Thơ
Mỗi Ngày
Có hay không một quán cà
phê có mặt bàn sơn màu đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách anh quen ?
Trời chưa qua mùa đông nên đường chưa trắng
tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp một ngụm cà phê
Và đọc vài trang trong chồng sách mới
... Continue Reading
Comments
Trong Chứng tích thơ, chương Bài học Sinh học, Milosz viết:
Người ta đã viết nhiều
về thi sĩ, như là 1 con người ‘ngơ ngác tựa
gà trống, e đến trăm năm vưỡn trẻ thơ’, một con người
khác những người khác: tuổi thơ của nó
không chấm dứt, nó gìn giữ được một điều gì
đó ở trong nó, của 1 đứa bé, suốt cuộc đời của
nó. Ðiều này đúng trên diện rộng,
ít nhất theo nghĩa này: cảm nhận ấu thơ của thi sĩ có
một độ dài thật dài, và những bài thơ
đầu của thi sĩ, "một nửa là đứa bé", đã có
những dấu ấn chỉ ra những bài thơ tiếp theo.
Ý niệm nhị phân,
1 bên là linh hồn, một bên là xác
thân ở với chúng ta thật lâu, qua ẩn dụ
con tằm hóa kiếp thành con bướm: một cái
xác, con tằm bị bỏ lại, cho linh hồn tự nó giải thoát,
qua hình ảnh 1 con bướm bay lên. Bài thơ “hải
sâm” của Szymborska không thuộc trường nhị phân
trên. Một lỗ nẻ nẻ ra trong xác thịt của hải sâm,
một sự phân chia thành hai cái ngã,
a division into two coporal “selves”, xẩy ra. Bắt đầu với thời
phục hưng, một thứ nhị phân khác được thêm vào
với nhị phân linh hồn/xác thân, như Steiner
chỉ ra, đó là danh vọng/lãng quên, fame/oblivion,
qua cụm từ ars longa, vita brevis,
tên của 1 con người thì còn mãi với
hậu thế, không phải mọi thứ đều chết, non omnis moriar.
Ra biển ngày cuối hạ ( Đặng Lệ Khánh)
Đặng Lệ Khánh
Tôi chọn cái tít
The Witness of Poetry [The Charles Eliot Norton Lectures 1981-82],
không phải chúng ta chứng nó, mà nó
chứng chúng ta, not because we witness it, but because
it witness us. Milosz viết. Theo ông, Tây Phương có
quá nhiều sách về thơ, thay vì thơ, và
đây không phải 1 dấu hiệu tốt. Cả đời ông, ông
bị quỉ ám, và cái việc tại làm sao thơ
chọn ông, ông không hiểu được– all my life I have
been in the power of a daimonion, and how the poems dictated by him
came into being I do not quite understand – Mít kêu là
được thần thơ nhập, chắc cũng rứa!
Ông cũng cho biết, rất sớm sủa ông đã
cảm nhận ra sự đe dọa từ phiá Đông – I certainly felt
a sense of menace from the East very early, nhưng không phải
là từ Ky tô giáo phía Đông, lẽ tất
nhiên, nhưng từ cái nổi lên như là hệ quả
của sự thất bại của nó, and not from Eastern Christianity,
of course, but from what has arisen as a result of its defeat.
Chương Điêu Tàn và Thơ, Ruins
and Poetry, rất tuyệt, và rất có ích cho Mít
chúng ta, nếu đọc nó theo kiểu THNM, thì có
thể giải thích Cái Ác Bắc Kít, và
nó gây họa vào thời điểm nào ở xứ Mít.
Sở dĩ Milosz nhấn mạnh ý nghĩa của cái tít
cuả cuốn sách viết về thơ của ông, "nó chứng
tao, không phải tao chứng nó", có thể, trong "tiềm
thức" của ông, đã ngửi ra mùi thúi của
cuốn 40 năm thơ Mít lưu vong rồi!
Chứng cớ? Edward Hirsch, trong bài viết về thơ
Ba Lan, giải thích:
Polish poetry has often been called a poetry of witnessing,
but that notion needs some refining and expanding. Polish poets
themselves have often shown an ambivalence about being so-called
"witnesses" to history. Milosz called his Charles
Eliot Norton Lectures at Harvard The Witness of Poetry, but he also
wrote a letter to the New York Review of Books objecting to a praiseworthy
review by A. Alvarez that called him a "witness." In Milosz's view, the
label narrowed the meanings of his poetry and implied that his poems
were a kind of journalistic response to events. Milosz's ambivalence
points out that Polish poets are in some sense metaphysical poets forced
to become historical ones. While they could not help being aware of the
history inflicted upon them, they nevertheless .have remained most keenly
interested in exploring the nature of reality at even deeper levels,
meditating on life's essences.
Poetry and History:
Polish Poetry after
the End of the World
In 1973,
when I was twenty-three years old, I
decided to stop in Warsaw during a year
I was traveling in Europe. From that trip I remember
one chilly gray dusk in particular when I walked
through the neighborhood that had once been
the Warsaw Ghetto. People were bustling home
from work, but their activity only seemed to accentuate
the eerie and even ghostly absence of all those missing
persons, an annihilated people. One didn't need to
travel to Auschwitz to feel guilty absence and palpable
vacancy. That night I reread Czeslaw Milosz's poems "A
Poor Christian Looks at the Ghetto," "A Song on the End of the
World," and "Dedication." This last poem was addressed
to "You whom I could not save," and dated Warsaw, 1945.
Its key stanza has thereafter set a standard of moral seriousness
in poetry:
What is
poetry which does not save
Nations
or people?
