Tâm
lý nào
cho sáng tạo của Phạm Công Thiện
Sun,
03/20/2011 - 21:52 — VietVoiNhau
Trong bài viết
mới đây của Nguyễn Hưng Quốc về Phạm Công Thiện, có một đoạn giữa bài
làm tôi
chú ý: “…Nhớ, thời ấy, thoạt đầu tôi cũng chia sẻ với bạn bè sự say mê
đối với
Phạm Công Thiện. Nhưng rất nhanh sau đó, tôi lại thấy có cái gì như
lúng túng.
Tôi để ý thấy, trong đám bạn học của tôi, những “fan” nồng nhiệt nhất
của Phạm
Công Thiện thường có một số đặc điểm khá giống nhau: một, học không có
gì xuất
sắc lắm; hai, cách ăn nói hơi... tàng tàng; và ba, ở dơ, tóc tai thì bù
xù, quần
áo thì bẩn thỉu, người ngợm thì rất hiếm khi được tắm rửa. Dần dần, tôi
cố giấu
sự say mê của mình. Có đọc Phạm Công Thiện thì cũng đọc “lén” ngoài
tầm nhìn
của bạn bè”.
Nguồn
Note: Tình cờ,
ghé blog trên, đọc những dòng trên, mới hỡi ơi!
Hoá ra cũng
có những nhà văn, nhà phê bình "cố giấu sự say mê của mình", "đọc
lén" PCT!
Chắc cũng giống
nhà văn Nobel, Vargas Llosa, lén đọc Borges, vì lỡ say mê Sartre!
Thời của PCT
đâu chỉ có những fan như trên. Những tác phẩm dịch thuật của ông đâu có
phải để
cho những fan như trên đọc. Ông xuất hiện đúng vào lúc tuổi trẻ Miền
Nam cố tìm
ra 1 giải pháp, một lý tưởng, một hy vọng riêng cho họ, thoát ra khỏi
cái gọng
kìm dã man Quốc Cộng. Cũng trong tinh thần đó, mà tác phẩm của Kundera
sau này được
viết ra, dành cho phần đất Trung Âu. (1)
"Tâm lý nào"
dành cho Thầy Cuốc, khi đọc lén PCT?
(1)
L'écrivain
tchèque entre ce mois-ci dans la Pléiade. Installé en France depuis
1975, Milan
Kundera est partout célébré pour avoir ressuscité une Europe centrale
dont
l'identité avait été annihilée par la logique bipolaire.
Nhà văn Tiệp
K tháng này vô Pléiade. Cư trú tại Tây từ 1975, ông được mọi nơi vinh
danh như
là người đã làm tái sinh một Trung Âu mà căn cước của nó bị huỷ diệt
bởi luận
lý nhị cực…
PCT với Ý thức
Mới, Hố thẳm, và những tác phẩm dịch thuật... một cách nào đó,
là cũng nhắm cái
mục tiêu tương tự như của K, cho Miền Nam VN.
Đâu phải tự
nhiên mà tuổi trẻ Miền Nam cả 1 thời say mê ông?
Ông đâu
phải
chỉ có 1 thứ fan khùng như Thầy Cuốc mô tả?
Phạm Công Thiện qua đời, thọ 71 tuổi
PCT ra đi
Thơ
Hoàng Trúc Ly :
Mưa
chiều thứ bảy tôi về muộn,
Em ngủ một mình đêm gió mưa.
Thơ
Phạm Công Thiện :
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết
bông.
Nội
dung thì khác « chiều thứ bảy » trong thơ H.T.L.
là một ngày trong tuần, trước chủ nhật. Còn « chiều thứ bảy » trong
P.C.T. là lấy
ý tự kinh Phật. « Cây khế » cũng vậy.
Dạo
ấy, Thiện đi tu ở Nha Trang với thầy Trí Thủ,
pháp danh Ngươn Tánh. Một hôm xuống chơi nhà Võ Hồng – mà anh rất thân
–
khi về
chùa thì làm câu thơ này mà về sau anh tự dịch ra tiếng Pháp :
Je
suis le Retour / il fait tard sur le Chemin
Sept
jours après la pluie tombe
En haut du Temple
L’arbre est le Défleuri (1)
*
Nhờ bài viết
của DT, chúng ta mới hiểu được nguồn gốc câu thơ của PCT.
Từ HTL, nhưng
qua PCT
nó lại mang hình ảnh khác. Có thể nói, câu thơ của HTL đã sống lại, và
có 1 đời
sống khác, “nhiễm mùi Thiền”, qua của PCT.
Ðây là trường
hợp bản dịch hay hơn bản chính, nói theo Borges.
Và đây là
cái điều mà một độc giả DM chê nhà thơ NDT, khi ông nhại lời nhạc TCS. (1)
(1)
Tôi nhận thấy
ông Nguyễn Đăng Thường cũng có văn tài, thi tứ hùng hậu. Ước chi ông
dùng “tài
năng” ấy mà sáng tác thì tôi tin sẽ thành công hơn là ngồi chọn chữ để
nhại lời
bài hát a, b, c, d… Nhại lời như vầy làm thấp hẳn đi giá trị câu chữ
ông nặn
ra; dù ý nghĩa ông gửi gấm trong đó có cao thấp, sáng tối thế nào đi
chăng nữa.
TYB [DM]
Sáng tạo từ
cái cũ.
Xin phép cho
tôi được nόi thêm đôi lời: Với “Diễm nay”, “Một ngục tù không da vàng”,
thậm
chí “Trở về cái chuồng xưa?”, tôi không nhại/diễu nhại ca từ của Trịnh
Công Sơn,
Phạm Duy, mà chỉ… đặt lời mới. Ca sĩ, hay bất cứ ai đều cό thể hát các
lời này
mà không cảm thấy ngượng miệng. Mong rằng tôi không chỉ xây ảo mộng…
hope
against hope/hy vọng trong tuyệt vọng?
