GCC cc 1966, đứng trên bao lơn Đài
VTD, building số 5 Phan Đình Phùng nhìn xuống.
Nobel
văn chương 2017
Thơ
Mỗi Ngày
SONG TO THE MOON
Mưa bên kia sông,
mưa nửa dòng nuớc
TTT
I'm back to childhood when
I see it weirdly
Raining on only one side of the street.
You're born that way-or else you're not.
It's snowing-or else it's hot.
It's like the strangeness, that's also natural,
When it's raining on one side of the street.
I'm back to childhood when I see it weirdly
Raining on only one side of the street. I stare
Because it's rare. How does nature dare!
It's like the first time you hear Bach. You stop
and stare-and hear!
Bạn sinh ra cách đó – hay đếch phải cách
đó
Trời đang tuyết – hay đếch phải đang tuyết, mà
là, nóng chảy mỡ ra!
Nó thì lạ lạ - hay, thì cũng tự nhiên,
bình thường
Khi,
Mưa nửa con phố bên kia.
Tớ bèn trở lại thời thơ ấu của mình
Khi nhìn thấy mưa rơi kỳ kỳ
Ở chỉ một nửa con phố
Tớ trố mắt nhìn, vì lạ quá, hiếm
quá
Sao con mụ thiên nhiên dám làm
1 chuyện như thế, hử, hử!
Cứ như lần đầu tiên bạn nghe Bach.
Bạn ngưng, và trố mắt thô lố - và
nghe!
Everybody watches the weather report
On morning TV when everybody's getting dressed.
You always see something. You never see nothing.
If you don't like what you're wearing, change the
channel.
But it's always the same weather, isn't it,
On every channel, and always changing
With the times? I like that
It wasn't raining, and then it was, but the sun
was shining at least
On one side of the street for homosexuals
In those not-so-long-ago pre-Stonewall days,
Though it was difficult and even dangerous
And they were often unhappy,
However happy they were.
Samuel Barber at the Curtis Institute
In Philadelphia with Menotti and oh my what gifted
fun.
I think of the hard-drinking tough-guy GI Bill
fags
I knew in Cambridge, Mass., Harvard
Teachers and fiends with a taste for straights,
doing their best on weekends
Not to get caught or killed,
And basically brilliant and frightened and thrilled.
You saw hysterical, theatrical, paranoid men,
Given to hissy fits and Carmen Miranda outfits,
Become calm when a shot was fired,
When it came down to taking off the costume and
loving someone.
And Leonard Bernstein was vamping around.
And Aaron Copland
Gave manly kisses. Wasn't Dvorak mildly gay?
Renee Fleming singing Dvorak's dragonfly-winged,
ethereal
"Song to the Moon" from his opera Rusalka
Is what beauty really is and does.
The water nymph Rusalka, a spirit in a lake,
Broadcasts her sorrow
And longing to the moon
To ask the moon to tell the prince-a mortal man-
That she loves him even if he's queer,
Which she deeply does, whom she'll later kill with
a kiss.
Note: Tay này, rất mê Tẩy, esp. Apollinaire.
Bài dịch qua tiếng Anh, "Cầu Mia Rà Bồ", trong 1
số Paris Review, phán, của Tòa Soạn, nhưng của ông.
GCC lại thấy nó, trong cuốn thơ của ông, cùng vô
số bài dịch thơ Apollinaire. Trên số Paris Review,
mới nhất, có 1 bài của ông, GCC dùng Ipod
chôm, đọc được lắm, sẽ post & dịch liền.
DON'T BLINK, LIFE!
In 1960 I was twenty-four.
I'm not anymore.
Don't blink, life!
Don't move any part of you until I tell you to.
Đời, đừng nháy!
1960, tớ hăm bốn
Đâu còn hăm mẹ gì nữa
Đời, đừng nháy!
Đừng nháy bất cứ 1 sợi lông nào trên
người mi
Cho tới khi ta cho phép!
SONG
I want to amputate
My death and live.
I want to be asleep.
That way they can't put me to sleep.
They won't!
I won't.
I want to be alive and be awake.
I want a field block.
Give me the epidural
To remove my Haiti.
Bài Ca
Tớ muốn thiến
Cái chết của tớ, và sống
Tớ muốn thiu thiu ngủ,
Cái cách mà chúng không
thể bắt tớ ngủ
Chúng không thể
Tớ cũng rứa!
Tớ muốn sống nhăn và tỉnh như sáo
Tớ muốn 1 khoảnh đồng
Cho tớ 1 cú epidural
Để cắt bỏ Haiti của tớ
Frederick Seidel: Widening Income Inequality
The Toy
The brightly painted horse
Had a boy's face,
And four small wheels
Under his feet,
Plus a long string
To pull him this way and that
Across the floor,
Should you care to.
