa Ngài
Nếu ông lớ
ngớ mò tới đó
7
Cô Russell
thân mến:
Ðêm, cô dẫn
một mình em,
Tới thư viện
trống rỗng của thành phố.
Em không làm
sao theo kịp,
Khi cô dảo
nhanh qua những dẫy sách,
Thì thầm những
cái tên
Giơ ngón tay
chỉ những cuốn em cần đọc,
Rồi thì hoàn
toàn quên đứa học trò,
Cô giựt sợi
dây đèn,
Và để mặc em
trong bóng tối,
Sờ soạng tìm
một cuốn,
Giữa những
giá sách,
Hẳn nhiên rồi,
không phải cuốn đó
Chẳng mấy
chốc
em hiểu liền sau đó,
Khi tới bàn
của cô thủ thư,
Dưới cái
nhìn thương hại của cô giáo của mình,
Cái nhìn
theo em ra tận đường phố,
Nơi em sợ
không dám dừng lại,
Ðể coi cái
cuốn cầm trong tay là cuốn chi chi,
Cho tới khúc
ngoặt ở một góc phố.
THE MUSE
When at
night I await the beloved guest,
Life seems
to hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room.
"What is honor, freedom, the rest,
In the
presence of her who holds the flute in her hand?"
But now she
is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who
came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To
him?" I ask her. She replies, "I am."
1924
Nữ Thần Thi
Ca
Ðêm, ta đợi
vị khách quí
Ðời như treo
sợi chỉ
"Tuổi trẻ là
cái chi chi"?",
Ta hỏi căn
phòng
“Danh dự, tự
do, cái còn lại,
Thì là cái gì,
trước nàng, người cầm cây sáo ở trong tay?
Nhưng bây giờ,
nàng ở đây. Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta
ra ý dò hỏi. “Bà có phải
là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta,
thì là ai?”
Song about
songs
It seems
that the voice we humans own
Will never
sound, never celebrate,
Only a wind
from the age of stone
Keeps on
knocking at the black gate.
And it seems
to me that under the sun
I alone
remain-this honor's mine,
Simply
because I was the first
Who wanted
to drink the deadly wine.
1917
Bài ca về
những bài ca
Có vẻ như cái thứ tiếng
người mà chúng ta có
đó
Nó sẽ
chẳng
bao giờ kêu lên
Chẳng bao
giờ
ăn mừng
Chỉ là
tiếng
gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục
gõ
lên chiếc cổng đen
Và hình
như
chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là
niềm
vinh quang của tôi
Giản dị,
ấy
là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống
ly
rượu độc
THE LAST
TOAST
I drink to
the house, already destroyed,
And my whole
life, too awful to tell,
To the
loneliness we together enjoyed,
I drink to
you as well,
To the eyes
with deadly cold imbued,
To the lips
that betrayed me with a lie,
To the world
for being cruel and rude,
To God who
didn't save us, or try.
1934
Anna
Akhmatova
Bữa nhậu
chót
Ta uống mừng
căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời
ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô
đơn ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa
chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt
lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi
thốt lời dối trá
Mừng thế giới
quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời
đếch thèm cứu vớt,
và cũng chẳng
thèm thử cứu vớt
The City
Where I Want to Live
The city is
quiet at dusk,
when pale
stars waken from their swoon,
and resounds
at noon with the voices
of ambitious
philosophers and merchants
bearing
velvet from the East.
The flames
of conversation burn there,
but not
pyres.
Old
churches, the mossy stones
of ancient
prayer, are both its ballast
and its
rocket ship.
It is a just
city
where
foreigners aren't punished,
a city quick
to remember
and slow to
forget,
tolerating
poets, forgiving prophets
for their
hopeless lack of humor.
The city was
based
on Chopin's
preludes,
taking from
them only joy and sorrow.
Small hills
circle it
in a wide
collar; ash trees
grow there,
and the slim poplar,
chief
justice in the state of trees.
