|
Thánh
Simone – Simone Weil
“We
must prefer real hell to an
imaginary paradise”
Simone Weil
(Phải chọn địa ngục thực, thay vì một thiên đường dởm).
“Không thành công cũng thành nhân”
Nguyễn Thái Học
George
Steiner, trong bài viết Thánh
Simone – Simone Weil,
có nhắc tới truyền thuyết, theo đó, Plato đã nói về Diogenes: “Ông ta
là một
Socrates phát khùng” (He is Socrates
gone mad). Ông tự hỏi, liệu có thể áp dụng câu nói đó vào trường hợp
Simone
Weil?
Nhà xuất bản Gallimard, tủ sách Quarto vừa cho phát hành
(1999) tác phẩm của Simone Weil; gồm 55
bản văn, bài viết, thư từ trao đổi.
Sinh tại Paris,
ngày 3 tháng hai 1909. Tự huỷ mình bằng cách nhịn ăn, Simone Weil mất
ngày 24
tháng tám 1943, tại London, nơi bà tham gia lực lượng kháng chiến Pháp.
Triết
gia, sử gia, nhà huyền học, Simone Weil (1909-1943) đã trải qua những
năm tháng
đen tối của thế kỷ. George Steiner cho rằng, khí hậu thế kỷ sẽ không
thể hiểu
được, nếu thiếu sự đóng góp của Simone de Beauvoir, và Annah Arendt,
nhưng trên
hết vẫn là của Simone Weil. Như Marx, bà là triết gia luôn quan tâm tới
điều
kiện lao động mang tính tâm lý, xã hội, thể chất, chính trị, và luôn cả
triết
học, của người công nhân, hay là thân phận đổ bát mồ hôi kiếm miếng ăn
của đàn
ông đàn bà và trẻ em trên thế giới, dưới cái nhìn háu háu của con quái
vật nhà
máy. Đây là một trong những ý niệm nữ hoàng (notion reine), ý niệm về
lao động,
được coi như là chủ chốt trong lý thuyết về tri thức của bà: “cái thực
chỉ có được
bằng trầy trật, bằng cố gắng, tức là bằng lao động. Cái thực là cái
cưỡng lại
chúng ta” (Le réel est ce qui nous résiste). Từ đó bà cho rằng: Những
người thợ
biết hết, nhưng ngoài lao động, họ không biết rằng họ đã sở hữu đạo lý
làm
người (la sagesse). Giấc mộng về con người hoàn toàn (l’homme total)
của Marx,
được Simone Weil diễn tả như sau: “Chúng ta muốn đem đến cho lao động
chân tay,
phẩm giá mà nó có quyền được hưởng; bằng cách đem đến cho người thợ đầy
đủ trí
tuệ, thay vì làm mà chẳng hiểu gì hết; và dí vào tận tay trí tuệ, cái
vật dụng
của chính nó, bằng cách đẩy trí tuệ tiếp xúc với thế giới, thông qua
lao động.”
Sau đây là trích đoạn, bài giới thiệu của Florence de Lussy,
người phụ trách xuất bản toàn bộ tác phẩm của Simone Weil:
Một hình tượng đen, vàng ròng, hơi khác thường (une figure
noire, et or – siêu nhân, surhumaine, theo như một vài người – vừa cuốn
hút,
vừa xô đẩy, đó là Simone Weil dưới mắt người đương thời là chúng ta.
Ngay từ
khi bà còn sống, (đã chọn lựa thái độ) một mình chống tất cả, gây xáo
trộn, bực
bội, tạo bực bội (scandale), và [cũng tạo nên] sự cuốn hút mãnh liệt.
“Thiên tài là một thói quen mà một vài người sử dụng” (Le
‘génie’ est une habitude que prennent certains. Valéry). Kém ông anh ba
tuổi;
André Weil, nhà toán học lừng danh mất tích vào ngày 5 tháng tám 1998;
ngay từ
nhỏ, bà cũng có những thiên tư kỳ lạ, và đau khổ vì chúng. Tới tuổi
thành niên,
nghĩ mình vô tài, bà quá đỗi thất vọng và chỉ thoát ra được, nhờ điều
gọi là
“một cú đảo chính trí thức”: đồng hóa thiên tài với ham muốn chân lý,
hoài
hoài, bền bỉ. Bà tin rằng, “bất cứ một con người nào, cho dù chẳng có
một chút
xíu thiên tư, [cũng có thể] vào được vương quốc chân lý dành cho thiên
tài,
nếu, và chỉ nếu, người đó ham muốn, và luôn luôn cố vươn tới, đạt cho
được chân
lý.”
Là một học trò cưng của Alain; ông thầy nhận ra bà luôn luôn
vượt đồng bạn, làm đồng bạn thất vọng, ngỡ ngàng. Simone Pétrement đã
nhận xét
về bạn mình: Bà đã vội sống, và quá hối hả (qu’elle était pressée de
vivre et
qu’elle a couru trop vite). Sau này, khi đụng đầu với thế giới tâm
linh, bà
bước đi bằng những bước bẩy dậm, và chẳng còn ai theo kịp nữa… Bí mật
của bà
vượt ra khỏi những tài năng số một, và luôn cả những người yêu thương
bà.
Qua
cuốn Simone Weil, Tác Phẩm nói
trên, bà đã từng có ý
định tới Đông Dương vào cuối năm 1938.
Quan điểm chống thực dân thuộc địa của bà được diễn tả qua
hai bài viết trong cuốn kể trên, Những dữ kiện mới mẻ về vấn đề thực
dân thuộc
địa trong đế quốc Pháp (1938), và Về vấn đề thực dân thuộc địa trong
tương quan
với số mệnh của dân tộc Pháp (1943). Ngoài ra còn những bài viết được
Louis
Roubaud gom lại thành một cuốn nhan đề: Việt Nam. Bi kịch Đông Dương
(nhà xb
Valois, 1931). Tất cả những bài viết về chủ nghĩa thực dân thuộc địa,
trừ bài
cuối (1943), sau được nhà Gallimard xuất bản, trong Toàn Tập II, 1989.
Qua
bài giới thiệu,
của D.C., Simone Weil quan tâm đến vấn
đề thực dân thuộc địa rất trễ, thời gian 1937-1938. Nhưng liền đó, đây
là một
trong những mối âu lo lớn của bà. Thái độ chống đối của bà không phải
chỉ là
một trong số những đề tài, nhưng bà đẩy nó tiếp cận với những vấn đề
khái quát
hơn, đó là nghiên cưú về sự áp bức thợ thuyền và thân phận đớn đau của
con
người. Và đây là phát hiện lớn lao của Simone Weil, khi bà nghiên cứu
về yếu
tính của cái gọi là sự kiện thực dân thuộc địa: “Những vấn đề của thực
dân
thuộc địa đặt ra trước hết bằng những từ của sức mạnh. Thực dân thuộc
địa hầu
như luôn luôn bắt đầu bằng cách biểu dương sức mạnh, dưới dạng ròng của
nó, tức
là chiến thắng, chiếm đoạt” (Les problèmes de la colonisation se posent
avant
tout en termes de force. La colonisation commence presque toujours par
l’exercice de la force sous sa forme pure, c’est-à-dire par la
conquête).
Theo
người giới
thiệu, chính khởi nghĩa Yên Bái khiến bà
quan tâm tới số phận người Việt, nói rõ hơn số phận người dân thuộc địa
của
Pháp. Bà như chết sững trước sự độc ác của đám người Pháp cầm quyền tại
Việt
Nam: 150 án tử hình, hàng ngàn người bị xử bắn, và hàng ngàn người bị
cầm tù.
Simone Weil hết sức quan tâm đến một số bài viết, về số phận người Việt
(khi đó
còn gọi là Annamites), trên tờ Người Paris Nhỏ (Le Petit Parisien),
ngay sau
khi vụ khởi nghĩa Yên Bái xẩy ra và bị dập tắt trong vòng hai tuần lễ.
“Tôi
không bao giờ quên được giây phút mà, lần thứ nhất trong đời, tôi cảm
và hiểu
được bi kịch thực dân thuộc địa” (“Je n’oublierai jamais le moment ó,
pour la
première fois, j’ai senti et compris la tragédie de la colonisation).
Câu
‘châm ngôn khủng
khiếp”, dịch qua tiếng Anh ở đầu bài
viết, “We must prefer real hell to an imaginary paradise”, là từ bài
viết của
G. Steiner, về Simone Weil, in trong No Passion Spent, Mê Đắm Chẳng
Hoài, (nhà
xb Yale University Press, 1996).
Trong
toàn tập Simone
Weil còn có một tài liệu về vụ khởi
nghĩa của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Yên Bái (1930):
phóng ảnh
tờ truyền đơn bằng tiếng Pháp, yêu cầu thả những nhà ái quốc bị tuyên
án tử
hình:
Những người vô sản và bị áp bức,
Hãy ngăn chặn những tội ác của đế quốc!
Những tên thực dân sát nhân,
Hãy trả tự do cho 56 người của chúng ta,
bị kết án tử hình tại Yên Bái.
Và tất cả những tù nhân chính trị!
Hãy giải phóng Đông Dương.
(Tổ
chức) Những di đân Đông
Dương tại Pháp.
Sài Gòn nghĩa là gì?
“Đời
của mi, ngay ở đây, tại nơi chốn
vất đi này, mi đã làm
hỏng nó…”
“Hãy nói lời giã từ thành phố mà mi đã đánh mất”
(Lawrence
Durrell)
-Sài Gòn nghĩa là gì?
-Thiếu. Nhớ.
Khi
viết xong tập đầu
của một bộ bốn
cuốn, về thành phố
Alexandrie (Quatuor d’Alexandrie: Justine, Balthazar, Mountolive, Clea,
lần
lượt xuất bản từ 1957 tới 1960), Lawrence Durrell (1912-1990) đã viết
thư cho
bạn mình là nhà văn người Mỹ, Henry Miller; bằng một câu nói nổi tiếng,
ông
định nghĩa tác phẩm của mình: “Đây là một thứ thơ xuôi gửi cho một
trong những
thủ đô lớn lao của con tim: Thủ đô của hồi tưởng.”
Tất
cả là giả tưởng.
Chỉ có thành phố
là có thực. Trong Lời
Tựa cho cuốn Jusrine, Henry Miller viết:
Đây là một thành phố mà chỉ một người Anh lưu vong tự nguyện, sinh ra
tại (dẫy
núi) Himalaya, tìm thấy sự trưởng thành của mình tại Hy Lạp, chỉ người
đó mới
có thể làm cho nó tái sinh. Thành phố không chỉ đóng vai dàn dựng
(décor): nó
là một thực thể, một sinh vật sống động, mang hơi hám ma quỉ, được tạo
nên bằng
máu thịt, đất đá, tội ác, mơ mộng, và bằng cả huyền thoại.” “Những nhân
vật làm
nên cuốn tiểu thuyết cũng có một thực tại khác thường: tôi có thể đoan
trước
rằng họ sẽ gây sốc và hớp hồn một độc giả Âu châu. Trong họ, có tất cả
bụi bặm
và những cơn điên loạn của xứ sở Cận Đông.”
Henry
Miller coi câu
chuyện kể trải
ra, không phải như diễn
tiến của một cuốn tiểu thuyết bình thường: nó như soi nhiều tấm gương
cùng một
lúc; nó uốn éo trong một chất thiêng: ánh sáng. Một thứ ánh sáng siêu
nhiên,
tắm đẫm hồi tưởng.
Trong
Lời Tựa cho
toàn tập, ấn bản
tiếng Anh, tác giả viết:
Đây là một nhóm bốn cuốn tiểu thuyết, được đọc như là một tác phẩm đơn
(a
single work) dưới tiêu đề chung là Tứ Khúc Alexandria. Cũng có thể cho
nó một
tiểu đề là: một từ của sự liên tục (a word of continuum, liên tục không
gian-thời gian theo Einstein). Theo G. Steiner, Durrell đã chuyển viễn
tượng
(thuyết) Tương Đối, vào ngôn ngữ và cách tự sự. Ông nhìn thành phố
Alexandria
theo bốn chiều.
Cuốn
Justine xuất bản
năm 1957. Đây là
một thời điểm rất có
ý nghĩa với những độc giả người Việt, nhất là người Việt di cư, và đã
từng sống
ở Sài Gòn vào thời kỳ đó. Justine đã là một trong những đề tài được đem
ra thảo
luận của nhóm Sáng Tạo, trong nỗ lực đả phá cái cũ (đặc biệt là nhóm Tự
Lực Văn
Đoàn), và cổ xuý cho một cái mới. Cá nhân tôi tin rằng, mấy ông trong
Sáng Tạo
“mê” Alexandria của Durrell, là bởi vì vừa mới mất Hà Nội! Phạm Công
Thiện cũng
rất mê Durrell, nhưng qua một bài viết của ông mà người viết đọc từ
thuở nảo
thuở nào, ông chỉ mê Justine, cô điếm thượng lưu của thành phố này thôi.
Nhưng
đâu phải một
mình ông!
Những
trích đoạn, là
về thành phố
Alexandria, nhưng khi đọc
chúng, Jennifer tôi tưởng tượng, đây là nói về Sài Gòn:
Chính
thành phố phải
chịu xét đoán;
nhưng chúng ta, những
đứa con (của Sài Gòn), phải trả giá.
(C’est
la ville qui
doit être jugée;
mais c’est nous, ses
enfants, qui devons payer le prix.)
Sài
Gòn là một máy ép
tình yêu; thoát
ra khỏi, là những kẻ
bịnh hoạn, những gã cô đơn, những bậc tiên tri, tất cả những kẻ dục
tính bị tổn
thương nặng nề.
(Alexandrie
était le
grand pressoir de
l’amour; ceux qui en
réchappaient étaient les malades, les solitaires, les prophètes, tous
ceux
enfin qui ont été profondément blessés dans leur sexe).
Nàng
là ai? Cái thành
phố mà chúng ta
đã chọn lựa?
(Qui
est-elle, cette
ville que nous
avions élue?)
Hãy
chừa riêng ra cho
anh, những vết
thương tình mà anh chia
sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi
les
blessures de l’amour
partagé avec Justine).
Lũ
đàn ông chúng
mình, đều được tạo ra
bằng bùn và quỉ ma
của Sài Gòn
(Tout
homme est fait
de boue et de
daimon (1), et la femme
ne peut pas nourrir ces deux côtés de sa nature à la fois: Mọi người
đàn ông
đều được tạo nên bằng bùn và quỉ ma, và một người đàn bà do bản chất,
không thể
nuôi nấng cả hai khía cạnh này cùng một lúc).
Chú
thích: Theo tiếng
Hy Lạp cổ,
daimôn có nghĩa là “thiên
tài che chở” (le génie protecteur), từ này sau có nghĩa là quỉ ma
(démon), và
còn được chỉ những nhân vật “trung gian” giữa thần và người. (Chú thích
bản
tiếng Pháp, dịch từ nguyên tác tiếng Anh, của Roger Giroux, nhà xb
Buchet-Chastel, 1959, lần tái bản tháng Năm, 2000)
Lẽ phải không nghỉ hè
La raison ne prend pas de vacances.
Primo Levi
Primo
Levi, nhà văn người Ý, một kẻ
sống sót sau Lò Thiêu,
theo cả hai nghĩa văn chương và cuộc đời. Chỉ có ông, và nhà thơ Paul
Celan, là
đã phản bác được một nhận định “thê lương, mang tính hư vô huỷ diệt”
của
Adorno, triết gia người Đức, gốc Do Thái: Sau Auschwitz mà còn làm thơ
thì thật
là dã man.
Sau
đây là trích đoạn một số câu trả
lời, từ những bài phỏng
vấn ông (qua bản dịch tiếng Pháp: Nói chuyện và phỏng vấn,
Conversations et
Entretiens, nhà xb Robert Laffont, tủ sách 10/18, từ nguyên bản tiếng
Ý). Ông
tự huỷ mình vào tháng Tư, 1987, tại căn phòng mà ông dự định sẽ sống
suốt đời ở
đó.
Người
phỏng vấn: Không có một chút run
rẩy nào trong văn của
ông: sáng suốt, thanh thản, và cởi mở (C’est une construction lucide,
sereine,
et détaché). Làm sao ông có thể tin vào một chiến thắng của lẽ phải sau
khi đã
trải qua biết bao phiêu lưu, như bách hại, và kinh nghiệm của những
trại tù?
Levi:
Tin vào lẽ
phải, điều đó có
nghĩa tin vào lẽ phải của
mình (sa raison); điều này không có nghĩa là lẽ phải cai quản thế giới,
và càng
không, cai quản con người. Không phải bởi vì người ta đã ‘kinh qua địa
ngục” mà
có quyền buông thõng tay. Thế hệ chúng ta không có nghỉ hè. Với lẽ phải
cũng
vậy: không có ngày nghỉ. Người ta không thể lấy “vacations”, với lẽ
phải. Riêng
về phần tôi, tôi nghi ngờ cái chuyện cho lẽ phải ngồi chơi xơi nước một
thời
gian (je considère avec suspicion toutes les suspensions de la
raison)…. Con
người là con người khi truy đuổi, nghĩa là, khi hành xử lẽ phải.
***
Lò
Thiêu Người,
Holocaust, là một kinh nghiệm mang tính kỹ
nghệ, thực dụng "siêu đẳng": Làm thế nào để giết được nhiều người
nhất, trong một thời gian nhanh nhất, ở một nơi có diện tích nhỏ hẹp
nhất, ít
tốn tiền nhất. Trong những cuốn sách viết về kinh nghiệm đó, "Những
người
chết đuối và Những người được cứu vớt" (The Drowned and the Saved),
xuất
bản năm 1988, tác giả Primo Levi, chỉ như một tiểu chú, nhưng thật quý
giá.
Đây
là kinh nghiệm
khi ông làm lao động khổ sai tại
Auschwitz, trong cuộc Chiến Tranh Lớn 1939-45. Trước khi tự tử vào
tháng Tư năm
1987, ông có đưa ra nhận xét: Khi viết về thế giới bi đát của những
trại tập
trung, ông hy vọng tránh được hai điều: lợi dụng tu từ, văn chương làm
mủi lòng
người đọc, và dấy lên tâm lý trả thù. Thay vì vậy, ông chọn ngôn ngữ
trầm tĩnh,
nghiêm trang, nhã nhặn, và mực thước, của một người chứng. Nhưng trên
tất cả,
người đọc vẫn nhận ra, đây là một ngôn ngữ rất buồn thảm.
Sau
khi được thả, ông
viết hai cuốn, nay trở thành cổ điển,
"Sống sót tại Auschwitz" (1947), "Lại tỉnh thức" (1963).
Cuốn sách nhỏ bé "Những kẻ chết đuối..." là nỗ lực sau cùng của tác
giả nhằm "hiểu" kinh nghiệm đó, một kinh nghiệm như tác giả đã từng
chỉ ra, vượt khỏi cõi "nhân tri".