A connivance
with official lies,
A song
of drunkards whose throats will be cut
in a moment,
Readings
for sophomore girls.
That I
wanted good poetry without knowing it,
That I
discovered, late, its salutary aim,
In this
and only this I find salvation.
Milosz's
early poems are all haunted by survivor's
guilt, the poignancy of living after
what was, for so many, the world's end. Poetry
here becomes an offering to the dead, a form
of expiation, a hope for redemption.
Reading the work of Zbigniew Herbert,
Tadeusz Rózewicz, and Wislawa
Szymborska-the half-generation after Milosz-I
soon discovered that all of postwar Polish
poetry was similarly haunted by guilt, initiated
in the apocalyptic fires of history. These
writers shared an important collective experience,
and the formative nature of that experience
helped shape the spirit of their work. Born
in the early 1920s, they grew up during one of the
few periods of independence in Polish history, but
they came of age during the terrible years of World War
II. Poland lost six million people during the war, nearly
one-fifth of its population, and the young writers
felt the almost crushing burden of speaking for those
who did not survive the German occupation. "I am twenty-four
/ led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote in "The
Survivor." It was no boast. No wonder, then, that at the
conclusion of "Dedication"
Milosz
asks for the dead to free him:
They used
to pour millet on graves or poppy seeds
To feed
the dead who would come disguised as birds.
I put this
book here for you, who once lived
So that
you should visit us no more.
Edward
Hirsch: How to Read
a Poem and Fall in Love with Poetry
Năm 1973, 23 tuổi, tôi
quyết định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi
Âu Châu. Kỷ
niệm xám xịt, nhất là khi loanh
quanh ở cái khu Ghetto. Phố phường
bận rộn, nhưng hình như càng
làm nặng thêm sự vắng mặt u uẩn của
những người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới
Lò Thiêu làm khỉ gì, chỉ
ở đây thôi mà đã cảm thấy
cái sự trống vắng tội lỗi, mân mê,
sờ xoạng được!
Tối hôm
đó, tôi đi 1 đường đọc
thơ Milosz. Ui chao, những bài thơ
đầu đời thơ của ông, ám ảnh
làm sao, là cái mặc cảm
sống sót, cái nỗi thống khổ,
“sống, sau những cái đó”, cái
tận cùng thế giới đó.
Thơ như
thế, là 1 dâng tặng cho người
chết, một hình thức cứu chuộc.
Đọc
Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz,
and Wislawa Szymborska- nửa thế hệ sau Milosz
– tôi liền khám phá ra là,
tất cả thơ ca hậu chiến Ba Lan thì đúng
là bị ám ảnh bởi tội lỗi, bật ra từ những
ngọn lửa tận thế của lịch sử....
40 năm
thơ lưu vong Mít, đâu có thứ thơ như
trên?
Không tản mạn bên ly cà
phê, thì lặn lội về Kinh Bắc châm đóm
cho nhà thơ mê gái HC hút thuốc
lào, hoặc chầu chực vấn an đao phủ Mậu Thân....
Cái mặc cảm sống sót, tại
sao tên khốn đó, lại chừa tôi ra, cái
nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”, cái
tận cùng thế giới đó, cái thứ thơ như là
hình thức cứu chuộc, thơ Mít, trong cũng như ngoài,
đâu có?
http://tanvien.net/Viet/5.html
Lưu Vong và Mít
Nhân đọc bài viết
của Nguyễn Hải Hà (1)
Bài viết, đa phần dựa
vào cuốn của Ha Jin, "Nhà văn như tên di dân",
và đúng như cái tít của nó, ông
nhà văn Tầu này thực sự cũng không tin vô,
thứ nhà văn lưu vong.
Ông ta cũng nói về giống nhà văn
Tẫu của mình y chang, khi cho rằng, nhà văn Tẫu mà
đếch có bạn, đếch có ly cà phê kế bên,
là không sống được chứ đừng nói, là nhà
văn nhà thơ.
Nhận xét của ông
này áp dụng cho nhà văn Mít quá
đúng. Chính đám Mít cũng không hề
tin, trong số họ, có 1 tên là nhà văn lưu
vong. Ông nào cũng bò về hết cả rồi, làm gì
có đơn, mà đòi kép!
Vô tình Ha Jin, qua cái tít
của mình, nói lên điều mà tay thư ký
Nobel đã từng nói, khi đám Mẽo đòi Nobel,
làm gì có lưu vong, mà đòi Nobel.
Với Mẽo, chỉ có văn chương di dân mà
thôi.
Cao Hành Kiện, với ông
này, quả có thứ văn chương lưu vong, vì theo
ông, đây là cốt tử của văn chương:
Nếu gọi là văn chương, thì phải là
lưu vong.
Người ngửi ra số phận lưu vong
của chỉ 1 nhà văn nhà thơ Mít, là ông
anh nhà thơ của GCC, khi, không hiểu bằng cách
nào, ông tưởng tượng 1 tên như vậy, và tên
này, đành bỏ lưu vong, trở về lại xứ Mít - mà
anh ta phịa ra là, vì người yêu và đứa
con trong bụng của mình kêu réo, anh ơi, bố ơi,
về đi, vợ con cần anh - nên anh bò về - để chết lãng
nhách như 1 tên VC!
Có 1 cái gì
đó, trong cái chết này, làm nhớ đến cái
bào thai chết của đứa trẻ Mít, trong nhà văn
Linda Lê.
Và bà này, cũng tin rằng, nhà
văn phải lưu vong, và lưu vong, thì giống như cái
bào thai chết trong bụng ta!