The swift
river flowing through the city's heart
murmurs
cryptic greetings
day and
night
from the
springs, the mountains, and the sky.
Adam
Zagajewski
Thành phố mà
tôi muốn sống ở đó
Thành phố thì
êm ả vào lúc chạng vạng tối,
khi những ngôi
sao lợt lạt tỉnh lại sau cơn ngất
và rộn ràng vào
buổi trưa, với những giọng nói
của những
triết gia ham hố và nhà buôn tham vọng,
mặc những
chiếc áo nhung Ðông Phương.
Ngọn lửa của
những cuộc nói chuyện cháy bỏng ở đó,
không phải
ngọn lửa giàn thiêu.
Nhà thờ cổ,
những viên đá rêu phong
của lời cầu
nguyện xưa cũ, cả hai là khối bì,
và phi thuyền của nó.
Ðúng là cái
thành phố
nơi người
ngoại quốc không bị trừng phạt
một thành phố
mau lẹ nhớ,
và chậm chạp
quên,
chịu đựng
thi sĩ, tha thứ tiên tri,
vì cái tội
thiếu đến thảm hại tếu tếu, khôi hài, tưng tửng.
Thành phố dựa trên
những khúc dạo của Chopin,
lấy từ đó,
chỉ niềm vui và nỗi buồn.
Những ngọn đồi
nhỏ bao quanh nó,
tạo thành một
cái vòng choàng cổ rộng;
những cây
tro, mọc ở đó, và cây bạch dương gầy gò,
công lý chính của nhà nước của cây.
Con sông
nhanh nhẹn chảy qua trái tim của thành phố
thì thầm những
lời chào bí ẩn
đêm và ngày
từ những mùa
xuân, những núi non, và bầu trời
Whatever
Happened
Whatever
happened had already happened.
Four tons of
death lie on the grass
and dry
tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever
happened will stay with us
and with us
will grow and diminish.
But we must
live,
the rusting
chestnut tells us.
We must
live,
the locust
sings.
We must
live,
the hangman
whispers.
Adam
Zagajewski
Bất Cứ Cái
Chó Gì Xẩy Ra
Bất cứ cái
chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người
chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người
chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt
nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của
Nhất
Linh
[những chiếc
lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy
ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với
chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
Nhưng chúng
ta phải sống,
[Thằng Còi,
Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ
sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải
sống,
con châu chấu
hát.
Chúng ta phải
sống,
HPNT thì thầm
bên tai Gấu.
Search
I returned
to the town
where I was a child
and a
teenager and an old man of thirty.
The town greeted me indifferently
but the
streets' loudspeakers whispered:
don't you see the fire is still burning,
don't
you hear the flame's roar?
Get out.
Find another
place.
Search for it
Search for
your true homeland.
Adam
Zagajewski
Tìm
Tôi trở về
thành phố
Nơi tôi đã sống như một đứa bé
Và một thằng bé
Và một ông già 30 tuổi
Thành phố dửng dưng đón tôi
Nhưng cái loa ở đầu đường thì thầm:
Mi không thấy lửa vẫn cháy,
Mi không nghe ngọn lửa gào?
Cút cha mày đi!
Tìm một nơi chốn khác
Tìm nó.
Tìm quê hương thực sự của mi.
AMERICA'S
SUN
(FROM
EICHENDORFF, FROM KRYNICKI)
Outside the
window, America's blinding sun.
In a dark
room, at a table
sits a man,
no longer young,
who thinks
about what he's lost
and what
remains.
I am that
man.
I try to
guess what losses
the future
holds.
I still
don't know what I'll discover.
Adam
Zagajewski
Mặt trời
CANADA
Bên ngoài cửa
sổ, mặt trời mù Canada.
Trong căn phòng
tối, ở một cái bàn
Thằng cha Gấu
ngồi, trẻ gì nữa, sắp đi xa rồi.
Thằng chả
nghĩ về cái mất
và cái còn.
Tớ đúng là
thằng cha Gấu đó
Nó cố đoán cái
mất,
tương lai cầm.
