|
TCS_2011
Bọn tao
Lê Đình Nhất
Lang
Bọn tao là một
khối đặc
Bọn tao già
đi nhưng không lệ thuộc vào một niên đại
Bọn tao
không chấp nhận sự thông suốt
Bởi sự thông
suốt đe dọa tính đặc của bọn tao
Bọn tao ngăn
cản mọi sự túa ra
Bọn tao bưng
bít
Bởi sự túa ra
làm cho bọn tao hở
Bọn tao chống
mọi lực đẩy
Bọn tao trì
kéo
Bọn tao kết
chùm
Bọn tao vinh
danh quán tính và thần thoại quá trình quánh
Bọn tao hút
hết mọi điều hiển nhiên vào chất ruột đen kịt
Từ lớp bụi mỏng
phập phù của chứng cứ
Cho tới những
hạt sạn gân gổ của phản biện
Trộn chúng
vào làm ruột bọn tao đen thêm
Bọn tao xử
thế bằng cách lăn tròn
Đó là truyền
thống của bọn tao
Lăn tròn làm
tất cả nhỏ đi
Nhưng tất cả
sẽ không phát hiện ra sự nhỏ đi
Cho nên làm
gì có sự nhỏ đi
Bọn tao biết
trước sau rồi cũng bị toát hơi
Hoặc nhão ra
dưới sức vặn khổng lồ của những viễn kiến nhân loại
Bọn tao nghĩ
tới chuyện phơi khô
Để dành và
không bao giờ rửa
Không bao giờ
được rửa
4/2011
NĐT khen bài
thơ này “tuyệt tác” là không quá lời! Đây là kết quả của trầm tư dài
hơi về một ám ảnh,
hóa thành cái tứ “KHỐI ĐẶC” được triển khai thành các câu thơ hàm súc
đan dệt
quanh một ý tượng chủ chốt ( dùng từ chuyên môn thi học là extended
metaphor).
LĐNL đã chứng
minh qua bài thơ masterpiece ngắn này một điều căn bản về sáng tạo thi
ca, một
điều mà các người thích lý lẽ hoặc ngôn thuyết ồn ào về cách tân và thử
nghiệm
thường bỏ quên là công phu thâm hậu của một thi sĩ sẽ được minh chứng
bằng một
bài thơ nhất dĩ quán hạ trong đó tư tưởng , hình tượng, cảm xúc được
kết tinh một
cách tuyệt diệu khiến các độc giả có trình độ phải tấm tắc đọc đi đọc
lại, mỗi
lần đọc đều có khám phá mới về
thi phẩm.
Có ý kiến
cho rằng bài thơ này ám chỉ một tập đoàn đảng trị nào đó – điều này
không sai nhưng có thiếu
sót. Loại thơ ẩn dụ vốn đa nghĩa với nội hàm mở tùy theo kinh nghiệm và
cách diễn giải
của từng người đọc.
CHÂN PHƯƠNG/ DM
*
Bài thơ trên là 1 bài thơ
chính trị, tố cáo chế độ, và như thế, thuộc loại thơ ám dụ,
allegory, không phải ẩn dụ, metaphor; cả hai, đều là những hình tượng,
figures, tu
từ, nhưng
ám dụ “yếu” hơn nhiều, và không được coi như là 1 “hình ảnh thơ”, ở một
số thi
sĩ.
Nhất là thứ ám dụ cởi truồng.
Khối Ðặc so với Ông Bình Vôi, thua xa.
Vậy mà cũng xúm lại mà nức nở, quái đản thật.
Ðể minh họa sự
thấp kém của ám dụ, so với ẩn dụ, thử lấy một lời nhạc TCS, “từ vườn
xưa
bước về/bàn
chân ai rất nhẹ/tựa hồn những năm xưa”, nó là 1 ẩn dụ đến Borges mà còn
phải trầm
trồ đi một đường nắc nỏm, khi Gấu nhờ ông vinh danh BHD giùm, (1) nhưng
khi được nhà thơ NDT dùng thủ pháp
nhạo
nhại, biến thành ám dụ, chỉ nhắm mục đích
chửi chế độ, mới thảm hại làm sao.
