Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Jennider
@ Paris 3.2011
Happy Birthday
Chỉ có ngoại là nhất
định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái chòi sát bên căn nhà đổ
nát cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người con nhưng cuối cùng
tan nát, mỗi người mỗi nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản...
chỉ còn mình ngoại, già nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát.
Đến con đường dẫn về nhà ngoại, tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối
trâu đi, hai bên có hai hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn thường được cậu
tư dẫn đi thả diều, hoặc hai cậu cháu lang thang khi nắng chiều đã
nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục thứ dây leo chằng chịt, quấn quít
trên cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy trong đám dây leo đó có
những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo không rễ, bám vào cây nào thì
cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ bước vào nhà ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau
vườn, mấy gốc dừa đã lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị
bom chặt gãy vắt lên gốc. Liếp sầu riêng của ngoại cũng chết gần hết
sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn mấy cây ổi sống dai, xanh um, trái chín
vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già, mốc. Ngày xưa tôi và dì út thay
phiên nhau hành nó, không ngày nào mà hai dì cháu không trèo cây, hay
lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy gốc... Tôi chợt
nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm thanh ríu rít
như ngày xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn
cũ. Tôi ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại
đánh thức...
... tôi rất thích truyện
ngắn của Thảo Trần.
Giọng kể của bà thanh thản mà gây buồn da diết, đúng là viết mà như
không viết!
Đoạn "Tara" mà tôi mới trích, hay hơn
cô Tư đó, vì nó rất tự nhiên. (1)
Tks
TT/NQT
*
(1) Gấu đã có
kinh nghiệm này rồi. Lần mê văn Nguyễn Ngọc Tư, thổi lấy thổi để, mang
cả ông thầy Faulkner ra, cả thầy lẫn trò xúm lại thổi, một nữ tác giả
mail, hỏi, truyện của NNT hay, nhưng truyện của Thảo Trần mà không hay
sao. Cùng cái air Nam Bộ, bà Thảo Trần nhà ông có khi còn bảnh hơn, ở
một số điểm nào đó. Gấu mail cám ơn, và nói thực, bà Thảo Trần không
cho phép Gấu nịnh bà ‘công khai’ như thế.
Để người khác đánh giá, thì hay hơn.
Quả đúng như thế. Khi tập
truyện ngắn được xb, có hơn một bạn văn thực tình khen ngợi. Ông nhà
văn Nhật Tiến sửa lưng Gấu, ông tài năng thế nào thì thiên hạ biết rồi,
tại sao không để cho bà xã một mình một cõi.
Ấy là vì tập truyện ngắn còn kèm thêm mấy cái ‘ký’ của Gấu.
Rồi ông Thảo Trường cũng bực,
bà Thảo Trần “viết mà như không viết”,
vậy mà ông còn giả đò nhún nhường, để cho bà “tập” viết ư?
Nguồn
Trang Thảo
Trần
Thủ
Thiêm
Thủ Thiêm,
Hàm và Gấu.
Hồi đó đó,
Hàm dân Hố Nai. Học Sài Gòn. Trọ học bên Thủ Thiêm cho đỡ tốn. Bữa tha
hương ngộ
cố tri nơi thủ đô người Việt tị nạn, tức Quận Cam, Tiểu Sài Gòn, Gấu
quên không
hỏi, anh còn nhớ cảm giác buổi sáng đứng chờ phà, ngó sang bên Sài Gòn,
khi đó
chưa có tượng Đức Thánh Trần; hay những buổi tắm sông, bơi ra tận mấy
cái phao
nổi lềnh bềnh ở giữa sông, người đầy dầu dơ, từ mấy con tầu mặc tình xả
xuống
lòng sông Sài Gòn.
Với Gấu, đó
là thời gian thần tiên trong đời, được thực thụ đóng vai một anh học
trò trọ học.
Tiền ăn, tiền học, bà cô từ bên Tây gửi về.