NDT
(1)
Mấy câu thơ
tiếng Tây này, “lệch pha” so với tiếng Việt. Dữ dằn hơn:
G tạm dịch [múa
rìu qua ông Chánh Tổng]:
Tôi là Sự
Trở Về/ muộn trên Ðường
Bảy ngày sau
cơn mưa rơi
Ở trên cao Ngôi
Chùa
Cây là Trổ Hết Bông
Ðộng từ
Être, To Be, rất quan trọng trong tiếng Anh, cũng như tiếng Tây.
To be or not
to be.
Bữa nào rảnh,
G sẽ đi một đường về cú này!
Hiện tượng say
mê PCT của một thời thanh niên Miền Nam, có gì giống như thanh niên ở
trong nước
bây giờ, khi tìm đọc sách dịch. Chẳng có gì là khó hiểu cả, ở PCT, khi
ông giới
thiệu những hố thẳm, ý thức mới… Ðó đúng là cái thanh niên cần, trước
khi được đi
lính, bị ném vào cuộc chiến.
Tờ Văn,
sở dĩ được đọc
nhiều, vì cái thương hiệu rất
ăn khách của nó, "tập san của những người ham đọc, ưa suy nghĩ".
Cái khó hiểu nhất,
là 1 tâm hồn rất ư thơ mộng, qua những vần thơ rất ư là con nít, theo
cái nghĩa
ngây thơ trong sáng tạo, the inventive innocence, the somnambular
immediciaty,
tức thời mộng du, du ca buồn ngủ, khúc thụy du gì gì đó (1), nhưng cũng
vẫn con
người đó, suốt đời trẻ thơ, lại thấm nhuần tư tưởng của những bực đại
sư như
Heidegger, hay Thiền, và ngây thơ đi hết 1 đêm hoang vu chẳng hề biết
đến Lò
Thiêu, Lò Cải Tạo, cái đó mới kỳ! (2)
PCT ra đi
Ông
nói khinh bỉ nghề dạy học làm thầy người
khác, nhưng lại vào tá túc tại Đại Học Vạn Hạnh, mặc áo cà sa mang pháp
danh “Đại
đức Thích Nguyên Tánh” khỏi phải đi lính như những người khác, cùng
tuổi không
bằng cấp
NVT
vs PCT
Cao Đông
Khánh, lúc sinh thời, cũng phác họa chân dung Phạm Công Thiện như vậy.
Ngoài
ra, Khánh còn kể đã có lần Phạm Công Thiện đụng độ với Mai Thảo vì một
nữ nhân
nào đó.
Nguồn
[Note: Tâm Hư
này, không biết là ai, nhưng chắc chắn không phải TTT. Nhà thơ cũng có
cái nick
là Tâm Hư!]
Nhưng ở tuổi
23, mà anh viết sách Thiền tông thì phải có một tâm hồn rất mực thơ
mộng, một
khát khao trí tuệ rất mực mãnh liệt, dù là, đối với Thiền tông, đúng
hay sai và
mê hay ngộ cũng là chuyện rất mực khó dò...
Và tôi tin rằng,
khi Thiền sư Thi sĩ Phạm Công Thiện từ trần, chắc chắn sẽ có rất nhiều
người gọi
anh là Bồ tát, một danh hiệu rất mực tôn kính trong nhà Phật, chỉ đứng
sau danh
hiệu Ðức Phật. Tại sao như thế? Tôi không thể trả lời chính xác. Nhưng
nhà thơ
Bùi Giáng đã được tôn xưng là Bồ tát, và tôi tin, chắc chắn rằng Phạm
Công Thiện
cũng sẽ được tôn xưng như thế. Thêm nữa, Kinh Pháp Hoa cũng viết rằng
tất cả mọi
người đều là Phật – và bây giờ nhiều người trong chúng ta đã quen thuộc
với
cách Phật giáo Tây Tạng gọi ngài Ðạt Lai Lạt Ma là Bồ tát Quan Thế Âm,
gọi ngài
Ban Thiền Lạt Ma là Phật A Di Ðà hoá thân...
Phan Tấn Hải
Đọc bài này,
Gấu bỗng dưng lại nhớ đến Dr. Zhivago,
thế mới lạ lùng. Có thể vì mới đọc 1 bài
điểm bản dịch mới nhất qua tiếng Anh, của tác phẩm này, trên tờ Điểm Sách
London. Và tự hỏi, trong nước đã được đọc nó chưa.
Và có thể vì 1 dòng, (1)
trong bài
viết, về TTT, BG. Và 1 ý nghĩ từ đó, mà nảy sinh:
Sài Gòn những năm đó, có “Thiện”,
có TTT, BG… và còn có Dr. Zhivago.
Cả phim lẫn truyện.
(1)
Khi
đó, Thiện đã thành một thứ thương hiệu, một
thứ của quý mà người ta đi tìm, ở Sài Gòn, các bạn như thể coi Thiện là
“của
riêng”, cũng như coi Thanh Tâm Tuyền, coi Bùi Giáng là của trời cho
riêng Sài
Gòn.
Nhưng đúng là
vì cuốn này thật, là vì Gấu đọc nó đúng lúc mới lớn, và thật là tuyệt.
Đúng thứ
tình yêu thời mới lớn, ở trong nó.
Biết đâu, BHD cũng từ đó mà bước ra.
