Kinh nghiệm Nguyễn Đình Thi
Hãy để chủ nghĩa duy vật lịch sử hiện ra
trước mắt anh, như
một cột lửa trong đêm trường tư bản....
George Steiner: Tuyệt Bi (Absolute
Tragedy)
Tôi
đọc Nguyễn Đình Thi cùng với Henri Lefèbvre tại nhà
thương hải quân Pháp tại Sài Gòn (nhà thương Grall), vào năm 1965, thời
gian
tôi được hưởng cả hai trái mìn claymore tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, để
chào mừng
người Mỹ vừa đổ bộ xuống bãi biển Đà Nẵng.
Một
cách nào đó, ông là một trong những ông thầy của tôi, cả
về việc viết, việc đọc, lẫn việc dịch thuật.
Nói
là đọc tại nhà thương Grall cho giản tiện sự việc. Thật
sự tôi đọc Nguyễn Đình Tthi tại nơi làm việc, Đài Liên Lạc Vô Tuyến
Điện thoại
quốc tế, một đỉnh cồn trên tầng lầu trên cùng một building của người
Pháp, ngay
kế bên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Đọc giữa hai lần giải phẫu. Lần thứ
nhất, ngay
sau vụ nổ, và một lần sau đó mấy tháng, để ‘cấy, ghép xương’ (làm
greffe).
Cuốn
sách của Nguyễn Đình Thi, đúng như cái tên của nó
(Triết học nhập môn), là một cuốn sách vỡ lòng. Do đọc cùng lúc với
cuốn của
Henri Lefèbvre (hình như cuốn duy vật biện chứng pháp, le matérialisme
dialectique), tôi đã có ý nghĩ, ông Ta đâu có thua gì ông Tây nổi tiếng
đó; bởi
vì nếu ông Tây đặt nặng ý niệm, rằng, trên đường rong ruổi, cái gọi là
lý
thuyết và cái gọi là thực hành (praxis), hai cái quyện vào nhau, triệt
tiêu lẫn
nhau để có được con người hoàn toàn, l’homme total, theo Marx; Nguyễn
Đình Thi
coi động/tĩnh là hai yếu tố quan trọng của duy vật biện chứng. Tĩnh là
phần lý
thuyết, động là phần thực hành.
Cuốn
của Nguyễn Đình Thi hồi đó, được các giáo sư tại Đại
Học Văn Khoa sử dụng như là sách giáo khoa, cho sinh viên năm dự bị,
hay năm
đầu cử nhân triết. Không hiểu, ở ngoài ấy, hồi đó, ông có được như vậy
không, và
liệu có thể coi, cuốn sách của ông thuộc loại "giao lưu hòa giải, xóa
lằn
ranh quốc-cộng"?
Nói tóm lại kinh nghiệm đầu "đọc" [hay...
"độc"] Mác xít của tôi, là do hai ông thầy kể trên.
Cùng
lúc đọc, viết. Truyện ngắn đầu tay của tôi, Những Ngày
Ở Sài Gòn, thai nghén tại nhà thương sau khi đọc một bài thơ của
một người bạn,
thi sĩ Cao Thoại Châu, trên báo Văn, tiền thân tờ Văn bây giờ, của
Nguyễn Xuân
Hoàng. Viết tại đỉnh cồn, một tay bị băng bột, phải tựa lên thành ghế,
một tay
viết. Ban đêm ngủ phải nằm sát tường, để có chỗ dựa cho cánh tay băng
bột. [Vậy
mà cũng vác cánh tay đi chơi với ‘Cô Bé’. Thấy mọi người chăm chú nhìn,
cô cười
nói, họ nhầm anh với một anh lính chiến!]
Xong,
gửi báo tuần báo Nghệ Thuật.
Truyện được đăng, sau đó
được tòa soạn nhắn xuống lấy tiền nhuận bút. Nhân thế, quen Viên Linh,
liền sau
đó thay Thanh Nam làm tổng thư ký. Anh xúi tôi viết tiểu luận, phê
bình, điểm
sách, điểm phim! [Mới đây, gặp lại, anh chìa cho tôi xem, một trong
những bài
điểm sách đầu tiên của tôi, là cuốn Thị
Trấn Miền Tây, của Viên Linh, đăng trên
báo Văn Học Sài Gòn, không phải tờ Văn Học Cali bây giờ]
Tôi
nói với ông anh. Ông bảo sợ gì chuyện đó. Thì cứ viết,
bằng cách giới thiệu những trào lưu văn học thế giới. Thấy tôi ngần
ngại, ông
bảo, Nguyễn Đình Thi cũng viết cuốn Triết Học Nhập Môn theo kiểu đó,
vừa đọc,
vừa dịch, vừa giới thiệu, vừa sáng tác. Đừng sợ sai, sai thì sửa. Không
làm như
vậy, chẳng bao giờ có tác phẩm.