Ấy a, sự
tình nó như vầy, sau khi thằng cháu báo tin đậu trung học, bà cô mừng
quá, bèn
ra lệnh, tháng tháng tới địa chỉ “đó đó” lấy tiền. Ngoài ra, Gấu còn
kiếm thêm,
trước, làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, sau, làm trợ giáo, tức
kèm trẻ tại
gia, khi có được cái bùa lỗ ban là tấm bằng trung học đệ nhất cấp.
[Mảnh bằng
này cũng có riêng một huyền thoại ly kỳ về nó, thời gian trọ học ở Thủ
Thiêm,
và cái địa chỉ đó đó, nơi Gấu tháng tháng đến lãnh lương, cũng là cả
một thiên
tình sử của Gấu, xin phép để riêng ra, kể sau].
Gấu thi
trung học đậu kỳ 2, trong khi bạn bè may mắn hơn, ba tháng hè theo thầy
Đoàn Viết
Lưu học đệ tam, tới năm học mới, nhảy lên đệ nhị. Gấu theo bạn, không
lẽ học một
mình, bèn ngày đệ nhị, tối tự học chương trình đệ tam. Cuối năm Gấu đậu
ngay kỳ
đầu trong khi bạn bè đa số rớt lại, trong có Hàm.
Đậu năm đó,
là nhờ Hàm một phần, trong khi anh lại rớt.
Lần đó, Hàm
có cuốn bài tập vật lý của tay Georges Ève (?), một trong những bửu bối
của đám
học trò chúng tôi. Gần như cả năm anh quần quật với nó. Khi còn độ
chừng một tuần
tới ngày thi, Gấu nói, mày cho tao mượn coi thử.
Gấu lật qua,
chú ý đến cách giải của từng trường hợp, từng loại. Vào thi, bài toán
quang học
y chang một bài trong cuốn bài tập, nghĩa là cách đặt để thấu kính hội
tụ, phân
kỳ, gương phẳng... y chang, chỉ khác những con số. Gấu giải như máy. Ra
khỏi lớp
thi sớm nhất, vội đi tìm bạn Hàm để cùng sướng cái sướng trúng tủ!
Gặp, anh lắc
đầu, nói ngồi suốt giờ cắn bút, tới hết giờ nộp giấy trắng! Gấu lấy
cuốn sách từ
trong cặp của anh, lật ra, chỉ đúng bài toán. Anh đứng coi chừng mươi
phút, đột
nhiên xé nát cuốn sách, ngửa mặt lên trời than, cả năm trời, tao làm
đến nát cuốn
sách, tại làm sao chỉ trong một tuần mà mày lại có thể làm hết, mà còn
nhớ hết
mấy trăm bài toán?
Tôi nói với
anh, tôi không hề giải một bài tập nào trong đó, mà chỉ coi phương pháp
giải, của
từng loại.
Sau này, tôi
gặp một trường hợp tương tự, xẩy ra với một anh bạn học Toán Đại Cương.
Những ai đã
từng học Toán Đại Cương, Đại Học Khoa Học Sài Gòn thập niên 1950, chắc
chắn là
còn nhớ ông thầy người Pháp Monavon. Ông có bà vợ, nghe nói hai vợ
chồng rất mê
văn chương Việt Nam, và đã lấy mấy cái bằng tại đại học văn khoa Sài
Gòn.
Giáo sư Monavon
này có một cái lạ, là, khi vào lớp, nếu ồn quá, là ông không giảng bài.
Trong
khi giảng, nếu ồn quá, thay vì nói lớn, ông nói thật nhỏ, hay ngưng
nói, cho tới
khi lớp yên lặng trở lại.
Tôi học ông
được một năm. Tới kỳ thi, ông ra bài toán, tôi không biết làm sao mà
đặt cây
bút lên trên tờ giấy thi, vì không hiểu một tí gì về nó.
Đã có lần
tôi viết về nỗi đau này. Do nhà nghèo, không có tiền mua sách bài tập,
thành ra
không hiểu, thế nào là một bài toán ở Toán Đại Cương, và làm thế nào để
giải
nó. Suốt năm học, tôi chỉ có tập cours quay ronéo của giáo sư Monavon,
trong
khi bạn bè có những cuốn như bài tập tiếng Pháp của những giáo sư nổi
tiếng như
Bouligand chẳng hạn.
