Ông Phạm
Công Thiện
Nguyễn Văn
Trung
“… nhiều khi
nói cái gì không quan trọng bằng ai nói, ai nghe và chính quan hệ người
viết,
người đọc quyết định ý nghĩa điều nói viết ra …”
Tôi nhìn lại
“Những chặng đường đã qua” trong tinh thần cố gắng nhận ra trách nhiệm
về phân
minh những gì tôi đã viết, đã làm là đúng hay sai, đã gây hiểu lầm,
phiền lòng,
xúc phạm đến người khác hay đến những niềm tin xác tín của họ bất kể là
thế
nào. Trong ý hướng đó, tôi cũng nhận ra trách nhiệm của mình về những
gì tôi đã
không làm, những vụ đáng lẽ phải làm vì trực tiếp liên hệ đến tôi và
trong tầm
tay, khả năng của tôi. Tôi xin nói một trường hợp thôi, trường hợp Phạm
Công
Thiện.
Sau đảo
chánh 01/11/1963, ông Phạm Công Thiện xuất bản cuốn Hố thẳm tư tưởng,
dành một
chương phê phán luận án tiến sĩ của tôi với một thái độ khinh bỉ, trịch
thượng,
mạt sát thậm tệ. Cuốn sách bán chạy, dư luận bàn tán sôi nổi vụ “ông
Phạm Công
Thiện phê phán ông Nguyễn Văn Trung”, chờ đợi tôi lên tiếng đối đáp;
nhưng cho
đến nay tôi vẫn giữ im lặng, không có một lời nói công khai nào.
Thực ra ngay
sau khi sách ông Thiện ra ít lâu, tôi có viết “Thư ngỏ gửi ông Phạm
Công Thiện”,
chỉ nhằm mục đích nhắc tác giả về sự thay đổi thái độ 180 độ của ông
Phạm Công
Thiện đối với tôi, trước và sau đảo chính, và yêu cầu ông Thiện giải
thích sự thay
đổi đó. Trong “Thư ngỏ” dài 12 trang này, tôi không đả động gì tới nội
dung bài
của ông Thiện, không có ý tranh luận hay thanh minh gì, mà chỉ đòi ông
Thiện
cho dư luận hiểu tại sao trước 63, qua các thư gửi cho tôi, ông Thiện
đưa tôi
lên tận mây xanh, ca tụng tôi không những là nhà triết gia số một về
triết Tây
phương mà cả triết Đông phương. Nhưng sau 75, ông dìm tôi xuống bùn đen
và đạp
cho tôi chết ngộp trong vũng bùn đen đó. Tuy nhiên trong thư ngỏ tôi
cũng bày tỏ
thái độ của tôi về tư cách người cầm bút sáng tác nói chung. Tôi chấp
nhận và
có thể hoan nghênh thái độ phản kháng, phủ nhận của người cầm bút đặc
biệt như
một thi sĩ, và vì đã tự coi mình là “thiên tài nhất không phải chỉ ở
Việt Nam
mà cả thế giới” dĩ nhiên có quyền khinh chê, mạt sát mọi người.
Trong sách,
ông Thiện đã phủ nhận tất cả các triết gia: “Ngay đến Heraclite,
Parmenide và
Empédocle, bây giờ tao còn xem thường, tao coi ba tên ấy như là ba tên
thủ phạm
của nền văn minh hiện đại, chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu dại
nhất mà
ta đã gặp trong đời sống tâm linh của ta”. Ông coi những nghệ sĩ như
Goethe,
Dante như những thằng hề ngu xuẩn. Ông muốn mửa màu đen trên những
người làm
văn nghệ ở Paris. Còn về J.P. Sartre và S. de Beauvoir, “nếu họ muốn
xin gặp
tao, tao sẽ không cho gặp mà còn chửi vào mặt họ”... Về Thiền tông “Tao
đã gửi
Thiền tông vào một phong bì tối khẩn đề địa chỉ của bất cứ ngôi chùa
nào trên
thế giới. Về dạy học, thời gian tao học ở Hoa kỳ, tao đã bỏ học vì tao
thấy những
trường Đại học mà tao học như Yale, Columbia chỉ toàn là những nơi sản
xuất những
thằng ngu xuẩn, ngay đến giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn
nhất đời,
tao có thể dạy họ hơn là họ dạy tao... Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay
Chúa
Giê su hiện ra đứng giảng trước mặt tao, tao cũng không nghe theo nữa.
Tao chỉ
dạy tao. Tao là học trò của tao và chỉ có tao làm thầy cho tao. Tao
không muốn
làm thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao. Còn các Văn Sĩ ở Sài
Gòn, đọc
các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự
quờ quạng
lúng túng, sự lặp đi lặp lại vô ý thức hay có ý thức: trí thức “mười
lăm xu”,
ái quốc nhân đạo “ba mươi lăm xu”, triết lý tôn giáo “bốn mươi lăm
xu””.
Nếu những đại
triết gia, văn hào, thánh hiền còn bị ông coi là những tên ngu xuẩn, và
tác phẩm
của họ đáng vứt vào cầu tiêu thì tôi bị ông kết án là “tượng trưng cho
sự nô lệ,
nông cạn phá sản của giới trí thức Việt Nam hiện nay” có gì lạ. Trong
thư ngỏ,
tôi nói với ông Thiện tôi không hề cảm thấy bị xúc phạm về thái độ mạt
sát
khinh bỉ của ông, và hơn nữa chấp nhận thái độ phản kháng phủ nhận
triệt để của
ông với điều kiện: qua đời sống, ông cho thấy ông đã vươn tới một thái
độ tâm
linh siêu nhiên vượt khỏi mọi giới hạn ngôn từ, khen chê, xưng tụng hay
chửi thề.
Bày tỏ sự bất nhã, bất kính ngay cả với Phật Chúa chính vì để cho thấy
khả năng
phản bội của ngôn từ. Xưng tụng tôn thờ mà thực ra là xúc phạm, và nói
lời phạm
thượng, xúc phạm lại bày tỏ sự tôn kính thực sự.
Tôi thật thắc
mắc đời sống cụ thể của ông Phạm Công Thiện không cho thấy tỏa ra một
vẻ đạo hạnh
nào của nguời tu trì thánh thiện. Ngược lại, tôi thấy ông đã có những
lựa chọn
trong đời sống cụ thể hoàn toàn trái ngược với những gì ông nói hay
viết ra.