Còn cái vụ "ẩn
dụ mở rộng", "ẩn dụ banh lớn mãi ra", extended metaphor, xin để kỳ tới bàn tiếp. NQT
(1)
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm
Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối,
tall,
dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối,
và cứ
thế, cứ thế.
Tưởng tượng đẩy tưởng tượng,
câu "hót" BHD, thần sầu,
"không phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần sầu của TCS, trong Phôi
Pha:
Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
BHD ở ngoài đời, cao, đen, nhập
vào với đêm, y chang lời nhạc của
TCS mô tả, những lần "bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
*
Ui chao, GNV bữa nay, lôi bài
viết của Borges, post dưới đây, ra
đọc lại, mới khám phá ra 1 cái lỗi trầm trọng, là bỏ qua cái ‘tiểu chú’
của
ông:
Baudelaire
writes, in "Recueillement":
"Entends, ma chère,
entends,
la douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who
walks]. The silent walking of the night should not be heard.
Soure
Kim Dung, trong Lục Mạch
Thần
Kiếm có một minh họa thật tuyệt, có thể áp dụng ở đây, để cho thấy sự
khác biệt
giữa ám dụ và ẩn dụ. Tương truyền không ai có thể sử dụng được 72 tuyệt
kỹ võ công
của Thiếu Lâm, ngoại trừ Đạt Ma Tổ Sư. Khi Cưu Ma Tri tới Thiếu Lâm
thách đấu,
bốc phét, rành 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, và để chứng tỏ, đã sử dụng chiêu
Niêm Hoa
Chỉ đả thương thần tăng Huyền Độ. Sự thực, CMT sử dụng Tiểu vô tướng
công, tức
nội công của Đạo gia, để ra chiêu này, không phải là võ công của Phật
môn. Vị sư
già chuyên quét dọn Tàng Kinh Các sau đó giải thích, bề ngoài thì giống
nhau,
nhưng trong cái chi ly của nó, thì không phải. Những ông thi sĩ Mít của
chúng
ta, đại khái, cũng đã lầm như vậy, và coi ám dụ, ẩn dụ thì cũng giống
nhau tuốt
luốt! Bởi thế mà nhà thơ NDT mới dám nhại lời nhạc của TCS, làm ra
những bài vè
chẳng ra cái thể thống gì hết, chỉ làm trò cười cho VC.
Có hai món hình tượng tu
từ
mà thi sĩ “mê”, thì là ẩn dụ, và hoán dụ, metaphor and metonymy, theo
Roland
Barthes, trong bài viết Món Quà Tuyệt Vời.
Không có ám dụ.
Những
phát giác quan trọng nhất, về
thơ, của Jakobson, qua Roland Barthes, mà chúng ta có được:
Jakobson
đã ôm lấy Văn chương bằng
ba cách.
Trước tiên, ông tạo ra, ngay chính bên trong môn ngôn ngữ học, một bộ
phận đặc
biệt, "Thi học"; bộ phận này (và đây là điều mới mẻ trong việc làm
của ông, phần đóng góp lịch sử của ông), ông không định nghĩa nó, từ
Văn chương
(như thể Thi học vẫn còn phụ thuộc vào 'thơ tính' hay vào 'thi ca'),
nhưng từ
nghiên cứu những nhiệm vụ của ngôn ngữ: mọi hành động nói
(speech-act), nhấn
mạnh tới hình dạng của thông điệp, là thơ; từ đó, ông có thể, "khởi
từ
vị trí ngôn ngữ học", gia nhập, tiếp nối những dạng thức sinh động nhất
(và thường là đầy chất giải phóng), của Văn chương: quyền hàm hồ
của nghĩa
(meanings), hệ thay thế, system of substitutions, mã hình tượng, code
of
figures (ẩn dụ và hoán dụ, metaphor and metonymy)
.…
“nghĩa
của ký" (a sign's
meaning), chỉ là sự phiên dịch của nó (its translation) vào một ký hiệu
khác,
nó xác định "nghĩa", không "một lần rồi xong", nhưng là một
mức độ "nghĩa" khác (which defines meaning not as a final signified
but as "another" signifying level).