Một
trong những
chương của cuốn sách viết về "Sự hung
dữ vô dụng". Những chi tiết về những trò độc ác của đám cai tù, khi
hành
hạ tù nhân một cách vô cớ, không một mục đích, ngoài thú vui nhìn chính
họ đang
hành hạ kẻ khác. Sự hung dữ tưởng như vô dụng đó, cuối cùng cho thấy,
không
phải hoàn toàn vô dụng. Nó đưa đến kết luận: Người Do thái không phải
là người.
Từng
bước một, Levi
cho thấy, trò nhục mạ, làm mất tính
người ở trong trại tùy thuộc vào những "đặc quyền, đặc lợi", tuy nhỏ
nhặt nhưng nó làm nên lằn ranh phân biệt giữa sống và chết. Có những
công việc
nho nhỏ, dành cho một số tù nhân nào đó, để được thêm một chút khẩu
phần. Có
những công việc khấm khá hơn, dành cho đám công chức hạng thấp như lau
chùi,
quét dọn, gác đêm, trợ tá của trợ tá... Ông ngần ngại khi phải phán
đoán, những
người làm ăng ten, cũng như những người dám đứng lên chống đối, và cố
gắng giữ
một đáp ứng dung hòa đôi khi vượt khỏi khả năng của con người. Trả lời
một số
phóng viên, Levi cho biết cảm tưởng, về những lời bào chữa "không biết
đến
những chuyện đó": Không thể tin được. Rằng, tinh thần bài Do thái không
phải do Nazi bịa đặt ra mà đã đóng rễ lâu đời trong văn hóa Đức.
Vào
năm 1743, khi
Moses Mendelssohn tới Berlin, trong túi
không có một xu, và không thể nói tiếng Đức suông sẻ, khi đó có 333 gia
đình Do
thái, cư dân của một thành phố chưa tới hai ngàn người. Họ được chấp
nhận
(tolerated), chỉ vì sự hữu dụng về kinh tế. Quyền cư trú, đi lại bị hạn
chế, bị
gạt ra khỏi những việc làm phục vụ công cộng. Không được quyền vào các
hội
thương mại, không được quyền buôn bán một số mặt hàng. Bị đánh thuế một
cách
tàn bạo, vào bất cứ một dịp nào, cưới hỏi, du lịch, mua nhà... Luôn
luôn, dễ
dàng bị trục xuất khỏi nơi cư trú bất cứ lúc nào, tuỳ theo hứng của nhà
cầm
quyền địa phương. Trên hết, họ luôn bị nghi ngờ có hành vi, phạm tội
ác, ngấm
ngầm chống lại đa số người Đức.
Mendelssohn
sau đó đã
vượt mọi khó khăn để học tiếng Đức, và
những hiểu biết chuyên môn khác, để theo đuổi nghề dậy học, trở thành
bạn thân
của Lessing, trở thành một triết gia có tiếng tăm tại Âu châu. Ông tỏ
ra tin
tưởng, người Do thái có phần nào trách nhiệm về sự cô lập của họ. Rằng
họ nên
cố gắng tránh bị cô lập bằng cách chấp nhận văn hóa Đức, như là của
riêng, của
chính họ, bỏ đi những tục lệ tôn giáo "lỗi thời", coi đó là một thành
phần sau cùng phải được "đồng hóa". Nhờ nghị lực của những người khai
phá như ông, quan niệm đồng hóa với những người khác, với đa số Đức, có
vẻ bùi
tai đối với những người lãnh đạo cộng đồng Do thái sau đó, và quan niệm
tự nâng
cao bản thân mình là chìa khóa quan trọng. Trong hai thế kỷ tiếp theo,
con số
người Do thái, được rửa tội hay không được rửa tội, chấp nhận làm người
Đức, từ
cách ăn mặc, hành vi cư xử, thói hư tật xấu, tính tốt, kể cả lòng tự
hào, lòng
ái quốc được là người Đức, được có quê hương, tổ quốc Đức... ngày càng
gia
tăng. Nhưng điều này chỉ như dầu đổ vào lửa là lòng hận thù Do thái
ngày một
thêm dữ dội. Cơ hội cuối cùng để được đồng hóa của họ là Lò Thiêu Người.
Địa
ngục đã làm việc
ra sao. Trong cuốn "Những Đao Phủ
Tự Nguyện của Hitler: Những con người Đức bình thường và Lò Thiêu
Người"
(nhà xb Knopf, 622 trang, 1996), Daniel Jonah Goldhagen đã đưa ra một
cái nhìn
mới mẻ về bản chất chủ nghĩa bài Do thái. Ông nghiên cứu cách phát
triển của
thế kỷ 19, theo đó, đã cung ứng một xã hội đấy ứ hận thù Do thái, sẵn
sàng, tự
nguyện để được động viên vào bất cứ biện pháp, hành động nào chống lại
Do thái,
và hỗ trợ trò giết người hàng loạt sau đó. Ông tin tưởng, trái với quan
niệm
thông thường, vẫn được chấp nhận, theo đó, đại bộ phận những người Đức
bình
thường đã "bất bình" với chủ trương bài Do thái của Nazi, nếu họ phải
tham gia là vì quá sợ hãi, do sức ép của xã hội, một sự vâng lời thái
quá...
Không
phải như vậy.
Đa số đã chia sẻ trò giết người với
Hitler, tự nguyện tham gia làm đao phủ. Việc cần thiết phải huỷ diệt Do
thái là
rõ ràng, đối với tất cả, tiếp theo quan niệm Do thái là kẻ xâm lăng,
ngoại lai,
đối với cơ cấu xã hội Đức.
Khi cuốn sách được xuất bản tại Hoa Kỳ, nó đã gây một phản
ứng thù nghịch rất dữ dội tại Đức, trong cả hai giới truyền thông và sử
học.
Trớ trêu là, khi những bản dịch Đức ngữ đầu tiên xuất hiện, tháng Tám
1996, tất
cả được bán sạch, vài tuần sau, 130 ngàn ấn bản được tung ra. Tháng
Chín, 1996,
khi tác giả xuất hiện tại Đức, chuyến đi "chào hàng" của ông đã là
một "succès fou": Goldhagen đã chinh phục Đức quốc! Trong vòng 10
ngày, giở bất cứ một tờ báo, mở bất cứ một chương trình TV là đều thấy
bộ mặt
bảnh trai của nhà khoa học chính trị trẻ tuổi của Harvard ("Ông ta
trông
giống như Tom Hanks"). Buổi thảo luận về cuốn sách, lần đầu được tổ
chức
tại Hamburg, con số tham dự là 600 người. Lần chót tại Munich, 2500 vé,
10 Đức
mã một, bán sạch. Công chúng Đức đến để nghe chính điều tác giả nói,
trong 600
trang nguyên bản, 700 trang dịch bản, tóm tắt là: Lò Thiêu Người chỉ
xẩy ra tại
Đức, nhập thân vào chế độ Đệ Tam Reich, bởi vì đó là cách các người đã
là (you
were the way you were). Các người làm điều đó, chỉ các người thôi, bởi
vì các
người là một trong những quốc gia bị vò xé bởi lòng thù hận, phải huỷ
diệt Do
thái, và đều là đồng lõa, một khi thời gian chím mùi.
Cũng
thật trớ trêu,
câu hỏi: Tại sao
rất nhiều người Do thái
thừa cơ hội, phương tiện để bỏ đi, đã quyết định bi thảm là ở lại Đức
Quốc Xã?
Vào cuối năm 1932 và những tháng đầu năm 1833, những người Do thái đã
ngần ngại
khi phải chấp nhận, thái độ thù nghịch đối với họ sẽ tiếp tục, và mạng
sống của
họ sẽ bị đe dọa trầm trọng, bởi việc Nazi lên cầm quyền. John V.H.
Dippel, tác
giả cuốn "Bound Upon a Wheel of Fire" (nhà xb BasicBooks, 384 trang,
1996), đặt câu hỏi như trên, và đưa ra câu trả lời đại khái là, như
những người
Đức khác, người Do thái mong mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp thay vì tồi
tệ, một
khi Nazi lên nắm quyền. Những người Do thái bảo thủ tin rằng , Nazi có
nghĩa là
chấm dứt sự mất ổn định của những ngày cuối cùng Cộng hòa Weimar, chấm
dứt sự
đe dọa của Cộng sản, và sau đó là một sự trở lại giầu có kinh tế. Những
người
Do thái ái quốc hân hoan với vai trò quốc tế đã được tái lập của nước
Đức, đây
là một trong những mục tiêu của Hitler. Những người bị ám ảnh bởi những
bài
diễn văn hùng hồn bài Do thái của Hitler thì tự an ủi một điều là,
Fuhrer sẽ dễ
dãi, biết điều hơn, với thời gian. Họ đều nghĩ rằng những đe dọa không
thực sự
nhắm vào họ, bởi vì họ tin tưởng chính họ cũng là người Đức.
Kể
lại câu chuyện của
họ, tác giả tập
trung vào 6 người. Sáu
kinh ngiệm ở lại xây dựng nước Đức thay vì rời khỏi. Họ là Richard
Willstatter,
Nobel hóa học; Bella Fromm, phiếm luận gia xã hội tại Berlin;
Hans-Joachim
Schoeps, lãnh đạo thanh niên hữu phái; Robert Weltsch, chủ nhiệm nhật
báo ở
Berlin; Max Waburg, chủ nhà băng, và Leo Baeck, lãnh đạo tôn giáo ở
Berlin. Khi
quyết định ở lại, tuy chỉ là ảo tưởng, nhưng tất cả đều tự đồng hóa họ
với văn
hóa Đức, và cảm nhận về trách nhiệm đối với những người Do thái anh em.
Lạ một
điều, cả 6 người sau cùng đều may mắn trốn đi được, tránh khỏi số phận
bị đưa
vào lò thiêu, như hàng trăm ngàn người khác, đã làm theo họ.
***
Primo
Levi sinh tại
Turin, năm 1919, trong một căn phòng mà
ông dự tính sống ở đó suốt đời, và là nơi ông tự chấm dứt đời mình vào
tháng Tư
1987. Như những cư dân Do-thái ở khu vực này, gia đình ông từ vùng quê
Piedmontese tới Turin từ những thế hệ trước, và đã hội nhập vào cuộc
sống văn
hóa ở đây. Primo Levi lớn lên dưới thời Phát-xít, nhưng chỉ khi đạo
luật sắc
tộc, Race Laws, ra đời (1938), ông mới bị khốn khổ vì nó. Ông theo học
môn hóa
tại đại học Turin nhờ một ông thầy tốt bụng không cần biết đến gốc gác
Do-thái
của người sinh viên.
Tháng
Bẩy 1943,
Mussolini xuống, mọi chuyện thay đổi. Thoạt
đầu, Italy nằm ở giữa hai thế lực quân sự: Đồng Minh chiếm đóng Sicily
và vùng
cực nam, còn người Đức ở phía bắc lúc này chưa có ý định xâm lăng.
Tháng Chín,
lực lượng Ý theo Đức chiếm đóng Pháp "di tản chiến thuật", tràn qua
Turin. "Đoàn quân tan hàng", như Levi gọi.
Theo sau, không thể tránh được, là "con
rắn xanh
xám": những binh đoàn Đức lượn trên đường phố Milan và Turin.
Rất
nhiều Do-thái
cùng thời với Levi ở
Turin đã tham gia lực
lượng kháng chiến từ trước đó, và khi quân Đức xâm lăng, Levi cũng gia
nhập.
Ông trải qua ba tháng cùng lực lượng võ trang ở vùng đồi dưới dẫy Alps,
trước
khi nhóm này bị phản bội, và bị Phát-xít tóm, vào ngày 13 tháng Chạp
năm 1943.
Ông
cung khai căn
cước Do-thái, bị
tống tới trại chuyển tiếp
ở Fossoli di Capri, và sau đó, vào ngày 22 tháng Hai, 1944, bị đưa đi
Auschwitz
cùng với 649 tù nhân Do-thái khác (23 sống sót).
Tới
nơi, ông được
đóng số tù 174517,
và được phân về khu
Auschwitz III-Monowitz. Làm việc trong khu trồng cao su tổng hợp, chủ
nhân là
I.G. Farben nhưng do SS điều hành. Ông ở Auschwitz cho tới khi người
Đức bỏ
chạy vào tháng Giêng 1945, và sau đó được Hồng Quân giải phóng ngày 27
tháng
Giêng 1945. Trôi nổi tới Katowice, thuộc Galicia, qua Byelorussia,
Ukraine,
Romania, Hungary, Austria, Germany, và sau cùng là quê nhà Turin. Cuộc
phiêu
lưu bất đắc dĩ sau được miêu tả trong La tregua (Lại Tỉnh Thức)
Trở
lại quê hương,
ông tiếp tục cuộc
sống đơn điệu,
"một mầu", so với 12 tháng trời "nhiều mầu" trước đó. Chịu
không nổi cơn thôi thúc, ông viết Se questo è un uomo (Đây có phải một
người,
If This is a Man), ghi lại kinh nghiệm của ông tại Auschwitz. Cuốn sách
không
kiếm ra độc giả khi mới xuất hiện vào năm 1947. Primo Levi bỏ viết, lấy
vợ, và
bắt đầu làm cho SIVA, một công ty sơn địa phương, trở thành chuyên viên
có thẩm
quyền quốc tế, về men dây tổng hợp (synthetic wire enamels). Vào năm
1958,
Einaudi, nhà xuất bản có tiếng tăm ở Turin, đã tái bản cuốn sách của
ông; được
bạn bè thân nhân cổ võ nhân thành công nho nhỏ này, Levi viết La
Tregua, những
chương đoạn tiếp theo, được xuất bản vào năm 1963. Trong thập niên kế
đó, thành
công cứ tăng dần, như một nhà văn (as a writer): Il sistema periodico
(The
Periodic Table), La Chiave a stella (The Monkey's Wrench), hai tuyển
tập những
bài viết ngắn; Se non ora, quando? (If Not Now, When?), một tiểu thuyết
về cuộc
kháng chiến của người Do-thái trong thời kỳ chiến tranh ở Âu-châu;
Lilit e
altri racconti (Moments of Reprieve), tuyển tập những hồi nhớ và những
mẩu vẽ
về kinh nghiệm trại tù; một số tiểu luận đa dạng và thơ; viết thường
trực cho
trang văn học của tờ La Stampa, một nhật báo ở Turin. Năm 1975, ông
nghỉ việc ở
SIVA, và dùng hết thì giờ vào việc viết. Cuốn sách cuối của ông I
sommersi e i
salvati (Những kẻ chết đuối và những người được cứu thoát, The Drowned
and The
Saved) được xuất bản năm 1986, một năm trước khi ông tự huỷ mình.
Như
một tưởng niệm
của quê nhà, một
lối đi dưới lá, trước
giáo đường Via Pio V ở Turin, mang tên ông, vào tháng Tư 1996.
Cũng
nên biết qua về
số phận tác phẩm
của Levi. Khi ông đem
Se questo è un uomo tới nhà xuất bản Einaudi vào năm 1946, nó đã bị
"vứt
vào thùng rác" bởi một người đọc (reader) ẩn danh, trong số những người
đọc của nhà xuất bản này (sau người ta biết được, đó là Natalia
Ginzburg; chính
bà này lại thuộc về một gia đình Do-thái nổi tiếng ở Turin). Nhiều năm
sau, ông
chủ nhà xuất bản là Giulio Einaudi thanh minh, ông không hề biết lý do
cuốn
sách bị bỏ vô thùng rác. Bản thân Levi, ông buồn buồn diễn tả, về "một
người đọc không chăm chú". Nên nhớ, vào thời gian này, và vài năm tiếp
theo đó, những địa danh như Bergen-Belsen và Dachau đã đứng thế cho
Auschwitz:
Bị tống xuất, vì chính trị hơn là vì sắc tộc, được nhấn mạnh, và như
vậy dễ
chấp nhận hơn: như là những tổn thất thời chiến của lực lượng kháng
chiến quốc
gia. Cuốn sách in 2,500 do nhà xuất bản địa phương, chủ nhân là một cựu
kháng
chiến (mỉa mai thay, nó nằm trong loạt sách tưởng nhớ những anh hùng
kháng
chiến Do-thái và nhà tuẫn nạn Leone Ginzburg: ông chồng của Natalia ở
trên đã
nói tới). Hầu hết nằm nhấm bụi trong một nhà kho ở Florence, và bị tiêu
hủy
trong trận lụt 20 năm sau đó.
La
Tregua đỡ hẩm hiu
hơn. In tháng Tư
1963, đứng số ba trong
cuộc thi quốc gia trong năm, giải Strega Prize (sau cuốn Lessico
famigliare của
Natalia Ginzburg). Nhưng nhờ vậy, nó làm người đọc lần mò tới cuốn đầu,
và thế
giá Levi tăng dần, đối với cả nước, và giới phê bình. Thế giá "quốc
tế" cũng chầm chậm tăng dần. Bản dịch Se questo... của Stuart Woolf tại
Anh
vào năm 1959, dưới nhan đề If This Is a Man chỉ bán được vài trăm cuốn.
Ấn bản
Mỹ, dưới cái tên Sống sót tại Auschwitz (Survival in Auschwitz) - nắm
được
"diện" (the subject), nhưng mất "điểm" (the point) - bán
lèo tèo cho tới khi The Peridoic Table ăn khách, 20 năm sau đó. Cuốn La
Tregua
xuất bản tại Mỹ có cái tên "lạc quan" Lại Tỉnh Thức (The
Reawakening), trong khi nhan đề tiếng Ý đề nghị hoặc từ Truce (Hưu
chiến), hay
Respite (Giải lao), cuốn sách chấm dứt rõ ràng như vậy, bởi vì những
ngày tháng
lang thang vùng Đông Đức của Levi là một "ngoài-thời" (a kind of
"time out"), giữa Auschwitz-như-kinh nghiệm và Auschwitz-như-hồi nhớ.
Cuốn sách khép lại với tiếng kẻng báo thức, đúng ra là tiếng hô buổi
sáng của
trưởng trại Auschwitz: Thức dậy! (Wstawach!).
Những
bản dịch tiếng
Đức cũng theo
dần, cùng với năm tháng,
và Levi được biết tới ở Cộng Hoà Liên Bang Đức. Nhưng những nhà xuất
bản Pháp
lại tránh né ông, trong nhiều năm. Khi tờ Thời Mới (của Jean-Paul
Sartre) in
những trích đoạn, từ Se questo..., vào tháng Năm 1961, nó đã có nhan
đề: Tôi là
một người (J'étais un homme), gần như đảo ngược ý nghĩa của cuốn sách.