A string in waiting
That slipped away
With many wiles
From each and every try.
•
Knock and they'll answer,
My mother told me,
So I climbed the four flights
And went in unannounced.
And found the small toy horse
For the taking.
In the ensuing emptiness
And the fading daylight
That still gives me a shudder
As if I held in my hand
The key to mysteries.
•
Where is the Lost and Found
And the quiet entry,
The undeveloped film
Of the few clear moments
Of our blurred lives?
Where's the drop of blood
And the tiny nail
That pricked my finger
As I bent down to touch the toy,
And caught its eye?
•
Wintry light,
My memories are
Steep stairwells
In dusty buildings
On dead-end streets,
Where I talk to the walls
And closed doors
As if they understood me.
*
The wooden toy sitting pretty.
No quieter than that.
Like the sound of eyebrows
Raised by a villain
In a silent movie.
Psst, someone said behind my back.
Charles
Simic: New and Selected Poems 1962-2012
Món đồ chơi
Con ngựa sơn màu tươi vui
Có gương mặt của một cậu bé
Với bốn bánh xe dưới chân
Và một sợi dây dài để kéo nó
đi
Trên sàn
Về phía này, phía kia
Nếu thích
Sợi dây như chờ
Tuột ra
Bướng bỉnh đi ngược lại
Mỗi lần bị kéo
•
Cứ gõ và cửa sẽ mở
Mẹ tôi từng bảo tôi
Thế là tôi leo lên bốn chuyến bay
Bước vào chẳng báo trước
Và đã tìm ra món đồ chơi, con ngựa
nhỏ
Trong khoảnh khắc trống rỗng sau đó
Và trong ánh sáng nhạt nhòa của chiều
Tôi khẽ rùng mình khi tôi nắm trong tay
Chìa khóa của những gì kỳ bí
*
Đâu rồi
Những ghi chú lặng lẽ
Trong chốn Mất Đi và Tìm Thấy,
Những thước phim tráng dở dang
Về đôi khoảnh khắc trong sáng
Của cuộc đời mờ nhòa của chúng ta ?
Đâu rồi giọt máu nhỏ ra
Và chiếc đinh bé tí
Đã đâm vào ngón tay tôi
Lúc tôi cúi xuống sờ vào món
đồ chơi
Và bắt gặp mắt nó ?
*
Dưới ánh sáng ảm đạm
Những kỷ niệm như những bậc thang
Trong những tòa nhà bụi bám
Trên những ngõ cụt
Nơi tôi ngồi nói chuyện với những bức tường
Và những cánh cửa đóng chặt
Như thể chúng có thể hiểu tôi
*
Con ngựa gỗ ngồi yên
Như không thể nào câm lặng hơn
Khác nào cái nhướng mày
Của một gã ác
Trong một phim câm
Suỵt, ai đó thầm thì sau lưng.
WILLIAM STAFFORD
AT THE BOMB TESTING SITE
At noon in
the desert a panting lizard
waited for history, its elbows tense,
watching the curve of a particular road
as if something might happen.
It was looking at something farther off
than people could see, an important scene
acted in stone for little selves
at the flute end of consequences.
There was just a continent without much on it
under a sky that never cared less.
Ready for a change, the elbows waited.
The hands gripped hard on the desert.
Tại khu vực thử bom
Giữa trưa trên sa mạc, con thằn lằn hổn hển
đợi lịch sử, khuỷu căng thẳng
Chăm chăm nhìn về khúc quanh của con đường
Như thể một điều gì đó sắp xảy ra
Nó nhìn thấy, rất xa, nơi con người không thể
thấy được
Một cảnh tượng, in hằn trên đá, dành cho những
kẻ nhỏ nhoi
Cuối con rãnh hẹp, tận cùng của những hậu quả
Ở đó chỉ là một lục địa trống vắng
dưới bầu trời vẫn đời đời bất nhân, vô tình.
Sẵn sàng đợi đổi thay, khuỷu chân căng chờ
Tay, bấu chặt vào sa mạc.
Tks. NQT
Bài thơ này, đọc 1 phát, Gấu bèn nhớ đến
Lão Tử, cái gì gì, thánh nhân
bất nhân, trời đất vô tình, coi con người như rơm chó
[sô cẩu].
Nhưng đọc lại, 1 phát nữa, thì lại nhớ tới me xừ cha
đẻ bom nguyên tử Oppenheimer.