Món quà tuyệt vời
*
Những phát giác quan trọng, chúng ta cần, ở đây, là:
1. quyền hàm hồ của “nghĩa” [meaning].
2. nghĩa của một ký hiệu ở trong sự chuyển dịch của nó, vào một ký hiệu
khác.
Thành
thử, lấy thí dụ, khi Phạm Duy
làm bản nhạc của ông, về lá diêu bông, và Hoàng Cầm nói, ông không hiểu
lá diêu
bông của tôi, như vậy không có nghĩa, PD hiểu sai HC.
Đã có sự chuyển dịch về nghĩa, ở ký hiệu 'lá diêu bông', chúng ta có
thể nói
như vậy. Đẩy thêm một mức, PD không có ý định "hiểu" Hoàng Cầm. Ông
đẩy [chuyển dịch] lá diêu bông của Hoàng Cầm vào "hệ thay thế", là hệ
âm nhạc, thí dụ.
Ông ban cho lá diêu bông một nghĩa mới, nghĩa âm thanh.
[Note: To K. Art2all nhân vụ Lá Bâng Khuâng].
Ẩn dụ mới về Lá Diêu Bông
4. Gia đình
chị có một người anh là sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, có anh Sơn
lại từ
chối nhiệm vụ quân dịch. Như thế trong gia đình có những xung khắc về
lý tưởng,
nhiệm vụ đối với đất nước thời chiến tranh không?
- Thật ra,
cũng giống như nhiều gia đình sống ở miền Nam trước đây, gia đình
Trinh không
ai muốn đi lính cả. Anh Hà bị động viên quân dịch. Còn anh Sơn thì
không những
đã từng trốn lính mà còn chống chiến tranh rất quyết liệt như mọi người
đã biết.
Điều đó đã được thể hiện rõ ràng trong những ca từ của anh. Trong gia
đình
Trinh đâu có xung khắc về lý tưởng, bởi nào có ai thích chiến tranh
đâu. Và chỉ
có một ước ao duy nhất, của anh Sơn cũng như của gia đình, cho dân tộc
và cho đất
nước, đó là hai chữ Hòa bình.
DM
Cái sự chống
chiến tranh rất quyết liệt của Miền Nam, nó khác với cái sự chết nhát
của Trịnh.
Ðây là sự khác biệt mà ít ai để ý. Trước 1975, thì có thể còn nhập
nhằng, nhưng
sau 30 Tháng Tư, thì sự thực rõ ra, cuộc chiến đó hoàn toàn do VC tạo
nên.
Bà này tưởng
là VC thực sự sùng bái TCS hay sao? Cũng trò phù thuỷ cả đấy. Ðâu phải
tự nhiên
mà TCS bị thù ghét đến mức như thế đối với người Miền Nam, nhất là
những gia
đình Ngụy? Cái xác của TCS thì cũng giống như cái xác của Bác H, khi
nào còn
xài được thì xài thoải mái, vô tư, phục vụ cho tư bản Ðỏ, cho Bắc Bộ
Phủ.
TCS do quá
hèn nhát, trước 1975, và sau đó, quá yếu
đuối, thành thử suốt đời bị con quỉ chiến tranh ‘lạm dụng’ [abuser,
không phải
lợi dụng, exploiter, utiliser, profiter], trách ông làm quái gì!