Nó vưỡn không
biết, nó sẽ khám phá ra cái gì .
CAMOGLI
High old
houses above the water
and a drowsy
cat waiting for fishermen
on furled
white nets:
a quiet
November in Camogli –
pensioners
sunbathe on lounge chairs,
the sun
rotates sluggishly
and stones
revolve slowly
on the gravelly shore,
but it, the
sea, keeps turning landward,
wave after
wave, as if wondering
what
happened to summer's plans
and our
dreams,
what has our
youth become.
CAMOGLI
Những căn nhà
cũ, cao, vượt lên khỏi mặt biển,
và một chú mèo
lơ mơ ngủ, chờ ngư phủ
trên mớ lưới
trắng được cuộn lại:
Tháng Chạp
êm ả ở Camogli –
những người ở
trọ tắm nắng trên những chiếc ghế dựa,
mặt trời
quay uể oải
và những hòn đá lượn chầm chậm
trên bãi sỏi,
nhưng biển,
cớ làm sao cứ hướng về đất liền
sóng tiếp sóng,
như ngạc nhiên,
chuyện gì xẩy
ra cho những chương trình mùa hè
và những giấc
mộng của chúng ta,
và tuổi trẻ
của chúng ta thì sẽ ra làm sao.
Adam
Zagajewski
AT THE
CATHEDRAL'S FOOT
In June
once, in the evening,
returning
from a long trip,
with
memories of France's blooming trees
still fresh
in our minds,
its yellow
fields, green plane trees
sprinting
before the car,
we sat on
the curb at the cathedral's foot
and spoke
softly about disasters,
about what
lay ahead, the coming fear,
and someone said this was the best
we could do
now-
to talk of
darkness in that bright shadow.
Adam
Zagajewski
Ở chân Nhà
Thờ Ðức Bà Sài Gòn
Một lần, vào
Tháng Sáu, một buổi chiều
trở về sau một
chuyến đi xa
trí nhớ còn
đầy ắp, mới tinh
những tàng cây
nở rộ Paris
những cánh đồng
vàng,
cây
xanh trải dài trước xe,
chúng tôi ngồi
ở lề đường, trước Bưu Ðiện,
dưới chân Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn,
và nhẹ nhàng,
như trong mơ, nói về những thảm họa,
về những gì
trải ra trước mắt [coi hình thì biết],
về nỗi sợ hãi
sắp tới,
và thằng cha
Gấu phán:
Ðiều
tuyệt vời nhất chúng
ta có thể làm bây giờ -
là nói về Bóng
Tối,
về Lời Dối Trá Lớn
trong cái bóng dâm sáng ngời dưới chân Nhà Thờ Ðức Bà, Xề Gòn
ĐÊM NGỦ BỤI Ở
NHÀ THỜ ĐỨC BÀ
Bốn mươi năm
tôi trở về đây
Đứa bé ngày
xưa ngủ dưới chân Người
Maria, trái
tim Người còn đọng lại
Một thời thơ
dại của riêng tôi
Đứa bé qua
đêm với bầy se sẻ
Bầy chim
không ngủ sớm bao giờ
Thao thức
từ
đầu hôm tới sáng
Vỗ hoài
không thấy một cơn mơ
Đứa bé nằm
trên tờ báo cũ
Như nằm
trên
tấm thảm bay xa
Ngày lang
thang đêm xuống không nhà
Sự sống
tự
nhiên thành phép lạ
Từng ấy năm
kẻ ở xa về
Ngủ bụi
trong căn nhà Đức Mẹ
Vòm mái cuốn
cong như vòng nghiệt ngã
Thuở xưa buồn
tôi tự dắt tôi đi
Lại thức sớm
theo người đi lễ sớm
Ngọn đèn
nhà
Chúa thật cô đơn
Nhớ da
diết
tiếng xe thổ mộ
Đêm đã
buồn
lóc cóc lại buồn hơn
Từng ấy năm
chớp bể mưa nguồn
Cuốn theo tiếng
ngựa thồ mất hút
Tôi trở về
đây đầu đã bạc
Sự yên bình
đừng hỏi có hay không
Cao Thoại Châu

Jen
& Bạn học lạc vô thời Trung Cổ, 2009
Tôi đi qua một
thành phố Trung Cổ
Tôi đi
qua một
thành phố Trung Cổ
vào một buổi
chiều hay buổi rạng đông
Tôi thì
trẻ
măng, hoặc khá già. Tôi không có đồng hồ
hay tấm
lịch, mà chỉ có một dòng máu cà
chớn, cứng đầu,
đo sự
trương nở vô cùng.