Về lưu vong
Lưu vong là cứu rỗi. Lưu
vong là cứu rỗi của nhà văn. Mục đích không phải
là lưu vong. Mục đích là viết. Có rất nhiều nhà
văn bị ép buộc phải bỏ chạy để viết. Đôi khi sự đàn áp
không đến nỗi tới chỉ khiến họ phải bỏ đi, nhưng vẫn phải bỏ đi. Thí
dụ James Joyce. Nhưng Joyce và Beckett, cả hai chẳng hề quay trở lại.
Có một sự đàn áp về tâm lý ở Ái
nhĩ lan: Nhà thờ Ky tô khiến họ tự lưu vong. Không, một
nhà văn không thể đánh bại một xã hội. Nhưng anh
ta có thể tự cứu mình, đây là một trường hợp từ
cổ xưa cho mãi tới ngày này.
Sau khi Mao chết [1976], sau
Cách Mạng Văn Hóa, xã hội TQ có một thời
kỳ tương đối cởi mở, và tôi có thể đi du lịch,
nhìn tới nhìn lui những sự vật, con người. Lingshan [Linh Sơn] là về sự tìm
kiếm một khởi điểm cho tâm thức, kiếm điểm nhập tầng tâm
linh. Nó hầu hết được viết ở TQ và xuất bản ở Pháp,
nhưng tôi phải đợi sau khi Mao chết, vậy mà khi đó
vẫn không nghĩ có thể in nó ra. Tôi bắt đầu
viết nó vào năm 1982.
Cao Hành Kiện
The End and the Beginning
After every war
Comments
TEMPTATION
Under a starry sky I was taking a walk,
On a ridge overlooking neon cities,
With my companion, the spirit of desolation,
Who was running around and sermonizing,
Saying that I was not necessary, for if not I, then
someone else
Would be walking here, trying to understand his age.
Had I died long ago nothing would have changed.
The same stars, cities, and countries
Would have been seen with other eyes.
The world and its labors would go on as they do.
For Christ's sake, get away from me.
You've tormented me enough, I said.
It's not up to me to judge the calling of men.
And my merits, if any, I won't know anyway.
Berkeley, 1975
Cám dỗ
Dưới bầu trời sao ta làm 1 cú tản bộ
Tới một điểm cao nhìn xuống ánh đèn
thành phố
Với bạn đường, là cái đầu tiều tụy chán
chường của ta
Thằng chả chạy lòng vòng, và lẩm
bà lẩm bẩm, như giảng đạo, hay thuyết giáo, hay lên
lớp cái con mẹ gì, thì cũng được!
Hắn phán, cứ giả như mi, cần thiết, không
có không được
Nhưng, biết đâu đấy, không có mi,
thì có thằng khác,
Cũng đang tản bộ, ở đây, cố gắng hiểu thời của
nó
Cứ kể như ta chết từ cú Mỹ Cảnh, ở Trại Tù
Đỗ Hoà, thì cũng chẳng có gì thay đổi
Vẫn những ngôi sao, thành phố, xứ sở
Được nhìn ngắm bởi những con mắt khác
Thế giới vũ như cẩn, con người cần lao vưỡn như trâu
Ôi Chúa ơi, mi đi chỗ khác chơi,
chừa ta ra!
Mi hành ta quá đủ rồi!
Đâu phải ta muốn ôm lấy khổ nạn, một mình
ôm gánh nặng Cái Ác Bắc Kít
Giả như, không mi, thì ai, thì
ta cũng đếch làm sao hiểu được!
SECRETARIES
I am no more than a secretary
of the invisible thing
That is dictated to me and a few others.
Secretaries, mutually unknown, we walk the earth
Without much comprehension. Beginning a phrase in
the middle
Or ending it with a comma. And how it all looks when
completed
Is not up to us to inquire, we won't read it anyway.
Berkeley, 1975
NHỮNG TÊN
THƯ KÝ
Tớ thì chỉ là
1 tên thư ký của điều vô hình
Nó đọc cho tớ và vài người khác
Những tên thư ký, chẳng quen biết nhau,
chúng tớ dạo bộ trên mặt đất
Cũng chẳng ưa gì nhau mấy. Bắt đầu một câu,
ở giữa,
Hay chấm dứt nó, bằng 1 cái dấu phẩy.
Nó ra sao nhỉ, nhìn toàn thể,
khi hoàn tất?
Chắc giống 1 trang, hay 1 bài viết trên
TV, hà hà!
Nhưng Gấu Cái đâu cần biết làm
khỉ gì
Cũng chẳng cần kiểm tra
Bả đâu có đọc!
ANUS MUNDI
The cloaca of the world. A certain
German wrote down that definition of Poland in 1942. I spent the
war years there and afterward, for years, I attempted to understand
what it means to bear such an experience inside oneself. As is well
known, the philosopher Adorno said that it would be an abomination to
write lyric poetry after Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas
gave the year 1941 as the date when God "abandoned" us. Whereas I wrote
idyllic verses, "The World" and a number of others, in the very center
of what was taking place in the anus mundi, and not by any means out of
ignorance. Do I deserve to be condemned for this? Possibly, it would be
just as good to write either a bill of accusation or a defense. Horror is
the law of the world of living creatures, and civilization is concerned
with masking that truth. Literature and art refine and beautify, and if
they were to depict reality naked, just as everyone suspects it is (although
we defend ourselves against that knowledge), no one would be able to stand
it. Western Europe can be accused of the deceit of civilization. During
the industrial revolution it sacrificed human beings to the Baal of progress;
then it engaged in trench warfare. A long time ago, I read a manuscript by
one Mr. Ulrich, who fought at Verdun as a German infantry soldier. Those
people were captured like the prisoners in Auschwitz, but the waters of oblivion
have closed over their torment and death. The habits of civilization have
a certain enduring quality and the Germans in occupied Western Europe were
obviously embarrassed and concealed their aims, while in Poland they acted
completely openly.