Có hai “sống
sót”, khác hẳn nhau. Cái sống sót của Miền Nam, của Ngụy, của VNCH,
không phải
cái sống sót của "Trịnh và gia đình”.
Ðiều này do Steiner chỉ ra, khi ông
phân biệt cái sống sót của chính ông, mà ông coi là đáng tởm, the
unmerited scandal of survival, do nhờ ông bố quá khôn ngoan mà gia
đình đi
kịp chuyến tầu chót rời Âu Châu.
Brodsky cũng
đã từng phán như thế:
Virtue, after
all, is far from being synonymous with survival; duplicity is.
J. Brodsky:
"Collector's Item"
[Ðạo hạnh thì
không thể nào đồng nghĩa với sống sót được. Ðồng nghĩa với sống sót, là
nhập nhằng]
Nhưng Steiner còn nhắc tới câu phán trứ danh của
Alain:
Man is not
merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is
one who
survives".
[Con người
đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự
hào,
phán, 'nó còn là kẻ sống sót']
Steiner: Những
Bài Học của Những Ông Thầy.
Ngụy, VNCH sống
sót, sau khi chết rồi, thế mới tếu.
Chỉ đến khi đám
Ngụy đi tù cải tạo, thì mới ngộ ra điều này!
Cái giọng điệu
khi trả lời của “cô bé” nhà họ Trịnh này cho thấy, có vẻ như cô không
thấy thoải
mái cho lắm, về 1 Miền Nam mà cô đã từng sống, rồi phải bỏ chạy, khi VC
ăn cướp
được, rồi lại trở về, khi VC làm trò phù thuỷ vinh danh Trịnh!
Không có
những
tên Ngụy “phò” chiến tranh "vệ quốc" [gìn giữ Miền Nam chống lại VC Bắc
Kít], như
LKC, như VQ, đã thương quí tài năng che chở TCS, thử hỏi ông còn
sống tới ngày 30
Tháng Tư, 1975?
Ðúng là vô ơn! NQT
Có thể nói,
cách nhìn TCS y chang cách nhìn... Camus: Hoặc là mi phải ghét, hoặc là
mi phải
mê TCS!
Hà, hà!
Nhìn theo
cách nhìn đó, thì Gấu lại là... Camus: Ở lưng chừng trời ngó xuống cõi
Mít.
Những dòng
sau đây, nhân 10 năm TCS ra đi, là kỷ niệm của Gấu về âm nhạc, qua ba
lần nghe,
Tình Nhớ [TCS] ở Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung [đã lèm
bèm nhiều
lần], Ngày Mai Ði Nhận Xác Chồng [PD] ở nông
trường cải tạo Ðỗ Hòa, Cần Giờ, và lần nghe
After The Sunrise
[Yanni] ở hải ngoại.
Ba lần nghe,
mãi sau này, Gấu mới ngộ [độc] ra được, có liên quan mắc mớ với nhau:
cả ba lần
nghe, là đều thấp thoáng hình ảnh của cô bạn ở đâu đó!
Nous qui vivons à l'
"ère de l'Épilogue", sur les ruines de l'Auschwitz et du Goulag,
devons-nous "réapprendre à être humain"? Faut-il inventer un nouvel
humanisme?: Chúng ta sống thời kỳ Chung Cuộc, trên những điêu tàn của
Lò Thiêu
và Lò Cải Tạo, liệu chúng ta phải lại học làm người? Phải phát kiến ra
một chủ
nghĩa nhân bản mới?
Francois L'Yvonnet
phỏng
vấn Steiner, trong Man Rợ Dịu Dàng, La Barbarie Douce, thực
hiện tại
Paris, ngày 3 Tháng Hai, 2000.