Ông này, lúc đó đứng kế bên con thằn
lằn, và thuộc vào nhóm người nhỏ bé, ti tiện
mà con thằn lằn chọn nghiệp của Hồ Hữu Tường nhắc tới, với 1 sự
khinh miệt, hà, hà; vị này bỗng nhớ đến 1 dòng
thơ trong Gita:
Ta bi giờ trở thành Thần Chết, kẻ huỷ diệt thế giới.
"Now I am become Death, the destroyer
of worlds."
Visions
Oppenheimer and the Gita
by Alex Wellerstein, published May 23rd, 2014
What was going through J. Robert Oppenheimer's head when he saw the
great fireball of the Trinity test looming above him? According to his
brother, Frank, he only said, "it worked." But most people know a more
poetic account, one in which Oppenheimer says (or at least thinks) the
following famous lines:
I remembered the line from the Hindu scripture, the Bhagavad-Gita;
Vishnu is trying to persuade the Prince that he should do his duty and,
to impress him, takes on his multi-armed form and says, "Now I am become
Death, the destroyer of worlds." I suppose we all thought that, one way
or another.
Re: Visions
Điêu tàn ư, ôi, đâu chỉ điêu tàn?
Xuân Sách, đọc thơ Chế Lan Viên, nhìn ra
1 cõi Mít như hiện nay.
TTT đọc Trầm Tư, của HHT, nhìn ra Quỷ, thay vì Đức Phật,
trở lại xứ Mít...
Bạn không có vision, mà vị K của trang Tin Văn
gọi là THNM, là bạn không đọc được bất cứ 1 cái
gì.
Sợ không sống nổi, nói gì đọc!
Đang lèm bèn về vision, về tận thế, FB bèn
phụ họa, bằng 1 cú nhắc, sau đây:
Ba lịch sử
Có ít nhất là ba lịch sử con người
khác nhau, không phải một. Lịch sử sức mạnh. Lịch sử nhan
sắc, và lịch sử của sự đau khổ. Chỉ hai cái đầu là
được nghiên cứu, xếp loại, ghi chú, ghi âm, ghi nhận…
nhiều hoặc ít. Chúng có những vị giáo sư, những
sổ sách. Nhưng đau khổ đếch để lại một vết tích. Nó
câm. Nghĩa là, câm, về mặt lịch sử mà nói.
Một tiếng la đâu có kéo dài. Và đếch có
1 biểu tượng, sử dụng như là ghi chú, tiểu chú cái
con mẹ gì đó, để thay mặt nó, trình nó
ra, và làm cho nó có tuổi thọ.
Chính vì thế mà thật là khó khăn
khi tìm, hiểu, cái gọi là yếu tính của Lò
Thiêu. Nhìn từ quan điểm lịch sử của sức mạnh, thì nó
là một thời kỳ, không đáng để bỏ công nghiên
cứu, gần hay không gần, xa hay không xa. Cuộc chiến tranh thần
thánh đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thí
dụ, bảnh hơn nhiều, cần nghiên cứu cho ngàn ngàn đời
sau.
Nhìn từ lịch sử của khổ đau, Lò Thiêu là
cơ bản, là chủ yếu. Nhưng than ôi, làm đếch gì
có thứ lịch sử của khổ đau?
Những sử gia của nghệ thuật cũng đếch thèm để ý đến
Lò Thiêu. Bùn, trại tù dây kẽm gai, bầu
trời lùn tịt. Thềm sương mù lù tà mù,
rừng bạch dương trơ xương. Orpheus đâu có đi dạo hướng đó.
Ophelia đâu chọn nơi chốn tệ hại như thế để mà trầm mình.
Adam Zagajewski: Two Cities
THREE HISTORIES
THERE ARE AT least three different human histories,
not one: the history of force, the history of beauty, and the history
of suffering. Only the first two are cataloged and recorded, more or less.
They have their professors and their textbooks. But suffering leaves no
traces. It is mute. That is, mute historically. A scream does not last
long, and there is no note symbol to represent it and make it last.
That is why it is so difficult to understand the essence of Auschwitz.
From the point of view of the history of force, it was an episode, undeserving
of closer study. How much more interesting was the Battle of Wagram,
for example. As the history of suffering, Auschwitz was fundamental.
Unfortunately, the history of suffering does not exist. Art historians
are not interested in Auschwitz either. Mud, barracks, low skies. Fog
and four skinny poplars. Orpheus does not stroll this way. Ophelia doesn't
choose to drown here.
Adam Zagajewski: Two Cities
As the history of suffering, Auschwitz was fundamental.
AZ
GCC đã từng nhắc tớí 1 vị BVVC - Bạn văn
VC - quen lần về Hà Nội.