Ông nói khinh bỉ nghề dạy học làm thầy người khác, nhưng lại vào tá túc
tại Đại
Học Vạn Hạnh, mặc áo cà sa mang pháp danh “Đại đức Thích Nguyên Tánh”
khỏi phải
đi lính như những người khác, cùng tuổi không bằng cấp. Tóm lại, tôi sẽ
trọng
ông nếu ông chửi đời, chửi người khác và sống lang thang như Bùi Giáng,
Sao
Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn) sau nhiều lần thi trượt dự bị văn khoa không
phải vì
anh kém mà chỉ vì anh không tuân theo những luật lệ của trường thi, nên
anh sống
lang thang làm thơ phẫn nộ, cấm sinh viên giáo sư văn khoa đọc tác phẩm
của
anh. Trong trang cuối cùng, tôi thấy ông ghi chú rằng “Hố thẳm tư
tưởng” ra đời
để đánh dấu ngày tôi chấm dứt mọi liên lạc tình cảm với Bùi Giáng và
Nhất Hạnh.
Không còn gì để nói nữa. Sự đoạn tuyệt này thật xác đáng, vì ông Phạm
Công Thiện
bây giờ không giống Nhất Hạnh, ở nơi vị thượng toạ này, con người thi
sĩ không
chửi vào mặt con người tu trì. Cũng không giống Bùi Giáng vẫn sống vất
vưởng
phù hợp với thái độ bây giờ qua thơ văn của mình.
Tôi gửi thư
ngỏ kèm những bức thư ông Phạm Công Thiện gửi cho tôi về tòa soạn báo
Đại Học
(Huế), nhờ Lê Ngộ Châu chuyển, thay vì tôi có thể đăng công khai. Mấy
bữa sau,
tôi và ông Thiện gặp nhau ở tòa báo Bách Khoa với sự chứng kiến của anh
Lê Ngộ
Châu. Trong bữa gặp gỡ đó, ông Thiện thú nhận với tôi đại ý như sau:
Tôi viết
bài phê bình anh để thỏa mãn những uất ức bất mãn của giới Phật giáo
coi anh là
tiêu biểu cho trí thức Việt Nam nói chung và trí thức Công giáo nói
riêng. Tôi
xin hứa với anh sẽ bỏ bài đó trong lần tái bản sách sắp tới. Ông Phạm
Công Thiện
đã giữ lời hứa.
Đáng lẽ tôi
phải đề nghị ông Phạm Công Thiện và chúng tôi đồng ý lên tiếng chung,
một cách
công khai, đăng trên báo về quyết định kể trên. Tôi đã không làm việc
đó vì coi
như mọi sự đã dàn xếp xong. Nhưng sau đó nhiều người trong giới cầm
bút, nhất
là trong giới Phật giáo vẫn trích dẫn, những phê phán đả kích của ông
Phạm Công
Thiện trong các bài viết của họ. Tôi cũng đọc qua cho biết nhưng không
bận tâm
nên cũng không liên lạc với ông Thiện yêu cầu làm việc lên tiếng chung.
Chỉ kể một
vài người mượn ông Phạm Công Thiện để công kích tôi. Cung Tích Biền
viết thế
này: “Ông Nguyễn Văn Trung chỉ là một trí thức phá sản? Ông không có gì
để phá
sản. Ông chỉ là kẻ bịp và là một du đãng văn nghệ. Kẻ bịp kia như thế
nào thì
đã có ông Phạm Công Thiện làm cáo trạng từ lâu rồi.” (Tuần báo Khởi
Hành số 150,
1972). Chu Tử, qua bút hiệu Kha Trấn Ác, viết “Người hùng Nguyễn Văn
Trung”
trong tuần báo Đời số 11 phát hành ngày 27 11 1969, nhắc lại tập san Sử
Địa
trích lời phê bình của ông Phạm Công Thiện đối với ông Nguyễn Văn Trung
như
sau: “Đối với tôi Nguyễn Văn Trung tượng trưng cho sự nông cạn, nô lệ,
phá sản
của giới trí thức Việt Nam hiện nay. Tên ấy gợi lên sự học vấn lừng
khừng suy
tư thiếu máu, cóp nhặt thiếu thông minh, kiêu ngạo, ngu xuẩn, lưu manh,
nguy hiểm.
Tôi đã tàn bạo khi viết những giòng trên. Phải tàn bạo. Không thể nhẹ
nhàng,
không thể cảm thông, trao đổi với hạng người trên...” Cái gì mà cay cú
dữ dằn
thế! Riêng Đầu Gối chỉ tiếp xúc với ông Trung có một lần, không hiểu rõ
con người
thực của Nguyễn Văn Trung ra sao, Đầu Gối chỉ có cảm nghĩ dưới đây về
trường hợp
Nguyễn Văn Trung… Ý của Chu Tử sau đó là tôi có thể là gì cũng được
miễn là đừng
làm tay sai nằm vùng cho cộng sản thế thôi...
Trong bài
“Mười năm sinh hoạt văn hóa Phật giáo tại Việt Nam” (1963 - 1973) Trần
Quang
Phúc trong tạp chí Hải Triều Âm 1973: “Ngoài các hoạt động của báo Đại
Học, những
tác phẩm của Nguyễn Văn Trung gây chấn động cho giới Phật giáo thời đó
nhiều nhất.
Không kể những bài trong quyển Nhận Định, riêng quyển Biện chứng giải
thoát
trong Phật giáo của ông quả thực là một quả bom nổ, không khí rầm rộ
không kém
bài phê bình của ông Phạm Công Thiện về quyển La conception boudhique
du
Devenir sau này. Bạn tôi đi du học đã gần bảy năm mà nghĩ đến Phật giáo
thời đó
vẫn viết thơ về bắt tôi chạy tìm cho được quyển La conception boudhique
du
Devenir của Nguyễn Văn Trung, thì đủ biết tầm mức của nó gây ấn tượng
sâu đậm
như thế nào”… “Sau Ngày sinh của Rắn, Hố thẳm tư tưởng xuất hiện lại
càng gây
chấn động dữ vì bài phê bình Nguyễn Văn Trung. Một số Phật tử thỏa mãn,
họ có ý
nói là trả lại những lộng hành của Nguyễn Văn Trung đối với Phật giáo
trước
kia. Một số người khác chỉ đồng ý một nửa vì phê bình quá nặng tay.