Tôi nghi rằng Steiner
cũng
tiên đoán ra được sự xuất hiện của con bọ VC, hay hiện tượng Chúa Sẩy
Thai. Ông
viết, chủ nghĩa Marx không giản dị chỉ là một lầm lẫn, mà nó còn là một
đánh
giá quá cao, hơi bị quá chắc mẩm có tính cứu thế [une surestimation
messianique], về những khả năng của con người, [đúng theo cái kiểu của
mấy ông
VC: Với sức người sỏi đá cũng thành cơm]. Theo ông đây là từ tư tưởng
Do Thái
giáo mà ra. Người Do Thái đã từng lầm lẫn với Chúa Ky Tô, [Le Juif
s'est trompé
avec le Christ], như nó lầm lẫn với Karl Marx... Nó cứ luôn luôn lầm
lẫn, tất
cả là do, nó đánh giá quá cao con người.
Cái họa con bọ VC
theo Gấu
là do những "chúng ông" đánh giá quá cao "chúng ông", chứ
không phải đánh giá quá cao con người, hay nói riêng, con người Việt
Nam.
Một cách nào đó, chúng tôi đã không "ôm lấy" cuộc chiến đó, cả trong
ý nghĩa, "chống lại" nó.
Chúng tôi tởm nó, trong khi chúng tôi chỉ có nó, như là phần đời đáng
thương
nhất, và cũng đáng yêu nhất, của chúng tôi.
Thử tính lại đi, bao nhiêu bạn thân, người thân, đã nằm xuống, vì nó?
NQT: Thư gửi bạn ta
*
Cái kiểu nhìn
TCS, như 1 tên VC nằm vùng, hoặc quá hèn nhát, bợ đít VC, qua tên đại
diện cho
Bắc Bộ Phủ ở phía Nam là Hồ Tôn Hiến… sau 1975 như ở một diễn đàn [DM]
qua mấy đấng
như NDT, thí dụ, theo Gấu, là do quá thiếu sự tưởng tượng, [theo cái
nghĩa, hận
thù là do thiếu sự tưởng tượng mà ra], đố kỵ, ghen tài….
Không kể một độc giả bình
thường, thử hỏi trong số những kẻ chửi TCS mà đã từng nhi
nhô viết văn, làm thơ, soạn nhạc, có tên nào có tác phẩm cho ra hồn?
Hơn thế nữa,
đúng như Steiner phán, âm nhạc là cõi vượt quá xấu tốt, thiện ác, làm
sao lại kéo
nó xuống cái cuộc tranh luận không hề bao giờ chấm dứt giữa Quốc &
Cộng cho được?
TCS quả đúng
là 1 tên VC, theo nghĩa đẹp nhất của nó, như những đoạn trích dẫn ở
trên cho thấy.
Ngay cả khi TCS nhìn ra cái xấu, cái thất
bại của cuộc thống nhất, thì ông vẫn còn mong phép lạ xuất hiện, vì ông
nghĩ,
không thể nào “xoá đi làm lại” được.
Còn cái chuyện
TCS đi Mẽo chơi như cô em nói, là do sức khoẻ TCS không cho phép, là
nhảm. TCS
không đủ dũng lược để mà qua Mẽo đối diện với quá khứ mê VC của ông!
Có lẽ anh
cũng đồng ý đây là một vinh dự rất lớn, chẳng riêng cho anh Sơn mà cho
cả đất
nước Việt Nam.
TVT [DM]
Cái vụ Bob
Dylan đến Việt Nam theo G chẳng phải là 1 vinh dự rất lớn cho cả đất
nước Mít,
và nó làm G lại nhớ đến trường hợp bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết của
Paul
Celan, được đám Nazi mê quá, vì nó làm chúng dịu đi nỗi đau nỗi nhục Lò
Thiêu.
Mỗi lần nghe Thần Chết ru mãi ngàn năm là chúng ngủ được, như TCS mỗi
lần đi 1
ly cay vậy!
