*

Tribute

























Tình Yêu như Trái Phá

Sắp phát hành 300 bức thư tình của Trịnh Công Sơn

Phỏng vấn nhà văn Hoàng Hải Thủy

TCS_2011

TCS 2010

Nov 11, 2003

You are a real Kafka in strenght, health, appetite, voice, rhetorical skill, self-satisfaction, superiority, stamina, quickness, insight, generosity, and of course you have all the errors and weakness that go with that qualities.
Kafka

Thư gửi ông thân sinh.

Thầy mới là một ông Bắc Kỳ thứ thiệt. Dẻo dai, mạnh khỏe, ăn uống, yêu đương, làm việc... mới thấy ham, giọng nói mới ngọt ngào, nói năng mới khéo léo làm sao! Rất ư hài lòng về chính mình, rất ư tự mãn về cái vị thế gia trưởng của mình, rất ư là chịu đựng gian khổ, nhanh nhẹn, có đầu óc sáng tạo, rất ư đại lượng với kẻ dưới, nhưng than ôi, Thầy có tất cả những cái lầm lẫn, những cái yếu đuối: Như những con đỉa, chúng bám chặt lấy Thầy, không làm sao rứt ra.

[Trích thư của một ông con Bắc Kỳ, từ hải ngoại gửi về cho một ông bố ở Hà Nội]

NKTV

*

Nhạc TCS  đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi nhục về tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.

Khi viết ra những dòng trên, G chỉ mơ mòng tưởng tượng ra mình, nếu là 1 anh VC Bắc Kít, và được gợi hứng từ kinh nghiệm của Paul Celan, khi bị đám Nazi vồ lấy bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết của ông.

Ui chao quả đúng đây là tâm trạng của VC thực. Qua kinh nghiệm thực được khoa  học chứng minh, qua những dòng dưới đây, từ 1 bài viết trên tờ Người Kinh Tế Mới

Thanh tẩy bằng nỗi đau
Purification by pain

The masochism tango

Religion got it right: pain seems to assuage guilt

CATHOLIC theology says that heaven awaits the pure of heart while hell is reserved for unrepentant sinners. For the sinful but penitent middle, however, there is the option of purgatory-a bit of fiery cleansing before they are admitted to eternal bliss. Nor is inflicting pain to achieve purification restricted to the afterlife. Self-flagellation is reckoned by many here on Earth to be, literally, good for the soul.

Surprisingly, the idea that experiencing pain reduces feelings of guilt has never been put to a proper scientific test. To try to correct that, Brock Bastian of the University of Queensland, in Australia, recruited a group of undergraduates for what he told them was a study of mental acuity. At the start of the study, 39 of the participants were asked to write, for 15 minutes, about a time when they had behaved unethically. This sort of exercise is an established way of priming people with feelings associated with the subject written about. As a control, the other 23 wrote about an everyday interaction that they had had with someone the day before.

After the writing, all 62 participants completed a questionnaire on how they felt at that specific moment. This measured, among other things, feelings of guilt on a scale from one (very slightly guilty or not at all) to five (extremely guilty).

Participants were then told they were needed to help out with a different experiment, associated with physical acuity. The 23 who had written about everyday interactions and 20 of the 39 who had written about behaving unethically were asked to submerge their non-dominant hand (i.e., left, if they were right-handed, and vice versa) into a bucket of ice for as long as they could. The remaining 19 were asked to submerge their non-dominant hand into a bucket of warm water for 90 seconds, while moving paper clips one at a time between two boxes, to keep up the illusion of the task being related to physical capabilities. That done, participants were presented with the same series of questions again, and asked to answer them a second time. Then, before they left, they were asked to rate on a scale of zero (no hurt) to five (hurts worst) how much pain they experienced in the warm water and the ice. Dr. Bastian reports in Psychological Science that those who wrote about immoral behavior exposed themselves to the ice for an average of 86.7 seconds whereas those who had written about everyday experiences exposed themselves for an average of only 64-4. The guilty, then, either sought pain out or were inured to it. That they sought it out is suggested by the pain ratings people reported. Those who had written about immoral behavior rated the ice-bucket experience at an average of 2.8 on the pain scale. The others rated it at 1.9. (Warm water was rated 0.1 by those who experienced it.)

Furthermore, the pain was, indeed, cathartic. Those who had been primed to feel guilty and who were subjected to the ice bucket showed initial and follow-up guilt scores averaging 2.5 and 1.1 respectively. By contrast, the "non-guilty" participants who had been subjected to the ice bucket showed scores averaging 1.3 and 1.2most no difference, and almost identical to the post-catharsis scores of the "guilty". The third group, the guilt-primed participants who had been exposed to the warm bucket and paper clips, showed scores averaging 2.2 and 1.5. That was a drop, but not to the guilt-free level enjoyed by those who had undergone trial by ice.

Guilt, then, seems to behave in the laboratory as theologians have long claimed it should. It has a powerful effect on willingness to tolerate pain. And it can be assuaged by such pain. Atonement hurts. But it seems to work-on Earth at least. •

*

Note: Bài này thú vị thực. Brodsky không tin chân lý, nhà văn phải đau  khổ mới có tác phẩm lớn, nhưng đau khổ quả là liều thuốc thanh tẩy tâm hồn.

Thảo nào VC bắt Ngụy phục hồi nhân phẩm qua Lò Cải Tạo!

NKTV

Tôi cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được.
Lth

Theo tôi, những người "mê chết đi được", nhạc TCS, phải là…  VC!
Đây là hiện tượng "phản ứng ngược", trong vật lý, contre-réaction, và nó đã xẩy ra với bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết của Paul Celan.
Hay, 1 thứ khôi hài đen, “Người Đức sẽ không bao giờ tha thứ cho người Do Thái, vì vụ Lò Thiêu”!

Chúng ta mê nhạc TCS khác với VC mê nhạc TCS. Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris, "hình như" cũng đã ngửi ra được điều này, khi phán, chỉ có ở Miền Nam, mới có thứ nhạc sĩ như TCS.
Nhạc TCS  đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi nhục về tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.
Bản thân Trịnh cũng đậm nỗi đau đó, chính vì thế mà ông viết ra thứ nhạc đó!

Tình Yêu như Trái Phá, một cách nào đó, còn là nỗi mong mỏi của họ Trịnh. Ông thèm chết hai lần thịt da nát tan. Đúng như vào lúc này, lịch sử Mít đếch tha cho ông.
Ông thèm được “chọn bên” [chọn VC trong cuộc chiến, và khi nó chấm dứt, chọn đi cải tạo như bạn bè Miền Nam của ông, chọn đi vượt biển, như cả Miền Nam], và bất cứ chọn lựa nào, thì ông cũng không thể!
Đau thật.
Nơi em về trời xanh không em?

TCS hỏi, đau thương như thế, chính là vì ông đếch có một nơi nào để về.
PXA chẳng đã từng than, địa ngục chật cứng, đếch có chỗ cho tớ!
Đau thật

Giả như nhạc TCS bị cấm hát, thí dụ, có lẽ chúng ta bớt nghiêm khắc với ông chăng? 

Tình cờ đọc bài thơ sau đây, đọc, và cùng lúc nghe “Em còn nhớ hay em đã quên”, thì thật tuyệt
 

IT WAS ON ONE OF MY VOYAGES

It was on one of my voyages ...
High sea, and the moon was out ...
The evening hubbub aboard ship had quieted.
One by one, group by group, the passengers retired.
The band was just furniture that for some reason had remained in a corner.
Only in the smoking lounge did a chess game silently continue.
Life droned through the open door of the engine room.
Alone ... A naked soul face-to-face with the universe!
 (O town of my birth in faraway Portugal!
Why didn't I die as a child, when all I knew was you?)

Fernando Pessoa

 

Vào một trong những chuyến đi của tôi…

Vào một trong những chuyến đi của tôi…
Biển cao, trăng đầy..
Tiếng ồn ào buổi chiều lặng dần
Theo từng nhóm hành khách rời sàn tầu
Ban nhạc thì vẫn còn ở một góc, như đồ đạc bày ra đó.
Chỉ ở trong phòng hút thuốc, một trận cờ vẫn lặng lẽ tiếp tục.
Đời sống rù rì chun ra qua cái cửa mở của phòng máy
Cô đơn, một mình… Một linh hồn trần trụi đối diện với thế giới, vũ trụ
(Ôi thành phố quê hương tại Xứ Mít xa vời vợi!
Tại sao tôi không chết đi, như là một đứa trẻ, khi tất cả những gì mà tôi biết là… Sài Gòn?)