Lần tái bản
Hố thẳm tư tuởng sau này, Phạm Công Thiện tự ý bỏ bài phê bình đó. Sau
gần 30
năm, nhìn lại vụ này trong “Những chặng đường đã qua”, tôi nhắc đến bữa
gặp gỡ
giữa chúng tôi, có mặt anh Lê Ngộ Châu, còn sống ở Sài gòn, để người
đọc, nhất
là trong giới Phật giáo, hiểu cho rằng không phải tự ý ông Phạm Công
Thiện bỏ
bài phê bình đó. Trong tinh thần tôn trọng tinh thần trung thực, tôi
vẫn còn giữ
nguyên những thư ông Thiện gửi cho tôi với tư cách chủ trương biên tập
tạp chí
Đại Học (Huế). Những thư này được lưu giữ trong hồ sơ của tạp chí, mục
liên lạc
với độc giả. Và người viết lịch sử văn học Việt Nam có thể tham khảo hồ
sơ này
còn được lưu trữ ở Thư viện Đại Học Huế. Nhưng mục đích chính nhắc tới
vụ này
là để kể lại lúc đó tôi đã nghĩ gì về “hiện tượng Phạm Công Thiện”, và
bây giờ
tự xét xem tôi có trách nhiệm gì về phần tôi đã để xảy ra hiện tượng
Phạm Công
Thiện.
Tôi nhớ rõ
vì có ghi lại, hồi đó tôi đến gặp T.T. Thích Minh Châu, Viện Trưởng
viện Đại học
Vạn Hạnh để trình bày những thắc mắc của tôi liên quan đến bài viết của
ông Phạm
Công Thiện. Thượng Toạ cho biết chính Thượng Toạ là người đã đưa ông
Thiện đang
ở Paris làm beatnik, để tóc dài, cạo trọc đầu, khoác áo cà sa về Sài
Gòn và cho
ông dạy tại Vạn Hạnh. Thượng Toạ là người bao dung tỏ ra tôn trọng
tuyệt đối tự
do của người khác. Qua câu chuyện trao đổi, Thượng Toạ chỉ muốn tôi
thông cảm với
một hiện tượng như là “kết quả oan trái của thời cuộc loạn ly suốt hai
mươi năm
nay mà những thế hệ trẻ đã phải chịu đựng vì họ là nạn nhân”. Tôi cảm
kích thái
độ độ lượng của T.T. Viện trưởng và sẵn sàng thông cảm với hiện tượng
Phạm Công
Thiện mà dư luận giới cầm bút thời đó có người gọi là một quái thai,
một đứa
con hoang của văn học, và chịu đựng trong yên lặng.
Những người
cầm bút lúc ấy, đặc biệt những người mang danh Phật giáo, không có được
tinh thần
của T.T. Viện trưởng, vẫn tiếp tục khai thác, lợi dụng bài phê bình của
Phạm
Công Thiện, bày tỏ một thái độ thỏa mãn hả hê, như ông Trần Quang Phúc
đã cho
biết. Còn thái độ im lặng của tôi thì được những người sử dụng bài của
Phạm
Công Thiện coi như một thú nhận tội lỗi không thể chối cãi của kẻ bị
cáo. Cũng
trong thời gian đó, tôi nhận được thư của anh Tạ Trọng Hiệp, người bạn
thân từ
Paris đưa tin về Phạm công Thiện:
“Đầu mùa hè
năm ngoái, tôi có gặp Thiện hai lần ở nhà Ái, một lần ăn cơm chung với
vợ chồng
Ái, một lần gặp nhanh vì hôm đó anh ta mặc áo nhà sư tiếp phái viên của
báo
Pháp. Nói chuyện thì thấy anh ta chẳng điên tí nào cả, rất nhã nhặn và
vui vẻ
bình thường như mọi người cùng lớp tuổi với chúng mình. Nhưng đó, riêng
đối xử
với tôi thì có lẽ vì tôi hoạt động ở một địa hạt không ăn vào cái mà
Thiện nhận
là địa hạt của Thiện, nên chẳng có gì đụng chạm. Gặp nhau cũng đã lâu
rồi, tôi
không nhớ là đã nói với nhau những gì, nhưng đến một lúc tôi lái câu
chuyện qua
văn học và sinh hoạt trí thức ở Sàigòn, kể nhẹ đến tên Trung thì thấy
ngay anh
ta đổ quạu. Có thể hiểu thái độ của Thiện cũng như thái độ của Bùi
Giáng.. một
phần là do sự ghen trí thức chăng? Một khi mình sẵn có vocation làm anh
cả
(Maitre à penser) tưởng dễ thành công (vì trong tình trạng mù lòa của
cái ao Việt
Nam, một anh chột mắt cũng dễ thành công, thành danh không khó nhọc
lắm), lại gặp
phải một chướng ngại trí thức như Trung, có tài lý luận còn hơn anh ta
nhiều, học
vấn lại có căn để trong đại học chứ không phải là thứ chắp vá
autodidacte, thì
còn gì đáng ức cho bằng? Cho nên cũng giận lây cái đại học chính qui mà
mình
không lọt vào được và rất hoan nghênh cái đại học khác đã mở cửa cho
mình vào,
có gì là lạ? Lại có thêm yếu tố chính trị xen vào làm rối thêm bầu khí!
Trung
là trí thức nhưng Công giáo, vậy muốn hạ Trung cũng cần dựa vào lực
lượng nào
khác đang có sức chống lại khối Công giáo.
Tôi nghĩ rằng
đây cũng là một con đẻ điển hình của cái ao tù luộm thuộm Việt Nam;
thời thế là
vậy hẳn phải tạo ra những anh hùng như vậy. Trong xã hội ở cấp rất cao
thiếu gì
những anh lưu manh như vậy”.
Lối nhìn người
của anh Hiệp, về nội dung cũng không khác lối nhìn của T.T. Thích Minh
Châu, vì
sự ghen ghét bực bội cá nhân cũng bắt nguồn từ tình trạng loạn ly trong
đó có
những người được may mắn ăn học và những người không có cái may mắn đó.
Duy có
điều từ nhận xét khách quan của người ngoài đời, không thấy toát ra
lòng bao
dung độ lượng của người tu trì. Tuy nhiên thư của anh Hiệp cho tôi cảm
nhận
thêm phải thông cảm hơn số phận của những người cùng thời không được
may mắn,
mà nguyên nhân may hay không may đều do thời cuộc loạn ly.