*
Lý do chính
của danh vọng tức thời - một điều sau này Celan ân hận và gần như loại
ra khỏi
cuộc đời của ông - đó là từ một bài thơ "lạ thường" mà ông làm liền
sau khi chiến tranh chấm dứt, "Todesfugue", "Tẩu Khúc của Thần
Chết". Thực ra bài thơ lần đầu xuất hiện trên báo Romanian, do một
người bạn
của Celan dịch, mặc dù bản thân ông có thể làm điều này. Tên của bài
thơ khi được
dịch là "Tangoul Mortii", "Điệu Tango của Thần Chết". Không
phải Celan là người đầu tiên đặt tên bài thơ của ông là "Tango của Thần
Chết",
một tên sĩ quan SS cũng mơ mộng, và đã từng ra lệnh cho một dàn nhạc Do
thái ở
một trong những trại tập trung soạn và chơi bản nhạc có tên như vậy.
Cũng vẫn
điệu Tango đã từng được chơi tại Paris khi Celan ở đó vào đầu năm 1939.
Ban nhạc
sau đó đã phục vụ Hitler và Goebbels, cả hai đều thích điệu Tango, thay
vì Jazz
của New York, bị coi là thoái hóa.
Cho dù Tango
(văn minh Mỹ châu La tinh) hay Fugue (văn hóa âm nhạc Đức), bài thơ
khác thường
của Celan không như bất kỳ một "cái gì khác" - một nghệ phẩm thực sự,
nguyên sơ nào cũng bắt buộc phải như vậy - không giống ngay cả những
điều ghê tởm
mà nó đã diễn tả, hoặc nó từ đó mà ra. Không phải bài thơ đã "chuyên
chở"
những điều ghê tởm "bầy ra đấy", nhưng nó tạo nên một viễn ảnh tuyệt
đối, của riêng nó, về chúng: Bắt buộc phải như vậy, thi ca vĩ đại "đẻ
ra" thế giới của riêng nó.
Chúng ta có
quyền nghi ngờ, có một nghịch lý ở đây. Có một điều đáng nghi ngờ về sự
"thành công mang tính đại chúng" của bài thơ "Tẩu Khúc của Thần
Chết" ở Đức, sau khi chiến tranh chấm dứt, đặc biệt trong giới trẻ, trở
thành trò thờ phụng, sùng bái.
Auden đã từng
nói: "Không một thi sĩ nào có thể ngăn cấm chuyện thơ của người đó được
sử
dụng như là trò phù thuỷ." "Tẩu Khúc của Thần Chết" đã đem đến
cho người Đức một niềm khuây khỏa "lớn lao, kỳ diệu", ngang xứng với
khôi hài đen, một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng thời: "Người Đức
sẽ
chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do thái về Auschwitz." Nhưng bài
thơ, chính bài thơ, trong sự thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn dửng dưng
trước tất
cả những phản ứng "ngoắt ngoéo", và luôn cả những đáp ứng của trái
tim con người.
Tác giả của
nó không được may mắn như vậy.
Trong những
lần nói chuyện sau đó ở Đức, về thơ ca của ông, Celan đã kết hợp mọi
trò lịch sự,
nhũn nhặn qua một lời nhắc nhở "sắc bén" rằng, tính "hài
âm", thuận tai, của thi ca truyền thống Đức, trong những năm chiến
tranh
đã có thể, "nhiều hay ít không bị bực bội, gây rối, để rong ruổi cùng
với
những điều ghê tởm nhất." Tính hài âm trong thơ của riêng ông không như
vậy.
Nó "đã là" sự bực bội, điều gây rối. Và tuy nhiên, bằng một sự khôi
hài khủng khiếp, cao độ, nó cũng có thể để cho sự bực bội nằm an nghỉ ở
trong
trái tim, trong tâm hồn người Đức, những người có thể "suy cảm" tội lỗi
của họ một cách tuyệt vời, chẳng đau đớn một chút nào, thông qua môi
trường đại
chúng của bài thơ.