It is entirely human and understandable to be stunned
by blatant criminality and to cry out, "That's impossible!" and
yet, it was possible. But those who proclaim that God "abandoned
us in 1941" are acting like conservators of an anodyne civilization.
And what about the history of humankind, with its millennia of mutual
murder? To say nothing of natural catastrophes, or of the plague, which
depopulated Europe in the fourteenth century.
Nor of those aspects of human life which do not need
a grand public arena to display their subservience to the laws
of earth.
Life does not like death. The body, as long as it
is able to, sets in opposition to death the heart's contractions
and the warmth of circulating blood. Gentle verses written in the
midst of horror declare themselves for life; they are the body's rebellion
against its destruction. They are carmina, or incantations
deployed in order that the horror should disappear for a moment and
harmony emerge-the harmony of civilization or, what amounts to the
same thing, of childish peace. They comfort us, giving us to understand
that what takes place in anus mundi is transitory, and that harmony
is enduring-which is not at all a certainty.
Anus Mundi:
Hậu môn của thế giới
Milosz cho biết chính
là ở hậu môn thế giới mà ông làm
thơ, và đừng có nghĩ là ông không
biết câu phán của Adorno: As is well known, the philosopher
Adorno said that it would be an abomination to write lyric poetry
after Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas gave the year
1941 as the date when God "abandoned" us. Whereas I wrote idyllic verses,
"The World" and a number of others, in the very center of what was taking
place in the anus mundi, and not by any means out of ignorance.
*
Milosz biết, nhưng nhà
nghệ sĩ Võ Đình của Mít, không.
Ông bỏ nước ra đi nên chẳng hề biết chiến
tranh Mít, nhưng lạ là cũng chẳng biết Lò
Thiêu, hay Adorno là thằng chó nào.
Khi Gấu lỡ nhắc đến thằng chó Adorno, trên
tờ Văn Học,
khi còn giữ mục Tạp Ghi, và câu phán ghê
gớm của ông, nhà nghệ sĩ bèn mắng, thằng cha
này đúng là "vung tay quá trán".
Sau Lò Thiêu vẫn có thơ, chứng
cớ là "Đêm Tận Thất Thanh" của Phan Nhật Nam đây
nè!
Mà, đâu chỉ... "Đêm
Tận Thất Thanh"!
Có thể nói, tất
cả văn chương Mít, sau 30 Tháng Tư 1975, VC hay không
VC, tù VC hay không tù VC, thì đều
được viết ra, như thể Lò Cải Tạo đếch xẩy ra.
NQT
http://damau.org/archives/47219
Trong những bài tham luận về
40 năm thơ Mít lưu vong, những bài nhảm nhí, như
của Thầy Phúc, hay của nhà thơ kiêm nghề y sĩ và…
châm đóm, bài của Hoàng Hưng, như được tóm
gọn - “Vì vậy Thơ Việt Hải ngoại hội đủ yếu tố là một
“nền thơ tự nó “ và không hề mang tính ngoại
biên so với một dòng thơ được coi là “chính
thống“, tồn tại song song với thơ Việt trong nước và cả hai hợp
thành một nền thơ Việt toàn cầu – theo GCC cực nhảm, nếu
bạn đọc Steiner, khi ông kết án tiếng Đức của Nazi:
For let us keep one fact clearly in
mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không
thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của
chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Bài của HH có tính chiêu hồi, nằm trong
policy "khúc ruột ngàn dặm", của "nhà nước ta".
Đây là cái nhìn rất hạn hẹp, về ngôn
ngữ, và thơ.
Phải nói ngược lại thì mới đúng, có
1 sự tha hóa trầm trọng ở trong nước, về tiếng Mít, cùng
với sự thống trị của Vẹm.
Phép Lạ Hổng
GCC đã báo động điều này
- sự tha hóa của tiếng Mít - khi hải ngoại mừng rỡ đọc
Chuyện Kể Năm 2000, của Bùi Ngọc Tấn.
Đại tác phẩm.
Nếu đúng như thế, thì xứ Mít theo Vẹm thì
cũng đúng như thế!
Để làm sáng tỏ điều này, phải mượn Milosz,
khi ông viết về Brodsky, nhân đó, chúng ta
có dịp nhìn rõ hơn, cái gọi là thơ
Mít lưu vong hải ngoại.
Cái Đẹp và Con Thú
[GCC đọc
Chuyện Kể Năm 2000]
Nhiều người ngạc nhiên, tại sao
trong nước cho xuất bản CKN 2000, cho dù sau đó ra lệnh
đàn áp huỷ diệt. Có người coi đây là
dấu hiệu đáng mừng, chế độ đã có thay đổi, ít
ra như ở nhà xuất bản Thanh Niên, thuộc Thành Đoàn.
Theo tôi, chính
hành động cấm đoán sau đó mới đáng ngạc nhiên.