Năm sau, Gấu
đổi qua học Toán Lý Hoá, trong khi cùng lúc thi đậu vô trường Quốc Gia
Bưu Điện.
Cũng học song song, hai chương trình một lúc. Nhưng vẫn thèm học Toán
Đại
Cương.
Bữa đó, gặp
anh bạn cũ, vừa xong chứng chỉ Toán Đại Cương. Tôi hỏi, làm hết bài
toán hả.
Anh lắc đầu, nói, tao không làm được một câu nào hết.
Tôi trố mắt,
hỏi lại, vậy sao đậu?
Anh cười, giải
thích, tới giờ chót mà tao vẫn chưa giải được câu đầu. Bí quá, tao ghi
vô giấy,
thưa thầy Monavon, đây là cách giải bài toán của con.
Thế là anh
ghi ra, cách thức, phương pháp anh tính giải bài toán.
Vậy mà đậu.
Ông thầy đâu
cần anh giải bài toán. Mà là cần, anh biết cách giải nó.
Còn một anh
nữa, cũng khoá đó, làm được đủ muời bài, vậy mà rớt
Ông thầy
phê, chó ngáp được đủ mười con ruồi. Không biết mẹ gì về Toán Đại Cương
hết. Về
học lại năm nữa!
Sau này, mê
văn chương, Gấu ít khi tin ở những bài phê bình đọc sách giới thiệu
sách. Cũng
đọc, nhưng nếu quan tâm tới một cuốn sách nào đó, một tác giả nào đó,
là đích
thân tìm đọc, cố tìm cho riêng mình, một cách giải thích.
Gấu áp dụng
những bài học toán của ông vào văn chương.
Bài học thứ
nhất: Mi phải tìm cho mi, một cách giải, cho dù là sai, về một bài toán.
Đừng bao giờ
học toán bằng những bài giải có sẵn.
Bài học thứ
nhì: Khi ồn quá, thì nói nhỏ lại [viết ít đi]. Hoặc đừng viết gì hết!
Bài học thứ
ba: Học Toán không thôi, là không đủ. Phải mê thêm một, hay vài, thứ
khác. Bất
cứ thứ gì.
Bài học thứ
ba, của giáo sư Monavon, sau này, tôi gặp lại khi đọc Calvino. Ông này
nói, tủ
sách của bạn, nếu toàn sách văn chương, là... vứt đi!
NQT
Một bạn văn
gợi ý:
Về bài học
thứ nhất, anh đọc thêm câu của Bacon: Trong khoa học, sai lầm còn tốt
hơn là
hoang mang.
Về bài học
thứ hai, phải đọc ra cõi thâm sâu của lối sống của ông thầy Monavon:
Nếu đời loạn,
là "Ta Về", theo kiểu loạn đọc
thư của ông Khổng Tử.
Về bài thứ
ba: Văn chương, giống như phần lý thuyết, khoa học, là phần thực hành
của nó.
Lý thuyết không thôi, là không tưởng. Thực hành không thôi, là thằng
ngu. Phải
hai thằng cộng lại mới được.
Đây cũng là
quan niệm về con người hoàn toàn của Marx, mà Bác Hồ thuổng, và sáng
tạo thêm
ra, là, muốn có xã hội chủ nghĩa, thì phải có con người chủ nghĩa xã
hội.
Source
Hồi đó đó, từ
Sài Gòn qua Thủ Thiêm, có 1 cái “bac”, tức phà, ở phiá bên trên cột cờ
Thủ Ngữ,
quá khách sạn Majestic. Ở cột cờ Thủ Ngữ, là bến đò, với những chiếc đò
nhỏ, chở
vài người khách, khi phà đóng cửa tiệm, hoặc khi quá đông khách… Gấu
trọ học ở
phía phà, không phải ở phía xóm.
Thời
Sự Hình
Cruel Radiance
Tỏa Sáng Ðộc Ác
Hà Nội
&
Sài Gòn lần về 2002
Thơ mỗi ngày
Exile
Roberto Bolaño
Roberto
Bolaño 'would much rather have been a murder
cop'
Được hỏi, nếu không làm nhà
văn, thì làm gì, Bolano cho biết,
“chắc chắn” sẽ làm một tay cớm hình sự, “trở về phạm trường, một mình,
vào ban
đêm, và không sợ con ma nào”.