Nói đến cờ tướng. Trên số báo NYRB 10.3. 2011, có 1 bài thật là tuyệt vời của Kỳ Vương Garry Kasparov viết về Kỳ Vương trở thành Huyền Thoại, Bobby Fischer.

TV chắc chắn là sẽ dịch bài này, để tưởng niệm 1 bạn cờ của GNV, Châu Văn Nam, cựu nhiếp ảnh viên UPI, một đại ân nhân của Gấu. Nhờ anh mà vợ chồng Gấu và mấy đứa nhỏ chạy trốn, thoát, quê hương.

*

nam

*

Magnus Carlsen, a twenty-year-old Norwegian, first rose to number 1 in the global chess rankings last year.

Tân Kỳ Vương thế giới, 20 tuổi. Trông hình, tưởng một em!


*

And the Show Went On:
Cultural Life in Nazi-Occupied Paris

by Alan Riding.

Knopf, 399 pp., $28.95

Just after the war, when it was safe again to speak and write freely, Jean-Paul Sartre claimed that the French, especially French writers and artists, had only two choices under Nazi occupation: to collaborate or to resist. He had chosen the latter, naturally: "Our job was to tell all the French, we will not be ruled by Germans."
    In fact, Sartre's behavior during the occupation, though he was never a collabo, was less heroic than his immediate postwar views might suggest. Alan Riding, whose judgment of the French intelligentsia under occupation is neither moralistic nor indulgent, places Sartre very much on the periphery of the resistance. Sartre's plays, such as Huis Clos (No Exit), were read by some admirers (and certainly by Sartre himself, in hindsight) as veiled expressions of anti-Nazi protest. But they were passed without problem by the German censors, and German officers were happy to attend first nights, as well as the post performance parties.
    Sartre was surely being more truthful, about himself at any rate, in an interview given more than thirty years later. "In 1939, 1940," he recalled,
    we were terrified of dying, suffering, for a cause that disgusted us. That is, for a disgusting France, corrupt, inefficient, racist, anti-Semite, run by the rich for the rich-no one wanted to die for that, until, well, until we understood that the Nazis were worse.

Ai đã không cộng tác với Nazi?

Sau khi Paris được giải phóng, Sartre bốc phét, nhà văn Tây chúng tớ, khi đất nước bị Nazi đô hộ, chỉ có hai chọn lựa, hoặc cộng tác hoặc chống lại.
Lẽ dĩ nhiên, ông chọn chống Nazi: "Cái job nhà văn của chúng tớ là nói cho tất cả dân Tẩy biết, chúng ta đếch cho phép Nazi cai trị chúng ta"
Tuy nhiên sau đó, ông nói lại:
Chúng tớ lúc đó quá sợ chết, nhất là chết cho 1 chính quyền cà chớn, khốn kiếp... chỉ mãi đến sau này, chúng tớ mới hiểu được là Nazi còn khốn kiếp hơn nhiều!

Ui chao, đúng là thái độ của “đa số chúng ta”, sau 30 Tháng Tư 1975.
Trước đó, có thằng nào mà không sợ chết đâu, nhất là chết cho... Mỹ Ngụy!
Và, cái thái độ rủa xả TCS "hung hăng" như thế, phải chăng cũng y chang Sartre, khi bốc phét?

Trên DM thấy nhà thơ NDT làm mấy bài nhại lời nhạc Trịnh, và phán, nhại là 1 thứ nghệ thuật. Quả có thế, nhưng đây là nghệ thuật, như 1 thứ khí giới của kẻ yếu, trước kẻ mạnh, Ngay sau 30 Tháng Tư, thứ này nở rộ, “Như có Bác H trong nhà thương Chợ Quán, vừa ló ra là chúng đánh bể đầu”. Nhạc Trịnh cũng bị nhại, ở trong nước, “gia tài của mẹ để lại cho con, một lũ khùng khùng”…  gì gì đó, Gấu quên mẹ nó mất! 

Có một vấn nạn thật căng, ít ai để ý đến, liên quan đến “Trịnh”: Tại làm sao mà mọi thứ nhạc, đỏ vàng sến da cam… đều ngỏm hết, trừ nhạc Trịnh, càng ngày càng có giá?
Đâu phải tự nhiên mà nhiều nhà văn nhà thơ nhà phê bình tìm đủ mọi cách ăn theo Trịnh?
Đâu phải tự nhiên mà chúng ta chia thành hai phe choảng nhau vì ông?
Tôi cũng mê. Mê như điên, là tại sao?


Borges, trong bài viết "Những tiền thân của Kafka", có nhắc tới những con người, ôm trong mình đủ hết những giấc mộng hải hồ, chứa trong nhà, đủ hết bản đồ những xứ sở, những thành phố, những con ga, những ngoại ô đèn vàng… vậy mà chưa bao giờ dám rời thành phố, hay quá nữa, con phố của mình.

Tôi nghĩ TCS khi viết "Em còn nhớ hay em đã quên", là ở trong tâm trạng đó: ông giữ giùm Sài Gòn cho tất cả mọi người đã từng ở đó, và vì một lý do gì đó, phải đành đoạn bỏ đi.

Gấu này, lần đầu nghe, chợt thấy mình là tác giả bài ca, và người ra đi kia, là BHD.
Thực sự là như vậy.
[Mi đừng đem ta ra làm trò cười!]

Em còn nhớ hay em đã quên ?
Nhớ đường dài qua cầu lại nối
Nhớ những con kênh nối hai giòng sông
Nhớ ngựa thồ ngoại ô xa vắng
Nỗi xôn xao hàng quán đêm đêm

Ui chao, bạn đọc, bạn nghe, rồi bạn đọc bài thơ sau đây, thì cái nỗi nhớ Sài Gòn mới tràn đầy.

Phố dài như nỗi đợi
Như giấc mơ chẳng hề tận cùng

LONG STREET 

Thankless street-little dry goods stores
like sentries in Napoleon's frozen army;
country people peer into shop windows and their reflections
gaze back at dusty cars;
Long Street trudging slowly to the suburbs,
while the suburbs press toward the center.
Lumbering trams groove the street,
scentless perfume shops furrow it,
and after rainstorms mud instead of manna;
a street of dwarves and giants, creaking bikes,
a street of small towns clustered
in one room, napping after lunch,
heads dropped on a soiled tablecloth,
and clerics tangled in long cassocks;
unsightly street-coal rises here in fall,
and in August the boredom of white heat. 

This is where you spent your first years
in the proud Renaissance town,
you dashed to lectures and military drills
in an outsized overcoat-
and now you wonder, can
you return to the rapture
of those years, can you still
know so little and want so much,
and wait, and go to sleep so swiftly,
and wake adroitly
so as not to startle your last dream
despite the December dawn's darkness.

Street long as patience.
Street long as flight from a fire,
as a dream that never
ends.

Adam Zagajieski: Eternal Enemies

*

Đám tang Pastenak

TCS vs LS

Khi TCS mất, cả thành phố Sài Gòn ngày nào là hang ổ của Mỹ Ngụy để tang ông. Hãy nhìn lại rừng người đưa tiễn ông tới nơi an nghỉ cuối cùng, là đủ hiểu.

Viết về ông, một lần, Gấu này đã viện tới Elias Canetti, nhà văn Đức, Nobel văn chương, khi ông mừng sinh nhật lần thứ năm mươi nhà văn Herman Broch:

Đừng sợ nữa. Bạn sợ như vậy là đã quá đủ cho đám tụi mình rồi. Tất cả chúng mình đều phải chết. Nhưng bạn chưa chắc đã phải chết. Có lẽ những bản rất tình ca của bạn, là cái phải đại diện cho cả lũ chúng mình với hậu thế. Bạn đã phục vụ chúng tớ bằng tình bạn trung thành và chân thực. Thời của lũ chúng ta chắc là chưa buông tha cho bạn đâu.

[Nguyên văn tiếng Đức, bản dịch tiếng Anh của Joachim Neugroschel, trong Lương Tâm Của Chữ, The Conscience of Words : Don' t be afraid, you have been afraid enough for us. We have all to die; but it is still not certain whether you too have to die. Perhaps your very words are what must represent us to posterity. You have served us with loyalty and honesty. The age will not release you].