Nabokov
thought Doctor Zhivago was 'dreary
conventional stuff', and Wilson said it was 'one of the great events in
man's
moral and literary history'. Nabokov, we might say, took the view of
the novel
that Zhivago himself had of his friends;
Wilson was speaking Zhivago's own grandiose language. The novel was
first
published in Italian in 1957, and soon after in English, Russian and
other
languages. It didn't appear in Russia itself until 1987. Pasternak was
awarded,
and accepted, the Nobel Prize in 1958; and then bullied into refusing
it after
all. His second telegram, cited by Richard Pevear in his introduction
to this
new translation, said: 'In view of the meaning attributed to his
award in the
society to which I belong, I must refuse the undeserved prize that has
been bestowed
on me. Do not take my voluntary rejection with any ill will' 'The
meaning
attributed to this award' is a graceful way of not saying the meaning
attributed
to my book.
….
“It's only
in bad books that living people are divided into two camps and don't
communicate.”
“Chỉ trong
những cuốn sách dở mà những người còn đang sống mới chia thành hai phe,
và đếch
thèm nói chuyện với nhau”
[Lara phán]
Thảo nào NT
chỉ ưa những người đã chết?
*
Trong bài tưởng niệm Mai Thảo, khi ông đi xa,
Gấu ‘mượn’
1 ý tưởng của Fowles:
Go on, run
away, but you'd be far safer if you stayed at home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior
esse
domi.)
Trong Tựa
đề cho những bài thơ, Foreword to the Poems, John
Fowles cho rằng
cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do bản chất của nó, vốn bà
con với
sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật; nhà văn chơi trò hú tim
với người
đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con người chẳng hề hiện hữu,
những sự kiện
chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia muốn, hoặc (một chuyện) có vẻ
thực, hoặc
(sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con đường ngược lại, hình thức bề ngoài
của nó
có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư không thực, nhưng nội dung lại cho
chúng ta
biết nhiều, về người viết, hơn là đối với nghệ thuật giả tưởng (tiểu
thuyết). Một
bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang cảm nhận điều gì; tiểu thuyết
đang nói:
những nhân vật bịa đặt có thể là những ai, họ có thể cảm nhận điều gì.
Sự khác
biệt, nói rõ hơn, là như thế này: thật khó mà đưa cái tôi thực vào
trong tiểu
thuyết, thật khó mà lấy nó ra khỏi một bài thơ. Go on, run away...
Cho
dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở nhà vẫn an toàn hơn.
Khi
trở về với thơ, vào cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh, trong thơ
ông, là
cái ấm, của quê hương. Của Nhị.
Áp
dụng vào PCT, thì chỉ có cái tí thơ, tí vừa đi cho hết 1 đêm hoang vu
vừa viết,
tức viết cái mà Thầy Cuốc gọi là tuỳ bút xuất sắc, là của ông, còn ba
cái kia
toàn là đồ tào lao, bố láo bố lếu.
Đó là sự thực, bởi vì có cái chó gì của ông đâu.
Ông đọc buá xua, viết búa xa, thờ Henry Miller, nhưng có viết được 1
cái gì thật
sống, thật tới, thật đã như Henry Miller đâu. Và nếu thơ là cõi thực,
không thể
làm sao nói dối về mình được, thì từ 1 thứ thơ trẻ thơ, ngô nga
ngô nghê [đừng nghĩ
là Gấu này chê, mà thơ PCT tuyệt, là vì như thế, Gấu không làm sao có
cái Trăng
Ơi Thơ Ấu Mãi, này, của PCT được], suy ra, chẳng thể có 1 tư tưởng siêu
hình nào
ở PCT cả.
Nhưng,
PCT quả là khủng, khi, ở vào tuổi đó, mà dịch được những bậc thầy tư
tưởng của
nhân loại, mà người ta còn nói, dịch là viết, thì đây mới là vấn nạn
đích thực
về PCT: thơ thật ngây thơ, văn thì đi hết 1 đêm hoang vu, dịch [thì là
1
bậc] thầy
tư tưởng của thế kỷ!
Quái
lạ thật!
Quả là thần
đồng.
Quả là thiên
tài.
Ghi chú
trong ngày
Günter
Grass, Berlin, 1979
March 24,
2011
Charles
Simic
The Box: Tales from the
Darkroom
by Günter
Grass, translated from the German by Krishna Winston
Houghton
Mifflin Harcourt, 194 pp., $23.00
Unlike his
previous book, Unpeeling the Onion (2006), which was a memoir, Günter
Grass’s
most recent book translated into English is one in which fiction and
biography
mix so freely that the reader is often at a loss as to where one begins
and the
other ends. There’s nothing strange about that, one of his children
points out
in The Box, since their father shows up in all his books, sometimes as
the main
character, sometimes in a minor role, in one costume or another, as if
every
book were about him. “A writer is a professional rememberer,” Grass has
said.
Memory is
his gold mine, his garbage dump, his archive. As unreliable and
fragmentary as
it usually is, memory is all we have to make sense of our past. The act
of
remembering, according to Grass, resembles the peeling of an onion or
the
piecing together of random images and episodes of a film—now in
fast-forward,
now in slow motion, jumping back, breaking off, then starting up again
with a
completely different script or plot. What that leaves out, of course,
is the
role the imagination plays in filling in the gaps. We make sense of our
lives
not just by ferreting out the facts, but by turning them into stories,
so we
can bring the past events to life. Every family’s history is a
collection of
scandalous and amusing stories, many of them of questionable veracity.
I know
mine are, but I’m ready to forgive every liar among my forebears,
because they
left me a few marvelous tales that continue to be worth telling again
and
again.