Không có vị này, là Gấu khổ với VC rồi.
Có lần, vị này mail, rất ư là ngạc nhiên,
Lò Thiêu thì mắc mớ gì tới xứ Mít?
Mới đây, cũng 1 vị Bắc Kít, cũng rất hay dịch dọt, trên
net, cũng bực mình vì câu của Adorno, sau Lò
Thiêu mà còn làm thơ, thì thật là
dã man.
Gấu suy ra là, Bắc Kít, do cách
biệt với thế giới quá lâu, nên mất mẹ 1 khoảng lịch sử
thật là dài.
Akhmatova chẳng đã từng phán, mi phải sống
ở đó, hàng ngày nghe Đài, qua cái loa
ở đầu ngõ, thì mới hiểu chủ nghĩa CS là gì.
Mấy đấng Bắc Kít, được BCC cho làm bồi, thay lũ Ngụy,
sau 1975, khi Solz chết, đi 1 đường ai điếu, ông ta là tác
giả của "bán đảo" Gulag: Họ lầm "bán đảo" với "quần đảo",
là do mù tịt về hệ thống nhà tù Liên Xô.
Nhưng thê thảm nhất, là chúng không hề biết
đến Trại Tù Ngụy, do chính chúng lập nên, với
mục đích, đưa cả lũ Nguỵ lên đó, như Gulag của Liên
Xô:
Như Xì, Vẹm không tính đến chuyện
thả tù, khi lập trại tù cải tạo.
Quãng đời thứ nhì của Gấu, khi ra được hải ngoại, quả
là bắt đầu bằng mặc khải Lò Thiêu.
Quái thật!
Ôi chao, còn lời khen Tin Văn nào bảnh hơn, của K,
sau đây:
Đen thui, trừ vài trang viết về BHD.
Tks again.
NQT
Marina
Tsvetaeva
I will win you away from
every earth, from every sky,
RHYTHMS OF THE SOUL:
MARINA TSVETAEVA
Nhịp của linh hồn:
Marina Tsvetaeva
There are many
souls in me, Marina Tsvetaeva once wrote, and readers
of her work often have the feeling that spiritual forces
compete in every line she ever wrote. The emotional intensity
of her writing, whether in prose or in poetry, seems startlingly
able to bend her language into unimaginable new shapes. That
linguistic fearlessness makes her a challenge for translators,
but readers of this volume will palpably sense the sheer force
of her language. In choosing and ordering these writings, IIya
Kaminsky and Jean Valentine create force fields across the poems
and prose fragments; they have lifted a small number of texts
from the massive Tsvetaeva legacy, creating luminous new versions
for us to behold. The translations attain a kind of light-showered
clarity before our eyes, with each scrap of text commanding our
focused attention as if nothing else mattered
Có nhiều linh
hồn trong tôi, Marina Tsvetaeva có lần viết, và
độc giả của bà, thường có cảm nghĩ, những sức
mạnh thần linh ma quỉ này, uýnh lộn nhau, trên
mọi dòng thơ mà bà đã từng viết ra.
Sức căng cảm xúc của cái viết của bà, dù
thơ hay dù văn xuôi, có vẻ khủng tới mức, ngôn
ngữ bèn chịu thua, và bèn cho ra những thể dạng
mới. Cái sự chẳng hề sợ hãi ngôn ngữ của bà,
quả là 1 thách đố đối với những dịch giả, nhưng những
độc giả của cuốn thơ này, sẽ có cảm giác sò
mó được, vào cái sức mạnh dựng đứng của ngôn
ngữ của bà. Trong khi chọn và sắp xếp những cái
viết, IIya Kaminsky and Jean Valentine tạo ra những “trường lực”, force
fields, qua những bài thơ và những mẩu văn. Họ lấy ra một
số nhỏ những bản văn, ra khỏi cái di sản lớn lao của Tsvetaeva,
tạo ra những ấn bản mới, lấp lánh, cho chúng ta cầm giữ.
Những bản dịch như thế đó, đạt được cái sáng sủa
trước ánh sáng, trước con mắt chúng ta, khiến chúng
ta chú mục vào chúng, không màng
tới chuyện khác.
MARINA TSVETAEVA
Volkov. People have referred to you as a poet belonging
to Akhmatova's circle. She loved you and supported you at difficult
moments, but from talking with you I know that the work of Marina
Tsvetaeva had a much greater influence on your development as a poet
than did Akhmatova's. Tsvetaeva was the poet of your youth. When you
speak about Tsvetaeva's poetry, you often call it Calvinistic. Why?