Nhà xuất
bản thế giá nhất của Pháp, Gallimard, trong một thời gian dài, đã cưỡng
lại ý
định mua bất cứ cái gì từ Levi; sau cái chết, tác phẩm và ý nghĩa của
ông mới
được thừa nhận ở Pháp. Nói chung là ở bất cứ nơi đâu, sự quan trọng của
tác
phẩm đầu của ông chỉ được "chiếu rọi", do sự xuất hiện của cuốn cuối,
Những kẻ chết đuối... (The Drowned...). Như đề tài của nó cho thấy,
Primo Levi ít
nhất cũng đã bặt tiếng, trong nhiều năm.
Thật
sự mà nói, Primo
Levi có quá ít,
để được những nhà
chuyên săn tìm tiểu sử chú ý tới. Ông sống một cuộc đời "nhà nghề"
chẳng có gì đặc biệt (một chuyên viên ngành hóa), một cuộc sống riêng
tư
"một mầu". Ông sử dụng những cuốn sách của ông để kể và miêu tả cuộc
đời mà ông đeo đuổi đó. Nếu bạn muốn biết ông đã làm gì, nghĩ gì, ông
cảm nghĩ
ra sao, bạn chỉ phải đọc ông. Như một
hậu quả, bất cứ một kể lại (retelling) "cuộc đời và tác phẩm" sẽ chịu
rủi ro: một cố gắng thất bại tự thân (self-defeating effort) nhằm tái
sắp xếp
và đảo qua đảo lại (paraphrase) những bản viết của ông. Và theo Tony
Judt, trên
tờ The New York Review of Books (May, 20, 1999), đây là thất bại của Bi
kịch
của một người lạc quan, cuốn tiểu sửû mới nhất về Levi của Myriam
Anissimov (bản
Anh ngữ, dịch từ tiếng Pháp, của Steve Cox, nhà xb Overlook, 452 trang,
$37.95). So với bản tiếng Pháp, hoặc tiếng Ý, bản tiếng Anh đã sửa lại
cho
đúng, một số sự kiện, và tuy không hấp dẫn, nhưng đọc được và chứa đựng
nhiều
thông tin hơn. Điều tai hại ở đây là, tác giả cuốn sách đã thất bại
không giải
thích cho độc giả hiểu được một điều: tại sao Primo Levi lại hào hứng
hấp dẫn
đến như thế? Nhưng ít nhiều bà đã cho người đọc nhận ra, Primo Levi
"đứng
được" với "thời gian", như là một thế giá văn chương và hồi ức
về Lò Thiêu: Một người diễu cợt (ironist) và hài hước (humorist) đã đi
lại -
như là một cách chơi - qua những nấc thang âm thanh, đề tài, giọng
điệu...
Primo Levi được trình bầy ở đây: như là một con người lạc quan, một
Do-thái đã
hội nhập vào một người Ý trong cơn đọa đầy ở Auschwitz. Có thể so sánh
với
Dante, bằng cách diễn tả Ulysses - một hình tượng văn chương mà Levi ưa
thích,
và cũng là một hóa thân của ông - như một người lính già trên đường qui
cố
hương kể lại một vài vấn đề khi rong chơi nơi Lò Thiêu.
Levi
có một vài căn
cước. Ông không
bực vì chúng, như một số
nhà phê bình Ý, hoặc một số độc giả thuộc cộng đồng Do-thái ở Mỹ. Ở vị
thế số
một: ông là một người Ý. Và tự hào vì nó. Mặc dù những lỗi lầm của quê
hương,
ông vẫn tự hào: Những ngày này thường có người tỏ ra tủi hổ vì là người
Ý. Thực
ra chúng ta có những lý do tốt đẹp để mà tủi hổ: Trước hết và trên hết,
tủi hổ
vì không có thể sản xuất ra được một giai cấp chính trị đại diện cho
chúng ta;
thay vì vậy lại châm chước cho một giai cấp chính trị dòng dã 30 năm
không đại
diện cho chúng ta. Về mặt khác, chúng ta có những đức tính mà chính
chúng ta
cũng không ngờ tới, và chúng ta lại không nhận ra một điều là, những
đức tính
đó thật hiếm hoi, ở Âu-châu và ở trên thế giới.
Trong bài Bạt khép chương viết nhan đề Ngôn ngữ thoát ra
khỏi Bóng đen, trong cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng, George Steiner kể
chuyện trong
ghetto Warsaw, một em bé ghi vào nhật ký của trại tù: "Tôi đói, tôi
lạnh;
khi tôi lớn, tôi muốn tôi là một người Đức, và như vậy tôi sẽ không còn
đói và
lạnh nữa." Bây giờ tôi (Steiner) muốn viết lại câu đó: "Tôi đói, tôi
lạnh; khi tôi lớn, tôi muốn là một người Đức, và tôi sẽ không đói,
không lạnh
nữa". Và cứ nói câu đó, nói đi nói lại nhiều lần, như một lời cầu
nguyện cho
đứa bé, cho chính tôi. Bởi vì khi câu nói đó được viết ra, tôi được
chăm nuôi,
quá cả yêu cầu của tôi, và tôi ngủ ấm, và tôi câm lặng.
Ba trăm năm sau có ai khóc Tố Như ?
-Anh
coi thường em quá. Oanh ngăn xúc
động dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình. Kiệt trở
giọng giận dữ – Mình là cái quái gì. Anh chỉ mong được mọi người coi
thuờng
anh…
(Thanh Tâm Tuyền, Một Chủ Nhật Khác)
Nabokov,
nhà văn lưu vong người Nga,
viết văn bằng tiếng
Anh, trong một cuộc phỏng vấn, đã tỏ ra bực bội của ông khi thấy thiên
hạ chỉ
biết tới Lolita mà chẳng thèm để ý tới cha sinh mẹ đẻ “cô bé” là ai:
“Lolita
mới nổi tiếng, còn tôi chỉ là một tên tiểu thuyết gia u tối, bội phần u
tối,
với một cái tên thật khó đọc.”
Đây
là nỗi bực chung của “thiên tài”,
theo tôi.
Khi
"Cái Trống Thiếc" ra đời, được
thiên hạ vồ
vập, Guenter Grass cho biết, ông viết nó ở Paris, quận 13, đại lộ
Italie. Ông,
người vợ đầu, Anna, đã sống hạnh phúc tại đó, trong một căn nhà nhỏ
xíu. Họ cho
ra đời một cặp sinh đôi, tại căn nhà nhỏ xíu thêm lên đó. Tuy nhiên ông
biết,
đang nắm một cái gì đó, và tiên cảm được điều này. “Đây là một đề tài
mà tôi đã
tránh néù trong nhiều năm…. nhưng không thể bỏ qua. Vậy là tôi đối đầu
với nó.”
Nguyễn
Du biết trước,
ông sẽ phải đối
đầu với một nàng Kiều.
Có thể ngay từ khi còn là một đứa bé, theo ông anh đi tới trà đình, tửu
quán,
nghe một nàng Kiều nào đó thốt lên lời đau thương, ông đã nhận ra cái
tâm sự
đồng bệnh tương lân giữa nghệ sĩ và nghệ sĩ… Người đời sau tra hỏi,
Nguyễn Du
viết Truyện Kiều khi nào, trước hay sau khi đi sứ, trước hay sau loạn
Tây Sơn…
tôi xin được có “ý kiến ý cò” ở đây: ông viết nó, ngay từ giây phút
bước chân
vào đời, hay nói rõ hơn: ngay từ giây phút bước chân vào một nhà hát ả
đào,
nghe tiếng hát cất lên: “Đời ca hát ngày tháng, cho người mua vui”,
“Sống làm
vợ khắp người ta”…, và “cậu bé” sững sờ tự hỏi: "Phải chăng lời ca của
cô
làm chúng ta bay bổng, hay biết đâu, chính sự lặng ngắt dị thường quấn
quít
quanh sợi tơ, là tiếng hát của cô?" (Josephine the Singer, or Mouse
Folk,
Josephine Nữ Ca sĩ, hay là Dân Chuột. Kafka).
Đâu
có khác nhà tiên
tri, chịu không
thấu gánh nặng mặc
khải: gánh nặng mặc khải của Nguyễn Du, là nàng Kiều; ông biết ông sẽ
phải
đương đầu với “nó”. Và “nó” phải thành công. Và thiên hạ sau này sẽ chỉ
biết
tới “nó”. Ông cầu mong được san sẻ một vài giọt nước mắt, khi thiên hạ
nhỏ
xuống, cho một “ma không chồng”.
“Cuộc
đời trăm năm
rách nát với văn
chương” (thơ chữ Hán,
Nguyễn Du). Đâu khác chi Kafka, khi khẳng định: “Ông Trời ‘năn nỉ’ tôi
đừng
viết nhưng tôi phải viết” ("Dieu ne veut pas que j'écrive, mais moi je
dois"). Nguyễn Du, thời gian “trốn đời, ở ẩn”, khiêm tốn gọi mình là
một
tên thợ săn ở núi Hồng Sơn (tài liệu từ cuốn thơ chữ Hán của Nguyễn Du,
in ấn ở
miền bắc, lọt vào miền nam do ngả Paris, người viết được đọc trước
1975); lúc
này ông già, yếu, đói, bịnh, và đói, nhưng “nhằm nhò chi ba cái lẻ tẻ”,
cuộc
đời trăm năm đã dành cho “mắt xanh” mất rồi, đâu có thời giờ đi kiếm
tiền chữa
bịnh!
Ông
than van, ông cầu
mong; nhưng “bạn
của ông”, nhà văn
người Pháp, Gustave Flaubert, thì không “hiền khô” như vậy: Flaubert đã
từng
phát điên lên, tại sao ‘con điếm’ Bovary cứ sống hoài, trong khi ta nằm
đây,
chết như một con chó ghẻ? (Flaubert cried out against the paradox
whereby he
lay dying like a dog whereas that ‘whore’ Emma Bovary, his creature…
continued
alive. G. Steiner, The Uncommon Reader). Đời đọc tính theo giờ, đời
sách tính
bằng thiên niên kỷ. Pindar là người đầu tiên nhận ra sự trớ trêu này:
Khi thành
phố mà tôi ca ngợi, đã lụi tàn, khi những con người mà tôi hát hỏng, đã
chìm
vào quên lãng, những con chữ của tôi vẫn còn hoài. Đây chính là “sợi
chỉ xuyên
suốt”, khởi từ Horace với khẳng định ‘exegi monumentum’* tới Mallarmé,
với giả
dụ rằng: thế giới hiện hữu là để tiến tới một cuốn sách, cuốn sách sau
cùng,
bản văn vượt thời gian (the final book, the text that transcends time.
George
Steiner).
****
Người
viết có một anh
bạn, mê văn
chương. Mê lắm, nhưng cứ
nay lần, mai lữa, vì còn nhiều việc phải làm. Nào lo cho xong cái nhà,
kiếm mấy
chân hụi cho bà xã để dành tiền lo cho xấp nhỏ… tới lúc rảnh rang, tính
viết
văn, thì phát giác ung thư đã ăn tới tận cổ họng. Văn chương, ở ngay
“làng kế
bên” (The next village, Kafka)* vậy mà cả một cuộc đời dài như thế,
hạnh phúc
như thế, “vưỡn” chẳng nhín ra được một tí thời giờ cần thiết cho nó!
Lại
có một anh, lúc
tre trẻ cũng viết
được một, hai truyện
ngắn, cứ tạm cho là được, vì báo này báo nọ đăng, ông bạn ấy, ông bạn ớ gật gù, “Được, Được!”. Rồi cũng đầu tắt mặt
tối với cuộc nhân sinh cõi người ta, bởi vì “có thực mới vực được đạo”,
bèn
quyết định làm ông…. chủ báo: đây cũng là công việc gạn lọc, ban bố cho
đời
những “thiên tài”!
Lại
có ông cũng đẻ ra
tác phẩm này tác
phẩm nọ, nhưng hình
như không được đời nhắc nhở, khen ngợi, bèn ‘băn khoăn’, không hiểu
mình có để
lại cho đời một cái gì không, không hiểu ba trăm năm sau, thiên hạ ngu
đần có
nhận ra những điều cao cả về “thời đại của chúng ta” được gói ghém ở
trong đó:
ôi chao, ông bạn biết tỏng ra một điều là tác phẩm của mình chỉ đáng
vứt vô
thùng rác. Cũng chính Flaubert, uất ức với con điếm là như thế, mà còn
nhận ra
“chân lý”: Nhà văn phải làm sao cho hậu thế tin rằng, đếch có một thằng
nhà văn
như thế, đã từng có mặt ở trên cõi đời này. Đây chính là một trong
những lý do,
cổ nhân không thèm ký tên dưới tác phẩm của mình. Vô danh thị, vậy là
được rồi.
Lại
có ông, cứ mong
được người đời
phỏng vấn, để giơ hai tay
lên trời, ngửa cổ than: đây là nghiệp của tôi. Ông khác thì nói: tôi mà
không
viết thì ngứa không chịu được. Ôi ngứa thì gãi, nghiệp thì đi cúng giải
oan, đi
chùa bố thí cho hết nghiệp. Đừng để ba trăm năm sau, thiên hạ khóc cho
cả… đất
nước mình!
Ngay
cả khi biết “nó
đây rồi”, rằng ta
đã nắm bắt được chân
lý, ta đang đối đầu với “nó”, cũng hỏng thôi, bạn ơi: hăm hở trả ơn văn
chương,
thì cũng là bội bạc với nó, như trong câu chuyện của Kafka, mà người
viết xin
cống hiến một số trích đoạn sau đây:
Cuộc
xét nghiệm (The
Test)
Tôi
là một người hầu,
nhưng không có
việc làm. Nhút nhát,
lại ít khi tỏ ra hết mình, thực ra tôi chẳng chịu sắp hàng, chen lấn
với người
khác; nhưng đây chỉ là một lý do khiến tôi thất nghiệp; cũng có thể
chẳng có
chi liên can tới chuyện thất nghiệp của tôi, trong bất cứ trường hợp
nào,
chuyện là thế này: chẳng bao giờ người ta gọi tôi đi hầu; những người
khác được
gọi, tuy họ chẳng cố gắng gì hơn tôi, mà thực ra có khi họ còn chẳng
cảm thấy
cái ao ước được gọi, trong khi tôi, ít ra đôi lúc cảm thấy điều này một
cách
thật dữ dội.
Vậy
là tôi nằm dài
trong khu sảnh dành
cho người hầu, ngó
lên chùm ánh sáng trên trần, mơ mơ màng màng, chợt thức, và lại rơi vào
giấc
ngủ. Đôi khi, tôi bước vào quán, nơi người ta bán bia đắng, đôi khi tôi
cũng
nốc nó một cách ghê tởm, nhưng những lần khác, tôi uống nó…
Một
lần tôi vô quán,
một người khách
ngồi ở chỗ tôi hay ngồi
quan sát mọi người. Tôi không dám nhìn ông ta thật gần, và quay mình
tính bỏ
đi. Nhưng người khách gọi giật lại; hóa ra cũng là một người hầu, tôi
có gặp
trước đó, nhưng chưa từng nói chuyện với anh ta.
-Tại
sao anh bỏ chạy?
Hãy ngồi đây làm
một ly. Tôi trả tiền.
Vậy
là tôi ngồi
xuống. Anh hỏi tôi đôi
điều, nhưng tôi không
thể trả lời, thực ra là tôi không hiểu ngay cả những câu hỏi của anh
ta. Thế là
tôi nói: “Có lẽ anh buồn vì anh đã mời tôi, như vậy tôi nên đi thì
hơn”, và tôi
tính đứng dậy. Nhưng anh ta vươn tay qua bàn đẩy tôi ngồi xuống. “Hãy ở
lại”,
anh ta nói, “đây chỉ là một cuộc xét nghiệm. Kẻ nào không trả lời những
câu
hỏi, là qua được cuộc xét nghiệm”.
Chú
thích: Exegi
monument aere
perennius (Horace, Odes III.
xxx.1): I have built a monument more lasting than bronze. Đây là nhà
thơ tự hào
về sự trường tồn của thơ ca của mình.
*
Làng kế bên.
Nội
tôi thường nói:
“Đời vắn chi đâu.
Như nội đây, nhìn lại
nó, thấy đời như co rút lại, thành thử nội không hiểu nổi, thí dụ như
chuyện
này: bỏ qua chuyện tai nạn, làm sao một người trẻ tuổi có thể quyết tâm
rong
ruổi sang làng kế bên, mà không e ngại, một đời thọ như thế, hạnh phúc
như thế,
cũng không đủ thời gian cần thiết cho một chuyến đi như vậy.”
Bản
tiếng Anh: The
next village.
My
grandfather used
to say: “Life is
astoundingly short. To
me, looking back over it, life seems so foreshorthened that I scarcely
understand, for instance, how a young man can decide to ride over to
the next
village without being afraid that – not to mention accidents – even the
span of
a normal happy life may fall far short of time needed for such a
journey”.
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Người
ta thường cho
rằng, Nguyễn Du đã
“khiêm tốn” khi kết
thúc tác phẩm của mình, bằng một câu như trên.
Chúng
ta có thể tự
hỏi, một người để
cho nhân vật của mình
nói giùm, “anh hùng đoán giữa trần ai mới già”, “dọc ngang nào biết
trên đầu có
ai”, một người tự hào về một cuộc đời “trăm năm rách nát với văn
chương”, nếu
người đó cần phải tỏ ra khiêm tốn, chắc là ở chỗ khác, trường hợp khác,
nhưng ở
chỗ “nhân gian không thể hiểu” này, ông chẳng cần phải khiêm tốn làm
chi cho
mệt cái mình!
Nói
gần nói xa, chẳng
qua nói thẳng:
mua vui chính là “chân
lý” của văn chương. Nhà văn là một kẻ mua vui cho thiên hạ. Một thứ
“enchanter”, một thứ ảo thuật gia. Một anh chàng quá buồn, nên vui bằng
nỗi vui
của thiên hạ, qua những trò phù thuỷ giải buồn “của mình”.
Theo
nghĩa đó,
George. Steiner, trong
một cuộc phỏng vấn, đã
nói về niềm vui lớn lao, “rằng 20 ngàn ngôn ngữ mà con người bịa đặt ra
là
những phương thức đáp ứng nhằm thoát ra
khỏi cõi đơn điệu là cuộc sống, mỗi ngôn ngữ cho bạn một viễn ảnh khác
biệt về
thế giới.” Khi được hỏi, có khi nào không phải “người viết sách”, màø
“sách
viết người”, ông cho biết đã gặp trường hợp như vậy, thí dụ như năm
hoặc sáu
trang trong cuốn Sau Babel: những gì chưa từng có ai nói ra, và cũng
chưa từng
có người nào đồng ý. Đoạn cuối cuốn Antigones cũng là do chính cuốn
sách tự
viết. Nhưng toàn cuốn, có thể là The Portage.