Of
course,
it’s not just our own lives that we remember, but also the times in
which we
lived. When it comes to history and collective memory, the difference
between
fibbing and telling the truth is serious business. Growing up in
wartime
Germany, as Grass did, there could be no avoiding recent history and
its
horrors. No stories, no matter how innocent, were safe from the shadow
they
cast. For Grass, the destruction and loss of his hometown Danzig (now
Gdansk)
and the expulsion of his family and their neighbors as the Soviet army
took
over Eastern Europe gave him a start as a writer and an epic mass of
material
that he has broadened and deepened over the years into what can only be
described as an attempt to construct a historical and social portrait
of
twentieth-century Germany. Like
Walter Benjamin’s angel of history who flies
toward the future facing backward with his eyes fixed on the ruins
piling up
higher and higher in the past, Grass has too much curiosity and
compassion to
permit himself to look away.
Grass was
born in 1927, just old enough to serve in the Nazi army in the last
months of
the war. His father was German and his mother came from a small
Slavic minority
called the Kashubians. The …
PCT ra đi
Like Walter
Benjamin’s angel of history who flies toward the future facing backward
with
his eyes fixed on the ruins piling up higher and higher in the past,
Grass has
too much curiosity and compassion to permit himself to look away.
Charles
Simic Grass: The Gold & the Garbage
Như thiên thần
lịch sử của Benjamin, bay về tương lai nhưng mắt thì ngoái nhìn lại
những điêu
tàn... Grass có quá nhiều tò mò, và cảm thông, làm sao cho phép mình
nhìn đi chỗ
khác.
Câu trên sử
dụng làm ai điếu cho bất cứ 1 tên Mít bỏ chạy cuộc chiến thì quả là
tuyệt cú
mèo!
Hình như
sáng tác của PCT, sau cuộc chiến, ở hải ngoại, thiếu cái nhìn ngoái lại
này?
NQT
"Nói
cho cùng, tất cả chúng ta đều cố gắng là thi sĩ. mặc dù những thất bại,
tôi vẫn
tiếp tục muốn là một thi sĩ."
Borges mở đầu buổi nói chuyện, cho một số
sinh viên tại đại học Columbia, vào mùa xuân năm 1971. Ông lúc này đã
mù, và phải
nhờ đến người bạn, và cũng là người chuyên dịch ông.
I do not set
up to be a poet. Only an all-round literary man: a man who talks, not
one who
sings ... Excuse this apology .. but I don't like to come before people
who
have a note of song, and let if be supposed I do not know the
difference.
The letters
of Robert Louis Stevenson, II, 77 (Londres, 1899).
Tôi không muốn
làm nhà thơ.
Mà chỉ muốn
làm một anh văn nghệ làng nhàng.
Một thằng
nói, chứ không hát.
Xin lỗi vì
đã trần tình như vậy, vì tôi không muốn chường mặt ra trước 1 tay biết
rành về hát, mà lại làm ra vẻ không nhận
ra sự khác
biệt
L. S.
Stevenson
Comparer avec cette
réponse de Borges à Madeleine
Chapsal (L'Express, 21 février
1963) qui lui demandait s'il se
considérait
comme un prosateur ou comme un poète: « Comme un poète, naturellement!
Comme un
poète maladroit, mais comme un poète. »
Và trả lời Madeleine
Chapsal (L'Express, 21 février
1963)
Là một nhà thơ chứ, lẽ dĩ
nhiên!
Một nhà thơ vụng,
nhưng một nhà thơ.
GNV trích dẫn, trên, là để
làm 1 cú... apology, trước khi
viết về nhà thơ & nhà phê bình BVP, nhân đọc vài ‘tưởng khúc’ của
ông về
PCT.
Vào cái thời PCT nổi như
cồn, thì Gấu đã đi làm, và cũng
có viết tí ti. Đọc ông, những hố thẳm, ý thức mới, đều theo kiểu loáng
thoáng, vì, Gấu có quan niệm, nếu có hố thẳm, ý thức mới…
thì phải chính Gấu tìm ra, chứ không nhờ cậy ai.
Tuy nhiên, có đọc « Mặt
trời không bao giờ có thực », như vẫn còn nhớ được, và cũng nhớ là
cuốn này
được, có chất sáng tạo ở trong đó. Bây giờ, giả như đọc lại, không biết
còn thấy
được cái gì ở trong đó, hay không.
*
Dù viết lách ở lãnh vực nào,
qua chữ nghĩa và cách diễn tả, Phạm
Công Thiện, như tôi nhìn thấy, vẫn nổi bật và đẹp nhất như một nhà thơ
trọn
nghĩa.
BVP
“Ði
cho hết
một đêm hoang vu trên mặt đất”: Có mùi thơ, như mùi nhạc sến!
Hình như đây
là tác phẩm chín mùi, sau cùng, của PCT, ở hải ngoại, sau khi ông đi
hết 1 cuộc
chiến, ở 1 nơi nào đó không phải xứ Mít?
Gấu đã nói rồi,
trốn “nó”, là khốn nạn thôi!
Bao nhiêu
tinh anh Miền Nam, trốn hợp pháp, bằng con đường du học, vậy mà cũng
không có
được, “chỉ” 1 mống, làm được 1 cái gì ra hồn.
Nếu có, thì
thứ dởm, như PCT!
Tôi cho đăng lại bài này như
một lời tưởng niệm Phạm Công Thiện và
như một sự chia sẻ với độc giả khắp nơi về sự ra đi của nhà thơ. Tôi
xin cám ơn
các độc giả nếu, trong sự rộng lượng của mình, quý vị cũng đồng ý với
Phạm Công
Thiện cho phép tôi được làm “thi sĩ” chứ không phải làm một nhà phê
bình trong
bài viết này. Cho dù, ở một số góc cạnh nào đó, bài viết này cũng không
đi ra
khỏi cái nhìn phê bình của nó.
BVP/ DM
…
như một sự chia sẻ với độc giả khắp nơi về sự ra đi của nhà thơ
BVP
Đúng ra, nên
viết, khiêm tốn hơn,… như một đóng
góp, tí đau
riêng của tớ, với nỗi đau chung của tất cả độc giả…
Nhưng
nếu nhà phê bình nghĩ mình là Bác H, thì lại được.