Brodsky. Above all, bearing in mind just how unprecedented
her syntax was. This allowed-or rather, forced-her to spell everything
out in her verse. In principle, Calvinism is a very simple matter:
it is man keeping strict accounts with himself, with his conscience
and consciousness. In that sense, by the way, Dostoevsky is a Calvinist
as well. A Calvinist, to put it briefly, is someone who is constantly
declaring Judgment Day against himself-as if in the absence (or impatient
for) the Almighty. In this sense, there is no other poet like her in Russia.
Volkov: Bạn thường được coi như 1 nhà thơ quanh
quẩn bên Akhmatova. Nhưng có vẻ như Tsvetaeva mới ảnh
hưởng đậm lên bạn, như 1 nhà thơ của tuổi mới lớn. Khi
nói về thơ Tsvetaeva, bạn thường dùng từ Calvinistic.
Tại sao?
Brodsky: Trên hết, hãy để ý tới syntax.
Trước bà chưa có thứ syntax đó. Cái đó
cho phép - bắt bà phán mọi thứ ra thơ, bằng
thơ. Theo nguyên tắc, Calvinism là về 1 người lúc
nào cũng nghiêm khắc tới chỉ với chính mình,
với lương tâm với ý thức của mình. Dos là
1 đấng như thế. Nói ngắn gọn, Calvinist là 1 kẻ lúc
nào cũng cà khịa với Lão Tặc Thiên, ngày
nào, với anh ta hay chị ả, thì cũng là Ngày
Xét Đoán, Ngày Tận Thế... Theo nghĩa đó,
không có nhà thơ nào khác ngoài
Tsveteava, ở xứ Nga Xô
"Như Brodsky có lần viết về Tsvetaeva:
giọng của bà có cái gì "không
giống ai" - và khiếp sợ, với 1 cái tai Nga: Sự không
thể chấp nhận thế giới"
FROM INSOMNIA
After a sleepless night the body weakens.
It grows dear, not one's own, it's nobody's.
Sluggish, the veins still retain an ache of arrows,
One smiles to all with a seraph's ease.
After a sleepless night the hands weaken.
Deeply indifferent are both friend and enemy.
Each casual sound contains an entire rainbow.
And the frost smells of Florence suddenly.
Lips glow softly, the shadow's more golden
Under sunken eyes. Night has set ablaze
This most radiant countenance - and dark night
renders
But one part of us dark - the eyes.
MARINA TSVETAYEVA
TRANS. D. McDUFF
Everyman's Library
Mất ngủ
Sau một đêm không ngủ, cơ
thể yếu xìu
Nó trở nên trân quí, chẳng của
riêng ai, của “không ai”
Uể oải, gân mạch vưỡn còn nguyên cơn
đau của những mũi chích
Bèn cười 1 phát, với tất cả, bằng sự hài
lòng của thiên thần
Cực dửng dưng, với cả hai, kẻ thù và bạn quí.
Mỗi âm thanh ngẫu nhiên chứa đựng trọn 1 cái
cầu vồng
Và sương mù bất thình lình bèn
có mùi Mùa Thu, Hà Nội. (1)
Môi mềm ơi là mềm, cái bóng bèn
vàng ánh mãi lên
Dưới cặp mắt sụp xuống. Đêm bốc cháy
Ngời ngời - Và đêm đen bèn
dâng nộp, trao trả
Nhưng 1 phần của chúng ta cứ đen hoài - Cặp
mắt.
BHD
(1)
Dante
Chàng đếch thèm
trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát
bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau
cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh
– Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng
một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ
chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần,
muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành
ao ước.
Bài thơ trên, kỳ
cục thay - tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà
thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong bài thơ nhớ vợ; cũng cái
giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà
trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.
Bài thơ thần sầu nhất
của Thơ Ở Đâu Xa:
Bài Nhớ Thi Sĩ
Đâu có phải tự nhiên
mà đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca,
khi còn ở trong tù VC.
Mỗi ông thì đều
có 1 bà vợ như vậy.
The Keening Muse ["Nữ thần thơ than van", tên
bài viết của Brodsky về Akhmatova]
Bài nhớ
thi sĩ
Nhớ Già Ung *
Gửi MT
Sáng nay thức giấc trong
nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy
trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình
đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền
cao
Đang lay thức rừng núi biên giới
Đã qua đã qua chuỗi
ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào
đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân
trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua
song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng
cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình
minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ
biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng
tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên
trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Em, em có hay kẻ tội đồ
biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng
tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên
trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Note: Tình cờ, đọc bai bài thơ của vị bằng hữu TN, trên
Gió O
http://www.gio-o.com/Chung/NguyenThuySongThanhMuaDongRo.htm
Vị này, phu nhân của nhà thơ Khoa Hữu, cũng sĩ quan
Ngụy, cũng thi sĩ Nguỵ, như TTT, và những dòng thơ của Bà,
có thể coi như ứng tác với bài thơ của TTT, và
với riêng Gấu, quả thật xứng đáng:
Bỏ em mà đi.