Theo
nghĩa đó, chúng
ta có thể nói,
không phải Nguyễn Du bịa
đặt ra nàng Kiều, mà nàng Kiều bịa đặt ra Nguyễn Du. Và những điều chưa
từng có
ai nói ra, ở Truyện Kiều chính là: mua vui cũng được một vài trống canh.
Tại
sao vậy?
Hãy
nhớ lại quan niệm
văn dĩ tải đạo.
Quan niệm người quân
tử buồn trước cái buồn của thiên hạ (cũng được đi!), vui sau cái vui
của thiên
hạ (cái này thì không được!). Quan niệm, người quân tử không được để lộ
cho
người đời thấy những khí ô trọc từ người mình toát ra! (Hãy nhớ những
bài thơ
vịnh “cái rắm” trong chuyện dân gian, hãy nhớ lại bà dân biểu “nín tè”
của nền
chính trị VNCH…). Không được “ngáp” giữa công chúng (về nhà mà ngáp!)…
Nói
theo Steiner, câu
“mua vui cũng
được một vài trống
canh”, là do cô Kiều nói, thay cho Nguyễn Du, về thân phận nghiệt ngã
của mình:
Đời ca hát ngày tháng, cho người mua vui.
Đây
là thân phận
nghiệt ngã của người
nghệ sĩ. Của nhà văn,
tiểu thuyết gia đúng hơn, như một kẻ làm trò ảo thuật, mua vui cho
thiên hạ.
Nếu
không biết cách
làm cho thiên hạ
vui, xin hãy kiếm việc
khác mà làm, đừng làm nhà văn, cho mệt mình… độc giả!
Trong
bài giới thiệu
cuốn Littératures
I, nhà văn người Mỹ,
John Updike kể về những buổi giảng văn chương của Nabokov: ông như muốn
truyền
hết dòng điện đam mê từ con người của ông qua sinh viên. Bà vợ của
Updike, một
sinh viên của Nabokov, đã “mang cả cơn sốt đến lớp học, và khi tan lớp,
chạy
vội tới tiệm thuốc”. Một sinh viên khác nhớ lại buổi mở đầu một khóa
giảng, ông
thầy nói: “Những ghế ngồi đều có đánh số. Hãy chọn cho mình một chỗ, để
tôi
thấy được sự liên hệ giữa những con số và khuôn mặt của các bạn… Cấm
nói
chuyện, hút thuốc, đan áo, đọc báo, ngủ, và lạy trời, xin ghi ‘nốt’
(pour
l’amour du ciel, prenez des notes). Trong kỳ thi sát hạch: “… trừ khi
có giấy
xác nhận của bác sĩ, cấm đi tiểu”.
Như
Từ Hải nhận ra
Kiều ở giữa chốn
chợ buôn người; như
Nabokov, Nguyễn Du nhận ra cái hố thẳm, giữa thực tại và nghệ thuật,
giữa “quân
tử” và “nghệ sĩ”. Ông từ chối vai trò người quân tử, hoặc chỉ chấp nhận
nó,
trong “đời thường”. Một cách nào đó, ông không bắt buộc văn chương làm
cái công
việc nặng nhọc là tải đạo. Một cách nào đó, ông nhận ra chính cái đẹp
của thân
thể con người mới là điều đáng ca ngợi, tôn thờ. (Rõ ràng trong ngọc
trắng ngà…
một toà thiên nhiên). Tuy dọc ngang nào biết trên đầu có ai, nhưng ông
không
đến nỗi ‘ngang ngược’, như Nabokov, khi khẳng định, “khá nhiều tác giả
tuy nổi
tiếng nhưng chưa từng hiện hữu dưới mắt tôi. Tên của họ được khắc trên
những
nấm mồ trống trơn, những cuốn sách của họ chỉ là những cái bìa trống
rỗng…”
(“Nombre d’auteurs reconnus sont tout bonnement inexistants à mes yeux.
Leurs
noms sont gravés sur des tombes vides, leurs livres ne sont que des
couvertures
vides…”). Nhưng chắc chắn, ông gật gù khi nghe Nabokov nói, “Đây là
chân lý: những
cuốn tiểu thuyết lớn là những câu chuyện thần tiên lớn” (La vérité est
que les
grands romans sont de grands contes de fée).
Liệu
có thể gọi
Truyện Kiều: câu
chuyện về một nàng tiên bị
đọa đầy xuống trần gian, làm một giọng ca, giữa chợ buôn người?…
Trong
bài mở đầu cuốn
tiểu luận về văn
chương Littératures
I, “Độc giả tốt và nhà văn tốt”, Nabokov viết:
"Văn
chương không
sinh ra vào cái ngày
mà một chú bé hớt hơ
hớt hải chạy từ một thung lũng ra bên ngoài, la bai bải, ‘chó sói, chó
sói’, và
đằng sau chú là một con sói chạy bén gót; văn chương bắt đầu khi cậu bé
la,
‘chó sói, chó sói’ và đằng sau chú, chẳng có một con sói nào. Chuyện
chú bé nói
láo, rồi sau đó bị sói ăn thịt, ở đây chỉ là phụ thuộc. Điều quan trọng
là giữa
chú sói ở một góc rừng và chú sói ở góc trang sách, có một mắt xích
long lanh.
Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn chương.”
“Văn
chương là bịa
đặt (invention).
Giả tưởng là giả tưởng.
Gọi một câu chuyện (là) ‘chuyện thực’ là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự
thực.
Tất cả nhà văn lớn đều là những nhà ảo thuật gia lớn, nhưng Thiên Nhiên
chính
là một tổ sư đại bịp. Thiên Nhiên luôn luôn đánh lừa, từ một trò bịp
bợm giản
dị về tái tạo (de la simple supercherie), tới chuyện mà con mắt tuyệt
vời, đa
đoan phức tạp trong những công trình nhái đi nhái lại nhằm bảo vệ loài
bướm,
loài chim… Nhà văn của giả tưởng chỉ việc đi theo con đường mà Thiên
Nhiên đã
vạch ra.”
Bắt
chước. Tái tạo.
Mà con mắt người
ta bằng ba trò ảo
thuật. Sáng tạo chỉ có nghĩa là lập lại?
Có
người cho rằng
Nguyễn Du đâu có
sáng tạo, mà là “ăn cắp”
Tầu. Khi túng, mượn đỡ Thanh Tâm Tài Nhân.
Ăn
cắp, đạo văn… là
những từ nặng nề.
Nhưng Picasso xúi: cứ
việc ăn cắp, và hỏi lại: bạn có gì không, để cho tôi ăn cắp? Một ông
nhà văn
khác, (tôi quên mất tên) nói thẳng: chỉ có những bậc đại gia mới lấy đồ
trong
túi người khác như móc từ túi của mình, nói rõ hơn, chỉ những thiên tài
mới
biết ăn cắp. Còn hạng thường nhân chúng ta, chỉ biết
bắt chước, mô phỏng, nhái đi nhái lại
(imiter).
Những
người coi văn
chương là cao quí,
là nói về sự thực,
làm hiển hiện chân lý chắc buồn khi tôi rẻ rúng văn chương, chỉ là
chuyện mua
vui cũng được một vài trống canh… Họ có thể tự hỏi: Chẳng lẽ trong văn
chương,
không có một chỗ dành cho… hiện thực?
Có,
có. Như chúng ta
đã biết, Lão Tôn
khoe với Đức Phật, ta
có 72 phép thần thông, trong đó có phép “câu đẩu vân”, chớp mắt ở đây,
chớp mắt
đã cách đây hàng ngàn dặm. Hiện thực ở trong văn chương, chính là dấu
vết mà
Tôn Ngộ Không để lại, trên bàn tay Đức Phật, sau khi đã đi khắp ta bà
thế giới,
với trí tưởng tượng của một nhà văn.
Hãy
trở lại với chú
nhỏ và con sói của
chú. Chúng ta có thể
tóm tắt câu chuyện như sau: điều huyền diệu của nghệ thuật nằm ở trong
cái bóng
của con sói mà chú bé bịa đặt ra, trong giấc mơ của chú về chó sói… (la
magie
de l’art était dans l’ombre du loup qu’il a délibrément inventé, dans
son rêve
du loup.)
Sau
cùng chú bé chết,
câu chuyện về
chú trở thành một bài
học bên những đống lửa trại. Nhưng nhà ảo thuật tí hon, chính là chú.
Nhà phát
kiến (l’inventeur), chính là chú.
Updike
nói về chú bé:
Đứa trẻ trở
thành một vết thương nhức
nhối cho bộ lạc, và bộ lạc bỏ mặc cho nó chết.
Còn
cái chết nào đau
thương cho Nguyễn
Du hơn là cái chết
“hoài Lê”?
Anne Frank, một ghi
nhận.
Trong
một câu chuyện
người viết đọc đã lâu, chẳng còn nhớ
gì, ngoại trừ một vài chi tiết: một cháu nhỏ bị bệnh, phải nằm nhà
thương một
thời gian dài. Cháu năn nỉ xin được nằm ở một giường bên cạnh cửa sổ,
nhìn
xuống đại lộ của một thành phố lớn. Và cháu lấy những mảnh giấy nhỏ,
làm những
cánh diều thả xuống đường. Bay theo cùng với những cánh diều đó, là
những ước
mơ, những chuyện vụn vặt xẩy ra trong ngày, bên cạnh, chung quanh cháu…
tận
cùng bằng lời nhắn nhủ: hãy viết thư cho tôi nhé!
Thế
rồi giường cháu tràn ngập những
cánh diều boomerangs,
cùng với những lời chúc tốt lành: hãy mau chóng khỏi bệnh, ra ngoài này
chơi
với chúng tôi…
Nhật
kýù của Anne Frank cũng là một
trường hợp tương tự.
Mặc
dù ngày càng quan tâm tới bè bạn,
cô vẫn mê đọc sách.
Vào lúc 12 cho tới khi 14 tuổi, một trong những tác giả cô bé thích là
Cissy
van Marxveldt, một nhà văn Hòa Lan, đã viết nhiều cuốn sách cho lứa
tuổi vị
thành niên vào thập niên 1920. Cô mê nhất, Joop ter Heul, một cuốn tiểu
thuyết-chuỗi (a serial novel) gồm bốn
tập. Anne nhập vào Joop, nữ nhân vật chính với cái tên con trai nhưng
dần dần
trở thành một người đàn bà trẻ, theo dòng chuyện. Joop giống như Anne,
có nhiều
bạn gái. Joop cũng có những bạn bè qua thư từ, như Anne. Nhưng khi gia
đình
phải ẩn trốn trong cuộc chơi hú tìm với đám Nazi, cha cô cấm cô viết
thư.
Cô
viết về căn nhà phụ bí mật (the
secret annex): Ở nhà, tôi
không thể nghĩ, có một ngày, tôi phải dùng cầu tiểu làm nhà tắm, nhưng
cũng chẳng
tệ hại gì lắm đâu, bởi vì có thể, một ngày nào tôi phải sống ở đó nữa…
Thật là
còn may mắn, đây là một thiên đàng so với cuộc sống của bao nhiêu người
Do Thái
khác không kịp trốn.
Một
cô bé luôn luôn
tò mò, mê bè bạn,
mê đọc sách, mê phiêu
lưu, phải từ giã thiên đường trẻ thơ; trong cái chuồng nhỏ bé mới mẻ là
nơi ẩn
trốn đó, mỗi ngày là một ngày tiếp theo. Thiếu khoảng không, nhưng lại
quá dư
thời giờ. Cô không thể la thét, hát hỏng, hay khóc lóc khi mà cô muốn,
“chung
quanh tôi là một trống trơn” (I am surrounded by too great a void).
Nhật
ký là món đồ đầu
tiên cô mang
theo tới chỗ ẩn trốn. Như
thể cô biết trước, nó sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chơi
‘chết
người’: đối đầu với cái ác. Tuy nhiên, phải hai tháng sau đó, cô mới
bắt đầu
viết một cách đều đặn. Và có ý định, mỗi dòng mở ra như một “thư gửi
bạn”: “Tôi
chỉ mê được trao đổi với một người nào đó, và đó là điều tôi muốn làm,
trong
tương lai, với nhật ký của tôi.
Cô
bé gần như viết
nhật ký mỗi ngày.
Cho những bè bạn tưởng
tượng. Về những gì xẩy ra chung quanh cô, ở trong đầu cô, ở một chốn
nhân gian
bé tí đó. Với họ, cô có thể cười to, khóc lớn, quên nỗi trơ trọi. Tất
cả những
bạn gái tưởng tượng (cô không hề viết cho một bạn trai tưởng tượng),
đều là từ
cuốn truyện Joop ter Heul của Cissy van Marxveldt. Nhưng cô không viết
thư cho
nhân vật chính Joop – cô này cũng giữ một nhật ký – có thể vì cô cảm
thấy “cô
bé đó” là một nguyên mẫu cho một loạt nhân vật.
Cuốn
nhật ký, khi
được xuất bản vào
năm 1947 có tên là Het
Achterhuis (Căn nhà Đằng Sau, The House Behind), và ấn bản tiếng Anh có
tên là
Anne Frank: Nhật ký của một Cô Gái Trẻ.
Cô
bé tự coi mình là
một người lớn,
hay ít ra cũng đủ trưởng
thành, để có cùng một tiếng nói với những người khác, cùng “điều hành”
cõi nhân
gian nhỏ xíu đó. Nhưng trong cõi tưởng tượng, giữa những bạn bè tưởng
tượng đã
trrưởng thành kia, cô là một đứa bé, và rất “ưu tư” về chuyện được đối
xử như
là một đứa bé. Anne cảm thấy người lớn chung quanh cô không coi trọng
những ý
nghĩ của cô. Cô bé nghĩ, cô có cùng bổn phận, trách nhiệm như họ, nhưng
không
có cùng quyền hạn (rights). Chính những cảm nghĩ về sự bất bình đẳng đã
làm cô
có vấn đề với bà mẹ và những người quanh cô.
Sau
đây là trích
đoạn, từ một ghi nhận
của Miep Giesi, người
đã trông nom, che chở cho cả gia đình Anne, trong những ngày ẩn trốn,
và cũng
là người đã phát giác ra tập nhật ký, khi thu dọn “thiên đàng”, sau khi
họ đã
bị bắt.
Trên
năm mươi năm
rồi, kể từ khi tập
nhật ký được xuất bản,
tôi cứ bị hỏi đi hỏi lại nhiều lần, tôi kiếm ở đâu ra can đảm giúp đỡ
gia đình
Franks. Câu hỏi này, đôi lúc được hỏi với sự thán phục, đôi lúc, với
nghi ngờ,
nó luôn luôn làm tôi khó chịu. Vâng, lẽ dĩ nhiên, phải có can đảm mới
làm một
chuyện như thế, khi coi đó là bổn phận, của một con người. Vâng lẽ dĩ
nhiên, người
ta sinh ra đời là để sửa soạn làm những điều hy sinh như vậy. Điều đó
là thực,
trong rất nhiều hoàn cảnh của con người.
Nhưng
rồi, tôi tự hỏi
chính mình, tại
sao người ta lại hỏi
một câu như thế? Tại sao có rất nhiều người ngần ngại khi phải giúp đỡ
đồng
loại?
Phải
thật lâu tôi mới
hiểu ra điều này.
Hầu
hết trẻ con, được
cha mẹ giảng
dậy, từ khi còn nhỏ: “Nếu
con tốt và biết nghe lời, sau này con sẽ được hạnh phúc”. “Phản đề” của
triết
lý đó, là: Bất cứ một con người nào gặp ‘trouble’ trong đời, kẻ đó chắc
chắn đã
cứng đầu, và đã làm nhiều ‘lỡ lầm’.
Tôi
may mắn, được
biết rất sớm sủa một
điều là: người ta
chẳng hề làm một điều gì xấu, và vẫn có thể gặp nhiều nỗi chuân chuyên
trong
đời. Tôi sinh ra tại Vienna, và được 5 tuổi, khi xẩy ra Cuộc Chiến Lớn
I. Mẹ
tôi rất hài lòng về tôi. Khi 9 tuổi, tôi không khi nào được ăn no. Tôi
vẫn còn
nhớ rõ cái đói dầy vò tôi như thế nào. Và tôi cũng chẳng bao giờ quên
được nỗi
đau (the shock), khi cha mẹ tôi phải gửi tôi đi Hoà Lan, qua một cơ
quan thiện
nguyện giúp cho trẻ con khỏi chết đói. Cha mẹ tôi đâu có cách nào khác,
nhưng
mãi sau này tôi mới hiểu được. Tôi lúc đó, chỉ còn da bọc xương, lại
còn thêm
bệnh phổi. Tôi đã làm điều gì không tốt, để phải chịu hậu quả như thế,
đứa bé ở
trong tôi khăng khăng tự hỏi?
Vậy
là từ khi 11 tuổi
tôi đã nhanh
chóng hiểu ra rằng, con
người có thể gặp khó khăn, dù chẳng có lỗi gì ráo. Tôi nhìn hoạn nạn
của dân Do
Thái, nhìn Lò Thiêu, từ kinh nghiệm trẻ thơ đó.
Ngay
cả bây giờ, vẫn
có những người
trẻ tuổi nói với tôi
rằng, họ không thể tin, rằng Hitler đã giết sáu triệu dân Do Thái mà
“chẳng có
lý do gì hết”. Và tôi kể cho những người trẻ tuổi đó, về Anne, và hỏi
họ, cô
gái trẻ đó có thể nhận ra rằng cô chưa hề làm một điều gì sai quấy, để
phải
chịu số phận thê thảm như vậy.
-Ô,
lẽ dĩ nhiên. Anne
Frank thì thơ
ngây vô tội (innocent).
-
Cô thơ ngây vô tội
đúng như sáu triệu
người kia, tôi trả
lời.
Melissa
Muller, tác
giả cuốn “Anne
Frank, tiểu sử” (Anne
Frank, the biography, nguyên bản tiếng Đức, 1998; bản dịch tiếng Anh
của Rita
và Robert Kimber, nhà xb Henry Holt and Company, NY; ấn bản Canada của
nhà xb
Fitzhenry & Whiteside Ltd), là một nữ ký giả hiện đang sống ở
Munich và
Vienna. Theo người điểm sách của tờ Time, Muller đã tôn trọng huyền
thoại [về
Anne], nhưng bà đã làm một điều tuy quá trễ cho nên thật cần phải làm:
Bà cứu
Anne Frank ra khỏi vai trò thần tượng, biểu tượng, và trả lại cho nhân
loại một
Anne Frank bằng xương bằng thịt. Miep Gies, vị phúc thần của Anne, đã
nhân dịp
xuất bản cuốn tiểu sử để đưa ra một ghi nhận về Anne, như trên. Bà nói
thêm:
Tôi
muốn nhân dịp này
để làm sáng tỏ
một điều vẫn thường
được hiểu sai. Người ta thường nói Anne biểu tượng sáu triệu nạn nhân
Lò Thiêu
(Anne symbolizes the six millions victims of the Holocaust). Tôi nghĩ
một phát
biểu như vậy là không đúng (wrong). Cuộc đời và cái chết của Anne, là
của riêng
cô: một số mệnh cá nhân; một số phận cá nhân đã xẩy ra sáu triệu lần.