So
với tác phẩm của một số nhà văn đã từng tin tưởng
vào chế độ, và bây giờ không thể ca ngợi nó,
dù hết sức muốn ca ngợi; và đành "kể tỉnh bơ" những
sự kiện xẩy ra trong xã hội, thí dụ như một Nguyễn Khải,
với nhân vật tên Hiền, chỉ cần biết một Hà Nội nhầy
nhụa, đen đúa; hay những "tác phẩm" thuộc loại "vụ án"
đầy rẫy trên những tờ báo công an thành phố hay
tỉnh huyện… CKN 2000 viết về một nhà văn tuy đi tù
nhưng vẫn đầy ắp niềm tin vào Đảng, vào lý tưởng
Cộng sản. Tác giả viết tác phẩm dòng dã trong
nhiều năm, như ở trang cuối cho thấy: bắt đầu viết tháng Sáu-1990,
xong tối thứ bảy 30-11-1991, xem lại lần cuối 8-1998. Từ "xong" tới "xem
lại lần cuối" là 7 năm. Ông bị bắt đi tù năm 1967,
ở tù 5 năm. Chúng ta tự hỏi, có bao nhiêu bản
nháp, sau khi được tác giả viết đi viết lại, sau khi bị
công an tịch thu nhiều lần. Nó xuất hiện sau những tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương. Với một
ngôn ngữ khác hẳn. Nếu tác phẩm CKN
2000 xuất hiện ngay sau thời gian ra tù một ít lâu,
liệu nó có thứ ngôn ngữ "tươi sáng" đó
không? Những nhân vật "chính diện" của Bùi Ngọc
Tấn đều quá đẹp, quá lý tưởng, khiến chúng
ta không thể hiểu nổi: tại sao lại có những con người đẹp
dến như thế, trong một xã hội hư ruỗng đến mức như vậy? Phải chăng
đây là "thủ pháp" của Bùi Ngọc Tấn, để cho tác
phẩm được xuất bản? Hay "nói theo" Ash: không giản dị như
vậy khi cho rằng, mặc dù chế độ toàn trị, (văn chương) xứ
sở này vẫn đẹp? Nghịch lý về bảo thủ cách mạng?
Milosz, trong Bắt Đầu Nơi Tôi Là,
To Begin Where I Am, có hai cái
"notes", 1, về lưu vong, và 1, về Brodsky.
Tin Văn đã giới thiệu “lắt nhắt”, và, “lai rai”, viết
về nó.
Nhân dịp trọng đại ăn mừng Cách Mạng Tháng Tám
năm nay, nối gót 40 năm thơ Mít lưu vong, GCC bèn
lôi ra viết tiếp.
Quan điểm của Brodsky, ngôn ngữ là số 1, thì
cũng được Tin Văn nhắc tới rồi, khi dịch bài trên trang e
Nobel, nhưng Milosz, xoáy sâu hơn, và đọc ông,
viết về Brodsky, chúng ta hiểu rõ thêm về... TTT. (1)
Cái gì làm TTT, bảnh như thế?
Milosz, trả lời, khi đọc Brodsky.
Nhà
thơ nổi loạn
Bao thơ tôi, ít nhiều chi,
là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm
gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time.
About what time does to Man."
Joseph Brodsky.
(1)
http://www.gio-o.com/ANMZ/PhanTanHaiNDT2017.htm
Chủ biên là
nhà thơ Nguyễn Đức Tùng giải thích về tiến trình
hình thành tuyển tập, nói rằng ông xin lỗi
vì thiếu một số thơ của nhiều người quá khứ, như Mai Thảo,
Nguyên Sa, Minh Đức Hoài Trinh, Cao Đồng Khánh...
vì vấn đề tác quyền không xin phép được. Nguyễn
Đức Tùng cũng gửi lời cảm ơn tới tất cả những ngươì tham
dự và những người đã giúp hoàn thành
tuyển tập...
Theo GCC, có thể không
hẳn như thế, vì chẳng ai hẹp lượng đến như thế, nếu nói
về ý nghĩa của 1 tác phẩm “như thế”.
Tuy nhiên, trong số những tác giả được nhắc, không
có TTT. Và GCC tin rằng, NDT không đọc được thơ TTT,
và cũng không thể nhận ra, chỉ độc nhất TTT là nhà
thơ lưu vong, trong khi những tên khác, đều mò về xứ
Mít cả rồi, lưu vong cái con khỉ gì nữa!
Ghi chú về lưu vong
Milosz
Anh ta không
tìm thấy hạnh phúc, bởi vì làm gì có
hạnh phúc ở xứ sở của anh ta.
He did not find happiness, for
there was no happiness in his country.
Adam Mickiewicz.
Lưu vong: Cách sử dụng
Hãy coi lưu vong là
số kiếp, theo nghĩa một thứ bịnh không sao chữa lành, chỉ có
cách đó mới giúp chúng ta vứt bỏ vào
thùng rác những hoang tưởng về mình.
Lưu Vong: Khuôn Mẫu
Anh ta biết nhiệm vụ của mình,
và nhân dân đang chờ đợi những lời nói của anh,
nhưng anh bị cấm nói.
Bây giờ, ở nơi anh đang
ở, anh tha hồ mà nói, nhưng chẳng ai thèm nghe, vả
chăng, anh quên mẹ những gì anh phải nói.
Lưu vong: Thích nghi
Sau nhiều năm lưu vong, chúng
mình bèn tưởng tượng đời mình như thế nào, nếu
chẳng lưu vong.
Lưu Vong: Chán Chường
Cú đánh đầu tiên
vào đầu một nhà văn lưu vong, đúng như Võ Phiến
đã từng cảm nhận: Nhà văn lưu vong không đem theo được
cùng với ông ta, độc giả thân thương của mình!
