*









Đồng Đức Bốn: người làm thơ lục bát hiện đại 

Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp , thơ Đồng Đức Bốn chính là hơi thở, là hồn vía của cuộc sống hôm nay được ‘quản thúc” trong niêm luật cổ truyền lục bát. Khoảng mười năm trở lại đây, xuất hiện khá đông nhà thơ. Công cuộc đổi mới đã mang một diện mạo mới cho nền văn học nghệ thuật nước nhà. Thơ cũng nhiều lên, cũng sôi động. Trung bình mỗi ngày có 2 tập thơ được in ra. Cuộc sống lẫn lộn vàng thau, lẫn lộn vui buồn. Thơ cũng thế! Trong bối cảnh ấy, Đồng Đức Bốn nổi lên như một hiện tượng thơ đặc biệt. 

Đồng Đức Bốn sinh năm 1948, quê Hải Phòng. Anh đã từng làm nhiều nghề kiếm sống, cuộc đời sóng gió phiêu bạt nhiều nơi. Những dấu vết ấy hằn sâu trong nhiều bài thơ của anh. Cho đến nay anh đã xuất bản 5 tập thơ. 

Đồng Đức Bốn đã từng nhận nhiều giải thưởng, trong các cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ, Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội và báo Tiền Phong. Anh là người sở trường làm thơ lục bát. Có lẽ anh là người làm thơ lục bát hay nhất trong khoảng 50 năm trở lại đây ở Việt Nam. kể từ khi Nguyễn Bính - một người chân quê, đồng thời cũng là một thi sĩ đệ nhất lãng tử giang hồ qua đời.

Thơ lục bát có cái khó là niêm  luật cực kỳ chặt chẽ, và là một thể thơ nôm na cổ truyền đặc trưng Việt Nam. Người Việt Nam vị tình. Thơ lục bát cũng là một thể thơ vị tình. Nó gần gũi với lối sống, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam thật thà chất phác, thơ lục bát rất dễ làm nhưng chính vì thế mà cũng khó hay. Nhiều chữ quá, khôn chữ quá chính là căn bệnh mà nhiều người làm thơ lục bát dễ mắc phải. trong hang vạn, hang triệu người làm thơ lục bát thì đa phần đèu ở diện “trí năng”, tức là làm thơ theo trí. Tác giả giống như một người đang chơi trò trí uẩn, sắp xếp các con chữ, các âm vận âm điệu, cố khuôn nó vào trong âm luật. Có thể thấy rõ sự dụng công của người làm thơ, càng dụng công bao nhiêu thơ càng thiếu tự nhiên, càng dở bấy nhiêu. Ở đây, diện tướng của người làm thơ hiện ra rất rõ, không sao trốn đi đâu được. Chính vì thế làm thơ lục bát mà không dụng công, dễ dàng như lời người nói quả là rất khó, rất hiếm. Có thể nói rằng trong hang triệu người mới có một người, nó tựa như trò chơi xổ số trong văn chương và định mệnh. Đồng Đức Bốn là người tự dưng có duyên với riêng thể thơ lục bát. Đó là ân huệ trời đất dành riêng cho anh.
 

Chăn trâu đốt cỏ trên đồng
Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều.
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.

Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi.
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.

 Thơ lục bát của ĐĐB thường ngắn, có hai, bốn, hoặc sáu, hoặc tám đến mười hai câu giống như ca dao. Đôi khi, nó có vẻ như một lời nói bâng quơ bình thường: 

Xong rồi chả biết đi đâu
Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương. 

Chiều mưa phố Huế một mình
Biết đâu là chỗ ân tình đến chơi.

Gọi em một tiếng tưởng xong,
Không ngờ ai nấp trong lòng trộm nghe. 

Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng. 

Chuồn chuồn cắn rốn biết bơi
Con tôi chết bởi lời người hát ru.

Con tôi chết ở ao tù
Mà lời người vẫn hát ru ngọt ngào.
 

Hình ảnh nông thôn hôm nay được ĐĐB vẽ lại trong nhiều bài thơ vừa giống vừa khác với những thôn Đoài, thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính trước đây. Vẫn là cái ngậm ngùi của sự nghèo nàn và mất mát khiến long ta nhói đau, khiến long ta nhớ khôn nguôi “thương nhớ đồng quê” 

Nhà quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ.

Nhà quê có mấy trai tơ
Quần bò, mũ cối giả vờ sang chơi.

Nhà quê chân lấm tay bùn
Mẹ đi cấy lúa rét run thân già. 

Chợ làng mở dưới gốc đa
Nhà quê đem mấy con gà bán chơi.

Ối mẹ ơi đê đã vỡ rồi
Đồng ta trắng xoá cả trời nước trong.

Trâu bò thất thểu long đong
Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi. 