Anne
không thể, và không nên để cho cô đứng đại diện cho biết bao nhiêu cá
nhân con
người mà đám Nazi đã lấy đi mạng sống của họ. Mỗi nạn nhân có một chỗ
đứng độc
nhất của riêng họ ở trên thế giới, và trong trái tim của thân quyến và
bạn bè
của người đó.
Tôi
rất đau buồn vì
không cứu được
mạng sống của Anne. Nhưng
tôi đã có thể giúp cô sống thêm được hai năm trời. Trong hai năm đó, cô
viết
tập nhật ký đem hy vọng cho những con người trên khắp thế giới, và kêu
gọi sự
hiểu biết và bao dung. Điều này làm cho tôi tin tưởng: rằng hành động
thì tốt
hơn là bất động. Một toan tính [đưa đến hành động] có thể sai lầm (an
attempt
‘can’ go wrong), nhưng khoanh tay không làm gì hết chắc chắn chỉ đưa
đến thất
bại.
Bà
nhắc lại một ước
mơ của Anne: “Bà
biết từ lâu, mong ước
lớn lao nhất của tôi là một ngày nào đó, trở thành một ký giả, và sau
đó, một
nhà văn nổi tiếng”.
***
Trong
chương 9, và
cũng là chương chót
Những Di chúc bị Phản
bội, Kundera bàn về một sự thô bạo trong thế giới văn chương: vấn đề
cắt xén,
vặn vẹo tác phẩm, ngay từ khi tác giả còn sống, và lẽ dĩ nhiên, càng
trở nên
thô bạo hơn, khi họ đã chết rồi.
Ông
kể chuyện, vào
cuối đời,
Stravinsky quyết định tự trình
diễn, như một tay dương cầm, hay một nhạc trưởng, toàn bộ âm nhạc của
ông. Và
bị chế diễu thậm tệ: khi Stravinsky trình diễn qua vai nhạc trưởng, ông
ta
khiếp đảm đến độ, mắt dán vào nốt nhạc, tuy đã thuộc lòng. Và tính giờ.
Mọi
nguồn vui rời bỏ ông!
Kundera
tự hỏi tại
sao, và ông tìm
được câu trả lời, khi
nghiên cứu 146 bức thư, của Stravinsky gửi cho Ernest Ansermet (người
chế
diễu), khởi sự năm 1914: My dear Ansernet, My dear fellow, My dear
friend, Very
dear, My dear Ernest, rồi bất thình lình: "Paris Oct 14, 1937, Rất vội,
bạn thân của tôi. Tuyệt đối không có bất cứ một lý do gì cắt xén Chơi
Bài (Jeu
de cartes) khi trình diễn... Cá nhân bạn cảm thấy một vài động tác hơi
ngán
ngẩm (boring). Về chuyện đó, tôi chịu thua. Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng
khi bạn
cố thuyết phục tôi về vụ cắt xén; tôi, người đã trình diễn nó tại
Venice, và
cũng đã cho bạn biết về sự hứng khởi của khán thính giả... Tôi thực sự
không
tin khán thính giả của bạn kém thông minh, so với ở Venice. Nghĩ rằng
bạn có
thiện ý, khi muốn co dãn để công chúng dễ hiểu hơn: Bạn, người đã từng
can đảm
chơi một danh tác đầy rủi ro như Giao Hưởng Đàn Gió (Symphonies of Wind
Instruments);
khi khăng khăng cho rằng nó phải thành công, và công chúng thừa sức để
thông
cảm! Bởi vậy tôi không để cho bạn cắt xén "Jeu de cartes". Tôi nghĩ,
tốt nhất đừng chơi nó gì hết, còn hơn là với sự dè dặt! Tôi không còn
gì để
thêm. Chấm hết!
Ngày
15, tháng Mười,
bạn trả lời: "Tôi
chỉ xin bạn tha
lỗi cho tôi, về một cắt xén nho nhỏ..." "I
am sorry, nhưng không cho phép bạn về bất cứ một
cắt xén nào
trong Jeu de cartes... Bạn ơi, đây đâu phải nhà của bạn."
Samuel
Beckett có lẽ
vô địch, trong nỗ
lực bảo vệ nghệ phẩm:
ông theo dõi từng chi tiết, ngay cả khi tập dượt, và nhiều lần nhẩy lên
sàn
tập, để tự tay điều khiển diễn viên. Rồi in cả một cuốn sách, những ghi
chú
trình diễn Tàn Cuộc (Endgame). Bạn ông, và là nhà xuất bản đứng coi
thiên hạ
trình diễn, nếu cần đưa ra tòa, để bảo vệ tác phẩm, sau khi ông đã chết.
Kafka
gửi bản thảo
Hoá Thân tới một tờ
báo. Ông chủ, nhà văn
Robert Musil, bằng lòng in, với điều kiện tác giả rút ngắn lại. (Buồn
thật, hai
thiên tài văn chương bàn chuyện in ấn, xuất bản tác phẩm văn học!). Trả
lời của
Kafka, cũng nguyên tắc, và cũng lạnh lùng như Stravinsky: Tôi chịu được
chuyện
bỏ vô thùng rác, nhưng không thể chịu nổi việc in, mà cắt xén, xẻ thịt
nó! Ông
không được may mắn như Stravinsky, hay Beckett. Và điều này một phần
lớn, là do
Max Brod, người theo truyền thuyết, vì nhân loại, đã phản bội di chúc
của
Kafka. Theo Kundera, Max Brod tuy yêu bạn, cố gắng hiểu bạn, đưa bạn ra
ánh
sáng, tạo nên cả một môn học Kafkology, nhưng chính ông là người xa lạ
nhất với
nghệ thuật của Kafka.
Thật
dễ dàng khi
không vâng lời một
người đã chết. Càng dễ
dàng hơn, khi người chết là một nạn nhân của Lò Thiêu, một cô bé, lại
là con
gái của một ông bố: trường hợp Anne Frank.
Nếu
Anne Frank không
mất tại trại tập
trung vào năm 1945, cô
ăn mừng lễ sinh nhật 68 tuổi vào tháng Sáu vừa qua (1996). Và nếu cô
không giữ
tập nhật ký khác thường, qua đó, chúng ta có thể coi cô là một trong
những nhà
văn nổi tiếng của thế kỷ - cho dù vậy, số phận của cô cũng không quá
sức bi
đát, như là bây giờ, sau những khám phá mới nhất về cô.
Cô
sinh ra để là một
nhà văn. Vào năm
13 tuổi, cô đã cảm
thấy quyền năng này; tới 15, cô điều khiển được nó. Nếu cô được phép
sống, thật
dễ dàng khi tưởng tượng, biết bao nhiêu tiểu thuyết, khảo luận, từ cái
nguồn
giầu sang, từ ngòi bút lưu loát, chín mùi chữ nghĩa đó. Người ta cũng
thấy được
những tác phẩm chẳng bao giờ có được đó, sẽ gần gụi với Nadine
Gordimer, Nobel
văn chương, hơn là Francois Sagan. Cô bé la lên, vào mùa xuân năm 1944:
"Ta muốn tiếp tục sống, ngay cả sau cái chết của ta!" (I want to go
on living even after my death!)
Ở
đây không phải là
tình trạng hưng
phấn thái quá của tuổi
trẻ. Bằng trực giác cô đã nhận ra, sự lớn lao của nghệ thuật nghĩa là
gì. Và
cũng đã nhận ra sức mạnh văn chương nằm bên dưới bàn tay của cô, trong
những
trang nhật ký: một ghi nhận văn học về những cuộc sống hãi hùng trong
hiểm họa
thường nhật; một tài liệu nóng bỏng nhắm thẳng tới tương lai. Vào những
tháng
cuối cùng, cô miệt mài rũa gọt, thêm thắt, cắt xén một số đoạn, với hy
vọng in
nó sau chiến tranh. Cô gọi bản thảo của cô là Het Achterhuis, tiếng Đức
có
nghĩa là "căn nhà phía sau", nhưng thường được dịch là "căn nhà
phụ bí mật", và không đúng như ý của cô, qua tác phẩm. Nó liên can đến
lịch
sử, tới thực tại, tới sự thực chết người. "Khi tôi viết", cô tâm sự,
"tôi có thể rũ sạch mọi lo toan. Sự phiền muộn biến mất, tinh anh tôi
sống
lại!" Nhưng cô không thể rũ bỏ sự tù tội, sự huỷ diệt, của mình.
Anne
Frank bị bắt và
đưa vào trại tập
trung cùng với chị và
mẹ như hàng triệu con người. Tất cả bị huỷ diệt, qua một chương trình
đã được
tính toán để bảo đảm sự thoái hóa độc ác nhất, mới mẻ nhất, quỷ ma nhất
của con
người. Cô thuộc trong số được chỉ định để bị huỷ diệt, xóa sạch khỏi
cuộc đời, không
để lại mộ chí, không một ký hiệu, không một dấu vết, bất kể loại gì.
Lỗi của cô
- tội ác của cô, là người Do thái, và như vậy cô bị xếp vào trong những
kẻ
không có quyền được hiện hữu, không còn là một vấn đề người, không được
như một
giống dân hạ cấp, ngay cả làm nô lệ cũng không luôn. Thoát bị đưa vô
phòng hơi
ngạt, cô chết vì bệnh ban đỏ (bệnh chấy rận), một tháng trước khi giải
phóng.
Nhật
ký, cho dù thế
nào cũng không thể
coi là câu chuyện của
Anne Frank. Không nên gọi, một câu chuyện là một câu chuyện, nếu phần
cuối bị
mất. Và bởi vì phần cuối bị mất cho nên câu chuyện của Anne Frank trong
vòng 50
năm, kể từ khi "Nhật Ký của một Cô Gái Trẻ" lần đầu tiên được in ra,
đã bị vặn vẹo, cắt xén, chuyển hoá, dịch thuật, gia giảm, giả mạo, trẻ
con hóa,
ngây thơ hóa, Mỹ hoá, đồng nhất hóa, cảm tính hoá... và sự thực, đã bị
chối bỏ,
một cách thật thô lỗ. Trong số những người làm giả gồm có những nhà bi
kịch,
những ông giám đốc, những nhà dịch thuật, ông bố của Anne Frank, và
ngay cả
công chúng, kể luôn cả những độc giả, những khán giả phim ảnh, kịch
nghệ, trên
toàn cõi địa cầu. Một tác- phẩm-kể-sự-thực thật sâu xa đã biến thành
một dụng
cụ để nói lên một phần sự thực, một phản sự thực. Gần như mọi bàn tay
đụng vào
tập nhật ký, với một thiện ý in nó ra, đều đã góp phần làm chuyện bậy,
đảo
ngược lịch sử.
Nhật
ký được coi như
một tài liệu về
Lò Thiêu. Điều quan
trọng cần nói, là nó không phải như vậy. Gần như bản in nào cũng choàng
cho nó
những vòng hoa, đại khái "ca khúc của đời sống", "sự vui thích
buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của con người". Có một sự chế diễu,
trò
hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật ký chưa hoàn tất, hoặc đã được hoàn
tất bởi
những nơi chốn khủng khiếp: Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Hòa Lan,
nơi
những người Do thái Hòa-lan bị tống xuất từ đó; Auschwitz; hay bởi
những ngọn
gió tàn khốc của Bergen-Belsen. Chính tại đây, không phải tại "căn nhà
phụ
bí mật", những tội ác mà chúng ta gọi là Holocaust đã xẩy ra. Ghi nhận
của
chúng ta là những cột con số, những danh sách tỉ mỉ những chuyến tống
xuất
trong những dòng chữ viết tay của những thủ thư đẹp trai; những cuốn
sách
chuyển hàng. Có thể Anne Frank đã được chuyển tới Auschwitz vào đêm
Sept 6,
1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke" (mẩu). Trong đêm
đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một người trong nhóm Frank, và
tất cả
trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28
tháng
Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong vòng hai
giờ, khi
họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào
tháng 11,
đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng ngạt, và phá huỷ lò thiêu.
Cả chục
ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều
người bị
bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne
được
chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ
xương, trần
trụi dưới một đống rẻ rách.
Đến
với nhật ký mà bỏ
qua những Đêm,
của Elie Wiesel, hay
Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi (chỉ
nhắc tới
hai chứng nhân), hay những cột con số, những chuyến hàng, những thuật
ngữ như
"mẩu"... thì đúng là tự cho phép mình được quyền ngây thơ một cách
xấu xa, không thể tin được! Những ngợi
ca theo kiểu "bản chúc thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị huỷ
diệt
của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn của can đảm và
hứng khởi"... sự thực chỉ là những trò ru ngủ. Sự thành công, chiến
thắng,
của Bergen-Belsen, chính là nó đã thổi sạch, cái gọi là khả tính can
đảm, nó
cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân loại, và đây là bản di
chúc lâu
dài của nó.
"Hier
ist kein
Warum", một lính gác ở
Auschwitz đã
cảnh cáo: ở đây không có "tại sao", không câu hỏi, không câu trả lời,
chỉ là một mầu u tối của không-lý lẽ (unreason). Câu chuyện của Anne
Frank,
được kể lại, rất thực, là không cứu chuộc, không thể cứu chuộc. Và đó
là thông
điệp của Anne Frank.
Chúng
ta đều chui ra từ “Chiếc Áo Khoác”.
(We have all come out of the folds of ‘The Overcoat’).
Nhận
xét của Dostoyevsky cho thấy,
Gogol đã mở ra cả một mùa
văn chương Nga thế kỷ 19.
Nhưng
Chiếc Áo Khoác (1842), cái gì
vậy cà?
Đây
là câu chuyện một viên thư ký và
chiếc áo khoác của anh.
Người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân, đời anh thay đổi hoàn toàn, sau khi
vận may
mỉm cười với anh, và anh sắm được cái áo khoác. Anh chết vì đau tim,
sau khi bị
trộm lấy mất chiếc áo, nhưng hồn ma sau đó trở về đòi hỏi công lý. Câu
chuyện
trên đã ảnh hưởng tới sự phát triển thể loại truyện ngắn Nga thế kỷ 19
sau đó: thực
và ảo trộn trạo, rồi thăng hoa, qua tài làm bếp khéo của nhà văn. “Con
Cá Sấu”
(1865) của Dostoyevsky, là từ Chiếc Áo Khoác mà ra; đây là câu chuyện
một công
chức bị cá sấu nuốt, khi ở trong bụng con quái vật, anh vẫn tiếp tục
phát triển
những qui luật về kinh tế!
Ý
nghĩa và ảnh hưởng
của Chiếc Áo
Khoác không đơn giản,
Chúng cứ thay đổi theo thời gian. Khi mới xuất hiện, nhà phê bình nổi
tiếng của
Nga là Belinsky và một số người khác đã coi đây là tiếng khóc cầu mong
lòng
nhân ái, của những kẻ bị đọa đầy. Ngay Gogol hình như cũng chấp nhận
một lối
giải thích như vậy, khi viết về cái chết của nhân vật của mình:
“Vậy
là tiêu trầm,
biến vào hư không,
cái con người mà chẳng
ai nghĩ đến chuyện che chở; cái con người chẳng ai thèm, chẳng ai quan
tâm dù
chỉ một tí một tẹo…; cái con người cứ chịu đựng hoài hoài những sự chế
giễu của
đồng nghiệp mà chẳng bao giờ phản ứng, cái con người cho tới khi đặt
mình vào
trong nấm mồ của mình, chẳng hề để lại cho đời bất cứ một trò huênh
hoang bắng
nhắng nào…”
Theo
Richard Moore,
trên tờ Partisan
Review, số Mùa Thu
2000, nếu áp dụng nhận xét của chính tác giả về tác phẩm của mình, nó
lúc đúng
lúc không. Đây là một nhận định theo kiểu “đồng
ca” (a choral statement), giống như ở cuối bi
kịch của Sophocles.
Nó đề nghị một cái nhìn khả hưũ, về những biến diễn của câu chuyện; nó
bảo
chúng ta, “người đời thường nghĩ như vậy đó”… Nếu chúng ta bỏ qua cụm
từ “không
phản ứng” (without protesting), đoạn văn trên đúng với tiếng khóc của
Akaky, ở
đầu câu chuyện, khi năn nỉ đồng nghiệp: “Hãy để cho tôi yên thân, tại
sao hành
hạ tôi làm chi thật tội nghiệp”. Nhưng tiếng khóc đạt hết sức mạnh qua
những
tương phản của nó với sự cường điệu tiếu lâm và sự phi lý vây quanh nó.
Ngay
cái tên của nhân vật, Akaky Akakievitch – có thể dịch là “Cứt, đồ cứt
đái”, hay
theo cách nói của con nít Nga, “Doo-doo, son of Doo-doo” – và nhiều chi
tiết
khác cho thấy anh ta như là một biếm họa gớm ghiếc, thô tục. Và ngay
như đoạn
văn trên xác nhận, anh ta chẳng đáng quan tâm, không bằng một con ruồi
(a
housefly). Ai tỏ ra nhân ái với bầy ruồi?
Nhưng
coi Akaky như
một thứ sâu bọ
cũng chẳng nói lên được
một điều gì. Đây chính là quan điểm của đám đồng nghiệp nông cạn của
anh, bọn
họ cũng chui ra từ thế giới mộng ảo trống rỗng của thành phố
Petersburg. Chẳng
có cách nhìn nào đúng với điều gọi là nỗi đam mê chính (the central
passion),
về một cõi người ta của Akaky:
Thật
khó mà kiếm ra
được một người, ở
bất cứ đâu, một người
chỉ sống cho công việc của mình. Nói anh ta hăm hở làm lụng là chưa đi
tới đâu,
phải nói là anh ta làm việc “với tình yêu”. Trọn thế giới mừng vui và
cứ thế mà
thay đổi, của riêng anh. Người ta có thể nhìn thấy nỗi vui này ở trên
mặt anh
ta. (Viết) một vài lá thư là cái thú tuyệt vời của anh. Anh như nhẩy cẫng lên, cười nhè nhẹ với chính mình,
uốn éo ngòi viết theo cặp môi, và người ta có thể đoán ra được, anh ta
đang
viết con chữ nào….”.
Anh
ta bê luôn cái sở
của mình về nhà
để chép lại! Anh chép
lại đủ thứ khác nữa, “chỉ để vui với mình mà thôi” (for his own
personal
pleasure). Công việc và lạc thú là một; không có cái gọi là “làm lụng”
đối với
anh. Đời là một cuộc chơi, y chang Adam trước khi bị tống ra khỏi Vuờn
Địa
Đàng.
Akaky
sống trong cõi
được gọi là Cõi
Phúc (the blessedness).