Ui chao, đúng là tiên tri!
Lịch sử ]Mít] quả đếch chịu tha cho TCS.

Nhân 10 năm kỷ niệm ông chuồn, chúng xúm nhau làm thịt ông, cái thây ma chắc cũng chẳng còn, cái linh hồn, chắc cũng đã đầu thai, hay vẫn còn phải nằm trong Lò Luyện Ngục, theo quan niệm của Tây Mũi Lõ, bất cứ thằng cha nào, khi còn sống, quậy quá, tốt xấu đếch cần biết, là phải vô Lò Luyện Ngục chừng 20 niên, để sám hối!

Cũng trong bài viết Ác Mộng, Nightmares, Borges cho rằng Địa Ngục, Hell, không phải là ác mộng, mà giản dị chỉ là một phòng tra tấn, a torture chamber. Những điều ghê rợn, atrocious things, xẩy ra ở đó, nhưng nó không có không khí của một ác mộng, như là ở  "Bắc Bộ Phủ" [‘lâu đài  phong nhã, “noble castle”, chữ của Borges, ông để trong ngoặc].
Theo ông, đây là điều mà Dante đem đến cho chúng ta, có lẽ, lần đầu tiên, trong văn chương.

*

Il faut savoir voir Lisbonne pendant le temps exact d'un sanglot. La voir tout entière, par exemple, dans la première lumière du matin. Ou la voir complètement dans le dernier reflet du soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que, même si c'est la première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de Lisbonne et vous avez à chaque coin le vague souvenir d'y être déjà passé. Quand ? Vous ne savez pas. Mais vous êtes déjà venu ici avant d'y aller pour la première fois.

le quartier littéraire de Lisbonne 

Ôi chao giá như viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà nức nở. Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết những cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.

Góc văn của Lisbonne


«Mais suis-je celui qui vit ici, / qui est retourné ici / qui y est retourné, retourné / et qui y retourne encore?», se demandait l'employé de bureau Bernardo Soares qui, comme M. Pessoa, ne quittait jamais Lisbonne et donc n'y retournait jamais...
Nhưng tôi là ai, phải chăng là kẻ sống ở đây, ở Sài Gòn/ Kẻ trở về đây/ Trở về, trở về/ Và còn trở về?
Tôi là kẻ chẳng bao giờ rời Sài Gòn, như tay nhạc sĩ họ Trịnh kia, nên chẳng bao giờ trở về.
J'y étais déjà venu avant d'y être jamais allé.
Tôi là kẻ đã từng tới Sài Gòn, trước khi chưa từng tới đó.
*
Góc văn của Sài Gòn, như của Lisbonne, là Quán Chùa.
Cũng có con đường Tự Do, thay vì Rua da Prata, nhưng, bởi vì thiếu một góc biển của Lisbonne, cho nên cuối đường là bến tầu, với lòng mình phơi trên kè đá, với những ống khói tầu mệt lả, và ném mẩu thuốc cuối cùng xuống lòng sông, là ném cả hy vọng, cùng cuộc đời trôi theo, cùng muôn trùng những chuyến vượt biển, theo ngón tay trỏ của pho tượng Đức Thánh Trần.
*
Ôi chao, nhớ ơi là nhớ, góc quán, góc bàn, những cây me bên ngoài, khúc đường này là cuối con đường Gia Long, đầu kia, là Ngã Sáu Sài Gòn....
*
...vivre à Lisbonne comme s'il était une allumette froide tandis que les maisons de ceux qui l'avaient aimé tremblaient à travers ses larmes:
Sống ở Lisbonne như thể nó là một cây diêm lạnh giá, trong khi những căn nhà của những con người yêu thương nó run rẩy qua những dòng nước mắt.
Ôi chao đúng cái cảnh Gấu chạy theo em mà nước mưa, nước mắt, nước mũi chảy ràn rụa.
Parce que, même si c'est la première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà vécu toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides exemplaires.
Bởi là vì, ngay cả khi, lần đầu tiên bạn nhìn thấy Sài Gòn, bạn có cảm tưởng đã sống, ở trong đó, tất cả những cuộc tình cụt ngủn, những ảo tưởng mất đi, và những cú tự làm thịt mình đáng làm gương cho hậu thế.

Số là "cô bạn" của tôi thì ở mãi bên Chợ Lớn. Tôi thường là chọn ca trực đêm, để dễ bề nói dối bà xã. Khi bớt việc, trao Đài cho một nhân viên phụ, thế là "chàng", trong túi thủ thẻ nhà báo quân đội, giấy chứng nhận hợp lệ tình trạng quân dịch, người và xe cứ thế phóng thẳng một mạch qua Chợ Lớn, ngồi cho tới khuya, ỷ y nếu có quá giờ giới nghiêm, đã có lá bùa hộ mạng, chứng nhận đây là phóng viên tiền tuyến của báo quân đội, đang đi công tác!
Ôi, làm sao quên được cảm giác, khi về, vắng tanh, phóng xe như điên trên đường phố Sài Gòn, mà hồn của mình thì vẫn luẩn quẩn ở một con hẻm ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn, nơi có căn nhà, có "giàn thiên lý, có người tôi thương"!...
Nguồn 

Con phố dài ở đây, là đường Hồng Thập Tự. “Đài” của Gấu, số 5 Phan Đình Phùng, tầng trên cùng. Gấu hạ san, băng con hẻm, qua đường HTT, rồi quẹo phải và cứ thế phóng một mạch.
Khuya, khi về mới thật tuyệt, ấy là vì hệ thống đèn ngã tư được “cài đặt” theo chế độ đồng bộ: bạn đi đúng vận tốc được chỉ định, là không hề bị 1 cái đèn đỏ nào hết, cứ tới ngã tư là đèn tự động bật qua xanh, như chờ sẵn bạn!

Mùa Xuân trên thành phố HCM quang vinh!
[Will spring never come, will spring never come?]


… cái tay đọc lời bi ai [elegy] tới nhất, về TCS là tay Le Huu Khoa, khi lọc ra chỉ một lời nhạc của TCS:

Chim thiêng hót lời mệnh bạc.

Đúng là cả cuộc đời của TCS gói ghém ở trong câu này.

L'oiseau sacré chante le destin tragique

Connu avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel, Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme. L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.
Được biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]

Tuyệt!

Un jour se noyer et flotter

Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
La course de l'eau la limpidité
Mon âme l’eau trouble
Les hérons s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la vie proches
Mais les pas ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
Les chemins tordus
La lumière soudaine
Depuis l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de l'infini
Se noie disparaît sans appel de retour

Traduit par Le Huu Khoa
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil] 

Lời Việt:

Cũng sẽ chìm trôi

Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm
*
Note: Tks K. Gấu

Ui chao, cái đám theo đóm ăn tàn, viết hết cuốn sách dầy cộm này tới cuốn khác về TCS, liệu có viết được, chỉ một mẩu, như trên?

Nỗi buồn nhạc Trịnh, hay là âm điệu tủi thân và mất nước:

Huzun

Nỗi buồn thỉu buồn thiu mà Lévi-Strauss miêu tả là điều mà một người Tây Phương cảm thấy, khi ông làm một cuộc nghiên cứu những thành phố rộng lớn bị cái nghèo đói hành hạ của vùng nhiệt đới, khi ông nhìn ngắm những mớ người hỗn độn và cuộc sống ngổn ngang của họ. Nhưng ông không nhìn thành phố qua con mắt của họ. Tristesse có trong nó, một con người Tây Phương, cảm thấy tội lỗi đầy mình và cố xoa dịu nỗi đau, mặc cảm tội lỗi của một tên thực dân, bằng cách từ chối không chấp nhận những bản kẽm, những định kiến, hòng tô son điểm phấn lên những cảm tưởng của mình. Huzun, về mặt khác, không phải là một tình cảm thuộc về một người quan sát đứng ở bên ngoài, không nhập cuộc. Tùy mức độ gia giảm, âm nhạc cổ điển Ottoman, âm nhạc bình dân Thổ nhĩ kỳ, đặc biệt nhạc abaresque vốn trở thành bình dân trong thập niên 1980, tất cả đều diễn tả cùng một xúc động, mà chúng ta cảm thấy, giữa đau đớn thân thể, và nỗi sầu miên man. Và những người Tây Phương tới thành phố đã thất bại không nhận ra điều này. Ngay cả Gérard de Nerval (mà sự buồn bã riêng tư của chính ông đã khiến ông tự tử), đã nói đến chuyện, ông hoàn toàn lột xác, hoàn toàn mới mẻ, tươi rói, nhờ những mầu sắc, cuộc sống đường phố, sự hung bạo, và những lễ nghi của Istanbul. Ông ghi nhận, đã nghe tiếng đàn bà cười lớn trong những nghĩa địa của Istanbul. Có thể ông tới Istanbul trước khi thành phố đi vào cơn tưởng niệm, hồi nhớ, nghĩa là khi đế quốc Ottoman còn oanh liệt hiển hách, hay có thể bởi vì chính ông ta đang cần trốn thoát nỗi buồn của mình, những điều này đã gợi hứng cho ông trang điểm rất nhiều trang trong Du ngoạn tới Đông phuơng, với những màn quái dị sáng ngời của Đông Phương.
*
Ông ghi nhận, đã nghe tiếng đàn bà cười lớn trong những nghĩa địa của Istanbul:
Ui chao, liệu đây cũng là tâm trạng Gấu khi nghe Tình Nhớ, đứng trước một cái giường sắt lạnh lẽo, tại Trung Tâm Ba tuyển mộ nhập ngũ Quang Trung, vào một ngày cận Tết, ngay sau Mậu Thân, và tự hỏi, liệu thằng em trai tử trận đã từng có lần nằm trên chiếc giường này…?
Tình Nhớ thì có liên quan gì tới phản chiến?
DT
Và những người Tây Phương tới thành phố đã thất bại không nhận ra điều này.
Ui chao, liệu đám Yankee mũi tẹt cũng đã thất bại, và không nghe ra "nhạc Trịnh"?
*

Note: V/v Trịnh Cung vs Trịnh Công Sơn.

Gấu không nghĩ, TCS ghiền rượu là do thói ưa xu nịnh, sau 1975, nhưng mà là do, sau khi hát... Nối Vòng Tay Lớn ở trên Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Đây là thời điểm đỉnh cao chói lọi của nhà thơ, nhà nhạc sĩ, nhà hát rong. Ông nghĩ, Giấc Đại Mộng của dân Mít đã trở thành hiện thực. Sau đó, ông ngẫm ra, mình bị lừa, ông như Nàng Kiều bị Hồ Tôn Hiến Víp Va Ka lừa. Ông ghiền rượu là vì như vậy: Vì đã lầm Kẻ Đại Ác mà khuyên Từ Hải Miền Nam đầu hàng Bắc Bộ Phủ! (1)
(1) Một độc giả Tin Văn, vặc Gấu, tại sao lại gọi Víp Va Ka là Hồ Tôn Hiến?
Hồ Tôn Hiến là ai, thì mọi người đều rõ. Ông này được lệnh Bắc Bộ Phủ chiêu hàng giặc Ngụy ở tít Miền Nam, và bèn chơi cái đòn "tiếng địch Ô giang", [cùng lúc với đòn PXA], nghĩa là bằng những bài ca phản chiến của nàng Kiều họ Trịnh.
Thành công rồi, những lúc rảnh việc triều đình, ông nhậu nhẹt lai rai, và cho vời nàng Kiều đến gẩy đàn, ban cho vài ly, vì biết nàng Kiều ghiền rượu, sau khi bị ông Víp… lừa!
Cái vụ này Gấu biết qua một nhà thơ. Ông này là bạn của họ Trịnh, chắc có lần cũng đã được họ Trịnh kéo đi uống ké. Nhưng lần sau, kêu đi uống ké tiếp, nhà thơ lắc đầu, than, nhìn cái cảnh mày gân cái cổ gầy lên mà hát, để lấy ly rượu sao thảm quá, tao đếch có đi, vì quá thương mày!
Sáu Dân

Tôi cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được.
Lth

Theo tôi, những người "mê chết đi được", nhạc TCS, phải là…  VC!
Đây là hiện tượng "phản ứng ngược", trong vật lý, contre-réaction, và nó đã xẩy ra với bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết của Paul Celan.
Hay, 1 thứ khôi hài đen, “Người Đức sẽ không bao giờ tha thứ cho người Do Thái, vì vụ Lò Thiêu”!
Chúng ta mê nhạc TCS khác với VC mê nhạc TCS. Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris, "hình như" cũng đã ngửi ra được điều này, khi phán, chỉ có ở Miền Nam, mới có thứ nhạc sĩ như TCS.
*
Nhạc TCS  đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi nhục về tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.
Bản thân Trịnh cũng đậm nỗi đau đó, chính vì thế mà ông viết ra thứ nhạc đó!
Tình Yêu như Trái Phá, 1 cách nào đó, còn là nỗi mong mỏi của họ Trịnh. Ông thèm được “chọn bên” [chọn VC trong cuộc chiến, và khi nó chấm dứt, chọn đi cải tạo như bạn bè Miền Nam của ông, chọn đi vượt biển, như cả Miền Nam], và bất cứ 1 chọn lựa nào, thì ông cũng không thể!
Đau thật.
Nơi em về trời xanh không em?
TCS hỏi, đau thương như thế, chính là vì ông đếch có một nơi nào để về.
PXA chẳng đã từng than, địa ngục chật cứng, đếch có chỗ cho tớ!
Đau thật

Gấu có, chỉ một kỷ niệm với TCS, như đã kể ra trong bài viết, thật ngắn, ngay khi ông vừa nằm xuống.
Có thể nói, bài của Gấu là bài đầu tiên trong những bài ai điếu TCS.
Ông "trúng đạn" [có được cái vé đi chuyến tầu suốt], chưa kịp té xuống tới đất, là đã có bài ai điếu rồi!
Sau này, Gấu vẫn thường tự hỏi, tại sao mà mình bắn nhanh như vậy !
Mãi mới hiểu ra, đó là nhờ cái cảm giác bực mình, trong cái lần gặp gỡ đầu tiên và cũng là độc nhất tại Quán Chùa.

Subject: Ve TCS
To:
Chào Ông,
 "...cái ông nhạc sĩ hát rong, nói "Không" với chiến tranh đó, được cả thế giới trân trọng đó, chẳng là cái thá gì cả!"
Ông phán một câu như...Thánh Thán!
Tôi vẫn nghĩ từ lâu nhạc của TCS cũng xoàng như những nhạc phổ thông khác. Nhưng các ông gọi là Văn Nghệ Sĩ trong và ngoài nước cứ xúm lại ca ngợi ... lời hát của TCS. Quả là buồn cho cái cách phê bình thiếu tính chuyên nghiệp.
Kính,
PS: Xin đừng post Email của tôi làm gì. Gây tranh luận vô ích!

Đành phải mạn phép bạn post cái mail lên đây, coi như của một độc giả nào đó. Vì Hai Lúa này cũng muốn viết thêm về TCS nhân "vụ án" PD, và những chấn động tiếp theo mới đây ở trong nước, và cũng nhận được vài cái mail về TCS.

Nguồn

Thực sự mà nói, quả có quá nhiều người theo đóm ăn tàn, viết về TCS, để được hưởng tí xái, nói theo 1 tay trong nước trên talawas đã có lần phạng Gấu, nhằm nhắc khéo tới những ngày GNV hầu hạ Cô Ba. Nhưng cái mail trên, của 1 độc giả TV, quả là 1 gợi ý thật thú vị để mở ra 1 bài viết mới về TCS.
Mấy đấng hót TCS nhằm hưởng tí xái, xào đi xào lại hoài mấy cái ‘tem’ [theme], nào vô thường, nào thiền, nào tính Phật, nào đã ngộ kiếp tử sinh… nhưng nếu đúng như thế thì áp dụng vô bất cứ ông văn nhân nghệ sĩ Mít nào cũng đặng.
Một ông thi sĩ chuyên môn làm thơ tán gái, làm thịt không biết bao nhiêu là em con nhà lành, là “bạn thân của GNV”, vậy mà cũng có kẻ tìm ra chất thiền ở trong thơ của ông!
Tuy nhiên, chưa từng ai giải thích cách sử dụng tiếng Việt của TCS, cách để những hình ảnh, chưa từng có ai nghĩ, chúng có chút liên hệ, kế bên nhau.
Thí dụ, hai hình ảnh này:
Trời buồn, gió cao.
GNV đố mấy đấng chuyên hót TCS giải thích, chỉ hai hình ảnh trên:
Trời buồn gió cao.