Ối mẹ ơi đê đã vỡ rồi
Mộ cha liệu có lên trời được không.

Sao chưa thấy chiếc thuyền rồng
Chở con với mẹ qua giông bão này.

 
Thơ ĐĐB khá giầu hình ảnh, và nói như nhà nghiên cứu phê bình văn học Vương Trí Nhàn: “Lục bát của Đồng Đức Bốn từ tốn, chậm rãi như lời nói vẩn vơ của một người vừa ngán sự đời, vừa không thôi chime nghiệm sự đời.” Thơ ĐĐB giầu nhịp điệu, cí thể thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhạc sĩ đã nhận ra sự tài tình và đã có một tình cảm liên tài khi phổ nhạc cho thơ anh. Đấy là các nhạc sĩ Thuận Yến, Doãn Nho, Huy Thục, Đặng Hữu Phúc, Ấn Thuyên, Nguyễn Tiến, Nguyễn Cường, Tuấn Phương, Đoàn Bông, Minh Quang,,, Đến nay, ĐD(B đã có chừng hơn 50 bài thơ được các nhạc sĩ phổn nhạc, Rất có thểm đây là những bài hát phổ thơ hay nhất trong vòng hai mươi năm qua.

 
Cũng với tình cảm liên tài, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết bài “Bạn thơ” tặng riêng cho ĐĐB: 

Bạn chừ đóng gạch nơi nao
Văn chương lấm láp vêu vao mặt người. 

Bất ngờ bạn đến thăm tôi
Gửi cho mấy tập ôi trời là thơ.

Câu dài câu ngắn ngẩn ngơ
Những rơm với lửa, những tơ với tình. 

Một người hoang dại một mình
Bơ vơ giữa phố mong thành thi nhân. 

Lòng yêu yêu đến trong ngần
Đường xa thương vết chân trần bạn tôi. 

Mong sao bạn bớt bùi ngùi
Cố làm thơ nữa để rồi gặp nhau…

 Đồng Đức Bốn là một nhà thơ sáng tạo ra những cái mới trong thơ lục bát. Anh thuộc diện nhà thơ bảo tồn, bảo lưu các giá trị thơ ca truyền thống. Đấy là một điểm khá đặc biệt trong thời buổi thơ lẫn lộn trắng, đen, thật, giả, lẫn lộn chuyên nghiệp và nghiệp dư hôm nay. Thơ anh dị ứng với những cách tân bí hiểm trừu tượng. Sự hiện đại trong thơ Đồng Đức Bốn là ở nội lực bên trong của từng câu thơ. Thơ hiện đại của ĐĐB chính là hơi thở, là hồn vía của cuộc sống hôm nay được “quản thúc” trong niêm luật cổ truyền lục bát. Anh thật xứng đáng với danh hiệu thi nhân, một danh hiệu vẻ vang không dễ dàng gì. Đấy chính là giá trị quí báu mà ĐĐB cống hiến cho đời, cho cuộc sống. 

Chùm thơ Đồng Đức Bốn

Những bài thơ sau đây rút trong tập Chăn trâu đốt lửa 

Chợ buồn 

Chợ buồn đem bán những vui
Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em.

 Chợ buồn bán nhớ cho quên
Bán mưa cho nắng, bán đêm cho ngày.

Chợ buồn bán tỉnh cho say
Bán thương suốt một đời này cho yêu. 

Tôi giờ xa cách bao nhiêu
Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư.


 
Sông Thương ngày không em

Không em ra ngõ kéo diều
Nào ngờ đuợc mảnh trăng chiều trên tay,

Luồn kim vào nhớ để may
Chỉ yêu cứ đứt trên tay mình cầm.

Sông Thương như gỗ hóa trầm
Mùi hương để vết tím bầm trên da.

 Sông thương từ buổi em xa
Tay anh quờ xuống hóa ra bị chàm.

 Em đi njư chim về ngàn
Để rơi một cánh hoa tan nát chiều.

 
Tôi đi tìm một tình yêu

 
Trên dòng sống chứa rất nhiều ban mai.
Tôi đi trên dòng song gai

Lốt chân chim đậu trên vai thành hồ.

Không em từ bấy đến giờ

Bàn tay vẫn héo như cờ chịu tang.

Cầu gẫy mới phải đi đò 

Cầu gẫy mới phải đi đò

Thế nên gặp gió thổi cho rét lòng.

Con đò nửa mặt trăng cong

Chênh vênh trên một dòng sông lở bồi.

 Mái chèo cứ nhẹ thế thôi

Không là đứt ruột gan tôi bây giờ. 

Mái chèo trên song làm thơ

Đỡ cho cánh vạc bơ vơ xuống dòng. 

Chốc nữa thế nào cũng going

Sang đò tôi đén giữa đồng là mưa.