Chẳng có
gì là ngạc nhiên, nếu sau đó Celan từ chối, không cho phép sử dụng bài
thơ
trong những bài đọc, hay được in lại trong trong tuyển tập thi ca phổ
thông.
Cũng chẳng có gì là ngạc nhiên, khi ông cảm thấy khốn khổ khốn nạn, mỗi
lần
thăm viếng nước Đức, và được đón rước rộn ràng, được ca tụng và trao
bằng khen,
giải thưởng. Ông tự cảm thấy ông là một người Do thái đã được "thuần
hóa", một người mà thơ ca nổi tiếng làm cho người Đức cảm thấy thoải
mái
hơn: tệ hại hơn thế nữa, thơ ca của ông đã được "hạ cấp hóa", trở
thành một loại nhạc pop. Thế hệ trẻ có thể nghe, vừa mua vui, vừa chọc
quê, vừa
dễ dàng kết án đám đàn anh của họ.
Mẹ có đau khổ không thưa mẹ Mít?
Thế hệ
trẻ có thể nghe, vừa mua vui, vừa chọc quê, vừa
dễ dàng kết án đám đàn anh của họ.
Thảo nào đám
VC con, VC cháu mê TCS như điên!
Ðó cũng là lý do nhà nước VC vinh danh TCS, để cho đám con nít quên đi
những cú
chống đối, ly khai, những người "vấp ngã" như Lê Công Ðịnh!
Những ngày TCS
"Tôi đã
phạm cái tội tồi tệ nhất mà một người đàn ông có thể phạm, trong mọi
thứ tội:
Tôi đã không hạnh phúc"
(I have
committed the worst sin of all/That a man can commit. I have not
been/happy…." Borges, "Remorse")
Cái tội tồi
tệ nhất, hình như Trịnh Công Sơn đã phạm.
Hãy nghe nhạc của ông: không hề có một
cuộc tình nào đến nơi đến chốn, "từ lúc đưa em về là biết xa ngàn
trùng… .
Nhạc Trịnh
Công Sơn và câu nói của Auden: Làm sao thi sĩ ngăn cấm thiên hạ lợi
dụng thơ của
mình làm trò phù thuỷ.
Tính ma quái trong nhạc Trịnh Công Sơn đã được con quỉ
chiến tranh lợi dụng?
He did not
want to compose another Quixote – which is easy – but the Quixote
itself.
(Borges: Pierre Menard: Tác giả "The Quixote").
Trong nhạc
Trịnh Công Sơn, có một điều gì thê thảm, và là đặc trưng của "cuộc
chiến
chính nó" - the war itself - người chết hai lần, người phu quét đường
dừng
chổi đứng nghe...
Những ngày Trịnh Công Sơn, với riêng tôi, là những ngày ở Sài
Gòn, thời kỳ Mậu Thân.
There was no
one in him: behind his face (which even through the bad paintings of
those
times resembles no other) and his words, which were copious, fantastic
and
stormy, there was a bit of coldness, a dream dreamt by no one. (Borges,
Everything and nothing).
A dream
dreamt by no one: Giấc mơ chẳng ai mớ: Hiện thực Miền Nam những ngày
sau 1975?
La seule
personne qui ai encore une vie privée en Allemagne est celle qui dort.
(Người độc
nhất còn có một đời sống riêng tại Đức là một người đang ngủ.) Steiner
trích dẫn
câu nói của Robert Ley, một ít lâu sau khi Nazi lên nắm quyền, trong
L’historicité des rêves (Passions inpunies, p.242). Và Steiner giải
thích thêm:
Tới một điểm nào đó, những bến cảng an toàn, ngầm chống lại cõi ghê tởm
là chủ
nghĩa toàn trị, là ở trong những giấc mơ, [trong khi ngủ, lẽ dĩ nhiên].
Cá nhân độc
nhất còn thức sau 1975 tại Việt Nam: Trịnh Công Sơn? Và để chống lại
cơn mất ngủ,
ông dùng rượu? Và ông tìm thấy những bến cảng an toàn ở trong đó?