Thường thì người ta nói, trời cao, ở đây trời buồn, thành thử gió phải cao?
Hình ảnh ‘bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa’, để giải thích nó, Gấu này phải viện đến Borges, và ông này, chiều Gấu, phải viện thêm Byron, Baudelaire, chỉ để vinh danh BHD!

Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
TCS

She walks in beauty, like the night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm

Baudelaire writes, in "Recueillement": "Entends, ma chère, entends, la douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of the night should not be heard.
Baudelaire viết, trong "Recueillement": “Nghe nè, nghe nè, em thân yêu, Đêm ngọt ngào bước.”
Cái bước đi lặng lẽ của Đêm đừng nên nghe!
Borges

Simic giải thích thơ của ông, “tái lập cái kỳ lạ cho cái rất ư bình thường, quen thuộc của kinh nghiệm”, "to restore strangeness to the most familiar aspects of experience." câu này có thể áp dụng cho lời nhạc TCS.

* Nhân 10 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sắp tới, nhóm có những hoạt động gì để tưởng nhớ một thành viên của nhóm?

- Gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có làm nhiều chương trình rồi nên nhóm không làm thêm gì nữa. Bên gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng không đặt vấn đề với anh em nên anh em chúng tôi không tham gia.

Nguồn

Note: Đếch chơi với tụi mi, được không?


Kundera kể chuyện, chủ tịch nước đứng trên bao lơn phủ dụ nhân dân. Trời lành lạnh, ông quên đem khăn, ông số hai bèn lấy khăn của mình choàng lên mình lãnh tụ; khi ông bị thủ tiêu, người ta bôi bỏ hình ông đứng kế bên chủ tịch nước, nhưng cái khăn thì vẫn còn đó!
Source

Đoạn trên, GNV viết theo trí nhớ. Nguyên tác, sau đây, qua bản tiếng Anh, và là đoạn mở ra Cuốn Sách của Tiếng Cười và Sự Lãng Quên, The Book of Laughter and Forgetting

1

In February 1948, the Communist leader Klement Gottwald stepped out on the balcony of a Baroque palace in Prague to harangue hundreds of thousands of citizens massed in Old Town Square. That was a great turning point in the history of Bohemia. A fateful moment of the kind that occurs only once or twice a millennium.
Gottwald was flanked by his comrades, with Clementis standing close to him. It was snowing and cold, and Gottwald was bareheaded. Bursting with solicitude, Clementis took off his fur hat and set it on Gottwald's head.
The propaganda section made hundreds of thousands of copies of the photograph taken on the balcony where Gottwald, in a fur hat and surrounded by his comrades, spoke to the people. On that balcony the history of Communist Bohemia began. Every child knew that photograph, from seeing it on posters and in schoolbooks and museums.
Four years later, Clementis was charged with treason and hanged. The propaganda section immediately made him vanish from history and, of course, from all photographs. Ever since, Gottwald has been alone on the balcony. Where Clementis stood, there is only the bare palace wall. Nothing remains of Clementis but the fur hat on Gottwald's head.

2

It is 1971, and Mirek says: The struggle of man against power is the struggle of memory against forgetting
*

Như vậy, không  phải cái khăn mà là cái nón!
Đoạn tiếp theo bắt đầu bằng câu có thể coi như "thương hiệu" của K:

Cuộc chiến đấu của con người chống lại quyền lực là cuộc chiến đấu của trí nhớ chống lại sự lãng quên.

Thú vị nữa, là cái đoạn mở ra tác phẩm, thì lại được lập lại ở nửa phần sau.

1

In February 1948, the Communist leader Klement Gottwald stepped out on the balcony of a Baroque palace in Prague to harangue hundreds of thousands of citizens massed in Old Town Square. That was a great turning point in the history of Bohemia. It was snowing and cold, and Gottwald was bareheaded. Bursting with solicitude, Clementis took off his fur hat and set it on Gottwald's head.
Neither Gottwald nor Clementis knew that every day for eight years Franz Kafka had climbed the same stairs they had just climbed to the historic balcony, because under Austria-Hungary the palace had housed a German school. Nor did they know that on the ground floor of the same building Hermann Kafka, Franz's father, had a shop whose sign showed a jackdaw painted next to his name, kafka meaning jackdaw in Czech.
Gottwald, Clementis, and all the others were unaware even that Kafka had existed, but Kafka had been aware of their ignorance. In his novel, Prague is a city without memory. The city has even forgotten its name. No one there remembers or recalls anything, and Josef K. even seems not to know anything about his own life previously. No song can be heard there to evoke for us the moment of its birth and link the present to the past.
The time of Kafka's novel is the time of a humanity that has lost its continuity with humanity of a humanity that no longer knows anything and no longer remembers anything and lives in cities without names where the streets are without names or with names different from those they had yesterday, because a name is continuity with the past and people without a past are people without a name.
Prague, as Max Brod said, is the city of evil. When the Jesuits, after the defeat of the Czech Reformation in 1621, tried to reeducate the people in the true Catholic faith, they swamped Prague with the splendor of Baroque cathedrals. The thousands of petrified saints gazing at you from all sides and threatening you, spying on you, hypnotizing you, are the frenzied occupation army that invaded Bohemia three hundred fifty years ago to tear the people's faith and language out of its soul.
The street Tamina was born on was called Schwerinova Street. That was during the war, when Prague was occupied by the Germans. Her father was born on Cernokostelecka Avenue. That was under Austria-Hungary. When her mother married her father and moved in there, it was Marshal Foch Avenue. That was after the 1914-1918 war. Tamina spent her childhood on Stalin Avenue, and it was on Vinohrady Avenue that her husband picked her up to take her to her new home. And yet it was always the same they just kept changing its name, brainwashing it into a half-wit.
Wandering the streets that do not know their names are the ghosts of monuments torn down. Torn down by the Czech Reformation, torn down by the Austrian Counter- Reformation, torn down by the Czechoslovak Republic, torn down by the Communists; even the statues of Stalin have been torn down. In place of those destroyed monuments, statues of Lenin are nowadays springing up in Bohemia by the thousands, springing up like weeds among ruins, like melancholy flowers of forgetting.

2

If Franz Kafka is the prophet of a world without memory, Gustav Husak is its builder. After T. G. Masaryk, who was called the Liberator President (every last one of his monuments has been destroyed), after Benes, Gottwald, Zapotocky, Novotny, and Svoboda, he is the seventh president of my country, and he is called the President of Forgetting.
The Russians put him in power in 1969. Not since 1621 has the Czech people experienced such a devastation of culture and intellectuals. Everyone everywhere thinks that Husak was merely persecuting his political enemies. But the struggle against the political opposition was instead the perfect opportunity for the Russians to undertake, with their lieutenant as intermediary, something much more basic.
I consider it very significant from this standpoint that Husak drove one hundred forty-five Czech historians from the universities and research institutes. (It's said that for each historian, as mysteriously as in a fairy tale, a new Lenin monument sprang up somewhere in Bohemia.) One day in 1971, one of those historians, Milan Hubl, wearing his extraordinarily thick-lensed eyeglasses, came to visit me in my studio apartment on Bartolomejska Street. We looked out the window at the towers of Hradcany Castle and were sad.
"You begin to liquidate a people," Hubl said, "by takking away its memory. You destroy its books, its culture, its history. And then others write other books for it, give another culture to it, invent another history for it. Then the people slowly begins to forget what it is and what it was. The world at large forgets it still faster."
"And the language?"
"Why bother taking it away? It will become a mere folklore and sooner or later die a natural death."
Was that just hyperbole dictated by excessive gloom?
Or is it true that the people will be unable to survive crossing the desert of organized forgetting?
None of us knows what is going to happen. One thing, however, is certain. In moments of clear-sightedness, the Czech people can see the image of its own death near at hand. Neither as a fact nor as an inescapable future, but nonetheless as a quite concrete possibility. Its death is right there with it.
*

Trong cuốn sách của ông, K cũng đã tưởng tượng ra được, trường hợp .. TCS bỏ nước ra đi, sau khi bị VC hành hạ, bị lũ bạn quí, cũ, thân… như HPNT, như TC, hay Hồ Tôn Hiến làm nhục:

In 1972, when Karel Klos, a Czech pop singer, left the country, Husak became fearful. He immediately wrote a personal letter to him in Frankfurt, from which, inventing not a word, I quotE; the following:
"Dear Karel: We want nothing from you. Please come back, we will do for you whatever you wish. We will help you, you will help us .... "
Think about it: without batting an eye, Husak allowed the emigration of doctors, scholars, astronomers, athletes, stage directors, filmmakers, workers, engiineers, architects, historians, journalists, writers, painters, but he could not bear the thought of Karel Klos leaving the country. Because Karel Klos represented music without memory, the music under which the bones of Beethoven and Ellington, the ashes of Palestrina and Schoenberg, are forever buried.
The President of Forgetting and the Idiot of Music were two of a kind. They were doing the same work. "We will help you, you will help us." Neither could manage without the other.