 

Đời tôi 

I 

Tôi vừa lo được miếng cơm
Thì mất tí lửa tí rơm gầy lò.
Tôi vừa vượt bão mưa to
Chân đã phải lội đi mò sông sâu.

 II

Mải mê tính chuyện không đâu
Qua song đã gẫy nhịp cầu chẳng lo.
Bòn mãi được mấy sợi tơ
Giăng ra bao kẻ đã vơ vào lòng.

 Bây giờ còn có ai mong
Mà người mượn gió bẻ con trăng ngà.

 
III

 
Đời tôi tan nát bơ vơ
Nhớ thương là đợi còn chờ là yêu.
Đời tôi như một con diều
Đứt dây để trống cả chiều ngẩn ngơ.

 
VI

 Đời tôi mưa nắng ở đâu
Bây giờ vuốt gió trên đầu tóc rơi.
Đời tôi tình rách tả tơi
Bây giờ nhặt mảnh sao rơi vá vào.
Đời tôi giầu ở chime bao
Bây giờ ngồi hút thuốc lào với trăng.

 

Đường đi

 I

Đường đi to nhỏ đường dài
Thẳm sâu xuống biển lai rai lên đèo.
Có gì không để tôi theo
Cả đời bạc tóc vẫn nghèo xác xơ.
Có gì không để tôi chờ
Đời người được mấy giấc mơ đã tàn.

 Bao nhiêu hy vọng cũng tan
Mà sao vàng ở trong than vẫn ngời.
Bao nhiêu cái mặt con người
Đánh nhau mũ áo tả tơi vẫn còn.
Bảo rằng phía trước là son
Tôi đi đến hết đường mòn lại không

 
II

 Cứ đi theo vết bùn nhơ
Bao giờ qua những bến bờ thương đau.
Bảo rằng khổ trước sướng sau
Mà trăm năm vẫn thấy nhau bọt bèo.

 
III

 Bao nhiêu là nỗi đau qua
Gom vào thành những phù sa cho người.
Bao nhiêu là giọt mắt rơi
Làm mưa chứ chẳng làm trời nổi giông
Bàn chân đã xéo lên chông
Máu chảy không sợ thì không sợ gì.

 
Đàn tì bà bỏ quên

 [Kiến Thức Ngày Nay số 133 ngày 1.3.1994, trang 80.]

Bỏ quên thì cứ bỏ quên
Đàn tì bà đó cái tên vẫn còn.
Dây một gảy khúc chon von
Dây hai gảy khúc trăng tròn ngắm hoa.
Dây ba gảy lúc người ta
Đói cơm rách áo vẫn là của nhau
Dây tư gảy khúc buồn đau
Nhắc ai còn nhớ tới câu hẹn hò
Bốn dây thành một con đò
Chở tôi tới giữa đôi bờ Trương Chi.

 

Bây giờ

[Tuổi Trẻ Xuân Quí Mùi]

 I

 Bây giờ không thấy Thị Mầu
Nhưng con mắt ấy còn lâu mới già.
Mỗi lần cây cải nở hoa
Thì tôi lại nhớ người ta chưa về.
Mỗi lần cỏ dại trên đê
Chim ngói đi thả bùa mê khắp đồng.
Bây giờ em đi lấy chồng
Tôi giờ về lại bên sông tìm mình.

 II

Bao nhiêu là thứ bùa mê
Cũng không bằng được nhà quê của mình.
Câu thơ nấp ở sân đình
Nhuộm trăng trăng sang, nhuộm tình tình đau.
Nhuộm buồn những hạt mưa mau
Thành sao nở trắng vuờn cau trước nhà.
Nhuộm hương của các loài hoa
Thành mơn mởn tóc đuôi gà cho em.
Câu ca mẹ hát như đùa
Chẳng mong thì bão cũng đi
Chẳng chờ thì nắng đương thì vẫn sang.
Đất nâu tưởng đã cũ càng
Tiếng chim trong bụi tre làng cứ non.
Có đi trên quãng đường mòn
Mới tin rùa tháp vẫn còn linh thiêng.
Mỗi người có một cõi riêng
Cũng như tiếng trống tiếng chiêng hội mùa.
Câu ca mẹ hát như đùa
Mà làn nước mặn đồng chua đổi đời.

  Đồng Đức Bốn

[Nhân Dân điện tử 15 tháng Ba 2003]

 

Đồng Đức Bốn sinh năm 1948 – quê ở An Hải, Hải Phòng.

Tác phẩm thơ Con ngựa trắng và rừng quả đắng (NXB Văn Học); Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao Động) Đàn buồn lại mắc dây oan (NXB Hội Nhà Văn); Ngắm quả gai rừng (NXB Lao Động).

 
Jennifer Tran giới thiệu