Được hỏi nếu bị mấy thằng cha
phê bình nắn gân, thì sao, ông nói, cứ mỗi lần có
thằng nào chê tôi viết dở là tôi chỉ muốn khóc, bò lê bò càng trên sàn
nhà, vò
đầu bứt tai, hết viết nổi, hết thèm ăn, bớt hút thuốc, tập thể thao, đi
ra bãi
biển cách nhà cũng không xa, hỏi đám hải âu, mà tổ tiên của chúng đã
từng ăn
cá, cá đã từng rỉa thịt Ulysses: “Tại sao ta? Tại sao? Ta đâu có… ‘xoa
đầu, nắn
chim’ nhà phê bình nào đâu?” [Ta đâu có làm điều gì tai hại cho mi?]
Hà, hà!
NBC [Toán] vs Thơ
Khi Hoàng Cầm
nằm xuống, chưa kịp đậy nắp áo quan, là Gấu đã đi 1 đường hỏi thăm về
cái vụ
Người viết tự kiểm, tự thú trước bàn thờ Ðảng, và một độc giả TV nhẹ
nhàng nhắc
nhở, đợi ít ngày không được sao.
Kể thật bậy,
nhưng vấn đề vẫn còn nguyên đấy: Tại làm sao mà cả một miền đất, không
bói ra nổi,
một ông Brodsky, một ông Mandelstam, một bà Anna Akhmatova… ?
Tự hào mê
văn học Nga, cả một tầng lớp tinh anh sành tiếng Nga, vậy mà tại làm
sao toàn
mê ba thứ xái xảm, thí dụ, Mai a cốp ki, đến nỗi đi tù mà cũng theo ông
này?
Có thể nói,
Bắc Kít gần như mù tịt về 1 nền văn học Nga, thứ thiệt, thứ thật bảnh.
Tại làm sao
như thế?
Liệu hậu duệ
của 1 Huy Cận đúng là cái thứ mà chúng ta đang đòi hỏi chăng? Tiếng nói
đầu
tiên của 1 miền đất, thừa hưởng tinh anh của tầng lớp cha ông, sĩ phu
Bắc Hà, địa
linh nhân kiệt, nói Không với BBP [Bắc Bộ Phủ]?
Chúng ta tự
hỏi, ở cái nôi Cách Mạng đó, Maia có được nâng bi như ở xứ Bắc Kít?
Gấu nghi rằng,
cái sự học tiếng Nga, không phải do mê văn học Nga, mà đây là con đường
tiến
thân của tầng lớp sĩ phu Bắc Hà, cũng tương tự, học tiếng Tây của Miền
Nam, là
phương tiện để bỏ chạy cuộc chiến, qua con đường du học. Bao nhiêu đấng
rành tiếng
Tây của Miền Nam có ông nào viết cái gì ra hồn, chính là do cái tâm địa
kiếm đường
bỏ chạy chứ thực sự cũng chẳng mê gì… Camus, hay Sartre. Ông Mít Butor
phán,
khi cả Sài Gòn đang trong cơn sốt hiện sinh thì ông đã bước qua tiểu
thuyết mới
rồi, là thế. Ông đâu biết sở dĩ lớp trẻ Miền Mam mê hiện sinh, tìm đọc
Hố Thẳm,
Ý Thức Mới, là vì cũng như bậc đàn anh tìm
trong Mác Xít, cái điều đuổi Tây thực dân, thí dụ, thì họ tìm
điều cắt
nghĩa cuộc chiến khốn kiếp, chứ đâu phải chạy theo Tây để ăn kít Tây.
Ăn hết
kít hiện sinh thì ăn sang kít tiểu thuyết mới.