Vào năm 19...82, TCS rời bỏ xứ Mít. Sáu Dân Hồ Tôn Hiến sợ quá. Ông liền lập tức viết thư riêng cho TCS:

TCS thân mến,
“Chúng tớ không muốn gì ở nơi cậu. Làm ơn trở về với Đất Mẹ, Đất Mít. Chúng tớ sẽ làm bất cứ gì mà cậu muốn. Chúng tớ sẽ giúp cậu, cậu sẽ giúp chúng tớ..."

Hãy nghĩ đến chuyện này:

Sáu Dân Hồ Tôn Hiến vờ cho đám trí thức Ngụy vượt biên, đứa nào lỡ bị địa phương bắt thì ông đích thân lái xe hai bánh, đi trong đêm, tới hiện trường ra lệnh thả...

Vậy mà ông VC học lớp 1 này không thể nào chịu nổi TCS rời bỏ xứ Mít!

Bởi vì TCS đại diện cho âm nhạc không có hồi ức, thứ âm nhạc bên dưới nó, xương cốt của Beethoven, Ellington, tro than của Palestrina,  Schoenberg được chôn vùi vĩnh viễn!

Đâu có phải tự nhiên Trần Long Ẩn... lũ VC nằm vùng thứ thiệt, đếch thèm chơi với TCS.

Và ngược lại!

Chủ Tịt Lãng Quên và Tên Ngu Si Âm Nhạc thì mắm xốt kít. Cả hai làm cùng một công việc.
“VC giúp TCS; TCS giúp VC.”
Thiếu 1 thằng là bỏ mẹ!
Thiếu 1 thằng là đếch có ngày 30 Tháng Tư 1975!

Bài phỏng vấn có nhiều phòng trống mời gọi sự tưởng tượng của các độc giả của nhà văn Hoàng Hải Thủy … (lth)
*
“ Anh lấy bút hiệu Công Tử Hà Đông hay đấy.’
Lúc ấy có anh  bạn tôi, nói:
“ Công Tử Hà Nội” mới hay chứ.”
Anh Chu Tử nói:
“ Công Tử Hà Nội thì còn nói gì nữa.”
*
Tôi cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được.
Lth 

Theo tôi, những người "mê chết đi được", nhạc TCS, phải là…  VC!
Đây là hiện tượng "phản ứng ngược", trong vật lý, contre-réaction, và nó đã xẩy ra với bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết của Paul Celan.

Hay, 1 thứ khôi hài đen, “Người Đức sẽ không bao giờ tha thứ cho người Do Thái, vì vụ Lò Thiêu”!

Chúng ra mê nhạc TCS khác với VC mê nhạc TCS. Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris, "hình như" cũng đã ngửi ra được điều này, khi phán, chỉ có ở Miền Nam, mới có thứ nhạc sĩ như TCS.
*

Nhạc TCS  đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi nhục về tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.

Bản thân Trịnh cũng đậm nỗi đau đó, chính vì thế mà ông viết ra thứ nhạc đó! 

Tình Yêu như Trái Phá, 1 cách nào đó, còn là nỗi mong mỏi của họ Trịnh. Ông thèm được “chọn bên” [chọn VC trong cuộc chiến, và khi nó chấm dứt, chọn đi cải tạo như bạn bè Miền Nam của ông, chọn đi vượt biển, như cả Miền Nam], và bất cứ 1 chọn lựa nào, thì ông cũng không thể!

Nơi em về trời xanh không em?

TCS hỏi, đau thương như thế, chính là vì ông đếch có một nơi nào để về.
PXA chẳng đã từng than, địa ngục chật cứng, đếch có chỗ cho tớ!

NKTV

Note: ‘Bỗng dưng muốn khóc’, và bỗng nhớ đến những bức thư của Kafka gửi cho Milena!

*

LTH:  Nói về Trịnh Công Sơn, một đỉnh điểm điển hình cho một công dân sáng tác đóng góp vào việc làm mất Miền Nam vào tay Miền Bắc. Tôi nghe một cuộc phỏng vấn trên một đài truyền hình trên net, bà Đặng Tuyết Mai vợ phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ kể lại bà cho mời ông Trịnh Công Sơn vào  hát nhạc tình ca và bắt tay với nhau khen nhau này nọ trong dinh thự ông Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Rồi chính ông Trịnh Công Sơn ra ngoài làm nhạc Phản Chiến nhiều hơn ai hết. Thời ấy mấy ai dám làm nhạc Phản Chiến đĩnh đạc và được sống sốt như ông Trịnh Cộng Sơn. Phản Chiến là phong trào Quốc Tế. Tôi nghe nói có lúc chính quyền Miền Nam đòi bắt ông Trịnh Công Sơn, nhưng Người Mỹ không cho. Rồi tôi lại nghe ông Trịnh Công Sơn theo VC với những người thân và bạn thân của Nhóm Huế của ổng theo fò VC  tối đa, đến độ VC về Sài Gòn năm 1975 là Trịnh Công Sơn nhào ra hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Tôi cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được. Nhưng thú thật, ở một cương vị cá nhân bị mất mát quá nhiều vì chiến tranh, tôi cũng phải nhìn lại cuộc chiến với suy tư để tự đi tìm cho mình một lời giải thích.  Tôi muốn hỏi ông một câu ông nghĩ sao về trường hợp của Trịnh Công Sơn?

HHT:  Tôi khinh anh ta.

Trích Gió –O phỏng vấn Hoàng Hải Thuỷ

Theo NQT tôi, nhận xét của LTH và thái độ của HHT, chỉ nói lên bề mặt của trường hợp TCS.

Với HHT, ông ở lứa tuổi không bị gọi lính, cũng đã từng sống 1 phần nào, thì cứ nói đại như vậy, cuộc đời của mình, khác hẳn với 1 người như TCS, 1 nghệ sĩ thù ghét chiến tranh, như mọi nghệ sĩ, và rất yêu cuộc đời, chưa từng biết mùi đời nó ra làm sao, vậy mà lúc nào cũng phải lo nơm nớp, mỗi khi ra đường, bị Quân Cảnh thộp cổ!
TCS chắc chắn nghiêng về phiá VC, nhưng ông không thể chọn đường lên rừng theo VC, vì ông đâu có mê cái chuyện cầm súng giết người, hay cổ võ người khác đi giết người, theo cái kiểu, đường ra trận mùa này đẹp lắm!
Còn bảo nhạc của ông phản chiến ư? Có thể nói, phản chiến là ‘yếu tính’ của cả 1 miền đất, là Miền Nam Cộng Hòa. Cả 1 miền đất nói không với cuộc chiến, chưa kể cái đám khốn kiếp nằm vùng tiếp tay cho cuộc chiến. Làm sao không mất nước?
Mất nước rồi thì đổ tội tứ lung tung, sao không thấy cái tội của chính mình ở trong đó?
Trong bài viết thật ngắn, ngay khi TCS đi xa, Gấu đã viết về cái điều cả 1 miền đất nói “Không” đó.  (1)

Phản chiến quốc tế là của quốc tế, còn phản chiến của Miền Nam, là của lòng người Miền Nam, khác hẳn thứ tâm lý ăn cướp của Miền Bắc, và, ngay cả cái tâm lý ăn cướp này nó cũng có những lý do tiềm ẩn của nó! Cái tâm lý ăn cướp của Miền Bắc còn đánh lừa được cả một đế quốc CS quốc tế, làm sao mà chúng ta không bị lừa cho được?