Thơ tình gởi lại
Anh về cõi hằng, em ở với thơ
Bình yên như núi đá giấu ngậm ngùi
Quên khoảnh khắc thác trào cơn nức nở
Bàn tay đã hôn cõi lòng đã nhớ
Nỗi buồn cũng lộng lẫy đủ trăm năm
Không có vision, không
có thơ. Nhưng thơ văn nào thì cũng là tiểu sử,
tự thuật cả, nhất là cõi thơ văn của TTT.
Nhân vật Thùy, phu nhân của trung uý Kiệt, có
nhiều nét của bà MH, cũng "mù tịt" về thơ văn; "đảo
xa" ở ngoài đời quả có thực.
Loạt bài “Những kỷ niệm với nhà thơ”, G bị cảnh cáo,
và phải bỏ ngang là vì thế, hà, hà!
Nỗi buồn cũng lộng
lẫy đủ trăm năm!
Ôi chao, thần sầu!
Tks
NQT
Pleiku - Chút Gì Để Nhớ
Đăng ngày: 18:05 21-05-2011
Thời gian là chiến thắng vượt quá sự
thất trận, và chiến thắng này là một điều mà
những kẻ thắng trận không thể nào tiên đoán, hay
hiểu được. Một chốn tới, một bãi biển lánh nạn ở bờ bên
kia của sự bại trận, những cái tên trên những nấm mồ
chỉ đường, được nâng niu, gìn giữ không phải bởi vinh
quang chiến thắng, bởi vị nữ thần chiến tranh với cành cọ vàng
và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con hầu, một đầy tớ
gái, của chính sự thất vọng chán chường. Và
cô bé đứng trầm ngâm, bất động.
Con người thực ra đâu cần sự thành đạt, cho lắm. Điều này
lại càng đúng, ít ra là, đối với cả một quốc
gia, một dân tộc. Về cái chuyện này, thất bại có
khi lại là một điều tốt, cho nó.
William Faulkner đọc Con Đường Trở Lại, The Road
Back, của Erich Maria Remarque, trong W. Faulkner: Tiểu luận, Diễn
văn, Công Thư [Public Letters], nhà xb The Modern Library,
NY, ấn bản 2004.
Cảm ơn bác Trụ, Tin Văn, thỉnh thoảng đưa lên
trang của bác để khen. Bác này hay chê nhưng
luôn nhẹ tay với phụ nữ nhất là mấy bà tập sự, mới
quọt quẹt viết như tôi.
HH
Không phải như vậy. Gấu không có
thói quen khen vuốt đuôi, khen nhẹ tay, mà chỉ biết
khen thực tình, và chê cũng tới chỉ. Hồi mới vô
Làng, đánh thi sĩ chuyên làm thơ tán gái
1 cú, ông đau tới già, vì, đánh trúng
tim của ông.
Những câu văn của Bà Tám, mà Gấu khui ra, đều
là những câu thật khó viết, không phải thứ đánh
vật mới có được, mà nó tự nhiên vô cùng.
Giả như có đánh vật, chắc là phải có, thì
trước đó, đến khi viết ra, nó cực kỳ tự nhiên.
Viết được 1 câu như thế, là trở thành
nhà văn, đúng cái ý của Borges, thơ là
để trao cho thi sĩ, và nếu như thế, thì văn cũng vậy.
Đa số những nhà văn nhà thơ Mít,
nổi tiếng, có khi cực nổi tiếng, không có nổi 1 câu
như vậy.
"Khói củi ướt nhóm trong lò bốc
lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù
mù như sương”
Tôi nhìn thấy Pleiku lần đầu tiên vào một buổi
chiều trên đảo Bidong.
Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có
chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.
[Nguyễn Hải Hà]
Mít cần, đúng thứ văn của Patrick Modiano,
thi học của sự tìm kiếm, nghệ thuật đào bới hồi ức, để tìm
lại linh hồn của hàng triệu con người bị Cái Ác Bắc
Kít huỷ diệt.
Nghe thì kêu quá, nhưng đúng
là như vậy.
