Đọc thơ
NGUYỄN XUÂN THIỆP
Đặng Tiến
Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp là
một tâm linh trong sáng vừa mới gởi đến trần giới trầm luân một dòng
thơ thanh
thoát qua tác phẩm Tới cùng gió mùa, tạp chí Văn Học xuất bản tại Mỹ
(1).
Cách đây tròn năm, trên báo
Văn Học số 135 do anh Nguyễn Mộng Giác gửi tặng (tôi không có tiền
mua), tôi
được đọc bài Thảo nguyên ký
tên Nguyễn Xuân Thiệp lạ hoắc và bị mê hoặc ngay
bởi dòng thác hình ảnh - âm vang hư hư thực thực cuồn cuộn băng băng
qua mấy
trăm câu thơ như nước Hoàng Hà :
Mùa hạ ta qua vùng thảo
nguyên
Bước nhẹ tênh quên thời khổ
hạnh
Mê con chuồn chuồn đỏ bay
ngang
Thương bầy dê con trên đồi
vắng
Gặp trẻ chăn bò đi hát rong
Gọi ấu thơ ta mùa hạ sáng
Đời trôi đi tưởng đời lặng
câm
Bỗng tiếng đàn ai trong gió
thoảng
(...) Mai
mốt chị qua vùng
thảo nguyên
Như xưa một lần về quê
ngoại
Ngày reo vui vườn chim
bay
chim
Lòng reo vui reo tà áo lụa
Chị gội đầu bằng nước hoa
chanh
Hương tóc bay sang chiều
vời
vợi
Chị ơi mai qua vùng thảo
nguyên
Mang cho em một chùm nhãn
chín
Ôi tình xưa như nhãn và
sen
Dẫu tình phai khi chưa
kịp
hẹn
tr. 63-69
Nay nhận được thi phẩm, đọc
nơi trang bìa sau, được biết Nguyễn Xuân Thiệp là cựu sĩ quan miền Nam,
làm bài
Thảo nguyên năm 1980 trong thời gian học tập tại một trại cải tạo nào
đó miệt
Nghệ Tĩnh miền Bắc từ 1975 đến 1982 – mãi đến năm 1995 mới sang Mỹ –
thì tôi phục
quá. Bài thơ lời lẽ cao khoát, tình nghĩa thâm sâu, bỗng ánh ngời thêm
một ý
nghĩa mới : cụ thể, lịch sử, xoáy sâu thêm, nâng cao thêm nội dung tự
tại.
Những chữ "thảo nguyên, khổ hạnh,
chuồn
chuồn, bầy dê, trẻ chăn bo, đời lặng câm" bỗng nhiên đi
vào thế đối lập với
những từ ngữ thư thái “bước nhẹ
thênh, mùa hạ sáng, ngày reo vui, lòng reo
vui, tà áo lụa” . Điều này làm tôi sực tỉnh : những phương pháp
tiếp cận văn
học hiện đại đang thịnh hành, chăm chú vào văn bản, ít lưu ý đến bối
cảnh lịch
sử, xã hội, thậm chí hoàn cảnh, tâm lý tác giả, những phương pháp này
dĩ nhiên
là có hiệu lực, nhưng cũng giới hạn. Và giới hạn cả giao tình giữa
người đọc
với tác phẩm và tác giả. Đề cao cấu trúc, có khi quên mất con người.
Nhân danh
độc giả, đôi khi là hù doạ độc giả bằng kiến thức, kỹ thuật – hay cái
hư danh
của người viết.
Tỉnh cơn mê chữ nghĩa, tôi
thán phục cái ông Nguyễn Xuân Thiệp, có thơ đăng từ 1954 mà tôi chưa hề
được
đọc, được nghe danh. Từ quan cảnh học tập, cải tạo mà anh đã mơ thấy,
dù là “
mai mốt ” , một “ quê ngoại ”
thì khoáng đạt, độ lượng quá. Tình cảm quê hương,
và trần gian vượt quá Hồ Dzếnh, đã đành và dễ thôi, mà còn vượt quá cõi
hoang
tưởng của một Nguyễn Bá Trạc rất hiện đại ở hải ngoại, một thứ “ quê
ngoại ” :
Chao ôi cơn
gió mùa đông cũ
Còn thổi mưa lên mấy cửa
thành
Vườn nhà ông ngoại thơm
hoa
bưởi
Khi tóc em vừa mới chớm
xanh
(2)
Không rõ tôi cao hứng lạc đề,
hay thơ Gió mùa và thơ Cỏ bồng cùng gợi chung một khí hậu
? dù rằng hai người
đã đi những con đường, trên những lãnh phận rất khác nhau.