Tôi có
thể lại
bắt đầu cuộc đời, đời của tôi,
hay đếch
phải
của tôi,
mọi thứ
xem ra dễ dàng,
cửa sổ
của
những căn phòng thì hé mở,
những số
mệnh khác khục khặc.
Xuân, hay
đầu
hè,
tường ấm
áp
không khí
nhẹ,
mềm như vỏ cam
Tôi thì
thật
trẻ, hay khá già,
Tôi có
thể
chọn,
Tôi có
thể sống.
Adam
Zagajewski
On Swimming
The rivers
of this country are sweet
as a
troubador's song,
the heavy
sun wanders westward
on yellow
circus wagons.
Little
village churches
hold a
fabric of silence so fine
and old that
even a breath
could tear it.
I love to
swim in the sea, which keeps
talking to
itself
in the
monotone of a vagabond
who no
longer recalls
exactly how
long he's been on the road.
Swimming is
like prayer:
palms join
and part,
join and
part,
almost
without end.
Bơi
Những con
sông của xứ này thì ngọt lịm
như bài ca của
tên hát rong
mặt trời nặng
lang thang về hướng tây
trên những
toa màu vàng của đám xiệc.
Những ngôi
nhà thờ làng nho nhỏ,
nâng niu một
sợi im lặng,
mịn và xưa đến
nỗi chỉ một hơi thở
là có thể xé
nó ra.
Tôi mê bơi ở
biển,
biển thì
cứ lèm bèm với chính nó,
bằng một giọng
đều đều của một gã ma cà bông
không còn nhớ
đã lang thang trên đường từ bao lâu rồi.
Bơi thì cũng
giống như cầu nguyện
Bàn tay nối
bàn tay rồi lại rời ra,
nối và rời,
hầu như không
bao giờ tận cùng.
I Walked
Through the Medieval Tovvn
I walked
through the medieval town
in the evening or at dawn,
I was very
young or rather old.
I didn't have a watch
or a
calendar, only my stubborn blood
measured the endless expanse.
I could
begin life, mine
or not mine,
over,
everything
seemed easy,
apartment
windows were partway open,
other fates ajar.
It was
spring or early summer, warm walls,
air soft as
an orange rind;
I was very
young or rather old,
I could choose, I could live.
AT THE
CATHEDRAL'S FOOT
In June
once, in the evening,
returning
from a long trip,
with
memories of France's blooming trees
still fresh
in our minds,
its yellow
fields, green plane trees
sprinting
before the car,
we sat on
the curb at the cathedral's foot
and spoke
softly about disasters,
about what
lay ahead, the coming fear,
and someone said this was the best
we could do
now-
to talk of
darkness in that bright shadow.