Bác H thì có quyền viết, Bác
chia sẻ với toàn dân Mít, về nỗi đau Bác Xì ra đi, thí dụ!
PCT đã từng
tự nhận là thiên tài. Đã từng bị người đời coi là khùng điên. Như thế,
ông đâu
có thua gì Simone Weil, cũng thiên tài, cũng điên.
Nhưng, nếu De Gaulle
phán,
người đàn bà này khùng, thì Steiner gọi, Thánh Simone.
Cuộc đời, và
chung cuộc
của cả hai vị, chúng ta đều biết, SW nhịn đói đến chết, còn PCT mới
mất, bên giường có
tới hai bà vợ cùng chăm sóc những giờ cuối cùng của ông, như nhà thơ
Thi
Vũ cho
biết, trong bài viết trên Gió-O.
Tuy nhiên, có
1 cái gì đó, làm bật ra số phận tác phẩm của PCT, “nhìn từ góc” WS, như
trong lời
tựa War and The Iliad, A Tale of Two Iliads:
The critic Kenneth Burke once suggested that literary works could serve
as
"equipment for living," by revealing familiar narrative patterns that
would make sense of new and chaotic situations. If so, it should not
surprise
us that European readers in times of war should look to their first
poem for
guidance. As early as the fall of 1935, Jean Giraudoux's popular play La
guerre de Troie n'aura pas lieu encouraged his French audience to
think of
their country as vulnerable Troy
while an armed and menacing Hitler was the "Tiger at the Gates" (the
play's English title). Truth
was the first casualty of war, Giraudoux
warned.
"Everyone, when there's war in the air," his Andromache says,
"learns to live in a new element: falsehood."
Soure
"Mọi
người, khi có mùi chiến tranh trong không khí, hãy học sống trong nhân
tố mới:
Cái Dởm"
Tôi tin là mọi người bây giờ, thì đều nhận ra cái dởm của những tác
phẩm của
PCT
Tờ báo này,
Gấu vớ được trong đống sách báo cũ, chưa biết vứt đi đâu, sau hai mùa
lạnh, đốt
lò chưa hết. 1966, 1 trong những số báo đầu tiên khi ra hải ngoại, mua
dài hạn,
trên bìa còn cái địa chỉ.
Có bài về
SW, thật tuyệt. Và 1 bài về Szymborska, khi chưa được Nobel văn chương.
Bài thơ Bước Ngoặt Thế Kỷ, The Turn of the
Century mà TV đã đăng, có tên khác, là The
Century's Decline.
Alfred
Kazin:
Simone Weil,
Unlikely Saint
[Tít bài viết, trang bìa tờ NYRB, April 18, 1996]
A Genius of
the Spiritual Life
In breaking
away from Partisan Review to found his own journal, Politics, Dwight
Macdonald
did something altogether splendid and moving, in getting to clear new
moral
ground, away from Leninism, Trotskyism, the usual hates and polemics of
the
left. I owe to Politics my discovery
of Simone Weil, whose essay "The Iliad: Poem of Force" astonished and
moved me at the end of 1945 by removing the stage heroics of the Trojan
War and
presenting the true horror of war, death by death by death, as the
submission to
merciless impersonal force that was the fate of innocent millions
during
Hitler's war:
The true
hero, the real subject, the core of the Iliad, is force. The force that
is
wielded by men rules over' them, and before it man's flesh cringes. The
human
soul never ceases to be transformed by its encounter with force-is
swept on,
blinded by that which it believes itself able to handle, bowed beneath
the
power of that which it suffers.
Force makes
a thing of its victims. There where someone stood a moment ago, stands
no one.
The
piercing
simplicity of Simone Weil's style went to the heart of the lasting fear
of the
war, of the Holocaust, of the forgetfulness it made imperative for so
many
people. The simplicity was what was left after war-it was elemental,
absolute
in its sense of what was true, the final truth, about war. As I read it
I thought
of a photograph taken by the Germans themselves during the war. A
Polish Jew in
rags reduced to total helplessness, rigid with terror, utterly at the
mercy of
these soldiers in battle dress laughing at him, waits for whatever more
it is
they want to inflict on him. So another Jew was mocked by Roman
soldiers.
Simone Weil,
a Jew, had been deprived of her lycée teaching job because of her
"race." So ordered by a good French Catholic whose middle name was
Xavier. She had written "The Iliad: Poem of Force" in Marseilles in
1940 while waiting with her parents to come to the United States.
Refugees all.
Surely it was the fate of the Jews scribed by Vichy's own clerical
Fascists,
whose police rounded up more Jewish children than the Nazis demanded
that had
led her to describe so trenchantly the domination by force.
I couldn't
have been more wrong.
She was
Jewish and looked it, but was obdurate, half-manic, in denying the
Jewish
sources of Christianity. She saw nothing in the Old Testament but the
wars
waged by the ancient Israelites against their national rivals and their
extermination. Simone Weil, born in Paris to a Jewish doctor of
Alsatian
background and a Jewish mother born in Rostov on-Don, despised herself
for
being a Jew. Being labeled a Jew by her own people, the French,
apparently
troubled her more than the chance of being murdered because she was a
Jew.
"Assimilation" never saw a Jew more eager to deny herself. She
declared herself so entirely French that she boasted she had learned to
read
through texts by Racine and Pascal.
Reading
this, I remembered wandering into the church of Saint-Germain-des-Prés
in July
1945 and discovering on a wall the lines that Pascal had feverishly
scribbled
in his "night of vision" -a text discovered only after his death, on
a paper sewn into the lining of his coat:
From about
half past ten in the evening until about half past twelve-FIRE.