Có người nói
Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, ý ông thế nào?
- Ý thức phản
chiến của Trịnh Công Sơn còn có vẻ mờ nhạt, không rõ ràng, phần nhiều
là ẩn dụ,
kín đáo. Vì con người Trịnh Công Sơn là nặng về tình cảm, kiểu nghệ sĩ,
tính
chiến đấu, tính chiến sĩ còn yếu, chỉ bàng bạc. Cũng đáng tiếc. Nhưng
tạng con
người là thế, mỗi người một vẻ. Được như thế, để cho đời chừng ấy tác
phẩm được
đông đảo người mến mộ ưa thích, mê say là quý lắm rồi.
Bùi
Tín
Ðọc, thấy tếu
quá.
TCS mà có tính chiến sĩ
thì đã lên rừng rồi. Ông ta mê VC. Ở lại, ông trốn
lính, nhờ sự đóng góp, bao biện của những chiến sĩ VNCH như Lưu Kim
Cương, Văn
Quang, thí dụ. Nhất là LKC, chiến sĩ thứ thiệt! Không có cái sự bảo
lãnh của LKC, bảo đảm Quân Cảnh tóm TCS từ khuya rồi, làm gì có ngày bò
ra đường, lên Ðài Phát Thanh hát Nối Vòng Tay Lớn!
Khi đất nước thống nhất,
cái ngày 30 Tháng Tư, ông sướng
điên lên, mò ra đường, vì hết còn sợ Quân Cảnh tóm, lên Ðài Phát Thanh
hát
lên giấc mộng
lớn của cả dân Mít, nhưng VC đâu có giấc mộng lớn, mà chỉ có tham vọng
lớn,
ăn cướp
Miền Nam.
Chính vì thế mà GNV này
phán:
Chúng ta mê
nhạc TCS khác với VC mê nhạc TCS. Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris, "hình
như" cũng đã ngửi ra được điều này, khi phán, chỉ có ở Miền Nam, mới có
thứ
nhạc sĩ như TCS.
Nhạc
TCS đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám
VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi
nhục về
tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.
Bản thân Trịnh
cũng đậm nỗi đau đó, chính vì thế mà ông viết ra thứ nhạc đó!
Tình Yêu như
Trái Phá, một cách nào đó, còn là nỗi mong mỏi của họ Trịnh.
Ông thèm
chết hai
lần thịt da nát tan.
Đúng như vào lúc này, lịch sử Mít đếch tha cho ông.
Ông thèm được
“chọn bên” [chọn VC trong cuộc chiến, và khi nó chấm dứt, chọn đi cải
tạo như bạn
bè Miền Nam của ông, chọn đi vượt biển, như cả Miền Nam], và bất cứ
chọn lựa
nào, thì ông cũng không thể!
Đau thật.
Nơi em về trời
xanh không em?
TCS hỏi, đau
thương như thế, chính là vì ông đếch có một nơi nào để về.
PXA chẳng đã
từng than, địa ngục chật cứng, đếch có chỗ cho tớ!
Đau thật
Giả như nhạc
TCS bị cấm hát, thí dụ, có lẽ chúng ta bớt nghiêm khắc với ông chăng?
*
Có thể có người vặc Gấu: TCS có nơi để về là xứ Mít, là thành phố Xề
Gòn?
Không phải.
TCS có chốn
để ở, xứ Mít dung tha cho ông, Sài Gòn cho ông tá túc sau khi Huế đá
đít ông,
qua ông bạn quí HPNT và cú Mậu Thân. (1)
Ở khác. Về khác.
Tất cả Mít Miền Nam chúng ra đều có một nơi để về, là 1 Miền Nam trong
tâm tưởng,
hồi tưởng, trừ đám VC nằm vùng.
Nơi em về trời
xanh không em, là như thế đấy!
|