Adam
Zagajewski
Ở chân Nhà
Thờ Ðức Bà Sài Gòn
Một lần, vào
Tháng Sáu, một buổi chiều
trở về sau một
chuyến đi xa
trí nhớ còn
đầy ắp, mới tinh
những tàng cây
nở rộ Paris
những cánh đồng
vàng,
cây
xanh trải dài trước xe,
chúng tôi ngồi
ở lề đường, trước Bưu Ðiện,
dưới chân Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn,
và nhẹ nhàng,
như trong mơ, nói về những thảm họa,
về những gì
trải ra trước mắt [coi hình thì biết],
về nỗi sợ hãi
sắp tới,
và thằng cha
Gấu phán:
Ðiều tuyệt vời nhất chúng
ta có thể làm bây giờ -
là nói về Bóng
Tối,
về Lời Dối Trá Lớn
trong cái bóng dâm sáng ngời dưới chân Nhà Thờ Ðức Bà, Xề Gòn

Joseph
Brodsky @ Toronto Oct 1995
An
interview with Joseph Brodsky
Bởi vì ông
nhắc tới những nhà thơ lớn lao, tôi nghĩ có lẽ chúng ta xoay câu chuyện
quanh đề
tài này, và nhắc tới 1 nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ. Wystan Hugh Auden
Tuyệt! Rất
tuyệt [Cười lớn]
Ông nhắc tới, trong bài “Ðể làm hài lòng
một cái bóng”, “To Please a
Shadow”, một
trong những lý do ông học tiếng Anh, hay trở nên ngày càng quấn quít
với nó, là để “thấy mình gần
gụi với một người mà tôi nghĩ là một đầu óc vĩ đại nhất của thế kỷ 20,
Wystan
Hugh Auden". Và rồi ông bàn về những phẩm chất của ông ta. Những phẩm
chất mà tôi
đặc biệt thích thú của ông ta, là ‘equipoise’ và ‘wisdom’. Vai trò của
Auden
trong sự nghiệp của ông như là 1 thi sĩ, là gì?
Tôi sẽ trả lời
câu hỏi này như tôi có thể. Ông ta đi vô tôi, enter, theo 1 nghĩa nào
đó, ông
ta đi vô cuộc đời của tôi. Thì cứ nói như vầy, chúng ta đang nói
chuyện, ở đây,
tôi đang ngồi đây, và tôi cảm thấy ông ta là một phần của tôi… Khi tôi
gặp ông ta
22 năm trước đây, tôi 32 tuổi, và ông ta chỉ còn sống được 1 năm nữa…
Cũng trong cùng
bài essay, ông nó về sự quan trọng đối với mọi độc giả là có ít nhất 1
nhà thơ để
mà lận lưng. Với ông, hẳn là Auden. Nhưng
ngoài Auden ra, liệu Eugenio Montale có xứng đáng…
Xứng đáng quá
đi chứ. Tôi nghĩ phải thêm vô Thomas Hardy, Robert Frost… Tôi thấy mình
gần Frost
hơn so với Auden. Bạn có nhớ không Lionel Trilling đã từng gọi Frost là
1 nhà
thơ khủng khiếp. Còn Eliot.... Bishop, bà này Canada chính gốc. Trong
số ngoại nhân,
làm sao bỏ qua Milosz. Wislawa Szymborska mà không bảnh sao, a
wonderful lady…
Số Brick,
Nhật ký văn học, đặc sản Toronto,
cây nhà lá vườn, tình cờ Gấu cầm nó lên ở tiệm sách, và ngỡ ngàng khám
phá ra cả
1 lô bài viết thật là tuyệt vời, đa số về thơ. Chưa kể bài viết về Trăm Năm Cô Ðơn của Garcia Marquez, của
1 tay đồng hương với tác giả, phải nói cực ác, và vấn nạn mà nó nêu ra:
Làm sao
những xứ sở Mỹ Châu La Tinh tiếp tục viết, dưới cái bóng khổng lồ, ma
quỷ của Trăm Năm Cô Ðơn?
[Ui chao, Gấu
lại nhớ đến Nỗi Buồn Chiến Tranh của
Bảo Ninh: Có vẻ cái vía của nó khủng quá, khiến đám nhà văn VC, kể cả
Bảo Ninh,
như bị teo chim, hết còn viết được nữa!]
Bài phỏng vấn
Brodsky cũng quá tuyệt, trong có 1 nhận xét của ông về thơ tự do, thần
sầu. Cuộc
phỏng vấn xẩy ra 1 năm sau khi Gấu tới định cư Toronto, Canada, cũng là
1 chi
tiết thú vị. Hai bài về nhà thơ Vat cũng thần sầu, 1 ông kể kinh nghiệm
lần đầu
làm thơ, khi còn là 1 đứa con nít, và cũng là 1 lần tiên khám phá ra 1
cái nơi
mà người ta gọi là nhà tù. Về già, ông vưỡn cứ làm thơ, bất chấp người
ta nói:
Già như mi cớ sao làm thơ?