Ý nghĩ
của
tôi từ đó đến nay dừng lại ở điểm đổ lỗi cho thời cuộc mà không tự hỏi
trong
trường hợp cụ thể: Phạm Công Thiện có liên hệ với tôi, tôi có trách
nhiệm gì
gây ra việc ông thay đổi thái độ trở thành người phản kháng chửi tôi,
chửi đời,
chửi người thực tình và dữ dội như vậy. Bây giờ đọc lại bài phê bình
của ông
Thiện, những bức thư ông gửi cho tôi, tôi mới nhận ra, quả thực, tôi có
trách
nhiệm nào đó. Các thư ông viết cho thấy rõ ông mong mỏi có chỗ đứng
trong giới
nghiên cứu giảng dạy đại học, mà tôi lúc đó hoàn toàn có khả năng đáp
lại mong
muốn chính đáng của ông. Chẳng hạn đăng bài biên khảo trên tạp chí Đại
Học, ra
sách ông viết trong nhà xuất bản Đại học, mời ông làm giảng viên Đại
học Huế,
diễn thuyết ở Huế, Đà Nẵng, Nha Trang trong khuôn khổ lịch trình sinh
hoạt văn
hóa Đại học Huế, và sau cùng vận động cho ông đi du học, không phải vì
ông là
người Công giáo như tôi đã làm cho vài người khác. Tóm lại ông đã gõ
cửa tôi,
có lẽ sau khi đã thử gõ nhiều nơi khác, nhưng tôi đã không mở cửa cho
ông, và
vì thế tôi đã đẩy ông vào tình trạng thất vọng, bất mãn.
Ông Phạm
Công
Thiện hiện còn sống ở Úc. Nếu quả thực ông đã thất vọng vì cách đối xử
của tôi
hồi đó, thì tôi nhìn nhận có trách nhiệm về phần tôi và xin lỗi ông.
Nói cho rõ
hơn, ông Thiện oán giận bất mãn, những trí thức nói chung, thuộc giới
đại học
và trí thức Công giáo nói riêng, cụ thể như Nguyễn Văn Trung, Lê Thanh
Minh
Châu, Cao Văn Luận, là những người đồng đạo cùa ông ở Đại học Huế đã
không tạo
điểm tựa cho ông tiến thân. Sau 1963, trong tình hình mới, ông mượn
danh nghĩa
Phật giáo để bày tỏ công khai nỗi niềm bất mãn của ông, một người Công
giáo,
nhưng ông đã không cho dư luận biết như đã cho tôi biết. Tuy nhiên ông
đã bày tỏ
một cách quyết liệt, tàn nhẫn những bất mãn, uất ức cùa những người
mang danh
Phật giáo có cùng một tình cảnh tâm trạng với ông. Những bất mãn, uất
ức này lần
lần được bộc lộ qua Đại hội văn hóa Phật giáo sau 10 năm đảo chính
1/11/1963,
và sau 1975 được nhắc lại trong các sách báo mang danh Phật giáo hải
ngoại (đặc
biệt ở Hoa Kỳ). Trong các tài liệu in ronéo tường thuật Đại hội văn hoá
Phật
giáo, người đọc qua các phê phán tố cáo của những ông Lê Văn Siêu,
Thạch Trung
Giả, thấy nổi bật một khẳng định là có chèn ép khống chế Phật giáo
trong văn
hóa giáo dục, xuất phát từ những âm mưu, ý đồ đen tối nằm trong một hệ
thống,
có chương trình kế hoạch, có người điều khiển như Thanh Lãng, Phạm Việt
Tuyền,
Nguyễn Văn Trung, là những người Công giáo. Còn Nguyễn Nam Châu thì chỉ
viết
bài cho báo Đại Học rồi đi du học, chưa bao giờ giảng dạy ở bất cứ đại
học nào.
Dẫn chứng cụ
thể được mang ra đả kích là cuốn Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh, trong
chương
trình giảng dạy tại Đại học văn khoa Sài Gòn, mặc dầu tác phẩm phê phán
Phật
giáo của nhà nho này do giáo sư Lê Ngọc Trụ vẫn giảng dạy từ nhiều năm
tại Đại
học, trước khi Thanh Lãng làm trưởng ban Việt văn. Những người am hiểu
lề lối
giảng dạy đại học đều biết chương trình giảng dạy thường do chính giáo
sư phụ
trách đề ra và được ban khoa thông qua mà thôi). Cụ Lê ngọc Trụ không
phải người
Công giáo, nhưng về cuối đời trước khi mất, sau 1975, đã theo đạo này
một cách
âm thầm kín đáo. Như vậy, Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh không thể dùng
giảng dạy ở
một Đại học mang danh Phật giáo và nếu những người mang danh Phật giáo
như Thạch
Trung Giả, Lê Văn Siêu có chân trong ban giảng huấn, điều hành ở đại
học công
như Đại học Văn khoa, chắc chắn cũng loại bỏ Nguyễn Cư Trinh và những
tác giả
khác như Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm đả kích Phật giáo như Dương Từ
Hà Mậu.
Tôi có thể
nói gì ở tư thế một người bị cáo oan như vậy? Đành phải im lặng thôi.
Tuy
nhiên, tôi chịu đựng im lặng không phải trong tâm trạng bực tức, oán
hận; trái
lại, với thái độ không những thông cảm mà còn đau xót, chia sẻ nỗi niềm
tủi nhục
mà ông Trần Quang Phúc đã biểu lộ trước “không khí ảm đạm”, “tình cảnh
bi đát”
của Phật giáo vắng bóng trong các sinh hoạt văn hoá giáo dục trước
1963. Sở dĩ
tôi có thể thông cảm, chia sẻ vì tôi hiểu được vấn đề, mà tiếng Pháp
gọi là le
fond de problème (căn bản của vấn đề). Đó là tình trạng chậm tiến của
Phật giáo
trong khuôn khổ thế giới hiện đại. Bây giờ người ta thay thế từ ngữ
“chậm tiến”
để gọi là “đang phát triển”, tránh va chạm tự ái. Nhìn trong viễn tượng
đang
phát triển, việc so sánh được đánh mốc bằng khái niệm trước sau, chậm
hơn,
nhanh hơn mà nguyên nhân hoặc do yếu tố khách quan của hoàn cảnh hay
yếu tố chủ
quan nội bộ quyết định.