Như thế có nghĩa, cùng
với sự mất tích độc giả, nhìn vào những trang viết
cũ cứ như nhìn vào hư vô.. là chán chưòng,
tuyệt vọng, là sợ đếch ai còn biết đến tên ta [loss
of name], sợ thất bại, và những dằn vặt về đạo đức [moral torment].
Nhà văn lưu vong đau khổ
bởi vì anh ta lúc nào cũng phải bám vào
ý thức, thói quen tập thể. Có lẽ, anh ta, nhà
văn như thế đó, chưa hề bao giờ học đứng bằng đôi chân
của chính mình.
Anh ta có thể thắng, nhưng
chỉ khi nào, trước đó, anh ta bằng lòng thua.
[He may win, but not before he
agrees to lose]
Lưu vong là lâm
vào tình cảnh thật đáng ngờ, nếu nói về mặt
đạo đức, bởi vì nó bẻ gãy kết nối của một con người
với đám đông, nói rõ
hơn, nó tách một cá nhân ra khỏi một nhóm,
và cá nhân này ngưng không còn chia
sẻ kinh nghiệm của mình với những đồng nghiệp bị bỏ lại. Những dằn
vặt về đạo đức phản ảnh sự vấn vương của anh ta với một hình ảnh hào
hùng về chính mình, và anh ta phải, từng bước
từng bước, đi tới một kết luận thật thê lương thật đau đớn, là: thật khó mà làm được một việc
có giá trị về mặt đạo đức, và càng thật khó,
giữ cho được một hình ảnh không hề hoen ố về chính mình.
Note: Bài viết
này, nay, nhân kỷ niệm Cách Mạng Tháng Tám,
và 40 năm thơ Mít lưu vong, GCC bèn post & dịch
trọn, cũng là 1 cách để đám Mít lưu vong nhìn
lại chúng, coi có thằng nào xứng đáng!
Anh không kiếm thấy hạnh phúc,
vì làm đéo gì có hạnh phúc ở xứ
Mít của anh ta!
Ui chao, chỉ 1 câu đó, là lũ Mít viết lách
ở hải ngoại, có tên trong cuốn sách của NDT, thấy nhục
rồi!
Hãy coi lưu vong là số
kiếp, 1 thứ bịnh vô phương chữa trị, chỉ có cách đó
giúp chúng ta nhìn suốt cõi ảo tưởng về mình.
Bài viết này rất ư là
tuyệt với, nhưng với riêng Gấu, bài về Brodsky mới cực tuyệt.
Nó gíúp GCC nhìn rõ thêm về
ông anh của mình, tại làm sao mà ông ở
cõi Mít mà quá rành cõi Tây
Phương, chưa từng ra ngoài nước 1 lần, mà tạo ra nổi 1 tên
như Kiệt. Một khi tạo ra được 1 nhân vật như thế, là ông
đã nhìn ra cả 1 lũ Mít nhơ bửn, như những tên
có mặt trong tác phẩm của tên tà lọt rồi, và
ông tha thứ cho chúng, với nhân vật Kiệt của ông!
(1)
(1)
"Bad Gấu" sorry, to some of his friends,
in the book...
V/v “Bad Gấu”.
Milosz viết, trong "Thư nửa riêng
tư về thơ, a semi-private letter about poetry" ( in “To Begin Where I Am”):
Đôi khi thế giới mất mẹ nó bộ mặt của nó. Phải có
1 tên cực kỳ khốn nạn, như “bad Gấu”….(Sometimes the world loses its
face. It becomes too base. The task of the poet is to restore its face,
because otherwise, man is lost in doubt and despair. It is an indication
that the world need not always like this, it can be different. (2)
UI chao, nếu đúng như thế,
thì 1 tên "bad Gấu", cần hơn 1 tên "Gấu nhân hậu
và cảm động", rất nhiều!
Hà, hà!
(2)
Đôi khi xứ Mít mất mẹ
nó bộ mặt của nó, và nhiệm vụ của thằng cha Gấu, "poet
GCC" - như 1 vị bằng hữu FB gọi - là tái dựng lại bộ mặt của
nó, nếu không, Mít mất, trong hồ nghi và chán
chường.
Đây là 1 dấu chỉ, Mít không cần luôn luôn
như cũ, nó có thể khác đí.
Viết
mỗi ngày
Một tuyên ngôn mỹ học.
An Aesthetic Manifesto
G. Steiner
Trong Ngôn ngữ và
Câm Lặng, Steiner "đi" ba bài về Lukacs.
Bài Văn chương và
hậu lịch sử, 1965, đề tặng Lukacs, In Honor of Georg
Lukacs, hình như Tin Văn có dịch?
Bài Lukacs ký hợp
đồng với Quỉ, Georg Kukacs and His Devil's Pact,
1960, về già, nhìn lại, THNM, Gấu cứ nghĩ dến
cái hợp đồng của Bắc Kít với con quỉ ở nơi chuồng
lợn, tức Anh Tẫu, mà Oz nhìn ra, khi đọc Y Sĩ
Đồng Quê của Kafka.
Bữa nay, bèn giới thiệu
bài viết Tuyên Ngôn Mỹ Học.
Trong số những trí thức
Tẩy mê Mác Xít, còn 1 tay cũng
rất khủng, là Lucien Goldmann. GCC đã dựa vào
tay này, khi điểm cuốn Bếp Lửa của TTT, 1972.