Gấu về già mới
có được cái thú làm thơ, dịch thơ, thành thử rất tâm đắc với câu trên:
“He’s
so old, isn’t he ashamed to write poems?”
The Invisible
Trong
vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu...
2
Don't the shadows know
something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just today I was admiring the
one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?
Charles Simic
Liệu những bóng đen biết gì về
nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ
chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà
Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
CHUYỆN VÃN
Gửi NQT
Có những bài thơ viết muộn
Vì không thể viết sớm hơn
Ngặt nỗi thương thầm gió ruộng
Vẫn còn vuốt mắt sương thôn
Vì đâu núi xương sông máu?!
Cơ tâm bặt tiếng lâu rồi
Cơ trí gầm gừ cơ khí
Ba trăm năm…? Hỏi mà chơi!
Hỏi ông trời - Ổng cắc cớ
Hỏi Như Lai - Ngài mím chi
Hỏi Giê-Su - Cây thập giá
Thi sĩ! Cứ mần thơ đi
Thật sự là thơ đã ngủm
Nên mần thơ là đám ma
Đám ma đám người một bụm
Đứng trông thiên cổ khóc òa…
2/2005
NLV
Simic: The
Invisible
Trong
vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu...
2
Don't
the shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just
today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow,
I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?
Charles Simic
Liệu
những bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng
ngày hôm nay Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó
ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
DEATH OF A
PIANIST
While others
waged war
or sued for peace, or lay
in narrow
beds in hospitals
or camps, for days on end
he practiced
Beethoven's sonatas,
and slim fingers, like a miser's,
touched great treasures
that weren't
his.
Cái chết của
một cầm dương thủ
Trong khi kẻ khác gây
chiến tranh
hay thưa gửi
hòa bình, hay nằm
trong những
chiếc giường chật hẹp ở bệnh viện
hay trại tù,
chờ ngày tận cùng
hắn chơi những
bản sonatas của Beethoven,
và những ngón
tay gầy guộc của hắn, thì giống như của một kẻ keo kiệt,
mân mê những
kho tàng lớn
đếch phải của
hắn.
DEAD SPARROW
Among all
objects
the dead
sparrow in its gray topcoat of feathers
is the least unusual.
Even a
roadside stone looks like
life's prince when compared
to a dead
sparrow.
Flies circle
it,
intent as
scholars.
Sẻ chết
Trong tất cả
mọi thứ
con chim sẻ
chết trong bộ lông xám của nó
thì là điều ít
ai thèm để ý đến nhất.
Ngay cả cục đá
bên đường thì cũng giống như
ông hoàng của
cuộc đời
nếu phải so
với cái chết của con chim sẻ.
Ruồi vần
vũ quanh nó,
hăm hở, như
mấy tay khoa bảng với mảnh bằng cử nhân Triết, Ðại Học Văn Khoa Xề Gòn!
THE THIRTIES
The
thirties
I don't
exist yet
Grass grows
A girl eats
strawberry ice cream
Someone listens to Schumann (mad, ruined
Schumann)
I don't
exist yet
How fortunate
I can hear
everything
Thập niên 30
Thập niên 30
Ðảng CS Mít
ra đời
May quá, tớ
chưa ra đời
Cỏ mọc
Một em mút cây
cà rem dâu
Một người nghe Schumann
(một Schumann
khùng điên, tàn tạ)
Chưa có tớ
May quá,
Tớ nghe thấy hết!
WATCHING SHOAH IN A
HOTEL ROOM IN AMERICA
There are
nights as soft as fur on a foal
but we prefer chess or card playing. Here,
some
hotel guests sing "Happy Birthday"
as the
one-eyed TV nonchalantly shuffles its images.