Kinh
nghiệm của Nguyễn Đình Thi, qua ông anh, đã theo tôi
suốt bao năm mê mải với mớ chữ. Tôi cứ thế giới thiệu, nào trào lưu
hiện sinh
[Tôi còn nhớ tên loạt bài viết cho Nghệ Tthuật: Thế nào là văn chương
dấn
thân?], tới những tác giả tiếp theo trào lưu hiện sinh như Roland
Barthes,
Gérard Genette... Tôi giới thiệu Beckett vào năm 1965 - 1966, trước khi
ông
được Nobel vào năm 1969. Ra hải ngoại, vẫn ‘mửng’ đó, tôi giới thiệu
Borges,
Steiner, Naipaul, Said... nghĩa là vừa đọc, vừa [tập] dịch [tiếng Anh].
Kinh nghiệm Nguyễn Đình Thi,
qua ông anh, thật là quá quí
đối với tôi, một học sinh trường Việt, vốn liếng ngoại ngữ chẳng là
bao, cứ thế
vừa đọc, vừa học. Nay viết ra đây, hy vọng có chút ích cho những người
lớp sau.
Và
tôi tự hỏi, nếu không bị ánh sáng của Đảng làm chóa mắt,
biết đâu, chính Nguyễn Đình Thi mới là người ‘sáng tạo’ ra cái gọi là
thơ tự
do, ở Việt Nam?
...
Và cái bung xung cho lời chỉ trích là thơ Nguyễn Đình
Thi, mà Xuân Diệu chê là đầu Ngô mình Sở, Lưu Trọng Lư đòi " tống cổ ra
khỏi nền văn học mới, nền văn học kháng chiến và cách mạng ". Nhưng
nặng
nề, dứt khoát và thẩm quyền hơn ai hết là Tố Hữu - mặc dù và sau khi
Nguyễn
Đình Thi đã nhận kiểm điểm: "Nghe anh Thi tự phê bình thơ anh, anh chị
em
nghĩ : tại sao biết mình như vậy, mà cứ làm như vậy (...). Lúc thấy cần
làm
việc, tôi thấy ghét những bài thơ ấy, và tôi thù ghét cái cá nhân chủ
nghĩa nó
lại trở về với tôi (...) Những bài thơ anh Thi, tôi cho là không hay vì
chưa
nói lên được nỗi niềm của quần chúng. Đó là nội dung.
Tôi
đồng ý thái độ tự phê bình của anh Thi, một thái độ đúng
đắn. Còn một điều cần thiết nữa là anh phải kiểm tra lại cái tư tưởng,
cái rung
cảm của mình trong quần chúng ".
Như vậy là tàn đời Nguyễn Đình Thi.
(Đặng Tiến viết về NĐT, trên báo Diễn Đàn Forum)
Đó
là thời gian lưu truyền bản án...
(Phạm Xuân Nguyên: Ông Thi)
Để
xẩy ra vụ án như vậy, là thua rồi!
Kafka:Vụ Án
(Bản tiếng Pháp: Avoir un pareil procès, c’est déjà l’avoir
perdu: Có bản án như vậy là thua rồi)
L’homme
[....] essayant de souder son clair et son obcur.
Con người.... cố gắng hàn cái sáng và cái tối của hắn ta.
Henri Michaux
Áp
dụng vào trường hợp Nguyễn Đình Thi, liệu có thể nói,
phần sáng suốt của ông là văn chương, phần u tối mụ người, là cố bám
chút đỉnh
chung? Và ông đã cố ‘souder’ cả hai lại với nhau?
Chúng ta chỉ phỏng đoán, bởi vì thật khó mà đưa ra một lời
chê bai, hoặc kết luận. Thí dụ như trường hợp Xuân Diệu, mọi người
thường cho
rằng, ông ham... ăn. Đi đâu, tới đâu, là đặt điều kiện trước. Mới đây,
trong
hồi ký, ông cho biết, bởi vì ông bực thái độ xun xoe trước một thứ
trưởng văn
hóa (nhà thơ Huy Cận), chẳng hạn,nên ông làm vậy cho bõ ghét.
Liệu với Nguyễn Đình Thi, việc ông ngồi lỳ ở chức Tổng Thư
Ký Hội Nhà Văn, là do bực bội: chúng mày không hiểu thơ tao, thì tao
ngồi lên
đầu lên cổ... cho bõ ghét!
NQT