Viết
mỗi ngày
http://www.nybooks.com/articles/2017/10/26/sexual-life-in-modern-china/
Sexual Life in Modern China
Ian Johnson
October 26, 2017 Issue
Throughout the late 1970s and 1980s, Chinese writers grappled
with the traumas of the Mao period, seeking to make sense of their
suffering. As in the imperial era, most had been servants of the state,
loyalists who might criticize but never seek to overthrow the system.
And yet they had been persecuted by Mao, forced to labor in the fields
or shovel manure for offering even the most timid opinions.
Many wrote what came to be known as scar literature,
recounting the tribulations of educated people like themselves. A few
wrote sex-fueled accounts of coming of age in the vast reaches of Inner
Mongolia or the imagined romanticism of Tibet. Almost all of them were
self-pitying and insipid, produced by people who were aggrieved by but
not reflective about having served a system that killed millions.
Then, in 1992, an unknown writer published a strange novella
that told the hilarious and absurd story of two young lovers exiled
to a remote part of China near the Burmese border during the Cultural
Revolution. There they have an extramarital affair, are caught by officials
and forced to write endless confessions, tour the countryside in a minstrel
show reenacting their sinful behavior, escape to the mountains, and return
for more punishment, until one day they are released, unrepentant and
slightly confused.
Note: NYRB đọc Wang Xiaobo, và cuốn
tiểu thuyết Thời Đại Hoàng Kim, The Golden Age, viết về sex
và trí thức Tẫu hiện đại.
Bài này tuyệt lắm. Tác
giả mất năm 1997, bịnh tim, mới 44 tuổi, không thuộc Hội Nhà
Thổ Tẫu. Rất nổi tiếng ở TQ, nhưng sách xb ở Đài Loan
trước tiên. Độc giả mê ông, vì chất xì
ních, tiếu lâm, irony, and humor, và lẽ tất nhiên,
sex.
Tin Văn sẽ đi bài này, và độc giả sẽ đọc
song song, nghĩa là, vừa đọc, vừa tưởng tượng ra cuộc sống tình
dục ở xứ Bắc Kít, trước 1975, tất nhiên, và thứ
văn chương sẹo, scar literature, của nó!
https://paper-republic.org/authors/wang-xiaobo/
(1952-1997) The perennial dark horse of modern Chinese
literature, Wang Xiaobo is fiercely loved by readers and writers
alike, but the canon, if there is such a thing, does not know how to
make room for him. He wrote both fiction and essays, and while he saw
himself primarily as an author, it is the essays which have earned him
his ambiguous fame. The tone in which he wrote about Chinese society and
culture seems light, and is often humorous, but it is the lightness of
someone who has seen to the heart of things and takes none of it seriously.
Of course, when he was not writing he did take things very seriously,
and the pressure of a society which recognized his talent but could not
assimilate his ideas may have hastened his death.
Wang Xiaobo is the featured author in READ PAPER REPUBLIC,
week 5, 16 July 2015.
Note:
Xiaobo có nghĩa là sóng nhỏ, small wave,
nếu thế, phải dịch là tiểu ba.
Vị này, trong nước đã dịch.
Chán như con gián!
Quái , khi đọc, và
nhìn hình, GCC nghĩ ngay
đến con bọ của Kafka!
Trong cuốn trên, cũng có 1 con vật lạ của Kafka,
A Crossbreed, trích từ Description of a struggle.
Có
tới hai, xin lỗi.
An Animal Imagined by Kafka
It is the animal with the big
tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should
like to get my hands on this tail some time, but it is impossible,
the animal is constantly moving about, the tail is constantly being
flung this way and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to
the face, which is flat almost like a human face, and small and oval; only
its teeth have any power of expression, whether they are concealed or bared.
Sometimes I have the feeling that the animal is trying to tame me. What
other purpose could it have in withdrawing its tail when I snatch at it,
and then again waiting calmly until I am tempted again, and then leaping
away once more?
FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the
German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)
Một con vật
Kafka tưởng tượng ra
Ðó là 1 con vật có 1 cái
đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn.
Ðòi phen tôi thèm được sờ 1 phát vào
cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh
học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được chồn viếng thăm,
trong Liêu Trai, nhá!] nhưng
vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân
hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng
cái mặt không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho
nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm
răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em
chồn này, lúc thì giấu biệt, lúc thì
phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính
thuần hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi
trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế, nếu không
tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính
sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới
khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em
lại nguẩy 1 phát, đau nhói tim?