Chép lại (copying) cuộc đời, đâu cần chi
nữa, ngoài “cõi phúc” đó ra? Chỉ khi mà chú ngựa dí cái mũi, phả hơi
thở nóng
hổi vào mặt Akaky, tới lúc đó anh mới nhận ra là mình đang ở giữa mặt
lộ, chứ
không phải ở giữa một câu văn!
Câu
văn và đường phố,
nghệ thuật và
đời sống: Phải chăng
việc chép lại của Akaky “tượng trưng” cho nghệ thuật của Gogol?
Đoạn
văn trích dẫn
nêu trên đề nghị
như vậy. Gogol là một
đại sư “bắt chước”, một tay trình diễn tuyệt vời, chính nghệ thuật của
mình.
Chép lại chính mình, niềm háo hức, cơn đòi hỏi, (ngứa quá, không viết
không
chịu được?): chính cái trò chơi con nít này, nói theo Aristotle, là sức
mạnh sỏ
mũi trí tưởng tượng của Gogol, kéo ông đi ở trong cái mê cung chẳng cần
biết
khi nào thoát ra được (họa chăng là cái chết, nhưng chết rồi, đệ tử –
hay nhân
loại thì cũng rứa – lại tiếp tục trò chơi của ông). Chính cái trò bắt
chước,
chép lại này mới đáng quan tâm, mặc xác ba chuyện đại sự, nào là món nợ
trí
thức, nào là phải dấn thân, phải có trách nhiệm đối với xã hội…. Chính
những
người đồng thời đã từng trách móc Gogol thiếu những quan tâm xã hội,
thiếu
những thông điệp hướng thượng (positive messages). Bản thân ông cũng bị
bối
rối, tại sao mình lại “đổ đốn” như thế cơ chứ? (he himself was
evidently
troubled by these failings). Thấy cái gì cũng cứ cho vào miệng, cứ bắt
chước
người khác như một con khỉ, hiển nhiên đây là một tình trạng “chậm phát
triển”!
Ôi chao, vậy mà Vladimir Nabokov chỉ mới đây thôi, đã hết mình ca ngợi
tác giả,
khi cho thấy sự tương tự giữa bắt chước (mimicry) và chép lại (copying)
đã đóng
một vai trò quan trọng làm cho câu chuyện trở nên đa mầu đa dạng.
Nhưng
thật hiển
nhiên, chính nỗi mê
cuồng, yêu ơi là yêu:
chép lại cuộc đời, của nhân vật chính, đã phản lại nhận xét “màn đồng
ca” mà
chúng ta đã nói tới ở đầu câu chuyện.
Trong
những chú giải
về Sự Sa Ngã của
Con Người, có một,
theo đó, Cõi Phúc của Adam bị huỷ diệt, không phải bởi vì Adam vi phạm
lệnh của
Thượng Đế (God), nhưng là do anh mê đắm Eve, mê đuối tuyệt phẩm sáng
tạo là một
toà thiên nhiên như thế đó! Cũng vậy, cõi phúc của Akaky đã bị huỷ
diệt, vì sự
xuất hiện của chiếc áo khoác:“Vậy là tiêu trầm, biến vào hư không….
chẳng để
lại một trò huênh hoang bắng nhắng nào, đối con người đó, [một ngày đẹp
trời
kia], một người khách hào hoa trong bộ dạng chiếc áo khoác bất thình
lình xuất
hiện, làm cuộc đời khốn khổ của anh sáng lên, chỉ một giây phút phù du;
[rồi
sau đó] là tai ương giáng lên đầu…”, vẫn Gogol, khi viết về cái chết
của nhân
vật của mình. Chính “người khách hào hoa… làm sáng ngời dù chỉ đôi phút
phù
du”, cái áo khoác, và Akaky “hệ lụy” vào nó (his attachment to it) đã
xóa sạch
cõi phúc của anh: một khi “đời thực” xuất hiện, đâu ai còn nghĩ đến
“chép lại”
làm chi nữa?
Gogol
rất sợ đàn bà.
Nỗi sợ này có thể
nhận ra, qua một số
tác phẩm của ông, thí dụ như trong “Nhật
ký của một người Đàn ông Khùng”, hay “Ivan Fyodorovitch Shponka và Bà
Cô của
anh”. Như vậy, phải chăng “người khách hào hoa trong bộ dạng chiếc áo
khoác”
chính là nàng Eve của Akaky?
Sau
đây là câu trả
lời dõng dạc (loud
and clear), của chính
tác giả:
“Anh
ta tự huấn nhục
mình bằng cách
nhịn ăn, bụng rỗng bò
lên giuờng, dỗ cái đói bằng giấc ngủ. Bởi vì sự nuôi dưỡng của anh mang
tính
“tâm linh” (spiritual). Suy nghĩ, tư tưởng của anh thì luôn luôn tràn
đầy: rằng
một ngày đẹp trời, chiếc áo khoác sẽ là của anh. Kể từ lúc đó, trọn
cuộc đời
anh có vẻ giầu có hơn lên, như thể anh ta có vợ, có một con người ở kế
bên anh.
Như thể anh hết còn trơ trọi, mà có một bạn đường cùng đan dệt cuộc đời
với
anh; và người bạn đường này, đâu ai khác, mà chính là cái áo khoác độn
len dầy,
lụa mềm, thứ hảo hạng; mặc một đời chưa chắc đã mòn.”
Nabokov
ghi nhận, cái
áo khoác giống
như một cô bồ (a
mistress); từ này quá yếu, chưa đủ mạnh để nói hết “thâm ý” của Gogol,
theo tác
giả bài viết trên Partisan Review.
Nhưng
nếu Eve là
nguồn cơn nỗi bất
hạnh, và sự huỷ diệt của
Adam (của chúng ta, những hậu duệ của “Chàng”), như vậy có thể không
phải
Thượng Đế, mà chính Quỉ Sứ đã sáng tạo ra “Nàng”!
Sau
sự sáng tạo ra
Nàng, là Sự Mê
Hoặc, Niềm Cám Rỗ, chính
nó! Akaky được mời tham dự những buổi dạ tiệc. Điều này có nghĩa, cánh
cửa mở
ra cho Chàng, bước vào thế giới không thực của thành phố Petersburg;
thế là
chấm dứt sự giản dị, nghèo đói, niềm dâng hiến hết đời mình cho (nghệ
thuật)
bắt chước, chép lại. Như Gogol tiếc nuối giùm cho nhân vật của mình,
trước đó:
“
[Chuyện đi dự tiệc
là chẳng bao giờ
xẩy ra đối với anh].
Chẳng ai có thể nhớ được, rằng anh ta đã từng đi dự dạ tiệc. Sau khi đã
chép
lại, với sự hài lòng của trái tim mình, anh ta lên giuờng ngủ, mỉm cười
mơ tới
ngày hôm sau, Thượng Đế lại ban cho mình một điều gì đó để chép lại”.
Nhưng
bây giờ, mọi
chuyện đã thay đổi,
và Akaky suy nghĩ,
rằng đi dạ tiệc là một cơ hội chưng diện chiếc áo khoác, cứ tối nào
cũng được
như vậy thì thích quá nhỉ!
Độc
giả có thể tự
hỏi: Phải chăng
chính tên trộm kia, là….
Thiên Thần, hay đích thị… Thượng Đế?
Chiếc
Áo Khoác, The
Overcoat, còn có
tên là Shinel, hay The
Cloak, đã được quay thành phim, thời kỳ còn phim câm (1926), và sau đó
(1959),
tại Liên Xô, do đạo diễn Aleksey Batalov; tài tử Roland Bykov trong vai
Akakiy
(hay Akaky) Akaiyevich (theo Encarta Encyclopedia, 2000).
***
Nicolai
V. Gogol
(1809-52), hầu như
sống trọn thời gian từ
1826 tới 1848, tại Rome. Tại đây, ông đã sáng tác Những Linh Hồn Chết
(1842),
tác phẩm được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất
của văn
chương thế giới, tương tự như Don
Quixote của nhà văn người Tây Ban Nha, Miguel de Cervantes. Những độc
giả Anh
ngữ đã phải đợi đúng… một thế kỷ, mới được đọc một bản dịch tiếng Anh
đàng
hoàng tác phẩm này. Và bây giờ, nhân vật giả tưởng Pavel Ivanovich
Chichikov
lại một lần nữa nhập xác phàm, biến thành những thương gia, biznesmen,
những
tay giang hồ thuộc giới xã hội đen, mafia, hay trong giới “lãnh đạo
bằng bom
đạn” của Tân Nga Xô.
Những
Linh Hồn Chết
thuật lại những
chuyến phiêu lưu phi lý
của Chichikov, rong ruổi khắp nước Nga, để mua những tá điền, hay những
nô lệ,
không phải những người còn sống, mà là đã chết, của những ông chủ đất
chưa kịp
khai báo. Anh ta sẽ dùng danh sách đó, để mượn tiền nhà nước. Người ta
có thể
nhìn thấy những anh chàng Chichikov tân thời, hiện đang rong ruổi khắp
nước Nga
Mới, săn những hợp đồng công nhân chưa được thanh toán, rồi dùng danh
sách đó
mượn tiền Ngân Hàng Thế Giới!
Những
độc giả Anh ngữ
đầu tiên chỉ
được biết tác phẩm này,
như là một tài liệu mang tính xã hội, của một nước Nga đầu thế kỷ 19.
Tới năm
1942, đúng một thế kỷ sau khi tác phẩm được xuất bản lần thứ nhất, với
bản dịch
của Bernard Guibert Guerney, khi đó độc giả Anh ngữ mới nhận ra tầm vóc
khổng
lồ của Gogol, về tính châm biếm (satire), trò chơi đùa với ngôn ngữ, và
sự bịa
đặt đầy chất mộng mị của ông.
Nabokov,
trong một
bài viết từ năm
1944, cho rằng Dead Souls
liên quan tới từ “poshlost” của tiếng Nga, một từ gần như không thể
dịch được,
đại khái có thể hiểu như là “quan trọng giả, thông minh giả”, và như
vậy, đây
là một cuốn tiểu thuyết ít nói về nước Nga, mà là về sự ruỗng nát của
nhân
tính. Cũng trong bài viết, ông vứt bỏ mọi bản dịch, chỉ giữ lại bản của
Guerney
nói trên. Ông này là chủ một tiệm sách ở New York, và còn là một tiểu
thuyết
gia, mất năm 1979.
Qua
giai thoại, Gogol
viết Những Linh
Hồn Chết, từ một gợi ý
của bạn mình là Pushkin. Viết được đâu một, hai trăm trang, ông đọc cho
bạn
nghe, bạn nói, gần như mếu: Không ngờ dân Nga khổ đến như vậy sao?
Gogol biết
là hỏng, viết lại từ đầu. Ông dự kiến, đây là tập thứ nhất của một bộ
ba cuốn,
đầy tham vọng: tất cả nước Nga sẽ xuất hiện ở trong đó. Trong thập niên
cuối
đời, ám ảnh này đã lôi kéo ông sa vào khuynh hướng thần bí mang chất
tôn giáo,
khi ông cố chiến đấu trong việc ghi lại sự sa đọa của Chichikov. Trước
khi
chết, ông đốt toàn bộ bản thảo. Nhưng với một số nhà phê bình, tất cả
năng lực
sáng tạo, Gogol đã dồn hết vào phần đầu. Phần hai chỉ gồm những đoạn
rời
(fragments). Tác phẩm hoàn tất từ chỗ dang dở đó. Và đây là một đại tác
phẩm.
Tiểu thuyết lịch sử.
Vào
thời mới biết đọc biết viết, hay
nói một cách khác, ở
cái thuở chập chững của con người được gọi là “độc giả”, tôi cứ thấy
mảnh giấy
nào có chữ là dí vào mắt. Rồi lớn lên dần, trước là bằng những món ăn
dành cho
thiếu nhi, một Ông Đồ Bể, một Cái Ấm Đất của Khái Hưng, hay Lên Bẩy,
Lên Tám
(hình như của Tản Đà thì phải)…. Truyện con nít cũng chẳng có nhiều,
thế là mò
tới sách báo tiểu thuyết dành cho người lớn. Cuốn Việt Nam Sử Lược của
Trần
Trọng Kim đã được “thằng bé” thuộc nằm lòng! Ông cậu đi đâu cũng mang
thằng
cháu ra khoe, một bữa, bị một ông truy: công chúa Chiêu Thánh, truyền
ngôi
chồng là Trần Cảnh hồi mấy tuổi? Chuyện cô con nít khi đang tắm đùa
giỡn, tạt
nước vào cậu con nít thì nhớ, nhưng truyền ngôi hồi mấy tuổi, là chuyện
đại sự,
sao lại hỏi một thằng con nít? Hoá ra chỉ thuộc lòng những trận đánh,
hoặc
những chi tiết lịch sử mang tính “giật gân”, nào là Phù Đổng Thiên
Vương về
trời, bỏ lại ngựa sắt; ông hoàng nhỏ Quốc Toản bóp nát trái cam, sông
Hồng
nghẹt xác giặc… sau này tôi hiểu ra một điều, trí nhớ của con người, dù
lớn, dù
nhỏ luôn luôn có lỗ hổng, hoặc lỗ đen.
Tôi
đã đọc Ba Người
Ngự Lâm Pháo Thủ,
bản dịch của Nguyễn
Văn Vĩnh, ngay từ thời còn con nít; và cứ thắc mắc về một chi tiết: tại
sao một
bông huệ khắc trên mình Milady lại làm cho A Tố, rồi Đác Ta Nhan khiếp
sợ, và
Milady chết vì nó, không phải một, mà tới hai lần trong đời?
Rồi
mê mải theo dõi
những cuốn tiểu
thuyết đăng từng kỳ trên
báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy (có chắc không đấy?), thí dụ như
Chớp Bể Mưa Nguồn, Ngậm Ngải Tìm Trầm…
Bây
giờ thì quên
sạch. Nhưng có một
cuốn tiểu thuyết, hồi
đó, không hiểu sao, bám chặt mãi vào trí nhớ của Jennifer tôi. Đó là
một cuốn
Lá Huyết Thư, tôi chỉ đọc đâu được vài kỳ, thiếu đoạn kết cục, rồi cứ
thắc mắc
mãi cho tới bây giờ: không hiểu đứa nhỏ trong đó, có gặp lại được người
cha của
nó hay không.
Lá
Huyết Thư, như
trong trí nhớ của
tôi còn giữ lại được,
hoặc tưởng tượng ra được, là câu chuyện thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh.
Chúa
Trịnh, một lần vào nam, trong một lần vi hành, đã gặp một cô gái quê.
Thế là
một cuộc tình xẩy ra giữa “chàng trai Bắc”, và “cô gái Nam”. Cô gái có
thai,
được Chúa Trịnh để lại “lá huyết thư” (huyết này không biết lấy ở đâu
ra, chắc
là của cả hai), và dặn dò, nếu ta chiếm được miền nam, sẽ đón nàng, còn
trong
trường hợp ta thua chạy về bắc, nàng và con ra gặp ta…
Thế
rồi lớn lên, theo với cuộc chiến,
ở miền nam, tôi cứ bị
ám ảnh hoài, bởi câu chuyện đọc từ hồi còn nhỏ, ở miền bắc. Rồi tôi tự
hỏi, tại
sao tác giả cuốn tiểu thuyết lại “tiên tri” được biến cố sau đó, ngay
từ hồi
còn thực dân, chưa hề có một “điềm triệu” nào cho thấy cuộc chiến
“người chết
hai lần, thịt da nát tan”, mãi sau này…
***
Phụ
trang văn học
(Dossiers &
Documents Littéraries),
của tờ báo Pháp, Thế Giới (Le Monde), số 28, tháng Bẩy 2000, là về tiểu
thuyết
lịch sử. Gồm nhiều bài viết, về những bậc thầy lớn; những thời kỳ lớn:
cổ đại,
trung cổ, và lịch sử hiện đại…
Trong
số báo, tác giả
Jacques Cellard,
trong một bài viết
(25 tháng Một 1983), định nghĩa, tiểu thuyết lịch sử đối với văn
chương, giống
như món xốt may-on-ne đối với bếp núc (Le roman historique est à la
littérature
ce que la mayonnaise est à la cuisine). Người ta xịt trong khi quay đều
đều,
tia (xốt) lịch sử lên mầu vàng của cuốn tiểu thuyết (on verse, en
tournant
régulièrement, le filet d’histoire dans le jaune du roman.) Phải có
thêm tiêu
muối nữa chứ, lẽ dĩ nhiên. Tôi (tác giả bài báo) muốn nói: phải có tí
sexe, tí
máu. Nhưng đừng nhiều quá! Vẫn theo ông, thể loại tiểu thuyết lịch sử
không
được giới hàn lâm, cũng như giới phê bình đánh giá cao: cho dù ký tên
Flaubert,
hay Hugo, những cuốn như Salammbô, hay
Nhà Thờ Đức Bà thua xa Bà Bovary, hay Những Kẻ Khốn Cùng. Theo ông, đó
là do sự
cài đặt (installation, thuật ngữ này tôi mượn của giới điện toán) một
tay tự sự
(narrateur) vào trong một quá khứ không phải của anh ta (một ông Nguyễn
Huy
Thiệp của thế kỷ 20 biến mình thành Nguyễn Huệ, Gia Long chẳng hạn),
chính điều
này đã làm tê liệt chức năng tiểu thuyết, và trong bất cứ trường hợp,
làm tê
liệt luôn hạnh phúc viết (le bonheur d’écrire). Nói theo Florence
Mothe, có hai
ông “không ưa nhau” nhưng lại cứ phải sống chung dưới một mái nhà là
cuốn tiểu
thuyết lịch sử: một ông nhà văn và một nhà nghiên cứu, tìm tòi (le
chercheur).
Vẫn theo Jacques Cellard, một cuốn tiểu thuyết lịch sử không thể, và
không được
quyền “lơ tơ mơ”, nếu nói về hình thức (của cái gọi là tiểu thuyết), và
ông nhà
văn lại càng không được quyền để cho ông nghiên cứu gia kia bóp cho
nghẹt thở!
Sở dĩ hiện nay, không có tiểu thuyết lịch sử lớn, so với những “muôn
đời đại
thụ” như của Walter Scott, hay Alexandre Dumas, đó là do thiếu dấu ấn
của tiểu
thuyết thứ thiệt, và dấu ấn này lại nằm ở bên dưới cái nền gọi là lịch
sử.
Những đại gia của môn phái tiểu
thuyết lịch sử.
Alexandre
Dumas: Quá khứ như là đam mê
và như là phiêu lưu.