God of
Abraham, God of Isaac, God of Jacob, not of the philosophers and
scholars.
Certitude,
certitude, feeling, joy, peace.
God of Jesus
Christ.
Thy God will
be my God.
I had
just
been presented with a school edition of Pascal by a group of French
professors
to whom I had lectured in Paris. I was uplifted by it. This was truly a
gift
for life. Pascal combined the greatest possible intelligence with the
most
acute need of God. In a style that already astonished me by its perfect
transparency, he brought me to my knees-this in the universe of death
that was
the war world of the Jews:
Advantages of the Jewish
People. In
this search the Jewish people at
once attracts my attention by the number of wonderful and singular
facts which
appear about them.
I first see
that they are a people wholly composed of brethren. Being thus all one
flesh
and members one of another, they constitute a powerful state of one
family.
This is unique.
This
family,
or people, is the most ancient within human knowledge, a fact which
seems to me
to inspire a peculiar veneration for it .... If God had from all time
revealed
Himself to men, it is to these we must turn for knowledge of the
tradition.
None of this
appears in Simone Weil, who coupled Pascal with Racine in demonstrating
her
cultural reverence as a French patriot. She hotly denied the Jewish
roots of
Christianity, to the wonder of Catholic friends impatient to see her in
the
Church; saw the Jews as the "impure element" that kept her out. She
liked to recite the Lord's Prayer in Greek, but made nothing of Jesus'
praying
to Our Father and in the Gospels reiterating "My Father, Our Father."
She called herself a Christian, and in her extraordinary notebooks
described
herself as a tormented pilgrim coming close to the Church but never
able to
join it. Living in New York (on Riverside Drive), she permitted herself
to
enter one synagogue-in Harlem, attended by Ethiopian Jews. Her loyalty
was to
the downtrodden, the poor, the eternal victims- "afflicted" like her,
therefore desperate for a new and truer world in which justice alone
would
rule.
What a
tormented, gifted, madly aspiring creature! Extremes were all. In the
Thirties,
on the surface still another leftist Jewish intellectual, she was
briefly in
the Spanish Civil War, with an independent radical brigade (not
Orwell's).
Maladroit in everything, the world external to her, she managed to get
her foot
into a pot of burning oil. Her father, the doctor, had to bring her
home.
Constantly attended and protected by her parents, obsessed by what she
considered the superior gifts of her brother Andre (soon to be a
world-famous mathematician
at Princeton's Institute for Advanced Study), she was truly of
"immoderate
Jewish temperament." (This said by a Catholic who protected her even as
she alarmed him.)
But in her
Jewish excess of zeal, she was as bold as Orwell in denouncing the
crimes
committed in Spain by Loyalists. I discovered in Ignazio Silone's
beautiful
autobiographical essay on how he went from the Church to the Communist
Party,
"A Choice of Comrades," the astonishing letter Simone Weil wrote in
1938 to the novelist Georges Bernanos on her experiences in Spain. She
wrote
because Bernanos, the passionate Cathlic, had denounced the horrors of
Franco's rule in Majorca in his searing
Les grands cimetières sous la Lune.
I have never
seen, either among the Spaniards or among the French who have come here
to
fight or to amuse themselves (the latter often being gloomy, harmless
intellectuals) anyone who expressed, even in private conversation,
repugnance
or disgust for, or even only disapproval of, unnecessary bloodshed. You
talk of
fear. Yes, fear has played a part in these killings; but where J was J
did not
find it played as large a part as you ascribe to it. Men to all
appearances
courageous, when dining with friends, would relate with a warm,
comradely smile
how they had killed priests or "fascists" -a word of elastic meaning.
J felt that whenever a certain group of human beings is relegated, by
some
temporal or spiritual authority, beyond the pale of those whose life
has a
price, then one finds it perfectly natural to kill such people.
When one
knows that one can kill without risk or punishment or blame, one kills;
or, at
least one smiles encouragingly at those who kill. If one happens to
feel some
revulsion, one hides it, one stifles it, fearing to be seen lacking in
virility. There seems to be in this some impulse of intoxication which
it is
impossible to resist without a strength of mind which T am obliged to
consider exceptional,
since J have not found it in anyone. On the contrary, I have seen sober
Frenchmen whom I had not previously despised who of their own accord
would
never have ·thought of killing anyone-plunging with obvious relish into
that
blood-soaked atmosphere. The very aim of the struggle is blotted out by
an atmosphere
of this kind. Because the aim can be formulated only in terms of the
public
good, the good of human beings; and human beings have no value.
She left
safe refuge with her parents in New York to join the Free French in
London. She
had a fantasy: to be parachuted into France to serve as a nurse right
in the
front lines. De Gaulle thought her nuts. She was shunted off to write a
program
for postwar French recovery, L' Enracinement
(The Need for Roots). This extraordinary
document was not exactly what French politicians had had in mind.
Inflexible
in everything, she would not eat more than the French were getting on
wartime
rations, and in fact, she ate less. Extremely ill from tuberculosis,
she now
literally starved herself and died in England at thirty-four.
Weil could
not say, like many another Jewish prophet, "Zeal for thy house hath
consumed me." The Jews were not her house. Neither was the world
itself.
But zeal for the divinity she absolutely believed in certainly consumed
her. In
the ghastly trial of humanity that was Hitler's war, she, too, would
have been
obliterated if her posthumously published notebooks had not revealed
her, in all
her excess, as a genius of the spiritual life. * Representing nothing
and no
one but herself, she was no more with the Church than she was with the
Jews. As
William Blake said, "Organized religion: an impossibility." Like so
many homeless believers before her, she was speaking as "the Alone to
the
Alone."