The trees of my childhood have
crossed an ocean
to greet me
coolly from the screen.
Polish
peasants engage with a Jesuitical zest
in
theological disputes: only the Jews are silent,
exhausted by their long dying.
The rivers
of the voyages of my youth flow
cautiously over the distant, unfamiliar
continent.
Hay wagons haul not hay, but hair,
their axles
squeaking under the feathery weight.
We are innocent, the pines claim.
The SS
officers are haggard and old,
doctors
struggle to save them their hearts, lives, consciences.
It's late, the
insinuations of drowsiness have me.
I'd sleep
but my neighbors
choir
"Happy Birthday" still louder:
louder than the dying Jews.
Huge trucks
transport stars from the firmament,
gloomy trains go by in the rain.
I am
innocent, Mozart repents;
only the
aspen, as usual, trembles,
prepared to
confess all its crimes.
The Czech
Jews sing the national anthem: "Where is my home ... "
There is no
home, houses burn, the cold gas whistles within.
I grow more
and more innocent, sleepy.
The TV
reassures me: both of us
are beyond
suspicion.
The birthday
is noisier.
The shoes of
Auschwitz, in pyramids
high as the sky, groan faintly:
Alas, we
outlived mankind, now
let us sleep, sleep:
we have
nowhere to go.
Coi
phim Shoah [Lò Thiêu]
tại một phòng khách sạn ở
Mẽo
Ðêm mượt như lông ngựa non
Nhưng chúng ta thích chơi cờ, chơi bài. Ở đây,
một vài vị khách hát “Chúc Mừng Sinh Nhật”
trong khi chiếc TV một mắt chán chường xào đi xào lại mớ hình ảnh của nó.
Những cây cối từ thuở còn con
nít của tôi vượt qua một đại dương để chào đón tôi từ màn hình.
Mấy người nhà
quê Ba Lan hăm hở bàn về
có Ông Giời hay không có
Ông Giời,
trong khi đám Do Thái thì lại câm lặng, mệt nhoài, hết hơi, do cái
chết dài của họ.
Những con sông của những chuyến du ngoạn của thời trẻ của tôi
chảy
một cách thận trọng qua đại lục xa vời, không thân quen..
Những toa tầu chở cỏ khô, không, không phải cỏ khô mà là tóc,
Những cái trục của nó thì kêu ken két do chở nặng quá.
Chúng tôi thì vô tội, những cây
thông kèo
nài.
Những tên SS thì hốc hác, và già,
Những vị y sĩ chiến đấu cố cứu tim, gan, và luơng tâm cho họ.
Khuya rồi, cơn buồn ngủ thấm vào tôi
Tôi tính chơi một giấc nhưng mấy ông hàng xóm
vẫn ong ỏng, “Chúc Mừng
Sinh Nhật”:
Họ la lớn còn hơn cả mấy người Do Thái đang chết.
Những xe tải thật bự chuyên chở những ngôi sao, từ bầu trời
Những chuyến xe lửa ảm đạm đi
trong mưa
Tôi thì vô
tội, Mozart ăn năn;
Chỉ cây dương, như thường lệ, run rẩy,
sửa soạn thú mọi tội lỗi của nó.
Ðám Do Thái Czech hát quốc ca: “Nhà tôi đâu…”
Làm gì có nhà; nhà cháy rồi, quyện trong lửa có tiếng huýt của hơi
ga lạnh
Tôi mỗi lúc một thêm vô tội, và buồn ngủ.
Cái TV trấn an tôi: Ta và mi thì đều quá cả sự nghi ngờ.
Sinh nhật ồn, ồn quá.
Những chiếc giầy của Lò Thiêu, chất thành kim tự tháp, cao như bầu
trời, rên rỉ nhè nhẹ:
Than ôi, chúng ta thì sống dai hơn cả nhân loại, bây giờ, hãy để
cho chúng ta ngủ, ngủ;
Chúng ta chẳng có nơi nào để mà đi
Adam
Zagajewski: Without End