Ở đây về
mặt
tôn giáo, có thể so sánh tình trạng phát triển sớm hơn hay muộn hơn của
Phật
giáo so với Công giáo, của Cao Đài Hòa Hảo so với Phật giáo trong một
thời điểm
nhất định, hoặc so sánh tình hình nội bộ của một tôn giáo với nhau
chẳng hạn so
sánh Công giáo miền Nam với Công giáo miền Bắc, so sánh Phật giáo miền
Nam với
Phật giáo miền Bắc, như những người ở miền Nam đã cảm nhận sau 1975.
Công giáo
miền Nam đã so sánh tình trạng gọi là Tiền Công đồng Vatican II của
Công giáo
miền Bắc với tình trạng gọi là Hậu Công đồng của Công giáo miền Nam,
chênh lệch
đến nỗi một giám mục miền Nam đã nhận xét một cách đau xót một nữ tu
miền Nam
có trình độ nhận thức nói chung và nhận thức thần học hơn một giám mục
miền Bắc.
Còn về Phật giáo, đọc bài luận về Thống nhất Phật giáo của ông Đỗ Trung
Hiếu,
có nhiều chỗ so sánh đáng chú ý: “… hầu hết chùa, nhà thờ ở miền Bắc mà
tôi đến
thăm đều rêu phong tàn tạ, các nhà sư (sư ông, sư bà) lẩm cẩm sợ sệt,
một bái
các cụ, hai bái các cụ. Các linh mục, giám mục đóng kín cửa lạc hậu với
thời cuộc.
Phật tử gần như không còn gì nữa, chỉ ẩn hiện dưới dạng mê tín, cúng
bái linh
tinh và rất e dè trước khách lạ. Tín đồ Thiên Chúa giáo thì khổ cực hằn
sâu
trong mắt họ. Những nét u uất thâm nghiêm nhưng rực lửa và sẵn sàng bốc
cháy
khi có mồi. Đó là mối nguy hại chứ không phải sự thành công của tôn
giáo vận.
Cán bộ tôn giáo vận ở trung ương và các tỉnh miền Bắc văn hóa thấp kém,
chính
trị non nớt, nghiệp vụ chuyên môn giáo điều cũ kỹ và tổ chức bộ máy tôn
giáo vận
xộc xệch quê mùa. Như vậy làm sao đối ứng nổi với bộ máy hiện đại của
các tôn
giáo ở miền Nam. Cho nên rốt cuộc chỉ áp dụng “chuyên chính về vô sản”.
Trọng tâm thống
nhất Phật giáo Việt Nam là miền Nam Việt Nam mà trọng điểm là thành phố
Hồ Chí
Minh. Tổ chức Phật giáo cần quan tâm là GHPGVNTN, vì đây là tổ chức
Phật giáo lớn
nhất, tăng ni có trình độ, lực lượng Phật tử có tổ chức đông đảo và có
uy tín
quốc tế.
“…cụ thể,
các đồng chí cứ kiểm tra, ngay tại chùa Quán Sứ, các nhà sư răm rắp
nghe và làm
theo ban tôn giáo chính phủ chỉ đạo. Nhưng khi họ đóng cửa lại, họ đọc
sách gì?
Có phải là Lục tổ Huệ Năng và bộ Tâm Ảnh Lục của T.T. Trí Quang, Đạo
Phật hiện
đại hoá, Đạo Phật ngày nay của T.T. Nhất Hạnh. Chắc có người sẽ bảo họ
đọc vì
tò mò, vì hiếu kỳ. Không. Tôi biết rõ họ đọc với sự say sưa, với cả tấm
lòng,
vì chính sự thu hút của tác phẩm đó, và vì bao nhiêu năm họ bị bưng bít
không
có sách gì để đọc”.
Về Công
giáo, trước Thế chiến II, đã có một số thanh niên, chủng sinh du học Âu
châu,
Pháp. Sau 45, họ trở về nước, trong đó có những người được biết đến
nhiều, như
linh mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Đại học Huế, Nguyễn Văn Lập, Viện
Trưởng Đại
học Đà Lạt, Lê văn Lý (trưởng ban ngôn ngữ Đại học Văn khoa Sài Gòn).
Từ 1945 đến
1950, nhiều đợt thanh niên, chủng sinh từ miền Bắc được gửi đi du học ở
Âu châu
và Hoa kỳ. Năm 1954, do tình hình chia cách lúc đó, chỉ có hai người về
Bắc
theo đề nghị của Giám mục Hà Nội, còn lần lượt trở vô Nam và hầu hết
định cư tại
vùng Sàigòn Gia Định. Bỗng nhiên vùng này có một đội ngũ trí thức linh
mục dòng
triều, giáo dân đông đảo có bằng cấp đại học đạo đời. Họ dạy ở các học
viện của
dòng hay tại chủng viện, hoặc có mặt ở các đại học công, viện chuyên
môn vì những
nơi đó cần người chuyên môn, tốt nghiệp đại học ngoại quốc. Không phải
chỉ về
tôn giáo, triết học, khoa học xã hội như Lê Tôn Nghiêm có luận án tiến
sĩ về đạo
Lão, Trần Thái Đỉnh về đạo Phật, Hoành Sĩ Quí về Ấn độ giáo (nguyên ban
triết ở
Đại học Văn khoa Sài Gòn có lúc có đến 9 ông tiến sĩ triết học). Về môn
Ngữ học,
có ba người: Lê Văn Lý, Nguyễn Hưng, Phạm Hữu Lai, mà cả về Khoa học Tự
nhiên
như Hoàng Quốc Trương, Ph.D về Sinh vật ở Hoa kỳ dạy Đại học Khoa học,
hay Linh
mục Quí tốt nghiệp Hoa kỳ chuyên gia ở viện Pasteur...
Một số đáng
kể người Công giáo (linh mục, giáo dân) ở trong các trường, cơ sở công
lập có
thể làm cho người ngoài có cảm tưởng về một chính sách kỳ thị, ưu đãi
của chính
phủ mang danh Công giáo, đặc biệt thời ông Diệm. Họ có mặt ở các trường
đại học
công vì nhu cầu và được mời. Ngay cả sau 75, có chỉ thị của thủ tướng
không nhận
các tu sĩ (Công giáo, Phật giáo) làm việc ở các đại học công, Đại học
Khoa học
Sài Gòn vẫn giữ linh mục Hoàng Quốc Trương ở lại trường cho đến khi ông
về hưu.