But
apparently the spirit shows itself, even if it is not passed on, in
writing
like Weil's-breaking through the crust of convention, "final"
-sounding, naked and desperate. The sense of affliction that dominated
her was
really a kind of gift. It made her see the world in the severest light.
I finally
understood her when I realized that her demand was less for God than
for total
justice. That was God. And the demand, the quest, the inability to give
up
anything, did drive her nuts. The only real question to be asked of
another:
What are you going through? Attentiveness without an object is prayer
in its
supreme form. Christianity is, in effect, apart from a few isolated
centers, something
socially in accordance with the interests of those who exploit the
people. What
we love is joy itself. When we know this, even hope becomes
superfluous; it no
longer has any meaning. The only thing left to hope for is the grace
not to be disobedient
here below. The rest is the affair of God alone and does not concern
us. That
is why I lack nothing. Those who are unhappy have no need for anything
in this
world but people capable of giving them their attention. The capacity
to give
one's attention to a sufferer is a very rare and difficult thing. It is
almost
a miracle; it is a miracle. We do not obtain the most precious gifts by
going
in search of them but by waiting for them. How can we go toward God?
Even if we
were to walk for hundreds of years, we should do no more than go round
and
round the world. Even in an airplane we cannot do anything else. We are
incapable of progressing vertically. We cannot take a step toward the
heavens. +
* Simone Weil, First and Last Notebooks
(Oxford University Press, 1970, out of print).
April 18,
1996 The New York Review of Books
*
Like Walter
Benjamin’s angel of history who flies toward the future facing backward
with
his eyes fixed on the ruins piling up higher and higher in the past,
Grass has
too much curiosity and compassion to permit himself to look away.
Charles
Simic Grass: The Gold & the
Garbage
Như thiên thần
lịch sử của Benjamin, bay về tương lai nhưng mắt thì ngoái nhìn lại
những điêu
tàn... Grass có quá nhiều tò mò, và cảm thông, làm sao cho phép mình
nhìn đi chỗ
khác.
Câu trên sử
dụng làm ai điếu cho bất cứ 1 tên Mít bỏ chạy cuộc chiến thì quả là
tuyệt cú
mèo!
Hình như
sáng tác của PCT, sau cuộc chiến, ở hải ngoại, thiếu cái nhìn ngoái lại
này?
NQT
"Nói
cho cùng, tất cả chúng ta đều cố gắng là thi sĩ. mặc dù những thất bại,
tôi vẫn
tiếp tục muốn là một thi sĩ."
Borges mở đầu buổi nói chuyện, cho một số
sinh viên tại đại học Columbia, vào mùa xuân năm 1971. Ông lúc này đã
mù, và phải
nhờ đến người bạn, và cũng là người chuyên dịch ông.
I do not set
up to be a poet. Only an all-round literary man: a man who talks, not
one who
sings ... Excuse this apology .. but I don't like to come before people
who
have a note of song, and let if be supposed I do not know the
difference.
The letters
of Robert Louis Stevenson, II, 77 (Londres, 1899).
Tôi không muốn
làm nhà thơ.
Mà chỉ muốn
làm một anh văn nghệ làng nhàng.
Một thằng
nói, chứ không hát.
Xin lỗi vì
đã trần tình như vậy, vì tôi không muốn chường mặt ra trước 1 tay biết
rành về hát, mà lại làm ra vẻ không nhận
ra sự khác
biệt
L. S.
Stevenson
Comparer avec cette
réponse de Borges à Madeleine
Chapsal (L'Express, 21 février
1963) qui lui demandait s'il se
considérait
comme un prosateur ou comme un poète: « Comme un poète, naturellement!
Comme un
poète maladroit, mais comme un poète. »
Và trả lời Madeleine
Chapsal (L'Express, 21 février
1963)
Là một nhà thơ chứ, lẽ dĩ
nhiên!
Một nhà thơ vụng,
nhưng một nhà thơ.
GNV trích dẫn, trên, là để
làm 1 cú... apology, trước khi
viết về nhà thơ & nhà phê bình BVP, nhân đọc vài ‘tưởng khúc’ của
ông về
PCT.
Vào cái thời PCT nổi như
cồn, thì Gấu đã đi làm, và cũng
có viết tí ti. Đọc ông, những hố thẳm, ý thức mới, đều theo kiểu loáng
thoáng, vì, Gấu có quan niệm, nếu có hố thẳm, ý thức mới…
thì phải chính Gấu tìm ra, chứ không nhờ cậy ai.
Tuy nhiên, có đọc « Mặt
trời không bao giờ có thực », như vẫn còn nhớ được, và cũng nhớ là
cuốn này
được, có chất sáng tạo ở trong đó. Bây giờ, giả như đọc lại, không biết
còn thấy
được cái gì ở trong đó, hay không.
*
Dù viết lách ở lãnh vực nào,
qua chữ nghĩa và cách diễn tả, Phạm
Công Thiện, như tôi nhìn thấy, vẫn nổi bật và đẹp nhất như một nhà thơ
trọn
nghĩa.
BVP
“Ði
cho hết
một đêm hoang vu trên mặt đất”: Có mùi thơ, như mùi nhạc sến!
Hình như đây
là tác phẩm chín mùi, sau cùng, của PCT, ở hải ngoại, sau khi ông đi
hết 1 cuộc
chiến, ở 1 nơi nào đó không phải xứ Mít?
Gấu đã nói rồi,
trốn “nó”, là khốn nạn thôi!
Bao nhiêu
tinh anh Miền Nam, trốn hợp pháp, bằng con đường du học, vậy mà cũng
không có
được, “chỉ” 1 mống, làm được 1 cái gì ra hồn.
Nếu có, thì
thứ dởm, như PCT!