Szymborska có hai bài
thơ, cực ngắn, thần sầu. Một Gấu đọc ngay trên báo,
khi vừa xuất hiện. Cùng lúc với tay Prospero. Ðọc 1 phát, là
sững sờ, 1 bài thơ chống lại cả một nhân loại tha hóa,
lừng lững đi vào huỷ diệt, vậy mà vẫn tràn trề
hy vọng về con người.
Bài kia, thì nhiều
người biết, và hình như được mấy anh VC dịch nữa, dù
chửi bố chúng, nhưng, bài thơ là đề chửi bà
mẹ Gio Linh của PD, đẻ ra đứa con nào là đem nướng cho
chiến tranh hết đứa đó.
VERMEER
So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn't earned
the world's end.
-Wislawa Szymborska
(Translated from the Polish
by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)
Một khi mà người đàn
bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình
ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái
sự tận cùng của thế giới.
Source
Wislawa Szymborska's "Vermeer"
A poem against the apocalypse
Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent
Life, A.R. | NEW YORK
I HAPPENED upon this poem on
the New York Review of Books's website, and was startled
by how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance
between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a
moment frozen yet continually happening.
Vermeer
So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.
I love the shape of the poem—it thins like a stream
of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between
the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the
Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak
VIETNAM
"Woman, what's your name?"
"I don't know."
"How old are you? Where are you from?" "I don't know."
"Why did you dig that burrow?" "I don't know."
"How long have you been hiding?" "I don't know."
"Why did you bite my finger?" "I don't know."
"Don't you know that we won't hurt you?" "I don't know."
"Whose side are you on?" "I don't know."
"This is war, you've got to choose." "I don't know."
"Does your village still exist?" "I don't know."
"Are those your children?" "Yes."
Wistawa Szymborska
Việt Nam
Bà kia ơi, tên bà
là gì vậy? Tôi không biết
Bà bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại sao bà đào cái hang đó?
Tôi không biết
Bà trốn bao lâu rồi? Tôi không
biết
Tại sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi
không biết
Bà không biết là tôi không
làm đau bà ư? Tôi không biết
Bà ở bên nào? Tôi không
biết
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn
bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi
không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng
rồi.
Note: Bài thơ “Bà Mẹ
Gio Linh” này, của nhà thơ Nobel người Ba Lan, Wistawa
Szymborska, giá mà được PD phổ nhạc nữa, nhỉ?
Bài thơ hình như đã được vài
người dịch rồi. GCC dịch thêm 1 lần nữa, để mừng sinh nhật người
nhạc sĩ vĩ đại, đời đời đau “vết thương di tản”!
Hai bài thơ, cực ngắn, 1,
chống lại Apocalyse, 1, chửi bố Cái Ác Bắc Kít.
Thơ như thế, đâu phải thứ thơ tản mạn bên tách
cà phê sau khi du ngoạn Ðáy Ðịa Ngục,
về!
Làm thơ như chẳng có
gì xẩy ra?
TTT chẳng đã mơ thứ thơ này,
nhưng chịu thua:
Khi ra khỏi trại tù, trên
đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi
gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí
nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi
chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong
muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ,
khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao
viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì
thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào
thì tôi có thể làm được như vậy? Lại viết?
TTT trả lời LHK, trong Mảng Lưu Vong
Nguồn
Có vẻ như sau sự xuất hiện
của "Ðồng Nai Tam Kiệt" [Bùi Giáng, Tô Thùy
Yên, Thanh Tâm Tuyền], Miền Nam tuyệt giống, “cái
gọi là” thi sĩ?
Brodsky khi chưa tới 24 tuổi đầu,
bị lịch sử lọc ra [chữ của David Remnick], dù rất tởm đóng
vai nhà văn nhà thơ, nhưng không có cách
nào khác để mà trốn, đành đóng
trọn vai của mình, thật bảnh, đỉnh cao tuyệt hảo, the perfect
pitch, cũng vẫn chữ của Remnick.
Còn ông thi sĩ Mít, VC, HC, khi được
lịch sử gọi ra, bèn nắn nót viết tự kiểm, để Đảng cho
về làm thơ tán gái tiếp. Vậy mà có
đấng, không, hai đấng thi sĩ, từ hải ngoại về, để châm đóm
cho ông HC hút thuốc lào.
Một trong hai ông này từng đóng vai
thi sĩ, sĩ quan VNCH.
Và là bạn thân của GCC.
Thơ tán gái bảnh hơn HC. HC không có
thơ phổ nhạc, HC không có những câu thần sầu,
thí dụ, “nhớ ai buồn ngất trên vai áo/mưa ở đâu
về ? - như vết thương.
Tuyệt giống thi sĩ, là vậy.
|
Trang NQT
art2all.net
Istanbul
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|