Ảnh hưởng của các giáo sư Công giáo, nếu có không phải do dựa vào thế
lực tôn
giáo, mà chỉ vì khả năng chuyên môn, nhất là vì tư cách trí thức của họ
mà
thôi. Dư luận sinh viên rất bén nhạy về những độc quyền, kỳ thị. Quả
thực đã có
những biểu lộ phàn nàn, phản đối ở ngoài đại học, nhưng theo chỗ tôi
biết tuyệt
nhiên không có đổi với các người Công giáo làm việc ở các đại học công.
Sự thực
lại có dư luận hẹp hòi trong dư luận Công giáo phiền trách thái độ phê
phán của
các giáo sư Công giáo và nhiều người bị cấm dạy ở các đại học công như
Nguyễn
Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm bị Tổng Giám mục Ngô Đình Thục
không
cho dạy ở Đại học Huế. Còn về tổ chức, Đại học Đà Lạt chỉ mang danh
nghĩa Công
giáo, nội dung chuyên môn giảng dạy, ban giảng huấn đều y hệt đại học
công, gồm
các giáo sư đại học công, bất kể họ thuộc tôn giáo nào hay không theo
tôn giáo
nào. Có đoàn sinh viên Công giáo và cả đoàn sinh viên Phật tử. Đặc biệt
thời
linh mục Nguyễn Văn Lập làm Viện Trưởng, trường giúp đỡ đoàn sinh viên
Phật tử
kể cả những hoạt động tranh đấu của họ. Đại học Đà Lạt không phải chỉ
cởi mở đối
với Phật giáo mà cả với miền Bắc. Theo giáo sư Phó Bá Long, Khoa Trưởng
Cao học
Chính trị Kinh doanh Đà Lạt, một giáo sư người Mỹ giảng về di chúc Hồ
Chí Minh.
Đài Hà nội loan tin có một đại học ở miền Nam giảng về di chúc Bác Hồ.
Ông Đỗ
Bá Khê, Thứ Trưởng Bộ Giáo dục mời ông Phó Bá Long cho biết nội vụ và
được giải
thích đây là tinh thần tự do của tự trị đại học mà thôi.
Ngoài ra,
ngay từ hồi 1955, các tiểu chủng viện đều dạy theo chương trình trung
học công
lập hoặc ở chủng viện hoặc ra học trường trung học ngoài đời lấy Tú
tài. Sau đó
một số được cho tiếp tục học đại học.
Đối với Phật
giáo, quả thực có sự vắng mặt những nhà sư, trí thức Phật tử tốt nghiệp
đại học,
du học về. Ở các trường đại học, thời đệ nhất Cộng hòa, các Bộ Trưởng
Giáo Dục,
Viện Trưởng, Khoa Trưởng thời kỳ này thường không theo đạo nào và cũng
như những
giáo sư người Công giáo, tất cả hầu hết đều xuất thân từ đại học Pháp,
chịu ảnh
hưởng tâm tình tự do, đời, chống giáo sĩ trị (libérale, laique,
anticléricale)
nên không thể có thái độ ưu đãi kỳ thị về tuyển chọn nhân viên giảng
huấn. Nếu
tôi nhớ không lầm, phải đến sau 1963 mới có mấy Thượng toạ Đại đức đi
du học ở
Nhật, Ấn độ về, và chỉ chuyên về Phật học. Giả sử hồi 1956-1957, các
Thượng toạ
Minh Châu, Nhất Hạnh đã về nước, thì có thể đã được ông Cẩn đề nghị làm
Viện
Trưởng Đại Học Huế. Dưới mắt gia đình họ Ngô, việc thành lập Đại Học
Huế mang một
ý nghĩa chính trị: củng cố, giữ vững Huế như một tiền đồn của miền Nam
có nhiều
người theo đạo Phật. Vậy tiến cử những vị trí thức Phật tử tu sĩ gốc
miền Trung
vào vai trò lãnh đạo đại học là điều hợp tình hợp lý. Còn nếu có dư
luận cho mấy
nhà sư này là thiên cộng hay cộng sản thì lại càng đáp ứng đường lối
gọi là
chuyển hướng những người kháng chiến cũ của ông Nhu ông Cẩn. Không có
ông sư phải
dùng ông cha, và ai nấy đều biết linh mục Cao Văn Luận cũng chịu ảnh
hưởng văn
hóa Pháp kể trên, không thể thiên vị, kỳ thị.
Chả nhẽ
trách Bảo Đại và các chính phủ của ông ta vì dụ số 10 không lo gửi
người theo đạo
Phật đi du học? Tôi nghĩ chế độ ông Diệm có trách nhiệm phần nào đã
không lưu
tâm vấn đề đào tạo giới trí thức Phật tử trong chính sách đối với Phật
giáo của
chính phủ vì chỉ chuyên chú vào vụ giúp đỡ tiền bạc, tu sửa, xây cất
chùa chiền.
Ông Nhu đã thấy vấn đề hồi xảy ra vụ khủng hoảng Phật giáo (1963),
chính phủ
ông Diệm đã đề nghị Liên Hiệp Quốc gửi phái đoàn sang điều tra (xem Vi
phạm
nhân quyền tại Việt Nam, bản báo cáo của phái đoàn Liên Hiệp Quốc điều
tra về vụ
đàn áp Phật giáo 1963, cư sĩ Võ Đình Cường dịch. Hương Khánh xuất bản,
1964).
Trong cuộc hội
kiến với trưởng phái đoàn, ông Ngô Đình Nhu đã đưa người đối thoại với
mình vượt
khỏi những sự kiện cụ thể đang diễn ra, đi vào một lối nhìn xa trông
rộng về
tôn giáo như một lãnh đạo đảng cộng sản đã nhận xét về phương diện
chính trị,
quân sự. Đó là một lối nhìn xã hội học về tôn giáo. Theo ông Nhu, căn
bản là vấn
đề chậm tiến của các quốc gia được độc lập như Việt Nam và có những đòi
hỏi về
phát triển các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo và “Phật giáo
chỉ là một
khía cạnh của vấn đề chung kể trên”.