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp có
nhiều câu, thường song đôi, xuất sắc, kết hợp chất uyên bác (nghĩa là
không
mới) với sức sáng tạo tân kỳ ; lưng vốn cá nhân dồi dào được đầu tư đắc
thế vào
nguồn sống dân tộc đông phương và tây học, tạo ra vòm ánh sáng vừa kỳ
diệu vừa
duy lý. Tri thức và trí thức không khuất lấp mầu nhiệm của ngôn ngữ ;
giác quan
và ảo mộng nương nhau nuôi nhau. Ví dụ một bài thơ dài hơn hai trăm câu
được
kiến trúc trên một hình ảnh duy nhất, một tứ thơ quán xuyến là Ánh
trăng :
Trăng khuya
như một loài chim
quý
Bay suốt nghìn năm hót
một
lần.
Dưới mái chùa tây văng
tiếng
kệ
Vị sư già đã thức, chuông
ngân.
Âm thanh như một làn
hương
sữa
Chảy xuống hồn ta đã lặng
dần
Hạt lệ muối rơi, giờ đọng
lại
Trăng nguyệt cầm ơi, ngọc
mới
đông (...)
Giữa cuộc vui này ta có
mặt
Sao tâm xao xuyến những
trời
xưa
Đếm sao, nào biết sao mờ
tắt
Trận bão mùa qua đã dứt
chưa...
(1980, tr.98)
Không uyên bác thì không làm
được thơ như vậy. Từng hình ảnh một, không có gì mới ; lối so sánh ánh
trăng
lưỡi liềm với cánh chim cũng đã có người dùng. Nhưng cách liên hoàn
những hình
ảnh thì sáng tạo và bất ngờ, vì nó phục vụ cho ý hướng riêng tập thơ :
khổ nạn
của lịch sử, và đời người, chỉ là cơn bão rớt, trong khi con người
trong nhân
loại và dân tộc, là một khoảng trời xanh miên viễn. Tư tưởng ấy, tự nó
không
cao siêu, nhưng sống trọn vẹn nó qua những thảm kịch lớn lao của đất
nước và cá
nhân, thì phải cao cường. Thơ Nguyễn Xuân Thiệp chứng tỏ con người có
đủ sức
mạnh tinh thần để vượt qua những trầm luân, và thi ca là một thành tố
của năng
lực kia. Thi ca hiểu theo nhiều lớp lang : cách nhìn đời, lối tiếp cận
và lối
diễn đạt, nói chung là cách sống. Ngôn ngữ, thi pháp giúp Nguyễn Xuân
Thiệp
sống trọn vẹn và tràn đầy ý thức và tâm cảm. Thơ Nguyễn Xuân Thiệp mới
ở đó, ở
chỗ không giống ai. Nó mạnh một khi đã đủ sức từng trải gian truân. Và
hay nhờ
tài năng cấu tứ, sử dụng từ pháp và âm pháp, trong kiến thức rộng rãi
và xúc
cảm sâu xa.
Ba khổ thơ vừa trích gợi nhớ
nhiều điển cố mà tôi không nhắc lại, vì sợ nặng từ chương và nhẹ phần
đối thoại
giữa nhà thơ và người đọc. Nhưng tưởng nên giải thích câu “ Sao tâm xao
xuyến ”
nghĩa là “ giữa cuộc vui ” sao
lòng mình xao xuyến ; nhưng Tâm còn là tên Sao
trên “ những trời xưa ” :
câu thơ mang nhiều kích thước.