Cứ coi ông
Tây mũi tẹt đã từng ở Paris, trước khi cuộc chiến hứa hẹn những điều
khủng khiếp,
là rõ. Những ông khác, thì “từ thưở qua Tây bỏ chạy cuộc chiến, lòng
lúc nào
cũng hướng về Thăng Long, Bắc Bộ Phủ", vì họ đều tin chắc, Miền Bắc sẽ
thắng
cuộc chiến, và cái ngày về của họ mới vinh quang biết là chừng nào.
Gấu học tiếng Tây, những
ngày bắt đầu cuộc đời tên nhóc Bắc Kít
học trung học tại trường Nguyễn Trãi Hà Nội, thì cũng như học các môn
học khác,
nhưng trong thâm tâm, là cố làm sao sau này có thể viết được một bức
thư bằng
tiếng Tây, cho một ông Tây thuộc địa, chồng bà cô, Cô Dung của Gấu, một
me Tây
bị cả miền đất coi khinh. Một lá thư cám ơn, nhờ có ông nuôi tôi mà tôi
có được
con đường thoát ra khỏi cái xứ Bắc Kít khốn nạn. Ðúng là như thế. Nhưng
về già,
Gấu mới hiểu ra, trên cả lời cám ơn đó, là lời cám ơn cái nước Tây, cái
văn hóa
Tây, hơn hẳn cái văn hóa sông Hồng, chỉ chất chứa đầy cái đói, cái rét,
cái nhục,
cái thù hận. Thành thử Gấu thấy sự kiện ông NBC vội vã xin vô quốc tịch
Tây,
khi biết mình được Nobel Toán, thật giống như Gấu, khi cố làm sao viết
được cái
lá thư cám ơn ông Tây thuộc địa, c’est à vous que je dois tout, nhờ ông
mà có tôi.
Ðúng ra, cái sự giải phóng
Miền Nam, thống nhất đất nước, nó
cũng xêm xêm như thế: một cơ hội đổi đời của Miền Bắc. Nhưng lũ ăn
cướp, tâm địa
ăn cướp đâu có nghĩ như thế, chúng nghĩ chúng là kẻ chiến thắng, đem ơn
mưa móc
tới cho lũ Ngụy, mà nhà thì chúng cướp, đàn bà thì chúng hãm hiếp, đàn
ông thì
chúng tống đi cải tạo, nói 10 ngày mà thực ra là 5 năm, 10 năm, 15 năm,
là suốt
đời, là bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc. Bất nhân bất nghĩa đến như
thế, mà cái
đám tinh anh Miền Bắc vờ, chưa có lấy 1 tên nói ra lời ân hận, thử hỏi
có đúng
là chúng bị liệt một nửa bộ óc không?
Chuyện thê lương như thế mà bảo quên đi ư,
cứ đến ngày 30 Tháng Tư là hãi lắm, mong cho qua mau ư?
Trình độ tiếng
Tây của Bác H
Trong khi Gấu,
cố học tiếng Tây, thứ căn bản, để cám ơn ông Tây thuộc địa, thì Bác H,
sử dụng
tiếng Tây bồi, để chửi, cũng ông Tây thuộc địa [Chửi Mẽo, đúng hơn, khi
trả lời
Tây]
Chắc chắn, khi Cẩm Linh
cho khui hồ sơ mật của Bác H, chúng ta sẽ còn
biết nhiều
sự thật dã man hơn nữa, về vị Cha Già Của Dân Tộc.
Trên website Ánh Dương, có cái video
Ui chao lại
nhớ lần Gấu trở về Hà Nội, gặp ông cậu, Cậu Toàn, người được Hồ Tôn
Hiến, Sáu Dân
trao trách nhiệm làm thông ngôn, khi Người "trở về nơi một thời vang bóng"
Lần gặp cuối
cùng cách đây hơn nửa thế kỷ, giữa hai cậu cháu, cũng diễn ra tại Hà
Nội, ông cậu
vừa từ chiến khu Việt Bắc về, còn thằng cháu thì đang lăm le tìm cách
chuồn xuống
Hải Phòng, trước khi thời hạn 300 ngày chấm dứt, cánh cửa nhìn ra thế
giới của miền
bắc hoàn toàn đóng sập xuống cho tới tận… Sea Games 22 này mới lại hé
ra!