Phong trào
Phật giáo phát triển mạnh nhưng cán bộ lại không đủ, do đó có những sai
lệch
không thể tránh khỏi được. Bản thân đạo Phật ở Việt Nam có những sắc
thái
riêng, chẳng hạn tinh thần tự trị của chùa chiền ẩn sâu trong dân
chúng. Mỗi
ngôi chùa là một giáo đường riêng biệt do một vị trụ trì và đạo hữu tạo
thành một
cộng đồng độc lập. Phật giáo mang màu sắc cá nhân đậm nét vì đòi hỏi
con đường
tu trì chủ yếu là việc riêng của mỗi người, nên nhu cầu tập họp thống
nhất,
đương nhiên gặp khó khăn. Đạo Phật lại chủ trương bất bạo động, vậy làm
thế nào
để thực hiện đòi hỏi tranh đấu chống thực dân, bất công xã hội khó
tránh không
dùng bạo lực? Phật giáo gặp những khó khăn riêng biệt, cần tập họp, tổ
chức
thành phong trào, lực lượng chính trị để phát triển. Nhưng trở thành
một lực lượng
chính trị lại có nguy cơ không còn là Phật giáo. Phật giáo gặp khó khăn
nội bộ
lại thấy những tôn giáo khác phát triển mạnh hơn, dễ đưa đến suy luận
Phật giáo
bị kỳ thị đàn áp...
Cuối buổi hội
kiến, ông Nhu thú nhận “có rất nhiều thiện cảm với Phật giáo. Những kỷ
niệm đẹp
nhất thời thơ ấu là kỷ niệm Phật giáo”. Về tình cảm thì như thế, về
chính trị
ông đã ý thức được nguy cơ bất ổn của phong trào Phật giáo, dễ bị Đông
Tây lợi
dụng. Có lẽ ông hiểu Đông là Cộng sản và Tây là Tây phương vì thiếu cán
bộ có
tài đức thực sự. Có thể chất vấn ông Nhu, tại sao trong thời gian cầm
quyền,
ông không lưu tâm đến việc góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ Phật
giáo có tài
đức?
Sau 1963,
người Mỹ đã tỏ ra đặc biệt lưu tâm đến nhu cầu đào tạo giới trí thức
Phật giáo
có trình độ đại học để lãnh đạo các mặt đạo đời. Trong một báo cáo 10
trang của
một phụ tá đại diện Asia Foundation, ông Frank E. Dines ở Sài Gòn gửi
giám đốc
phân bộ Đông Nam Á của hội này về “chương trình Phật giáo ở Việt Nam”,
cho thấy
“Phật giáo đã đảm nhận một vai trò xã hội chính trị có thể biến Phật
giáo thành
một lực lượng có ưu thế trong xả hội trong vòng một vài năm”. Trong
khung cảnh
đó, đại học Vạn Hạnh “có tính chất quan trọng sinh tử vì mục đích của
nó là huấn
luyện giới lãnh đạo tương lai của Phật giáo.
“Tất cả các
dự án về Phật giáo của quĩ Tài trợ cuối cùng đều hướng tới hai mục đích
rành mạch:
1 huấn luyện một giới lãnh đạo có học thức, đặc biệt chú trọng những
chương
trình như cấp học bổng qua Hoa kỳ, việc này cho phép quĩ Tài trợ có thể
điều
hòa được kinh nghiệm với môi trường chung quanh và 2 khuyến khích sự
phát triển
các công tác xã hội, hoạt động xã hội của Phật giáo theo những đường
hướng vững
chắc về chuyên môn.
“Theo quan
điểm của quĩ Tài trợ thì sự quan tâm mới đây của giới tăng lữ với giáo
dục và
việc họ sẵn sàng giao cho quĩ Tài trợ những tăng ni trẻ tuổi khá nhất
của họ để
huấn luyện ở nước ngoài là một cơ hội tuyệt vời để giúp khuôn nắn giới
lãnh đạo
tương lai.
“Cả giới Phật
giáo lẫn quĩ Tài trợ đều đã tiến chậm trong việc triển khai một chương
trình học
bổng du học nước ngoài vì những lý do khác nhau..
“Mối quan
tâm chính yếu của chúng ta là ở tiềm năng giới lãnh đạo. Chúng ta đã
nhấn mạnh
vào những ngành học không có tính cách tôn giáo ở Hoa kỳ vì đây là cách
chắc chắn
nhất để có được các ứng viên đã tốt nghiệp đại học, có thể được đào tạo
trong
vòng hai ba năm.
“Trong số 20
000 tăng ni ở Việt Nam, chưa đầy 20 người học ở nước ngoài (kể cả 12
người đang
du học trong đó có 4 người ở Hoa kỳ) và không hơn 30 người đậu cấp bằng
cử nhân
ở Việt Nam...
“Chúng ta biết
rằng những tăng ni này được nhắm cho những vị trí lãnh đạo. Công cuộc
huấn luyện
và kinh nghiệm của họ ở Hoa kỳ, tới một mức nào đó, sẽ ảnh hưởng tích
cực hay
tiêu cực đến các mô hình những người lãnh đạo mà họ sẽ trở thành. Chỉ
trong một
thời gian tương đối ngắn họ sẽ trở về những vị trí quan trọng ở Viện
Hóa Đạo, Đại
học Vạn Hạnh và nhiều chùa khác nhau. Họ sẽ trở thành những người diễn
giả
chính yếu của Hoa kỳ và chính sách của Hoa kỳ cho Phật giáo”.
Sau 1975, do
việc ra đi đông đảo của người Việt định cư ở các nước ngoài, đặc biệt ở
Hoa Kỳ
đã có nhiều người trẻ tuổi gốc Phật giáo được đào tạo không những về
Phật giáo
mà cả về các khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và 20 năm sau,
1994-1995, tôi
sang Mỹ, được tiếp xúc với khoảng gần 20 trí thức Phật giáo tại nhà một
luật sư
ở San José. Họ đề nghị tôi nói chuyện và trao đổi thân tình. Tôi cảm
thấy hãnh
diện về giới trí thức trẻ Phật giáo này. Qua trao đổi tâm tình, một vài
người đã
thổ lộ họ thấy gần gũi với những linh mục, trí thức Công giáo cũng tốt
nghiệp đại
học như họ, hơn những người đồng đạo không qua bậc đại học. Như vậy vấn
đề là ở
chỗ cùng tiến đồng đều như nhau, tự nhiên sẽ không còn những mặc cảm tự
tôn tự
ti, những bộc lộ bất mãn, oán ghét, những tố cáo này nọ...