Ngay bài Thảo
nguyên trích từ
đầu đã phức tạp từ cái tiêu đề : thảo nguyên (steppes/toundra), những
đồng cỏ
bao la ở Nga La Tư, sống về chăn nuôi. Cao nguyên Việt Nam –
nơi tác
giả bị đày – có đồng cỏ nhưng chưa gọi được là thảo nguyên. Do đó từ
ngữ này
tạo ra cảm giác lưu xứ tận miền Tây Bá Lợi Á, từ thời Nga hoàng. Nhà
thơ vẫn
nhìn lưu đày bằng thi cảm, thi giác : Mùa
hạ ta qua vùng thảo nguyên / Bước nhẹ
thênh... như kẻ nhàn du, tìm về nguồn suối, có nước trong và cỏ
mát. Mùa hạ
nắng ấm cỏ cây và người vật tươi vui sau thời tuyết tan băng rã.
Bài thơ dài được kiến thiết
trên mùa hạ ấm.Mùa hạ đồng thời là mùa lưu đày của nhiều kẻ sĩ miền Nam
năm 1975.
Với miền Bắc, mùa xuân là mùa Đại Thắng, mùa thu là Cách Mạng, mùa đông
là
Chiến Dịch..., còn lại cho miền Nam Mùa hè đỏ lửa...
Vẫn hai câu đầu :
Mùa hạ ta
qua vùng thảo
nguyên
Gió thổi chiều xanh trôi
với
nắng
(tr. 63)
Âm điệu gợi lên hai câu xa
xưa, mở đầu bài Đất nước của
Nguyễn Đình Thi :
Sáng mát
trong như sáng năm
xưa
Gió thổi mùa thu hương
cốm
mới (3)
Những lời thơ âm hưởng giao
thoa vì những sơ đồ thang âm và nhịp điệu. Nhưng không phải người sau
mượn tứ
thơ người đi trước, vì họ thuộc hai “ chiến tuyến ” khác nhau, mà chúng
ta thấy
sự đối lập rõ trong cấu tứ : ở Nguyễn Đình Thi, cơn gió mới hứa hẹn ấm
no và
hạnh phúc ; ở Nguyễn Xuân Thiệp là những trôi dạt phôi pha, vĩnh viễn
mất mát.
Tuy nhiên, giữa những đối lập hai hồn thơ vẫn có điểm gần nhau, như lối
nhìn
đời từ một khoảng cách. Đây là chuyện ngoài đề, nhưng không phải là
không lý
thú, mà mai kia, chúng ta có thể triển khai trong một hoàn cảnh văn học
cởi mở
hơn hiện nay.
Bài Thảo
nguyên láy lại điệp
khúc, nhưng có khi biến dạng :
Năm năm ta
qua miền thảo
nguyên
Đến nay vang vang mùa hạ
gọi
(tr. 65)
Mùa hạ tuần hoàn về cuối câu
thơ, nhường đầu câu cho “ năm năm ”
khơi nguồn nhiều nghĩa.
Đầu tiên là thời gian học tập
cải tạo, năm năm đời ta ngọt bùi
chẳng biết (...), năm năm những chiếc roi quất
ngược (tr. 77-78). Vì một chữ đồng âm láy lại, nên thời gian năm lần
một năm có
vẻ dài lắm. Trong Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bốn lần lối láy chữ này :
Năm nay là
một nữa thì năm
năm
(câu 2408)
Thời gian như kéo dài tô tận
qua cách láy từ trong câu ca dao (mà Tản Đà cho là thơ Dương Lâm) :
Năm năm
tháng tháng ngày ngày
Lần lần lữa lữa rày rày
mai
mai (4)
Những “
chính sách ” lần lữa
đối với “ người tù xa xứ... trên
đường biệt xứ ” (tr. 55-59) không được xét xử,
không có hình án, biến thời gian trở thành một khổ sai vô hạn định, mà
tác giả
thỉnh thoảng nhắc lại mát mẻ, qua những
“ cánh trà oan khổ, bạn bè hái từ trên
núi xanh ” :
Bây giờ ta
hiểu ra thiên thu
(tr. 121)
Năm năm
còn một nghĩa khác,
là mỗi năm nhắc lại quan niệm “ gió
mùa ” : vì vũ trụ tuần hoàn, thường trực
trong tâm thể Nguyễn Xuân Thiệp. Mỗi năm, mùa hạ làm sống lại những “ tà áo
biếc... những tà áo lụa... những chùm nhãn chín...”. Tư tưởng
chu kỳ đẩy nhà
thơ ra khỏi thời gian ra khỏi lưu đày ; tâm tư thanh thản, không gian
đơn tuyến
dường như rộng rãi thêm. Từ vùng
thảo nguyên thơ đã qua miền
thảo nguyên. Một
chữ miền thôi, đủ nấn rộng không gian, một phần nhờ giá trị ngữ âm
(phonétique)
và ngữ nghĩa (sémantique), đối lập với chữ vùng.