Nhà văn, nhà thơ, nhà tư
tưởng, dịch giả, giáo sư, cư sĩ Phật giáo Phạm Công Thiện vừa qua đời
ngày 8
tháng 3 năm 2011 tại Houston,
Texas, thọ 71 tuổi, theo Cáo bạch ngày 9 tháng 3,
2011 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cũng như sự xác
nhận của
gia đình.
Note: Trước
khi PCT mất ít ngày, tình cờ TV đi một đường về ông, và nhân tiện, về
Heny
Miller
Mặt trời không bao giờ có
thực và ký ức Sài Gòn
Vào cái
thời Sài Gòn mê PCT,
thì may thay Gấu đã đi làm, đã viết lách tí ti, đã có một, hai truyện
ngắn thật hách
xì xằng, đã hay ngồi Quán Chùa, và khiến PCT phát bực, và đã có lần
phạng Gấu và
đồng bọn, cái đám, tay cầm hoặc nách cặp, 1 cuốn sách loại Sách Bỏ Túi,
Livre de
Poche, hay 1 tờ Tin Nhanh, L’Express, lắc la lắc lư đi từ tiệm sách
Xuân Thu trên đường Tự Do, qua La Pagode, ngay kế bên.
Nhưng
liền ngay sau, ông viết,
tớ chửi tụi nó, cũng là chửi tớ.
Tất
nhiên, những dòng trên, là
của Gấu, để diễn tả 1 hồi ức về ông và những ngày ở Sài Gòn.
Thú vị nhất, theo Gấu, là có
lần Gấu đọc ông, chê Simone Weil, ngắn thôi, và Gấu bèn vờ bà này, cho
đến khi
ra được hải ngoại, đọc 1 bài viết của Steiner, và sau đó, trúng cái rìu
phá băng
của bà bổ trúng đầu, đúng những ngày Trần Trường, và hơn thế nữa, được
biết tới
1 độc giả, cũng rất rành về Simone Weil.
Giả như những ngày đó, không đọc
những dòng mà PCT viết về SM thì sao, nhỉ?
TV sẽ giới thiệu bài viết trên
NYRB về Henry Miller. Cũng là 1 cách tưởng nhớ 1 thời, trong đó có
PCT, mà
GNV này chẳng nợ nần gì!
Hà, hà !
Ngày sinh của Rắn
Trường
giang Mỹ Tho
Source
V/v GNV
vs PCT
Một bạn văn
của GNV cho biết, vụ PCT phạng Gấu, không nhắc tên bất cứ 1 ai, có thể
là cả nhóm
‘tiểu thuyết mới’, và cái người cầm tờ báo, lắc la lắc lư, nhún nhẩy,
từ bên Xuân
Thu qua Quán Chùa, theo anh ta, là 1 bạn quí của GNV, đúng hơn!
Anh bạn văn
này, ít tuổi hơn Gấu, đã từng là học trò của PCT, khi ông dạy học trên
Đà Lạt.
Anh nhắc GNV
vụ nhà thơ NS phạng PCT, chẳng có tí bằng cấp. Gấu cũng nhớ vụ này. Sau vài số báo, PCT có trả lời, và có trưng 1
số bằng cấp ông có, nhưng ông hỏi NS một câu khá đau, trong khi cuộc
chiến đang
trên từng cây số, không lẽ thi sĩ mà lại lo làm chuyện của cớm ư? [ý
thì như vậy,
nhưng cách nói nhẹ nhàng hơn nhiều].
NS sau đó, chọn sự
« im lặng
của
biển cả » [cái này thuổng, silence de la mer].
Cái sự kiện PCT, nổi cộm
vì những tác phẩm hố thẳm, ý
thức mới…. , khiến người ta quên ông là nhà thơ, nhà văn.
« Mặt trời không
bao giờ có thực » rất tuyệt, với riêng Gấu.
Ông chẳng khùng điên tí
nào khi viết, thứ thiệt, của ông.
Cái vụ khùng, điên của cả
ba ông PCT, BG, NDS, theo
GNV, là do thiếu 1 ngày lính mà ra.
Bạn ra khỏi cuộc chiến đó, bằng cách trốn nó,
thể nào cũng bị tổn thương nặng nề hơn những kẻ khác. (1)
Chứng cớ, với riêng PCT:
Không phải tự nhiên mà PCT nhắc
đến cuộc chiến, khi trả lời NS!
Sau khi “ngộ”
Simone Weil, đúng lúc xẩy ra biến cố Trần Trường, như kể lại trong bài viết đã post trên TV,
nhớ lại PCT đã từng chê SW, Gấu nghĩ, có thể ông không đọc được bà.
Tuy nhiên,
khi ông mất đi, Gấu, đọc tiểu sử của ông, mới biết, PCT thuộc gia đình
Thiên Chúa
Giáo.
Như vậy, thật
khó có thể nghĩ PCT không đọc được, mà phải nói, “không chịu được” SW.
Chứng cớ: Ông
bỏ Ky Tô Giáo, qui y Đạo Phật, và trở thành 1 vị chức sắc có hạng.
Nên nhớ, lại
nên nhớ, SW đã từng coi cái ngày quân đội Nazi tiến vào Paris, là Ngày
Hội Lớn
của Đông Dương, của những dân tộc bị Tây mũi lõ cai trị!
(1)
Borges,
trong bài viết về Ác Mộng,
trích dẫn
Coleridge: Những kẻ quá khiếp sợ vì những ma quỉ do mình tưởng tượng
ra, thì thể
nào cũng biến thành khùng!
Cú này,
là TPG [Thư Trung,
Tin Văn Vắn, báo Văn] đáp lễ NS, vì loạt bài Một
bông hồng cho văn nghệ.
Sự thực loạt
bài của NS đập tên sa đích văn nghệ, là GNV, nhưng cũng đá giò lái TPG,
thư ký
tòa soạn Văn, vì dám trả lời NS,