Tuy nhiên,
nhìn lại thời kỳ 20 năm trước 1975, tôi thấy có trách nhiệm phần nào
gây ra những
đả kích mạt sát của một số người mang danh Phật giáo đối với tôi, vì
tôi đã chỉ
nghĩ đến viết cái gì mà không chú ý đến người viết đối với người nghe
là thế
nào. Trong thực tế nhiều khi nói cái gì không quan trọng bằng ai nói,
ai nghe
và chính quan hệ người viết, người đọc quyết định ý nghĩa điều nói viết
ra. Tôi
viết về Phật giáo, coi Phật giáo là một triết học như những triết học
khác
trong lịch sử tư tưởng nhân loại, và nghĩ rằng tôi có quyền tự do nhận
định, hiểu
theo ý tôi, đúng hay sai, người đọc cũng có quyền tự do phê bình trên
bình diện
tư tưởng. Trong khi người đọc lại không tách rời triết học khỏi Phật
giáo như một
tôn giáo và thậm chí còn coi người không tin đạo Phật không thể hiểu
được Phật
giáo, và như vậy chỉ có thể là hiểu sai. Nếu người viết về Phật giáo là
Công
giáo Việt Nam càng không thể được tách rời khỏi cái nhìn đầy thiên
kiến, mặc cảm
và oán hận đối với người Công giáo, và do đó chỉ có thể có ý đồ, âm mưu
xuyên tạc,
tiêu diệt Phật giáo.
Thực ra
không phải đợi đến những năm 94-95 gặp đông đảo trí thức trẻ theo Phật
giáo tốt
nghiệp đại học về Phật học và các Khoa học xã hội khác ở Hoa kỳ, tôi
mới tìm thấy
những bạn Phật tử đồng hội đồng thuyền, mà ngay từ hồi những năm 1958-
59, ở Huế,
tôi đã gặp một số trí thức trẻ là sinh viên cùa tôi; nhưng chúng tôi
xuýt xoát
tuổi nhau nên gọi nhau là anh chị, thường trao đổi tâm tình với nhau về
triết học,
văn học, Phật học trong tình thân quí mến tôn trọng lẫn nhau. Tôi chỉ
kể tên
hai người mà giới giáo chức Huế đều biết: anh Văn Đình Hy và chị Tinh
Nhân, cả
hai anh chị sau đều có lúc làm hiệu trưởng trường Quốc Học, Đồng Khánh,
hiện đã
qua đời. Hoặc một vài bạn trẻ ở Sài Gòn hiện còn sống, thường kể cho
tôi nghe
những sai trái, thậm chí những tội ác mà một số Cha Cố đã phạm từ thời
Bùi Chu,
Phát Diệm đối với Phật giáo và đã sẵn sàng ghi lại cho tôi làm tài
liệu. Nhưng
khi ở Hoa kỳ về, tôi đưa cho họ coi những sách báo mạt sát thậm tệ Công
giáo ở
hải ngoại, ngày hôm sau, họ đem trả lại và trách tôi tại sao đọc, còn
đưa cho họ
đọc sách báo đó, và từ chối luôn đề nghị của tôi nhờ ghi lại những
chứng từ.
Tôi đã nói
nhiều lần, đây đó, đề nghị Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cần lên tiếng
nhận lãnh
trách nhiệm về phần mình những sai trái, xúc phạm trong lịch sử đối với
đồng
bào không Công giáo, đặc biệt đối với Phật giáo, nhất là thời ông Diệm
để gỡ
oan cho chế độ này mang tiếng kỳ thị, đàn áp Phật giáo. Chính Thượng
Toạ Trí
Quang cũng khẳng định với tôi, các ông Nhu Cẩn không liên hệ đến vụ
này, chỉ
ông Thục mà thôi.
Cuối cùng gần
đây, tôi nghĩ phải nhìn một cách triệt để cái “cốt lõi, căn bản của vấn
đề Phật
giáo” không phải chỉ là đòi hỏi thích nghi với đời sống hiện đại, gọi
là “hiện
đại hóa Phật giáo”, theo kịp đà phát triển của các tôn giáo khác, mà
chủ yếu là
cần nhìn nhận đâu là bản sắc của Phật giáo. Phát huy bản sắc đó có nhất
thiết
phải so sánh với các tôn giáo khác để nhận ra chỗ mạnh chỗ yếu, sở
trường sở đoản
của tôn giáo mình và tôn giáo bạn rồi hướng những nỗ lực hiện đại hóa
vào mục
tiêu khắc phục những cái bị coi là chỗ yếu, sở đoản. Chẳng hạn về tổ
chức:
thành lập giáo hội, thực hiện thống nhất, sử dụng những thống kê người
theo đạo
dựa vào những con số. Ở Việt Nam chỉ có hai hạng người có căn cước rõ
ràng: người
Thiên Chúa giáo và đảng viên đảng Cộng sản; một người có giấy rửa tội,
một người
có thẻ đảng. Còn đa số, trừ một số ít Phật tử qui y, không thể xác định
bằng thống
kê, bằng con số chính xác tôn giáo họ theo. Có thể chỉ là đạo ông bà,
hoặc thêm
Tam giáo, hay theo đạo Phật nhưng chỉ đi chùa khi muốn đi, hoặc theo
một lúc
nào đó, ở thời điểm nào đó trong cuộc đời của mình. Như vậy làm sao có
thể lập
danh sách thống kê người theo đạo như bên Thiên Chúa giáo thường làm
hàng năm
và gửi về Rome?
Vậy phải
chăng mặc cảm tự tôn tự ti phát xuất từ khi những người mang danh Phật
giáo bắt
chước người Thiên Chúa giáo sử dụng những con số làm thống kê không dựa
trên những
tiêu chuẩn rõ rệt mà chỉ dựa vào tính trừ: những người theo Thiên Chúa
giáo biết
rõ đích xác là thiểu số, vậy phần còn lại là đa số theo Phật giáo! Điều
trớ
trêu là trong Thiên Chúa giáo từ mấy chục năm nay đã có hướng coi cái
“sở trường,
thế mạnh” của mình là mối đe doạ trầm trọng và chủ trương cái mà người
Phật
giáo coi là sở đoản, bằng cách xóa bỏ tổ chức hoặc giảm thiểu tối đa
nhu cầu về
tổ chức. Như vậy tại sao người Phật giáo lại chạy theo cái mà những
người Thiên
Chúa giáo đang muốn từ bỏ?
Nguyễn
Văn
Trung
© Thông Luận
2007