Bài thơ kết thúc với điệp
khúc :
Ta đi năm
năm qua thảo nguyên
Câu thơ lần này nhấn mạnh ý
đi qua, không dừng lại.
Năm năm,
do đó còn thêm một
nghĩa thứ ba riêng biệt, là thời gian dài nói chung, năm này qua năm
khác, là
lịch sử biên niên. “ Năm năm báo
oán, đời đời đánh ghen ” trong tục ngữ.
Con đường “ đi qua ” thảo
nguyên, cụ thể vùng Nghệ Tĩnh, là : lớp lớp nhiều thế hệ lưu dân từ thế
kỷ XII
đã đi dần về phía Nam
:
Cha đã đi
qua vùng thảo
nguyên
(...) đám lưu dân qua
vùng
châu thổ
(tr. 66)
Và trong tương lai, gần hay
xa, dân tộc sẽ còn tiếp tục hành trình : mai mốt mẹ (...) chị (...) em qua vùng
thảo nguyên... Nói khác đi và rộng xa, những gian truân từng cá
nhân, hay tập
thể, chỉ là một đoản đình, trường đình trên quá tình dân tộc – và loài
người.
Thấy được như thế, trong cảnh học tập cải tạo, phải là... thánh. Với
một tâm
hồn trùng trùng độ lượng :
Chân sóng
đẩy đưa, ta đi trên
đường biệt xứ
(...) Nghe vi vu biển gọi
nguồn về
trùng khơi ì ầm con nước
động
lưng trời lượng lượng mưa
sa
(1980, tr. 60)
Tuy nhiên, đến với Nguyễn
Xuân Thiệp, tôi không đi tìm một thánh nhân. Mà đi tìm một nhà thơ. Và
tôi đã
gặp người thơ, một tình người trong lời thơ mang vết chân lưu dân đời
đời qua
những truông những trảng :
Hành nhân,
hành nhân, đêm thu
phân
(tr. 67)
Đêm thu phân ! Phân vân và
phân thân. Câu thơ vần bằng. Câu Nam bằng : huyền trân,
huyền trân,
đêm thu phân...
Đêm nào trong đời người lưu
dân mà không là đêm thu phân ?
*
Nói rằng tư tưởng vượt đau
thương, thi ca hoá giải hận thù không có nghĩa là né tránh phê phán hay
thoả
hiệp với cái ác, hoà giải với điều xấu. Xin đừng gán cho Nguyễn Xuân
Thiệp – và
tôi – cái não trạng ngớ ngẩn ấy. Nhà thơ là một nạn nhân bình tĩnh và
sáng suốt
phê phán :
Hỡi ơi giữa
cánh rừng săn bắt
ta chỉ nghe rền giọng sói
tru
(...) thử ngẩng nhìn
trăng
đêm phán xét
ai công, ai tội, dưới
trời
khuya
ai xô trăm họ vào gai gốc
ai hái dâng đời một đoá
hoa
hãy xét trong cơn đau
lịch sử
nỗi đau nào đau của riêng
ta
(tr. 91)
Bàn thêm : “ chữ nào ” ngắt
nhịp ở đây có ba nghĩa : nghi vấn, phiếm định và phủ định. Nhìn lại
cuộc chiến
đã tàn phá quê hương mà tác giả con đang tiếp tục chịu đựng hậu quả :
trăng
chiếu, thành không, hào
luỹ sụp
còn nghe sắt thép rền cỏ
khâu
tỳ bà đá dựng, hồn u khốc
uổng ngọn cờ treo ải địa
đầu
(tr. 89)
Tác giả lên án mọi thứ chiến
tranh trong lịch sử nhân loại, và lối thơ biên tái thời Đường đã cổ
động binh
tướng ra “ ải địa đầu ” chống
rợ Hồ : “ dục ẩm tỳ bà mã thượng
thôi ”... Nhưng
nhà thơ vẫn tin tưởng ở tương lai, con người và cuộc sống :
Nhưng thôi
nhân loại vui vầy
cả
Yêu cuộc đời trong lẽ bất
toàn
Chút nghĩa thuỷ chung ta
giữ
vẹn
Lòng ơi, trải rộng gió
nhân
gian
(tr. 101)
Nguyễn Xuân Thiệp ra tù 1982,
sang Mỹ 1995. Khi cho đăng thơ trên tạp chí Văn Học (Mỹ) tháng 7-1997
và tháng
4-1998 anh không ghi thời điểm sáng tác 1980, giữa thời gian học tập
cải tạo.