Lucien Goldmann là tác
giả cuốn sách cực kỳ bảnh, là Dieu Caché,
1955. Trong bài viết Chủ Nghĩa Mác và
phê bình văn học, Steiner viết:
Around the hard core of French
Stalinism, a harsh and disciplined cadre oddly untouched
by the "thaw" of 1953-54, there has always flourished a large
and animated world of intellectual Marxism. Its leading figures,
such as Merleau-Ponty and Sartre, have often inclined toward
the vortex of total adherence. But they draw back in the final
moment, seeking to establish an ideological position which will
be outside the Party-but not hostile to it. From both the dialectical
and the practical point of view, such an attempt is doomed to ambivalence
and failure. But the making of it charges French intellectual life
with rare intensity and gives to abstract argument the strong pertinence
of conflict. In France, even old men are angry.
Tiếp đó, Steiner viết về
Dieu Caché, Thượng Đế Ần Khuất,
của Goldmann.
Có thời, khi còn
trẻ, Gấu quá mê Mác Xít, thứ
chủ nghĩa không tưởng cực kỳ bảnh tỏng, như Steiner phán
về nó...
Chung quanh con bài ách,
tạm dịch từ "hard core" của chủ nghĩa Xì Tẩy, là
cả 1 bộ sậu, lạ làm sao, không dính
trấu cú Băng Tan, 1953-54, và thế giới trí
thức Mác Xít của Tẩy vẫn xum xuê hoa
trái. Hai tay dẫn đầu là Merleau-Ponty và
Sartre vẫn hung hăng con bọ xít, nhưng có tí
lùi lại, vào lúc chót, cố tìm
1 vị thế ý thức hệ ở ngoài Đảng, nhưng không
thù nghịch Đảng....
Là thường, là cái
chuyện Gấu ưa tậu/đọc những tác phẩm quá
sức của Gấu.
Nhớ, lần qua Cali lần đầu, là
bài dịch Tuyệt Bi của Steiner, trình ông
chủ. Ông lắc đầu, cao quá, với độc giả Văn Học.
Thế là bèn có ý bye bye tờ Văn Học,
ra riêng, mày không đăng thì tao tự đăng,
tự sướng.
Trang Tin Văn ra đời từ ý
nghĩ đó.
Cũng thế, cái thời mới lớn,
đọc Lukacs. Nhớ, lần gặp Trần Phong Giao với cuốn Lịch
Sử và Ý Thức Giai Cấp, nhà xb Nửa Đêm,
với những cuốn sách chẳng ai dám đọc. Người,
mặt khinh khỉnh, hất hàm, cậu mua cuốn này để
nhát ma ư?
Người phán, đúng
như thế. Nhớ hoài. Khi mua, là Gấu đã
biết quá sức của mình, cả về vốn liếng ăn đong
tiếng Tẩy, lẫn tư tưởng Mác Xít. Đại sư phụ,
đại tổ sư Mác Xít. Đâu phải thứ thường.
Mua, chờ khi có đủ nội lực,
là bèn lôi ra tụng!
Ôi chao, đâu chỉ Trần
Phong Giao. Steiner phán về nó, mà
chẳng ghê sao:
III
But in practice, what are Lukacs'
major achievements as a critic and historian of ideas?
Ironically,
one of his most influential works dates from a period
in which his Communism was tainted with heresy.
History and Class Consciousness (1923) is a rather
legendary affair. It is a "livre maudit," a burnt book, of
which relatively few copies have survived. *
We find in it a fundamental analysis of the ''reification''
of man (Verdinglichung), the degradation of the human person to
a statistical object through industrial and political processes.
The work was condemned by the Party and withdrawn by the author.
But it has led a tenacious underground life and certain writers,
such as Sartre and Thomas Mann, have always regarded it as Lukacs' masterplece.
[* History and Class Consciousness
is now available in French. It is also being republished
in the West German edition of Lukacs' collected writings,
together with other early works. These are among his finest philosophic
achievements and show him to be the true predecessor to Walter
Benjamin. The cultural authorities in the East allow such Western
publication of heretical but prestigious Marxist books; a characteristic
touch of "Byzantine" policy.]
Như vậy là Gấu có
cuốn sách đúng thời gian nó được nhà
Minuit xb ở Tẩy.
Tuyệt thật!
Nhưng trong thực hành, tác
phẩm bảnh nhất của Lukacs, như là nhà phê
bình, và nhà sử học của những tư tưởng,
là cuốn nào?
Trớ trêu thay, tác
phẩm có tầm ảnh hưởng nhất của ông, xuất hiện
đúng lúc tư tưởng Mác Xít dính
trấu, và bị coi là dị giáo! Một tác
phẩm “trời đánh”, 1 tác phẩm đáng
“bị đốt bỏ”.
Lukacs được coi như là sư
phụ của Walter Benjamin.
Theo GCC, Steiner cũng là
1 thứ đệ tử của Lukacs. Ông có kể lần ông
gặp Lukacs, khi ông bị đệ tử giam tại gia, chờ đem
đi làm thịt, và cậu thanh niên Steiner
khóc nức nở. Thầy phán, mi làm sao hiểu
nổi... Cái Ác Mác Xít, trò
làm thịt thầy là chuyện thường ngày ở huyện!
Sách
& Báo
Mới
Trò chuyện với Kafka
Conversations about his books were always very brief.
'I have been reading The Verdict.'
'Did you like it?'
'Like it? The book is horrifying!'
'You are perfectly right.'
'I should like to know how you came to write it. The dedication,
For F., is certainly not merely formal.
Surely you wanted the book to say something to someone. I should like
to know the context.'
Kafka smiled, embarrassed.
'I am being impertinent. Forgive me.'
'You mustn't apologize. One reads in order to ask questions.
The Verdict is the spectre of a
night.'
'What do you mean?'