Cả 1 đế quốc Đỏ đứng đằng sau Miền Bắc, phục vụ ý đồ ăn cướp của Miền Bắc, ngụy trang bằng chân lý nước Việt Nam là một, bằng chiến thắng thằng Mỹ là chiến thắng của CS chống lại Tư Bản bóc lột vv và vv…

Quốc tế Đỏ chẳng đã từng khuyên, thôi tha cho thằng Mẽo, sức mạnh quân sự của nó ghê gớm lắm đấy, đừng chọc giận nó, anh VC Miền Bắc phán, việc đó để tụi em lo, đàn anh chỉ cần chi viện, đủ súng, đủ đạn, đủ hoả tiễn, là OK!

[còn lèm bèm tiếp]

(1)

…  Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.

TCS, sau 1975, bị VC đầy đọa như thế nào, thì chúng ta biết, ông "phản tỉnh" như thế nào, thì chúng ta hay, “đéo” phải là cuộc chiến giải phóng, mà là nội chiến, rồi ông “sám hối” bằng rượu, đến nỗi bị Hồ Tôn Hiến làm nhục, chúng ta cũng biết, vào gái, toàn chiêm ngưỡng gái đẹp, chiêm ngưỡng và kính trọng, contemplation et respect, tình yêu lý tưởng, amour platonique....
Chúng ta có thể “thương” ông, nhưng làm sao...  khinh ông ?

Khinh, là khinh thế nào? Ông đâu làm gì mà khinh ông? Lên Đài Phát Thanh Sài Gòn hát Nối Vòng Tay Lớn? Đó không phải là giấc mộng lớn của cả dân Mít? Nó không trở thành giấc mộng lớn, thì phải khinh, phải thù cái lũ VC khốn nạn, đánh lừa dân Mít, bằng lời hứa lèo giấc mộng
 lớn, chứ sao lại khinh người hát nó?

Note: ‘Bỗng dưng muốn khóc’, và bỗng nhớ đến những bức thư của Kafka gửi cho Milena!


Ghi chú trong ngày

Một ngày đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ Việt Nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi: Cậu có nghe tin về Trịnh Công Sơn (TCS)? Tôi gật đầu. Mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay TCS vừa từ trần.
Anh bạn nói đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu. Tôi nói với ông bạn: Như vậy, cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.
Đó là cái tin lạc quan nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski nói: Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại.  Bỏ công ăn việc làm, đến tiễn đưa một thi sĩ – TCS là một nhạc sĩ – thi sĩ – chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn có tâm hồn.
Tự nhiên tôi nghĩ đến “Bác sĩ Jivago” của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản Nga ập xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả: gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái trong một xã hội thay đổi tận gốc rễ.
Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi: là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về rất đông, nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết: người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi người ta không còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch : chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng loé lên trong bầu trời đen tối.
Từ Thức DM

Cái vụ đi đám ma TCS đông, theo GNV chẳng liên quan gì đến Cái Đẹp, Văn Minh, Còn Thuốc Chữa…

Lời giải thích đúng nhất về hiện tượng này, theo GNV, là của D.M Thomas, trong cuốn "Tiểu sử Solzhenitsyn" của ông, chép lại ở đây: (1)

Tác giả bài viết lộn, giữa Zhivago như là 1 nhân vật của Pasternak, với tác giả, người sinh ra nhân vật của ông.

Trong truyện, Zhivago đang đi trên đường phố Moscow, bị bịnh tim quật ngã. Đám tang, thì do 1 người bà con lo liệu, chẳng giống của Pasternak, bị nhà nước LX tìm đủ mọi cách ngăn chặn, tuy nhiên, vẫn đông đảo, giống của TCS, và, đúng như D.M Thomas viết, để chửi cha nhà nước CS!

Khi Brodsky mất, bao nhiêu người thương tiếc, nhưng đám ma của ông, chỉ có một số bè bạn thân, như vậy chẳng lẽ dân Mẽo…. hết thuốc chữa?
TTT, chết, cũng thế, mặc dù gần như cả hải ngoại thương tiếc ông.

Đồng ý là chúng ta quí TCS, nhưng vừa vừa thôi!

Cái Đẹp Sẽ Cứu Chuộc Thế Giới.
Còn Thuốc Chữa!
I Can U!

NQT

(1)

It was a very Russian way of saying good-bye to a great poet. Probably that homage to a writer could only have occurred in a society where repression was severe, though not quite absolute. Under Stalinism it could not have happened. In the calm consumerist democracies of the West, the people would not have wanted it, nor needed it, nor felt with such intensity.

Đó là 1 cách rất Nga, để nói lời giã biệt một nhà thơ lớn. Có lẽ, chỉ ở cái xứ chết tiệt, độc tài đảng trị, cùng hung cực ác như Liên Xô, như xứ Mít của VC, thì mới có cái cảnh như vậy....
Ở Tây Phương, họ đâu cần, và cũng chẳng muốn bày trò ra như thế.

*

The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history.
D.M. Thomas.
Sự bùng n
của đau thương và tưởng niệm tại đám tang P vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Nga

Đọc dòng trên, thì thấy, thật cũng cũng khó so sánh đám tang của P với của TCS. Với người dân Nga, họ thực tình tưởng niệm ông. Còn với TCS, không, theo GNV.
Bởi vì rõ ràng, cho tới bây giờ, TCS vẫn là 1 nhân vật gây tranh cãi trong chúng ta.
“Tôi khinh anh ta”, như CTHD phán, thí dụ.

Cái vụ đi đám tang TCS, đông, Gấu sợ rằng, còn có gì thật là thê lương ở trong đó.

Ai đã từng trốn lính vào những năm chiến tranh ở Miền Nam, thì chắc là thông cảm với họ Trịnh. Chẳng bao giờ dám ra đường, trốn chui trốn nhũi. GNV còn nhớ, mỗi lần ra đi ra khỏi nhà là phải sờ cái bóp, để mà yên trí lớn, còn, và còn ở đây, là còn cái giấy hợp lệ tình trạng quân dịch ở trong đó!

Thành thử cái ngày đẹp nhất trong đời TCS chính là ngày 30 Tháng Tư 1975.
Ông ra đường, tự do như chưa bao giờ tự do như thế, vì không còn 1 chút sợ hãi bị Quân Cảnh tóm.
Ông đến Đài Phát Thanh trong tâm trạng như thế.
Hát Nối Vòng Tay Lớn, cũng trong tâm trạng như thế.

Than ôi, chỉ được đúng 1 ngày.

Những ngày tiếp theo, ông bị chính những bạn quí của ông, ra lệnh trình diện, bắt đi lao động cải tạo!

Phải trốn vào Sài Gòn, phải sống nhờ sự bảo trợ của Hồ Tôn Hiến, như trước 1975, đã từng nhờ LKC, nhờ VQ…
Những người này thực tình quí ông, không như HTH, làm nhục ông.

Người dân Sài Gòn đi đám tang ông, thật đông, còn là để thương cảm ông, chứ không phải vì Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế giới!
*

…. chưa bao giờ người ta giết nhau vì Picasso, vì Beaudelaire, vì Nguyễn Du…
TT

Baudelaire [Charles]

Death of a Poet

… On 30 May 1960 Boris Pasternak died. His funeral was an extraordinary and almost mystical event: perhaps the first indication that the omnipotent state simply could not overcome poetry. The official notice of his death was minimal; and the only advice as to the funeral was a handwritten scrap of paper anonymously posted next to the ticket window at the Kiev Station in Moscow, where passengers for Peredelkino, the writers' colony outside Moscow, bought their tickets. The sign read: "At four o'clock on the afternoon of Thursday, 2 June, the last leave-taking of Boris Leonidovich Pasternak, the greatest poet of present-day Russia, will take place." The sign was several times removed, and as often replaced by an unknown hand.

The Orthodox rites were performed at Pasternak's dacha, quietly, on the eve of the funeral. The next morning four leading pianists-Stanislav Neigauz, Andrei Volkonsky, Marya Yudina (she who had told Stalin he was a great sinner), and Sviatoslav Richter-performed there for several hours. Among the pallbearers who bore the coffin out were Andrei Sinyavsky and Yuli Daniel (later to be persecuted for their dissident writing), and Lev Kopelev. They emerged to a sea of grieving faces-friends, students, workers, and peasants. A Writers' Union official stepped out of a large black limousine and attempted to take charge of the coffin, but the students shouted him down. The people insisted on carrying the coffin to the cemetery.