Nói khác đi, anh không khoe công đã từng kinh qua “ đáy địa ngục ” hay
“ đại
học máu ”. Anh cần người đọc nhận định giá trị đích thực của thi ca,
thơ hay
thơ dở không cần “ con tem ”. Anh không thuộc loại người làm thơ để ném
vào sứ
quán. Thậm chí toà soạn Văn Học cũng không biết nên đã giới thiệu “ bài
thơ dài
mới nhất ” (số 135, tr.2) làm 17 năm trước đó. Tác giả “ thư toà soạn ”
thường
là Nguyễn Mộng Giác lại là người “ tận tri thiên hạ sự ”. Chúng ta cần
ghi nhận
ở đây sự liêm khiết kiêu hãnh của văn học – không cứ gì của riêng
Nguyễn Xuân
Thiệp. Nhưng trường hợp anh là tiêu biểu, là cơ may hiếm có : vì thơ
anh hay.
Chẳng may thơ dở thì biết đâu lại chẳng phải cần đến “ con tem ” ? Thơ
Nguyễn
Xuân Thiệp như muốn “ cải tạo ” trại học tập thành một kiểu tiếu ngạo
giang hồ,
không có ý đồ xúc phạm, chỉ nuôi tham vọng (ảo vọng ?) đánh dấu chấm
dứt một
giai đoạn hỗn mang trong tâm thức Việt Nam :
hết rồi
thời quỷ mị
đời hân hoan, gió gọi ta
hài cỏ, nón thơ, tay nải
biếc,
mai về
dưới trăng, hái một bông
trà
(1980, tr. 61)
Tác giả sử dụng đủ các thể
thơ, trừ lục bát. Nhưng thỉnh thoảng, người đọc vẫn nghe trong tận đáy
lời ca,
giọng ru hời thầm lặng bằng lục bát, như ở mấy câu trên : mai về hái
một bông
trà dưới trăng.
*
Chúng ta tạm thời phân biệt :
thơ chơi và thơ chuyên.
Thơ chơi của
bậc tài tử, cao
hứng làm vài câu, thường một câu chợt đến, rồi nối thêm vài ba câu nữa
cho
thành “ tuyệt cú ” (!). Thơ chuyên
là của các nhà thơ thật sự sáng tác, chuyên
cần làm thơ, lao động cật lực để làm những bài thơ dài, những bài hành,
trường
ca...
Nguyễn Xuân Thiệp thuộc loại
làm thơ chuyên, dù không phải là “ chuyên nghiệp ” vì làm thơ không
phải là một
nghề, và dứt khoát là không hưởng lợi tức. Gọi là thơ chuyên, trước hết
vì tập
Tôi cùng gió mùa
tải một nội dung duy nhất, các bài thơ hình thức khác nhau đều
đồng quy về một ý hướng, không rời rạc vào chuyện ngâm vịnh, thù tạc,
tửu hậu
trà dư. Tác giả là bậc tài hoa, nhưng không sử dụng thơ để biểu diễn
tài hoa,
ngược lại có ý thức dùng tài hoa như một phương tiện để phục vụ lý
tưởng nghệ
thuật và nhân đạo.