'It is a spectre: he repeated, with a hard look into the
distance.
'And yet you wrote it.'
'That is merely the verification, and so the complete exorcism,
of the spectre.'
*
My friend Alfred Kampf from Altsattel near Falkenau, whose
acquaintance I had made in lbogen, admired Kafka's story The
Metamorphosis. He described the author as 'a new, more profound
and therefore more significant Edgar Allan Poe'.
During a walk with Franz Kafka on the Altstadter Ring I
told him about this new admirer of his, but aroused neither interest
nor understanding. On the contrary, Kafka's expression showed that
any discussion of his book was distasteful to him.
I, however, was filled with a zeal for discoveries, and
so I was tactless.
'The hero of the story is called Samsa,' I said. 'It sounds
like a cryptogram for Kafka. Five letters in each word. The S in the
word Samsa has the same position as the K in the word Kafka. The A...'
Kafka interrupted me.
'It is not a cryptogram. Samsa is not merely Kafka, and
nothing else. The Metamorphosis is not a confession, although
it is - in a certain sense - an indiscretion.'
'I know nothing about that.'
'Is it perhaps delicate and discreet to talk about the bugs
in one's own family?'
'It isn't usual in good society.'
'You see what bad manners I have.'
Kafka smiled. He wished to dismiss the subject. But I did
not wish to.
'It seems to me that the distinction between good and bad
manners hardly applies here,' I said. 'The Metamorphosis is
a terrible dream, a terrible conception.'
Kafka stood still.
'The dream reveals the reality, which conception lags behind.
That is the horror of life - the terror of art. But now
I must go home.'
He took a curt farewell.
Had I driven him away?
I felt ashamed.
*
We did not see each other for a fortnight. I told him about
the books which in the meanwhile I had 'devoured'. Kafka smiled.
'From life one can extract comparatively so many books, but from books
so little, so very little, life.'
'So literature is a bad preservative?'
He laughed and nodded.
I Franz Kafka and I often laughed long and loud together,
that is to say, if one could ever describe Franz Kafka's laughter as
loud. For me at least what has remained in my memory is not the sound of
his laughter but the physical gestures by which he expressed his amusement.
Depending on how much he was amused, he threw his head back quickly
or slowly, opened his mouth a little and closed his eyes into narrow
slits, as if his face were turned up to the sun. Or he laid his hand
on the desk, raised his shoulders, drew in his bottom lip and shut his
eyes as if someone were going to shower him with water.
In this kind of mood I once told him a little Chinese story
I had read a short time before - I can't remember where.
'The heart is a house with two bedrooms. In one lives Suffering
and in the other Joy. One mustn't laugh too loud, or one will wake
the sorrow in the next-door room.'
'And Joy? Isn't she woken by the noise of sorrow?'
'No. Joy is hard of hearing. So she never hears the suffering
in the next room.'
Kafka nodded. 'That's right. That's why one often only
pretends to be enjoying oneself. One stuffs one's ears up with the
wax of pleasure. For instance, me. I simulate gaiety, in order to
vanish behind it. My laughter is a concrete wall.'
'Against whom?'
'Naturally, against myself.'
'But a wall is turned against the outer world,' I said.
'It's a defence against what comes from outside.' But Kafka instantly
and decisively repudiated such a view.
'Is it, indeed? Every defence is a retreat, a withdrawal.
A blow at the world is always a blow at oneself. For that reason,
every concrete wall is only an illusion, which sooner or later crumbles
away. For Inner and Outer belong to each other.
Divided, they become two bewildering aspects of a mystery
which we endure but can never solve.'
GUSTAV JANOUCH: CONVERSATIONS WITH
KAFKA
Note: Mua xôn, ngay những ngày đầu tới
Xứ Lạnh, August 7, 94.
Max Brod phán, tớ đọc và sững sờ vì
sự giầu sang của tài liệu mới mẻ.
Còn Scholem, "a work of highly dubious authenticity
that nevertheless was swallowed uncritically by a hungry world",
rất đáng ngờ vì tính trung thực, nhưng sẽ được
ngấu nghiến bởi những kẻ không rành về phê bình.
Foreword
Tadeusz Rozewicz is a poet of dark refusals,
hard negations. He is a naked or impure poet ("I crystallize impure
poetry," he writes), an antipoet relentlessly, even ruthlessly determined
to tell the truth, however painful it may be. He scorns the idea
of the poet as prophet and speaks from the margins-a stubborn outsider.
"A poet is one who believes / and one who cannot," he declares. He dwells
in uncertainties and doubts, in the insecure, gray areas of life-skeptic...
Note: Tay
thi sĩ này, khủng lắm. Tin Văn sẽ đi bài Forewod,
và luôn bản tiếng Mít.... Mua lâu rồi, nay
mới có dịp giới thiệu.
Độc và Đẹp
Nhớ, lần gửi cái truyện ngắn đầu
tay “Những ngày ở Sài Gòn” cho ông anh,
ông bèn cho đăng liền trên tờ Nghệ Thuật, và
bèn sửa liền,1 câu tiếng Tây, từ Faulkner, thằng
em dịch sai, liên quan tới thời tiết
... khi đọc Faulkner, tôi đã lầm lẫn hai
từ "climatique" (khí hậu) và "climatérique"
(khổ đau). Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết,
con ngưòi tổng số những kinh nghiệm về khổ đau. [Cả hai câu
đều của Faulkner]
Bèn, đi 1 đường về thời tiết, nhân đọc cuộc
trò chuyện giữa hai nhà thơ Charles Simic & Tomas
Salamun, trong Bomb
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|