Trong những
mẩu “vừa đi quanh Hồ Gươm vừa kể chuyện”
đó, có hai mẩu liên quan đến
chuyện dịch
thuật của “đồng chí sếp” của ông cậu tôi, là Nguyễn Khắc Viện.
Được vinh dự
trao nhiệm vụ dịch Di Chúc Bác Hồ sang tiếng Tây, khi Nguyễn Khắc Viện
dịch cụm
từ “rất minh mẫn” ở trong di chúc thành “lucide”, ông
bị phê phán, [bị “chỉnh” nặng lắm], rằng tại
sao dám sửa Di Chúc, sao dám bỏ đi từ “rất”. Ông sếp của ông cậu tôi
chỉ cười. Sau
phải đem tới nhờ một ông Tây chính gốc 100 phần dầu phân giải. Ông này
nói,
lucide là đủ rồi. Thêm chữ très nữa là… hỏng! Nhân loại, không riêng gì
giống
Tây, khi nói về mình, không ai dám dùng tới chữ “très”, dù vào lúc hấp
hối, con
người hơi bị quá minh mẫn!
Câu
chuyện thứ nhì liên quan tới nhan đề cuốn
sách viết về đồng chí Nguyễn Văn Trỗi: Sống Như Anh. Sau bao nhiêu đấng
dịch,
nào là vivre tel qu’il est... tới
tai
Nguyễn Khắc Viện, ông “phán”: dịch "sống cẩm lủy" (vivre comme lui)
là được rồi!
*
Trong bài viết Causework, uy
quyền của thi sĩ trong thời đại không tưởng, Andrew Kahn, trên tờ TLS
10.9.2010, đặt vấn nạn, chuyện
gì xẩy ra cho những nhà thơ trữ tình khi họ, thay vì làm tà lọt cho nữ
thần thi
ca, [“service to the muse”, chữ của Pushkin], thì làm tà lọt cho nhà
nước [to
the service of the nation]. Liệu cái thứ thơ ca chính trị vượt tới cõi
xuyên quốc
gia, [liệu Maia là một tên Mít, đại khái như thế]. Liệu nhà thơ khi bỏ
chạy được
qua Mẽo, thí dụ, thì thoát ra khỏi 1 chữ S tâm linh?
Tất cả những
tác phẩm trên, là những toan tính nghiêm trọng, serious attemps, khi
đặt vấn đề,
sự liên hệ giữa nghệ thuật thi ca với cuộc đời của những nhà thơ. Clare
Cavanagh
với tác phẩm Thơ trữ tình và chính trị hiện đại: Nga, Ba Lan, và Tây
Phương, và
Irena Grudzinska Gross với Czeslaw Milosz và Joseph Brodsky, Fellowship
of
Poets, cả hai đều cho rằng, vào thế kỷ 20, ở Liên Xô và ở Ba Lan, tác
động thơ
ca trữ tình, the impact of lyric potry, thì có tính quốc gia, bởi là
vì, những
nền văn hóa ở đó, bằng những đường hướng khác nhau, đã ban cho nhà thơ
một thứ
uy quyền đặc biệt – và đôi khi, nhà thơ phải đáp lễ, bằng chính cái
mạng sống của
họ!
Chúng ta thử
áp dụng nhận định trên vô xứ Bắc Kít
NBC
Nobel Toán
TTT
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị
trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài
là Sài
Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ
của
ông.”
Quỳnh
Giao
Nói
một cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương
Nghiễm Mậu.
Rượu Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự
khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh
của một
miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh
Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh
Tâm Tuyền
"khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn
Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một
bên là
bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải
(Nguyễn Đình
Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng
Quên, truyện
ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả
Miền Nam,
thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ
tên, viết
về ông già gác dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng
bị gã con
trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã
thét cô bồ:
lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình
hối hả...
làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa
Ngục
(Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên, về một già muốn làm con
ong hút
nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ Thanh Tâm Tuyền tràn lan ra
văn. Ở
Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết hơi, của những bóng dáng đàn
bà,
không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính họ: Cái Chết, Cái
Sống đều
thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của Chiến Tranh lảng vảng
ở trước,
hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối quyết liệt, bởi những
con người
đứng bên lề...