Theo
phụ trang văn học, báo Thế Giới
số 28 tháng Bẩy 2000,
trong thiên hạ chỉ có ba…đại sư thuộc môn phái tiểu thuyết lịch sử,
theo nghĩa,
đã đẩy thể loại này tới mức thượng thừa. Đó là (nhà văn người Scotland)
Walter
Scott, (nhà văn người Pháp) Alexandre Dumas, còn người thứ ba, thuộc
loại ẩn
sư, nghĩa là ít được người đời biết tới: một nhà văn người Phần Lan,
Mika
Waltari (1908-79). Ba ông chiếm ba bồ
chữ: phiêu lưu thuộc Dumas, nghiên cứu (analyse), Scott, và tưởng tượng
(imaginaire), Waltari.
Bài
viết (1 tháng
Giêng 1971), “Quá khứ như là đam mê và như
là phiêu lưu” (Le passé comme passion et comme aventure), của Jacques
Goimard,
được đăng lại trên số báo đã dẫn, là về Alexandre Dumas. Ông này thì
độc giả
người Việt quá quen biết, nào là Ba Người Ngự Lâm Pháo Thủ, Hai Mươi
Năm Sau,
Nữ Hoàng Margo… Giới bình dân còn rành cả ông Dumas con, qua vở tuồng
cải lương
nổi tiếng, Trà Hoa Nữ.
Vào
năm 1842, tại Paris,
Walter Scott
đang là “thần tượng”,
và không thiếu những nhà văn thuộc trường phái lãng mạn muốn thử thời
vận “một
lần nữa trong đời”, bằng cách “lần ngược lịch sử”, hay nói theo J.
Goimard, họ
tìm cách “Pháp hóa” thể loại văn chương mà Scott đã sáng chế ra: Vigny
với
Cinq-Mars; Hugo, Nhà Thờ Đức Bà (Notre Dame de Paris); Balzac, Les
Chouans;
Mérimée, Chronique du règne de Charles IX. Nhưng thể loại (tiểu thuyết)
lịch sử
cũng khó chơi. Trong cuốn Les Louves de Machecoul, Dumas đưa ra hai chị
em song
sinh. Một cô, tính tình mơ mộng, ôm mớ tiểu thuyết; một cô, đam mê
cuồng nhiệt,
ôm mớ sách lịch sử. Làm cách nào “hội nhập” một cách hài hòa, hai
khuynh hướng
trái ngược trên? Nói bốn ông nhà văn trên không thành công, khi “Pháp
hóa”
Scott, là hơi quá đáng, nhưng vẫn còn một “kẽ hở”, ở trong bí quyết
viết tiểu
thuyết lịch sử của Scott: ông “làm phiền” độc giả với những lời mào đầu
lòng
thòng, trong khi “vấn đề” là: phải “nói về những nhân vật sau khi cho
xuất
hiện”, thêm nữa, tuy Scott thật đáng nể qua miêu tả những tập tục,
trang phục,
và tính tình nhân vật, nhưng ông không “quen tay” với cái món: đam mê.
Vả
chăng, Lịch sử vốn là một “thiên
đàng”, của những ông nhà
văn fơi-ơ-tông (viết nhiều kỳ cho nhật báo), mà Dumas là một “chuyên
gia”. Lịch
sử dâng hiến chất liệu “làm sẵn, cứ thế
mà xài”, đúng thứ ông cần: làm sao viết nhanh, viết khỏe, viết ào ào,
nếu không
“chôm chĩa”, từ lịch sử, từ những hồi ký, những bình luận thời cuộc? Nó
(lịch
sử) còn ban cho ông một “thủ đoạn thuận tiện” (alibi commode) khi xử
trí những
biến động đảo ngược: chúng trở nên có thể chấp nhận được, là bởi vì đã
từng xẩy
ra trong lịch sử. Và, độc giả tiểu thuyết không cần tin, anh ta cần
ngạc nhiên.
Sau hết, Lịch sử chính là một khung cảnh “đẹp như mơ”, dễ dàng thoả mãn
cơn đói
khát của những độc giả ham đọc sách.
Nhưng
tất cả những gì
nêu trên, cũng
trở thành vô bổ, nếu
Dumas, chính ông ta, không phải là một người say mê lịch sử. Phần lớn
những
“thảm kịch” ông viết ra, đều liên quan tới lịch sử. Nếu những nhà văn
thuộc
trường phái lãng mạn say mê những giấc mộng lớn, những tổng thể (les
sommes),
như Trò Đời (Comédie humaine, Balzac),
Lịch
sử nước Pháp (Michelet), Truyền Kỳ Những Thế kỷ (Hugo)…, Dumas cũng đã
nghĩ tới
một Trò Đời của quá khứ, nhưng sau cùng, ông từ bỏ tham vọng này, bởi
vì một
khi sắp xếp những tác phẩm của mình theo một trật tự, tức là đưa ra một
ý hướng
đạo đức nào đó cho lịch sử, như vậy là phản lại nhu cầu thoát ra khỏi
nó, làm
một con người được xóa sổ, như cả một đời cô Kiều đã từng mong ước, và
sau bao
trầm luân, đã đạt được: Đoạn Trường sổ rút tên ra…
Lạ
một điều, như tác
giả Lá Huyết Thư
mà tôi chẳng thể nào
nhớ nổi tên, Dumas đã từng tiên đoán nhân dân Pháp sẽ làm cách mạng và
nắm
quyền lực, ngay từ năm 1833, trong tác phẩm Gaule et France.
Walter
Scott: Một
lịch sử nhân bản (une histoire humaine)
-Trí
nhớ của tôi chỉ
hoạt động một chiều. Tôi chỉ nhớ chuyện
này chuyện nọ, một khi nó đã xẩy ra. Alice nói.
-Thật
đáng thương cho
thứ trí nhớ chỉ làm việc giật lùi.
Hoàng hậu nói.
-Bà
nhớ hay nhất, là
về những chuyện gì?
-Ô,
những chuyện (sẽ)
xẩy ra vào tuần sau, tiếp theo tuần
sắp tới. Hoàng hậu thản nhiên trả lời.
(Alice
ở trong Xứ
Huyền Ảo)
Tác
giả Lá
Huyết Thư, một cuốn tiểu thuyết lịch sử về thời
Trịnh Nguyễn Phân Tranh, đã tiên đoán những chuyện “tình bắc duyên nam”
của
những năm 1954, hay những cuộc tình sau 1975….
Alexandre
Dumas đã
từng tiên đoán, nhân dân Pháp sẽ làm cách
mạng.
Cả
hai tác giả trên
cho thấy, ngay cả chuyện nhìn lại quá
khứ nhiều khi cũng phải dự đoán.
Nhớ
tương lai. Tưởng
tượng quá khứ. Cứ như truyện thần tiên!
Bởi
vì, những cuốn
tiểu thuyết lớn là
những câu chuyện thần
tiên lớn (Nabokov). Cũng theo nghĩa đó, nhà văn Pháp, Anatole France,
cho rằng:
Lịch sử không phải là một khoa học. Nó là một nghệ thuật. Và người ta
chỉ thành
công ở đó, nhờ tưởng tượng. (L’histoire n’est pas une science, c’est un
art. On
n’y réussit que par l’imagination).
Hay
như nhà văn Pháp,
Guizot:
-Bạn
muốn (viết) Tiểu
thuyết? Hãy đọc Lịch sử!
Nhưng
thế nào là Tiểu
thuyết? Thế nào là Lịch sử?
Hãy
đọc Lịch sử.
Nhưng Lịch sử nào? Lịch sử của những ông
vua, bà chúa, hay của thường dân?
Theo
Georg Lukacs,
một triết gia Mác xít nổi tiếng, tiểu
thuyết là để diễn tả tính vô gia cư “siêu việt”. Nói nôm na, nó diễn tả
thân
phận lưu vong của con người, một khi thần thánh đã bỏ đi. Trong lịch sử
văn
chương Âu châu, nó là thể dạng thứ ba sau hùng ca (epic), và bi kịch
(drama,
tragédie). Nó cưu mang (embody) cơn khủng hoảng cảm tính của Âu-châu.
Cuộc
Cách mạng Pháp
và thời đại Nã Phá Luân cho thấy, những
thường nhân - cuộc sống vốn chỉ quẩn quanh xó nhà, hoặc ở bên ngoài
lịch sử - nhận
ra một điều: họ có mắc míu tới lịch sử, hay ngược lại. Đây là những đòi
hỏi
mang tính "toàn trị" (totalitarian claims) đưa đến chủ nghĩa Marx.
(Bởi vậy, thật không có gì là cường điệu khi nói, chủ nghĩa Cộng sản là
con đẻ
của Cách mạng Pháp: lịch sử là "của chúng ta" chứ không
dành riêng cho đám nhà nghề, hoặc giai
cấp ở trên. Điều này giải thích tại sao cuộc cách mạng vô sản lại bắt
đầu ở
Nga, mà không ở một nước nào khác: giai cấp quí tộc Nga vẫn coi tiếng
Pháp mới
là thứ tiếng "đáng nói" nhất. Paris luôn luôn là thiên đàng của đám
trí thức Nga, Cộng-sản hay không Cộng-sản. Nó cũng giải thích những mắc
míu kéo
dài tới tận bây giờ giữa những người Cộng-sản, chủ nhân mới của đất
nước Việt
Nam, và "ông thầy cũ" là nước Pháp.)
Không
giống như những
đạo quân thế kỷ
18, vó ngựa viễn chinh
của quân đội Nã Phá Luân mang theo thông điệp, suốt Âu-châu: ý thức
chính trị
của cuộc sống hàng ngày, của những con người bình thường. Lịch sử không
còn là
những thư khố, những ông hoàng. Tiểu thuyết của Scott đã manh nha sự
thay đổi,
với một cách nhìn mới mẻ về sức nặng và sự đa dạng của sự kiện lịch sử.
Lukacs
là người đầu tiên nhìn ra điều này.
David
Daiches, trong
bài viết “Walter
Scott, một lịch sử
nhân bản”, (13, tháng tám 1971 đăng lại trên phụ trang văn học báo Thế
Giới số
28 tháng Bẩy 2000), cho rằng Scott vẫn còn được đọc, bởi vì độc giả bây
giờ tìm
thấy ở ông, một điều khác nữa, chứ không phải chỉ là những câu chuyện
tình ái
lãng mạn, và chiến tranh với những trận đánh. Hầu hết những nhà phê
bình hiện
thời, từ những trường phái khác nhau, đều coi Scott, như là một tiểu
thuyết
gia. Họ nhìn thấy ở ông, một tầm nhìn lịch sử; và cái viễn ảnh mang
tính lịch
sử đó đã nẩy nở cùng với nỗi băn khoăn của ông về những tương quan giữa
truyền
thống và tiến hóa (évolution). Trong mỗi giai đoạn của công việc tìm
tòi chất
liệu lịch sử, Scott chỉ ra, ảnh hưởng do những thay đổi chính trị và xã
hội,
đối với cách hành xử của từng con người riêng tư. Tất cả trở thành cụ
thể: lịch
sử nhập thân (incarnée) bởi những nhân vật bình thường, những dân quê,
những
người lính, những ông lái buôn, những người làm luật. Những nhân vật
nổi tiếng
trong lịch sử cũng xuất hiện, lẽ dĩ nhiên. Nhưng cái nguyên liệu ròng
của nó,
là ở những con người bình thường. Những con người, nói theo như tác giả
bài
viết, bị kẹt cứng ở trong lịch sử, bị lịch sử tóm lấy, chính họ mới là
những
người mang trên mình, ý nghĩa của lịch sử.
Điều
quan trọng nữa ở
Scott: ông từ
chối bắt lịch sử mang
một ý nghĩa đạo đức. Nếu ông quan tâm tới những tương quan giữa truyền
thống và
tiến bộ, tới những cuộc tranh chấp tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ
khác, ông
còn là một tiểu thuyết gia về một cõi người ta, thật riêng tư, thật
nhân bản,
của từng con người. Ông từ chối chiếu rọi những chuyển động xã hội,
dưới ánh
sáng của đạo đức. Những tay vô địch, những kẻ tiên phong của tiến bộ
trong
những cuốn như Guy Mannering hay trong
La Fiancée de Lammermoor… đều xấu xa, “thiếu đạo đức” (moralement
mauvais).
Nhưng ngược lại, những nhân vật nổi cộm, đại diện cho tiến bộ ở trong
Waverley
và Rob Roy là những con người tốt. Scott
chẳng thèm để ý đến cái gọi là “vì sự nghiệp chung”… qua những nhân vật
của
mình. Chính điều này làm cho những nhân vật của ông cứ thế sống mãi: họ
sống
bằng niềm cảm thông, bằng sự nhân ái, như là tác giả, người sáng tạo ra
họ.
Trên
tất cả, Scott,
bằng sức tưởng
tượng lịch sử sáng ngời,
được tác giả cứ thế làm cho sinh sôi, nẩy nở mãi ra, qua cái đọc, cái
hiểu, cái
sống, cộng thêm cảm quan sâu đậm về văn học truyền thống dân gian, qua
truyền
khẩu, cộng thêm sự quan tâm của ông, về vị trí của hồi nhớ ở trong
những vấn đề
liên quan tới con người… tất cả đã cho phép ông sản xuất ra những cuốn
tiểu thuyết
vẽ ra một cách thật cảm động, thật độc nhất vô nhị, và cũng thật dũng
mãnh:
cuộc dấn thân của con người vào lịch sử. Cùng với “cuộc chơi chết
người” này,
là trách nhiệm, bổn phận, tâm lý, nỗi sợ hãi… của từng cá nhân chúng ta
trước…
gánh nặng lịch sử!
Nhưng
ít có nhà văn
dám đẩy tiểu
thuyết lịch sử tới mức
thượng thừa như nhà văn Mika Waltari, người Phần Lan. Ông sinh năm
1908, mất
năm 1979. Đây đúng là một ảo thuật gia, với những trò phù thuỷ thoát
thai từ
quyền năng của mộng mơ, đúng như Nabokov định nghĩa, tiểu thuyết lớn là
những
câu chuyện thần tiên lớn.
Cuốn
tiểu thuyết Sinouhé, người Ai Cập
của Waltari, được
xuất bản tại xứ sở của ông vào năm 1945, mãi tới năm 1979 mới được dịch
ra
tiếng Pháp, và được đón hân hoan đón nhận. Cuốn tiếp theo, L’Etrusque,
là câu
chuyện kể của một nhân vật tên Turms - một trộn lẫn giữa nhân vật của
hùng ca
Homer và của tiểu thuyết sau đó. Anh sống ở thế kỷ thứ Năm trước khi
Chúa Cứu
Thế xuất hiện. Chẳng nhớ gì về tuổi thơ của mình. Bị sét đánh, và do
đó, được
thần thánh chọn lựa cho một sứ mạng màchính anh ta phải làm sáng tỏ. Bị
thần
thánh xúi giục, anh ta đốt ngôi đền Cybèle ở Sardes, và vì tội ác này,
anh ta
bị kết án suốt đời phải lang thang, tham dự vào những cuộc phiêu lưu,
như những
nhân vật của Homer. Theo chân cướp biển Dionysios cùng những chuyến ăn
hàng của
anh ta; bị hăm dọa bởi những người Carthage trị vì biển cả; chiến đấu
bên cạnh
những hậu duệ của Hercule, chỉ để giành giật “vương miện của một con
chó”, bị
người đẹp Aphrodite mê hoặc, bắt cóc nàng rồi sau đó bị nàng phản bội…
qua bao
hiểm nguy, anh sau cùng hiểu được sự bí mật về những quyền năng kỳ lạ
của mình.
Turms chính là một “mutant” (một sinh vật đang trong dạng phát triển
hoặc thay
đổi, như trong truyện khoa học viễn tưởng), giống như Orphée của thi sĩ
người
Đức, Rilke. Sự bí mật của anh được ghi lại ở trong văn minh và truyền
thống mà
anh khám phá ra được, ở cuối tiểu thuyết. Đó là văn minh và truyền
thống của
(một xứ sở) Etrurie huyền bí.
Nền
văn minh này trải ra quanh con hồ
Bolsena, trên một khu
vực rộng hơn là vùng Toscane hiện giờ. Chẳng có gì làm độc giả ngạc
nhiên, khi
Walrari bị quyến rũ bởi nó. Bởi vì từ xa xưa, từ nhiều đời tiếp nối, nó
đã từng
quyến rũ không biết bao nhiêu giống dân Tây Phương. Những hậu duệ của
một La Mã
đã từng mơ ước một vùng đất, thiên đàng hạ giới, như nhà sử học Hy Lạp
thế kỷ
IV, Théopompe, đã từng mơ ước: một nơi chốn mà “những người đàn bà cứ
khơi khơi
trần như nhộng, trong mọi công ăn việc làm, trong mọi giao tiếp, thường
là với
đàn ông, và đôi khi, giữa mấy bàø “mí nhau”, sẵn sàng ngồi bàn, với bất
cứ một
người nào vừa mới gặp. Cũng là chuyện bình thường thôi: họ nhậu rất cừ,
và rất
diệu nghệ.”
Một
xứ sở như thế,
chỉ nhờ quyền năng mộng mơ, mới có thể
tạo ra nổi!
Theo
Philippe-Jean,
qua số báo đã dẫn ở trên, không thể có
một thời đại nào mà không có lịch sử tiểu thuyết (của thời đại đó). Bị
chê bai,
ghét bỏ bởi những “chính chuyên” (puristes): mấy ông sử gia bới lông
tìm vết,
chi tiết này sai, chi tiết này đúng, mấy ông nhà văn coi đây là thứ mạt
hạng,
do phương pháp dễ dãi (ở trang mười, Nguyễn Huệ còn hàn vi, tới trang
thứ một
trăm, chắc là ông ta đang ra lệnh cho nghĩa quân may cờ đào, tới trang
hai
trăm, đại thắng quân Thanh, thí dụ vậy!) Nhưng đây đúng là một mảnh đất
lý
tưởng cho những nhà văn muốn… lùi xa thời đại của mình, mà vẫn có thể
nói thật
đầy đủ về nó. Một bức tranh về con người hiện đại trong mặt nạ của
“tiền nhân”.
Một trong những chiêu thức tuyệt vời của Kim Dung: “cách sơn đả ngưu”!
Ông là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy.
Đầu
tháng Tám, 1890, con tầu Vua Người
Bỉ bắt đầu chuyến ngược dòng Congo. Thuyền
trưởng, Konrad Korzeniowski, gốc Ba-lan, mới tới Congo, một thuộc địa
mà
Leopold II, vua nước Bỉ vừa chiếm đoạt được, cho riêng mình, ngay tại
giữa Phi-châu.
Muốn tìm hiểu con sông, trong nhật ký của thuyền
trưởng, là chi tiết tỉ mỉ chuyến đi, cả những
gì không liên quan
đến ngành hàng hải. Một tháng sau, khi chuyến đi chấm dứt, Conrad, bị
sốt rét,
thổ tả, và với một cõi lòng tan nát khi tận mắt chứng kiến sự tàn bạo
của đám
da trắng chung quanh, ông bỏ việc, trở lại Âu-châu.