The windows of the next -door dacha were curtained. The conformist writer Fedin lived there. He had been Pasternak's neighbor for twenty-three years, but for the past four years had not spoken to him. He had been in the forefront of the poet's assailants, while privately he had been known to weep over parts of Doctor Zhivago. He was now suffering from flu, it was said .... In a few years, Solzhenitsyn would experience his enmity, and would memorably compare his face with Dorian Gray's.

As the coffin was carried out, Kopelev's wife, Raisa Orlova, was standing directly opposite Olga Ivinskaya, and thought her overwhelmingly beautiful in her grief and her "humiliation." She had been prevented from seeing him in his last illness: but perhaps at Boris's behest, not his wife's, since he wished her not to remember him looking "a fright" without his dentures. Into old age he had retained a childlike beauty. In death, according to Orlova, "he was very handsome in the coffin, statuesque and with a resemblance to Dante." Orlova observes that in Pushkin's Leningrad apartment there is a drawing of Pushkin in his coffin, drawn by the artist Bruni, while in Moscow there is a drawing of Pasternak in his coffin, drawn by the artist Bruni, a descendant. Russian writers are a close-knit family ....

There were plainclothes agents pretending to mourn, while eavesdropping and clicking their cameras; and there were foreign journalists just doing a job. All the rest of the four or five thousand crowding into Peredelkino's cemetery were there out of respect and love. Someone shouted: "He loved the workers." Another cry: "He spoke the truth." Yet another: "The poet was killed." (Poét byl ubitt!) And the crowd responded: "Shame! Shame! Shame!" (Pozór! Pozór! Pozór!)

A young physicist read, in an anguished voice, the poem "Hamlet" from Doctor Zhivago; its final line a Russian proverb, "To live your life is not as simple as to cross a field." The poem's effect on some of the mourners must have been like signal beacons lighting up across a mountain range. They would have remembered how, for countless generations of Russians right back to Catherine's time, "the Hamlet question" had represented the search for meaning and justice in a corrupt society.

Someone in a work shirt said: "Sleep peacefully, dear Boris Leonidovich! We do not know all your works, but we swear to you at this hour: the day will come when we shall know them all." Whereupon a man in gray trousers called out severely: "The meeting is over, there will be no more speeches!" This time a foreigner indignantly said in broken Russian: "It will be over only when no one wishes to speak!"

The KGB's vengeance would come a few weeks later, with the arrest and imprisonment of Ivinskaya for a second four-year spell.

"He believed in eternity and he will belong to it .... "

"Glory to Pasternak!" And that loud cry was taken up by everyone.

As the coffin was lowered, the cemetery became one blaze of flowers passed from hand to hand over the heads of the crowd, toward the grave. Afterward, the people refused to leave; poems were read or quoted by heart on into candlelit night. People's lips could be seen moving, silently, in unison. Rain fell, but still the readings went on.

It was a very Russian way of saying good-bye to a great poet. Probably that homage to a writer could only have occurred in a society where repression was severe, though not quite absolute. Under Stalinism it could not have happened. In the calm consumerist democracies of the West, the people would not have wanted it, nor needed it, nor felt with such intensity.

D.M. Thomas: A. Solz: A century in his life

Boris Pasternak mất ngày 30 Tháng Năm, 1960. Đám tang của thi sĩ là một sự kiện lạ thường và gần như kỳ bí: có lẽ đây là “điềm triệu” đầu tiên cho thấy, nhà nước Liên Xô, quyền lực vô biên như thế, giản dị đã không thể át giọng [nắn gân] thi ca. Thông báo chính thức của nhà nước về cái chết của thi sĩ, thì nhỏ xíu; và chỉ dẫn độc nhất về đám tang, là một mẩu giấy viết tay, được 1 bàn tay bí ẩn nào đó dán ở phòng bán vé đi Peredelkino, ngoại vi Moscow, nơi ở thi sĩ : 4 giờ chiều ngày Thứ Năm 2, Tháng Sáu. Mẩu giấy bị gỡ đi, rồi lại được ai đó dán lên lại, vài lần.
*

Hôm nay, cầm trên tay cuốn sách “Võ Văn Kiệt, người thắp lửa” của nhà xuất bản Trẻ, Lài đọc trang 37, xin trích nguyên văn như sau:
“…ca khúc ‘Em còn nhớ hay em đã quên’ nhiều người vẫn lầm tưởng Trịnh Công Sơn viết để tặng Khánh Ly. Sơn tâm sự: ‘Khi ấy mình mới từ Huế vào Sài Gòn. Anh Sáu Dân gợi ý mình đi thực tế nông trường Thái Mỹ cùng nhiều văn nghệ sĩ Sài Gòn. Khi thấy có quá nhiều trí thức bỏ TP ra đi, anh Sáu Dân bảo: ‘Này, Sơn viết cái gì đó kêu gọi trí thức ở lại. Tôi nghĩ cậu có thể làm tốt việc này’. Thế là mình viết ca khúc ‘Em còn nhớ hay em đã quên’.”
(Lê Văn Duy)
Lài không biết Lê Văn Duy là ai và độ chính xác về tính trung thực của đoạn văn trên. Tuy nhiên, nếu nó đúng thì sao?
Ừ, nếu nó đúng thì sao? Nếu nó đúng, Lài thấy mình, và chắc cũng nhiều người nữa, đã bé cái nhầm về hoàn cảnh ra đời và đối tượng mà ca khúc này nhắm vào.
DM


Sự thực có thể đúng như thế, và nó phải đúng như thế. Bài hát đó đã được viết ra đúng trong tâm trạng như thế.

Khi TCS viết bài hát đó, vẫn cùng trong tâm trạng khi hát Nối Vòng Tay Lớn, ông vẫn còn mong phép lạ xuất hiện. Bạn phải ở Việt Nam, chẳng bao giờ nghĩ mình phải rời bỏ nó, mà đến 1 lúc nào đó, phải đành đoạn bỏ đi, thì mới hiểu nỗi đau của TCS, người bị kết án phải ở lại với thành phố này.
Số phận khiến ông không được cái may mắn bỏ chạy cuộc chiến như đám tinh anh Miền Nam, sau khi đậu Tú Tài Tây, vì ông già mất, gánh nặng gia đình đổ xuống ông. Số phận khiến ông không thể nào theo bên nào, đành chọn nỗi đau người chết hai lần.
Trong bài thơ về những người đàn bà già cả, On Old Women Milosz viết, tình cờ sao áp dụng vào trường hợp TCS thật tuyệt.

It had to be suffered, endured, managed.
One had to wait and not wait, one had to.

Nếu phải đau khổ, chịu đựng, loay hoay, hì hục…
Thì phải đợi, không đợi, mà phải đợi. 

Khi TCS viết bài hát đó, GNV này chắc là đang đi tù VC. Đi tù VC, vậy mà khi nghe hát, và cùng hát với những người tù VC như mình, bài “Con kinh ta đào”, Gấu này sững sờ đến nghẹt thở! Trời ơi Trời, sao mà nó đẹp đến như thế!

Đó là khoảng thời gian đẹp nhất trong đời của tất cả những người Miền Nam, và có thể cả Miền Bắc, và có thể cả đất nước, kể cả những kẻ bỏ đi, vì vẫn còn nhen nhúm 1 tí hoài vọng, một tí kỳ vọng, về 1 nước Việt Nam.

Chính là trong tâm trạng như thế, 1 số bài ca như “Con Kinh Ta Đào”, “Em còn nhớ hay em đã quên”, “Tình Yêu bắt đầu bằng đôi mắt, ngày mai bắt đầu bằng hôm nay”, kể luôn cả những "Tình Đất Đỏ Miền Đông" [Tổ quốc ơi ta yêu Người mãi mãi!]… cả 1 lô bài hát tuyệt vời, của 1 giai đoạn tuyệt vời được viết ra. 

Chính vì thế mà cả dân Mít thù VC. Chúng đã lấy đi của họ giấc mơ đẹp nhất, của lý do hiện hữu của giống dân Mít, ở trên cõi đời này!