DNM
Ðoạn
sau đây, về Solz, theo GNV, áp dụng vô “cas” TTT, cũng đặng:
Ảnh
hưởng của Solz sẽ nằm một cách thật là đặc thù trong sự can đảm đạo
đức của ông,
nó gợi hứng cho những người ly khai trẻ tuổi tiếp tục ôm lấy cuộc chiến
đấu, cả
trong văn chương, và trong bảo vệ quyền con người. Như là một nhà văn,
Solz gói
trọn mình vào truyền thống thế kỷ 19, đặc biệt là văn phong bộc trực,
súc tích,
rao giảng đạo đức của Lev Tolstoy. Ông cũng sử dụng truyền thống cổ
điển Nga về
thử nghiệm, giữa những nhân vật hiện đại trong một không gian chật hẹp,
những
nguyên lý triết học và nhận thấy chúng không đầy đủ. Sự
trộn lẫn giả tưởng với lịch sử trong Bánh
Xe Ðỏ là từ Chiến Tranh và
Hòa Bình của Tolstoy. Ngay Quần
Ðảo Gulag thì cũng có
cội rễ
văn học, không phải từ văn chương nhà tù của thế kỷ 20, mà là trong Ghi Chú
từ Căn
Nhà của Những Người Chết của Dos.
Về
mặt văn học thuần tuý, như vậy, Solz là một vị thầy không có đệ tử.
Ðể
hiểu đoạn trên, và áp dụng vào trường hợp TTT, chúng ta cần 1 số giải
thích,
soi sáng. Kỳ tới G sẽ lèm bèm tiếp.
Ít ra bạn
đọc TV sẽ cùng G nhớ lại cái xen
anh chàng Ðại
trong Bếp Lửa, đi đâu cũng ôm
theo Tội Ác và Hình Phạt của
Dos, và, trước khi quyết định đi theo "nó", tức là vô bưng, lên rừng,
theo VC,
bèn làm thịt cô
con gái
riêng của ông Chính!
Solzhenitsyn's
influence will lie exclusively in his moral courage, which inspired
younger
dissidents to carry on the struggle, both in literature and in the
defence of
human rights. As a writer, Solzhenitsyn was wholly locked into 19th
century
traditions, particularly the forthright, lapidary, moralizing style of
Lev
Tolstoy. He also used the Russian classical tradition of testing among
modern
characters in a closed space the tenets of philosophy, and finding them
wanting. His mix of fiction and history in The Red Wheel is derived
from
Tolstoy's War and Peace. Even his Gulag Archipelago has its literary
roots not
in 20th century prison literature, but in Dostoevsky's Notes from the
House of
the Dead.
In purely literary terms, then, Solzhenitsyn is a teacher without
disciples.
Về mặt văn học
thuần túy, Solz là một bậc thầy không có truyền nhân.
TTT chắc
cũng rứa?
Và, có thể, cũng chính cái
can đảm đạo đức [tiết tháo, chữ của Ông Chánh Tổng],
khiến, khi ông nằm xuống, mọi người xúc động, nhất là ở hải ngoại?
PCT ra
đi
Simone Weil: A Genius of the Spiritual
Life
Note: PCT có
thể là thiên tài đời thực, đời thường, khác Simone Weil, thiên tài của
đời sống
tinh thần. Bởi thế PCT có tới mấy bà vợ, còn SW thì nhịn ăn tới chết.
Cũng có thể vì vậy, PCT đọc Weil, khi vừa mới vào đời, là bị dội?
GNV này nghe
kể lại là, khi ông còn dạy học ở Ðà Lạt, hay ghé xóm, đến nỗi thấu tới
trường,
tới học trò của ông, và có thể vì vậy, ông bèn mướn nhà ở ngay khu phố
này, thế
là chẳng còn ai thắc mắc nữa!
Gấu cứ lăm le dịch bài viết trên hoài, nhưng cứ lu bu ở đời thường
hoài, hết đụng
ông Nobel Toán, lại đụng bà Hảo, ông Cù...
Mémoirs
|
|