Tới
Phi châu, mục
đích chính là để tìm
kiếm một thế giới xa
lạ (exotic), của những giấc mơ ấu thời; ông trở về với một giấc mơ mới:
viết
Giữa Lòng Đen, Heart of Darkness, điều
được ông mô tả: cuộc tranh giành của cải xấu xa, ghê tởm nhất, làm méo
xệch
lịch sử lương tâm nhân loại (that ever disfigured the history of human
conscience).
Giới
nhà văn, học giả
thường đọc Giữa
Lòng Đen bằng những từ
của Freud, Nietzsche. Cuốn tiểu thuyết còn nhắc nhở, về sự thơ ngây vô
tội, thời
Victoria, và tội tổ tông; hay chế độ gia trưởng tàn bạo và thời kỳ tôn
giáo
thần bí Gnosticism, chủ nghĩa hậu-hiện đại, hậu-thực dân, hậu-cơ cấu.
Với trăm
ngàn nghiên cứu, luận chứng cao học, tiến sĩ này nọ, người ta thật dễ
dàng quên
đi, rằng cuốn tiểu thuyết đã mang trong nó một cái gì thuộc về phóng
sự, nói rõ
hơn, đây là một giả tưởng dựa trên người thực, việc thực.
Trong
cuốn tiểu
thuyết, Marlow, người
kể chuyện, một hóa
thân (alter ego) của Conrad, được một công ty săn ngà voi mướn đi theo
một con
tầu, ngược dòng sông nhiệt đới, để gặp Mr. Kurtz, tay mại bản đầy tham
vọng, và
thật thông minh, sáng giá, đại diện công ty. Dọc đường, Marlow nghe xì
xào,
Kurtz đã thu gom được một mớ ngà voi kếch xù, và đã phạm vào một chuyện
dã man
không được xác định rõ (unspecified). Thoát chết sau một cuộc tấn công
của thổ
dân, đoàn của Marlow lấy được một chuyến hàng, luôn cả Kurtz, đang ngắc
ngoải
vì bịnh. Anh ta nói về những kế hoạch đồ sộ của mình, chết khi con tầu
xuôi hạ
lưu, nhưng sống mãi, trong cuốn tiểu thuyết của Conrad: một gã da trắng
cô độc,
lân la mãi tít thượng nguồn con sông lớn, với những giấc mơ hoành tráng, kho ngà voi, và một đế quốc
phong kiến vượt lên trên những khu rừng rậm Phi-châu.
Độc
giả khó thể quên,
cảnh tượng
Marlow, trên boong tầu,
chiếu ống nhòm, tới những vật mà ông miêu tả là những đồ trang điểm, ở
trên
ngọn những con sào, gần nhà Kurtz, và rồi ông nhận ra, mỗi món đồ trang
trí đó
là một cái đầu lâu - đen, khô, mi mắt xụp xuống, cái đầu lâu như đang
ngủ trên
ngọn con sào. Những người chưa từng đọc cuốn truyện, cũng có thể nhìn
thấy cảnh
này, bởi vì nhà đạo diễn Francis Coppola đã mượn nó, khi chuyển Heart
of
Darkness vào trong phim Tận Thế Là Đây, Apocalypse Now. Những hình ảnh
như thế
đã khắc họa Kurtz, như một hình vóc văn hóa: thực dân, chinh phục. Mới đây thôi, trên trang nhất tờ Times đã mô
tả một viên chỉ huy dã man, của lực lượng đánh thuê người Serbia, ở
Zaire, như
là một bạo chúa, ấn bản hiện đại của Kurtz trong Giữa Lòng Đen. Một Kurtz thời hiện đại khác, có tên là Đại
tá Yugo, ngự trị bằng khủng bố tại thành phố Kisangani, với hàng loạt
vụ sát
nhân, xử tử, với những trò tra tấn thường nhân bằng roi điện, để mặc tù
nhân
chết đói. Kisangani, có tên là Stanley Falls, khi con tầu của Conrad
tới nơi
này, vào năm 1890, và được ông đặt tên là Trạm Nội, Inner Station, trong Heart of Darkness. Đây cũng chính là
chỗ ngày trước Kurtz vung vãi những trò chơi khủng bố, giết thổ dân.
Chẳng
nghi ngờ chi,
Conrad còn lấy
Kurtz ra, từ trong sâu
thẳm con người của ông. Và đây là điều người đọc miễn cưỡng thông cảm
khi tưởng
tượng ra một người da trắng, tham vọng vô bờ, và viễn ảnh về chính
mình, một
đấng giáo chủ của văn minh, giữa những giống dân man rợ. Nhưng Conrad
còn tạo
nên nhân vật của ông, trong sáu tháng ở Congo, từ những người ông đã
gặp, hoặc
đã nghe nói về họ, lúc này lúc nọ, và sau đó.
Một
trong những
nguyên mẫu mà sau này
nhiều người viết tiểu
sử, cũng như giới phê bình, chỉ ra, đó là Georges Antoine Klein, một Đồ
Phổ Nghĩa
ở Phi châu (Jean Dupuis, tên Việt là Đồ Phổ Nghĩa, đã từng ngược sông
Hồng,
kiếm đường thông thương với Trung-hoa, thời Francis Garnier đánh chiếm
Bắc-kỳ);
ông Tây này, đại diện cho một công ty thu gom ngà voi ở Stanley Falls,
bến tới
của Conrad. Con tầu Roi des Belges đã
nhặt Klein, khi ông ta bịnh, và sau đó, chết trên tầu, trong chuyến về.
Ngoại
trừ những chi tiết đó, và sự tương tự giữa hai tên (Kurtz/ Klein),
Conrad không
lấy ra được nhiều, từ nhân vật này. Có người lại cho thấy, nguyên mẫu
của tác
giả là một mại bản tên là Arthur Hodister, một người Bỉ nổi danh vì tài
thu gom
ngà voi. Vào năm 1892, hai năm sau khi Conrad rời Congo, tay này bị đối
phương
cùng nghề tóm được và chặt đầu. Về những cái đầu lâu đang ngủ trên ngọn
sào,
nhà phê bình Norman Sherry viết, chúng có lẽ là chuyển thể của số mệnh
Hodister. Nhưng có đúng là chuyển thể, nói rõ hơn, Conrad đã hư cấu
Kurtz, bằng
tưởng tượng nhiều hơn là từ thực tế? Những
nhà phê bình như Sherry đã cố tình lờ đi, vô
số những nguyên mẫu
khác: những người da trắng chuyên thu gom đầu lâu da đen.
Người
đầu tiên, trong
số họ, là
Guillaume Van Kerckhoven,
một tay phiêu lưu, vốn là sĩ quan Lực Lượng Công Cộng, Force Publique,
một lực
lượng da đen, do da trắng chỉ huy. Vào lúc Conrad viếng Congo, lực
lượng này
đang bận rộn với công việc khai hóa, giữa những sắc dân nổi loạn suốt
vùng đất
thuộc địa bao la của vua Bỉ, Leopold II. Van Kerckhoven nổi tiếng thu
gom, vừa
ngà voi vừa nô lệ da đen. Một trong những chuyến đi khai hóa của anh
ta, đã
được một vị toàn quyền mô tả: một trận bão quét qua trọn xứ sở, không
để lại
bất cứ một cái gì sau nó, nếu có chăng, chỉ là điêu tàn. Van Kerckhoven
còn có
thói quen, thưởng lính thổ dân dưói quyền, về mỗi cái đầu mang về, sau
mỗi
chuyến hành quân.
Ghi
chú, tài liệu
những ngày Conrad ở
Congo không nhiều,
chúng ta không biết tác giả có gặp nhân vật kể trên không, nhưng một
tay du
lịch đã nghe câu chuyện Van Kerckhoven chuyên thu gom đầu người, đó là
Roger
Casement, một trong những bạn tốt ở Phi châu của tác giả. Casement sau
nổi
tiếng vì tranh đấu cho nhân quyền, và là một nhà ái quốc Ái nhĩ lan;
một trong
số hiếm hoi, đen hay trắng, tác giả gặp ở Phi châu: một người suy nghĩ, giỏi ăn nói, rất thông minh, và rất có cảm
tình, Conrad viết trong nhật ký về bạn. (Roger Casement 1864-1916, có
thời kỳ
làm cho Sở Hỏa Xa Congo. Ông sau bị người Anh treo cổ, vì hoạt động
nhân
quyền). Vài năm sau, cả hai chạy lại, ôm lấy nhau, trong một tiệm ăn
Luân-đôn,
rồi sau đó, kéo tới câu lạc bộ thể thao, Sports Club, nói chuyện cho
tới 3 giờ
sáng. Đó là trước khi Conrad viết Giữa Lòng Đen. Casement có tài ăn nói
thật
khác thường, và cái kho chuyện của ông chắc chắn đã ảnh hưởng Conrad,
về viễn
ảnh của một đại lục. "Anh ta có thể kể cho bạn những điều." Conrad
viết thư cho một người bạn, về Casement. "Những điều mà bạn cố quên
đi."
Khi
bắt đầu viết Giữa
Lòng Đen, chắc
chắn trong đầu tác giả
còn có một nguyên mẫu thứ nhì, chuyên thu gom đầu da đen Phi châu: Léon
Rom,
cũng sĩ quan Force Publique. Còn là một chuyên viên thu gom mề đay, do
những
thành tích chiến đấu, và có tên trong văn chương Bỉ, về thời đại anh
hùng khai
hóa. Năm 1895, một nhà thám hiểm người Anh, còn là một ký giả, ghé qua
Stanley
Falls, nơi Rom chỉ huy. Viên ký giả sau ghi lại, trên báo Thế Kỷ,
Century, về
một chuyến hành quân của Rom, tiễu trừ thổ dân nổi loạn chống chế độ
thực dân,
khai hóa: Đàn bà trẻ con đều bị tóm hết, hai muơi mốt đầu lâu được đem
tới
thác, và được Đại úy Rom dùng làm đồ trang trí quanh thảm hoa, trước
nhà ông.
Nhà văn Jules Marchal, người Bỉ, những cuốn sách của ông được dùng làm
tài liệu
sử về thời kỳ này, đã khui ra một chi tiết khác: tại thác Stanley
Falls, Rom
cho dựng một giá treo cổ, thường trực, ngay trước bộ chỉ huy của ông.
Có thể
Conrad bỏ qua tờ Century, nhưng ông là độc giả trung thành của Điểm báo
thứ
Bẩy, Saturday Review, London. Tờ này cũng nói tới Đại úy Rom và 21 đầu
lâu ông
thu gom, trong số báo Tháng Chạp 17, 1898. Có thể nguyên mẫu, và tiểu
thuyết
gia đã từng gặp nhau, tại Congo, vào ngày 2, tháng Tám, 1890, khi
Conrad đi
cùng một người da trắng khác, với một đoàn thổ dân khiêng đồ đạc, sau
chuyến đi
dài từ bờ biển tới điểm xuất phát chuyến vượt sông Congo. Trước khi tới
làng
Kinshasa ở ven sông, nơi con tầu Vua Người Bỉ đợi ông, Conrad đi qua
đồn ven
biên Leopoldville. Ở cả hai nơi lúc đó chỉ có chừng hai chục người da
trắng,
vài căn nhà rải rác. Những năm sau đó, hai đồn này bành trướng mãi ra
rồi nhập
vào nhau, và là thành phố Leopoldville dưới thời người Bỉ, và bây giờ
là
Kinshasa. Vào cái ngày mà Conrad đi qua Leopoldville, viên sếp đồn là
Đại úy
Léon Rom. Conrad nói tiếng Pháp gần như hoàn hảo, cả hai như vậy có
chung một
ngôn ngữ. Khi đọc Century, hay Saturday Review, có thể ông đã tưởng
tượng ra
được viên sĩ quan trẻ mà ông đã từng gặp.
Có
rất nhiều tương tự
đáng nói, giữa
Rom và Kurtz. Nhưng Rom
và Van Kerckhoven không chỉ là hai nguyên mẫu. Nhiều người khác nữa,
cũng có
cùng đam mê thu gom đầu lâu da đen. Những nhà phê bình đã cố tình quên
chính
tác giả Conrad, khi ông ngắm nghía đứa con tinh thần của mình, ngay
trong Ghi
chú của Tác giả, lần xuất bản 1917:... Heart of Darkness
chỉ cố nhón lên cao hơn chút xíu, những sự
kiện thực, chỉ một chút xíu thôi. (Heart of Darkness is experience
pushed a
little - and only very little - beyond the actual facts of the case).
Những
người Âu châu,
và người Mỹ
thường ngần ngại, khi nhìn
cuộc chinh phục Phi-châu, cũng một trò diệt chủng y hệt như Hitler, hay
Stalin.
Vì lý do đó, chúng ta đành phải chấp nhận, và "cảm thấy thoải mái",
khi nghĩ rằng, chuyện thu gom đầu lâu chỉ là một chuyển thể ghê rợn,
một giả
tưởng do trí tưởng tượng của Conrad thêu dệt ra. Trong những chuyển thể
như
thế, có phim của Manuel Aragon, người Tây-ban-nha, được chuyển thể tại
Tây-ban-nha sau cuộc nội chiến. Coppola lại chuyển câu chuyện tới Việt
Nam. Chỉ
có lần thứ ba, câu chuyện được đặt để tại Phi-châu, vào năm 1994, nhưng
lại là
phim cho cable TV.
***
Thật
khó mà bỏ qua
một câu hỏi: chế độ
thực dân đã huỷ hoại
đất đai, con người, môi trường sống tới mức nào ở một đại lục nay biến
thành
đại dương giông bão (this ocean of troubles); và những người Phi Châu
đã làm gì
với quê hương của mình, khi không còn thực dân? Ở đó, không có khu vực
nào gây
ra nhiều tranh cãi cho bằng xứ Congo. Thời kỳ thực dân, đây là nơi diễn
ra
những điều tàn bạo, “trời không dung, đất không tha”, trải dài mấy chục
thập
niên, khi nó còn là tài sản riêng của vua Bỉ, King Leopold II. Ông này
thu được
một tài sản khổng lồ, bằng cách bắt dân lao động nô lệ, thu gom cao su
mọc
hoang dã ở trong rừng. Quân đội riêng của ông bắt người dân làm việc
kiệt lực rồi
cứ thế nằm xuống; hãm hiếp, cầm tù, bỏ đói vợ con, (như là những con
tin để bắt
chồng, cha của họ lao động); dẹp tắt mọi bạo động, mọi cuộc trốn chạy
vào rừng
núi của những con người khiếp sợ… Theo tài liệu thống kê của chính
quyền Bỉ, cỡ
chừng 10 triệu con người đã nằm xuống trong thời gian trị vì, và tiếp
theo sau
đó, của vua Bỉ. Một vài nhà sử học cho rằng, con số thực cao hơn.
Hannah
Arendt, trong cuốn Những Cội Nguồn của Chủ Nghĩa Toàn Trị (The Origins
of
Totalitarianism) đề nghị con số 12 triệu, còn nhà sử học đương thời của
Congo,
Isadore Ndaywel e Nziem: 13 triệu.
Chừng
12 năm sau khi
tài sản riêng của
ông vua chuyển qua
chính quyền Bỉ (1908), những viên chức nhà nước nhận ra một sự thực:
nguồn nhân
lực lao động nô lệ sẽ cạn. Nhưng cũng như hầu hết những xứ sở Phi Châu,
lực
lượng lao động cưỡng bức vẫn cứ thế lai rai suốt trong thời Đệ Nhị
Chiến. Tới
buổi đêm của Ngày Mai Độc Lập (the very eve of Independence), chiếc roi
gai
dùng để dậy dỗ nô lệ, “chicotte” vẫn được coi là hợp pháp.
Với
một gia tài của
mẹ như thế, làm
sao mà khá cho nổi!
Nhưng người ta không thể đổ lỗi cho chủ nghĩa thực dân thuộc địa. Nói
theo nhà
văn Jamaica Kincaid, trong một cuộc phỏng vấn:
Di
sản của chiến
thắng, chinh phục hầu
hết là dưới dạng của
sự tàn nhẫn, độc ác. Không phải tình yêu, lòng nhân ái, từ thiện, nhưng
mà là
sự độc ác… và đây là đúng kiểu, cho mọi cuộc sống thuộc địa… Bạn cứ tới
những
nơi mà chiếc xiềng thực dân thật sự bằng thép, và tỏ ra hết sức hữu
hiệu: Phi
Châu, vùng Caribbean… Phi Châu là một thảm họa. Tôi không hiểu đất đai
con
người ở đây có ngày sẽ lành mạnh trở lại hay là không…. những người Phi
Châu
đối xử với nhau thật là độc ác. Làm sao có chuyện những ngài thủ lãnh
Phi Châu
nhìn vào mặt con dân của họ, và rớt nước mắt… Bởi vậy dưới thời thực
dân, con
người ở đây ăn rất ít, dưới thời của người Phi Châu, họ chẳng ăn gì cả…
Bạo
chúa Mobutu Sese Seko, trị vì từ
1965 tới 1997, đổi tên
nước là Zaire, và “đòi” đất nước “trả công” cho ông: 4 tỉ, hơn cả con
số chắt
chiu dành giụm trong bao nhiêu năm trời của vua Bỉ Leopold II. Ông và
thân
quyến, đệ tử… vắt kiệt xứ sở đến nỗi, khi bạo quyền cáo chung, người
dân ở đây
còn thê thảm hơn thời kỳ cáo chung của 80 năm thực dân thuộc địa. Đám
viên chức
của cái chính quyền bị phá sản đó đã cứ thế mà đánh nhanh rút gọn, vơ
vét cào
cấu bằng đủ mọi trò có thể nghĩ ra được: đánh cướp chính mình, tức là
biến đồng
tiền đang là của chung thành của riêng, ăn hối lộ…
Người
ta có thể đổ lỗi cho Tây Phương,
khi sử dụng con bài
Mobutu. Ông ta khởi nghiệp bằng cách làm nhân viên chìm cho nhà nước
bảo hộ,
trong lực lượng kháng chiến đòi hỏi độc lập. Rồi ngay sau Độc Lập, là
sự cầm tù
và sát hại Patrice Lumumba. Đây là do bàn tay lông lá của Mẽo, (nhưng
có sự hỗ
trợ của ‘đàn em’, tức chính quyền Bỉ, theo như một cuốn sách mới nhất,
Vụ ám
sát Lumumba, L’Assassinat de Lumumba, tác giả Ludo De Witte, nhà xb
Karthala,
Paris). Khi làm thịt một vị lãnh đạo dân chủ đầu tiên, do nhân dân chọn
lựa,
Tây Phương đã đóng lại vĩnh viễn (ít ra là cho tới bây giờ, và cho tới
bao
giờ?) mọi cánh cửa mở ra cho một xứ sở.
Làm sao người ta có
thể tưởng tượng một Nam Phi bây giờ, nếu
thiếu Nelson Mandela?
NQT
|