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp không
có tiểu xảo, do đó viết về anh tuy dễ mà khó. Khó khi trích dẫn : thành
tâm “
trích diễm ” hoá ra vô tình xuyên tạc ; tỉa lẻ một câu thơ hay, chứng
minh được
đặc sắc mà không nói lên chức năng của nó trong toàn bộ bài thơ và tập
thơ, thì
chưa trung thực. Đem thơ trà đình tửu điếm ra tán tụng nhau thì dễ hơn,
ăn chắc
và ăn khách. Nhiều thí dụ rất mới, thời sự.
Thơ chuyên Nguyễn Xuân Thiệp
còn mang tính cách dài hơi (trái với hơi dài), nhắc đến những bài ca,
bài hành
trong thơ xưa, tự do hơn những bài hành độc vận trong thơ mới, gần đây.
Bài Ánh
trăng, 248 câu làm nhớ đến bài Xuân
giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư (35
câu) nhưng ý tứ dồi dào, sắc bén hơn.
Sang Mỹ thơ Nguyễn Xuân Thiệp
tình ý vẫn như xưa, nhưng ngôn từ có thay đổi ; nếu :
xa kia là
hoàng hôn
màu tường vi trong thơ cổ
(1955, tr. 151)
thì bây giờ hình ảnh mới lạ,
trực tiếp, như một bức tranh hội hoạ hiện đại :
Tháng chín
cơn mơ nào ở Oklahoma
thoảng
mùi tử đinh hương
quanh trời sấm dội
con chim màu đỏ trở về
một mình, đứng hót trong
mưa
(1997, tr.168)
Chim màu đỏ hiếm thấy. Chim
hót trong mưa cũng hiếm. Chim lạ, hót một mình. Hình tượng buồn và đẹp.
Thơ
cũng vậy thôi, đơn giản và đơn côi, rét mướt và ánh ỏi : con chim đỏ,
nét đan
thanh. Và cuối cùng Nguyễn Xuân Thiệp mới chịu công bố tuyên ngôn thơ
của đời
mình :
tôi, áo rực
tà dương, đi
trong rừng Parkwoods
như đi qua đời sấm dội
như con chim màu đỏ vẫn
hót
tôi làm thơ
cho bạn bè, cho những
người
cùng khổ
cho sấm dội, cho đổ vỡ,
cho
mây xa
tôi làm thơ
và con chim màu đỏ
hót, một mình, dưới trời
mưa
thưa.
(1997, tr.170)
Tôi chưa hân hạnh quen biết
Nguyễn Xuân Thiệp. Nhưng mới đọc thơ anh, đã nhận ra ngay tiếng hót của
loài
chim xa, một loài chim lạ. Mà không xa lạ. Không phải ngứa cổ hát chơi.
Mà hát
cho tan sấm dội mưa thưa.
Và xin gửi đến các bạn tôi
một lời chim. Thêm một quãng trời thân mến.
Đặng Tiến
9.98
(1) Nguyễn Xuân Thiệp, Tôi
cùng gió mùa, nxb Văn Học,
California,
1998, 180 trang, giá 15 USD. Có
ghi địa chỉ liên lạc : Nguyễn Xuân Thiệp, P.O. Box 803.152, Dallas,
Texas 75380.
(2) Nguyễn Bá Trạc, bài Quê
mẹ, cùng trên tạp chí Văn Học (California) số 20, tháng chín
1987, tr. 93.
Không thấy in lại trong Ngọn cỏ bồng
(1985) hay Ngọn cỏ bồng toàn
tập, 500
trang, 1995. Sao vậy ?
(3) Tôi mới phát hiện ấn bản
cũ (1954) trên đặc san Đất nước, Paris,
số Tết 1956, tr. 8-9
Sáng mát trong như sáng năm
xưa
Gió thổi mùa thu trên đồi
núi
Sông Cầu êm ả cuộn về
xa...
Bản đầu tiên (1948) lại khác
nữa :
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân
em...
(4) Tuyển
tập Tản Đà, nxb Văn
Học (Hà Nội), 1986, tr. 405. Trích từ An Nam tạp chí, số 35, năm 1932,
bài Mối
cảm tưởng về thơ ca nước ta.