
|
Jorge
Luis Borges: Phép lạ bí ẩn
Và
Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi
Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261
Đêm
14 tháng Ba, 1939, trong căn phòng ở Zelternergasse, Prague,
Jaromir Hladík mơ một trận đấu cờ dai dẳng. Anh là tác giả Những kẻ
thù, một bi
kịch chưa hoàn tất, Minh xác Vĩnh cửu, và một nghiên cứu những nguồn
gốc
Do-thái không trực tiếp của Jacob Boehme. Đối thủ không phải hai cá
nhân, mà là
hai gia đình nổi tiếng. Cuộc đấu đã bắt đầu từ bao thế kỷ trước. Không
ai còn
nhớ giải thưởng trị giá bao nhiêu, nhưng nghe nói lớn kinh khủng, và có
lẽ vô
cùng. Quân cờ, bàn cờ được bố trí ở trong một cái tháp bí mật. Jaromir
(trong
giấc mơ) là đứa con đầu lòng của một trong hai gia đình tranh đua. Giờ
giấc cho
nước cờ tới đã được đóng cứng trên mọi mặt đồng hồ, và không thể trì
hoãn.
Người mơ thấy mình chạy dài trên cát, dưới mưa, và không còn nhớ được
những
quân cờ cũng như luật chơi. Tới đó, anh tỉnh dậy. Ngưng luôn, tiếng ầm
ầm của
mưa và tiếng đồng hồ khủng khiếp. Một tiếng động nhịp nhàng, tách bạch
với
những tiếng người ra lệnh, từ Zeltnergasse vang lên. Rạng đông, những
binh đoàn
thiết giáp tiên phong của Đệ Tam Reich đang tiến vào thành phố Prague.
Vào
ngày 19, nhà cầm quyền nhận được lời tố cáo Jaromir
Hladík; buổi chiều cùng ngày, anh bị bắt. Anh được đưa tới một doanh
trại mầu
trắng và được khử trùng, ở phía bờ đối diện Moldau. Anh không thể biện
bạch, dù
chỉ một trong những lời cáo buộc của Gestapo: họ mẹ anh là Jaroslavski,
máu anh
là Do thái, nghiên cứu của anh về Boehme nặng chất Do thái, chữ ký của
anh,
trong thống kê chót, cổ võ sự chống đối Anschluss. Vào năm 1928, anh đã
dịch
Sepher Yezirah cho một nhà xuất bản của Hermann Barsdorf; nhằm mục đích
thương
mại, bản danh mục thái quá của cơ sở này càng cường điệu thêm tiếng tăm
của
người dịch. Danh mục ở trong tay điều tra viên Julius Rothe, một trong
những
viên chức quyết định số phận Hladík. Trừ những kẻ ở trong môi trường
chuyên môn
riêng biệt, có viên chức nào mà không cả tin; chỉ cần hai hoặc ba tĩnh
từ kiểu
Gothic là đủ thuyết phục Julius Rothe về tầm quan trọng của Hladík, và
ông ta
ra lệnh tử hình, pour encourager les autres1, để khuyến khích những
người khác.
Cuộc hành quyết được ấn định vào ngày 29 tháng Ba, vào lúc 9 giờ sáng.
Sự chậm
trễ (độc giả sẽ nhận ra tầm quan trọng của nó sau đây) một phần là do
nhà cầm
quyền mong muốn tiến trình hành động không có tính cá nhân, và thật từ
từ, như
cây cỏ.
Hết
cả hồn vía, đó là phản ứng đầu tiên của Hladík. Anh biết
mình chắc chắn không khiếp sợ, bởi cái giá treo cổ, đoạn đầu đài, hay
một con
dao, nhưng bị xử bắn do một đội hành quyết là điều anh không thể chịu
nổi. Thật
vô ích, khi anh cố tự thuyết phục chính mình, chết, chỉ riêng chuyện đó
thôi,
là một hành động đáng sợ, nhằm nhò chi ba trường hợp lẻ tẻ. Anh tưởng
tượng đến
mệt nhoài, hết chết cách này tới cách khác. Cứ như thế anh tham dự hoài
hoài,
tiến trình cái chết của anh, từ rạng đông không ngủ tới loạt đạn huyền
bí.
Trước ngày chết ấn định bởi Julius Rothe, anh đã chết hàng trăm lần,
tại những
sân bắn mà hình dáng, góc cạnh của chúng thách đố luôn cả môn hình học;
bị bắn
gục bởi hết đám lính này tới đám lính khác, con số người tham dự cũng
thay đổi,
kẻ này lúc bắn gần, kẻ khác lúc bắn xa. Anh đối diện những cuộc hành
quyết
tưởng tượng, khiếp đảm thực sự (và có lẽ, can đảm thực tình). Cảnh
tượng này
mỗi lần kéo dài chừng vài giây đồng hồ. Khi vòng tròn khép kín, Jaromir
lại
thấy mình trở lui hoài hoài với buổi đêm run rẩy, của cái chết ban mai.
Rồi anh
suy ngẫm ra một điều, thực tại vốn không trùng hợp với những dự đoán
của con
người về nó. Với luận lý riêng, anh suy ra rằng, dự đoán một tình
huống, là
ngăn chặn cho nó đừng xẩy ra. Tin tưởng nơi huyền thuật yếu ớt, anh làm
phép:
như vậy chúng sẽ không xẩy ra, những tình huống tối tăm độc địa. Lẽ dĩ
nhiên,
cuối cùng anh cũng đành phải lo sợ, những hoàn cảnh thê lương này mang
tính
tiên tri. Trong đêm tối thương tâm, anh cố nắm chút thời gian trơn
tuột. Anh
hiểu rằng, thời gian, tự nó cũng chúi về buổi mai 29. Anh lớn tiếng suy
luận:
Lúc này, ta hiện đang ở trong đêm 22. Trong khi đêm còn dài (còn 6 đêm
sẽ tới),
ta bất khả xâm phạm, tuyệt đối an toàn, bất tử. Giấc ngủ đêm như những
giếng
tối sâu mà anh tự mình có thể trồi lên. Có những khoảnh khắc, anh nôn
nóng loạt
đạn dứt khoát, tốt cũng vậy, mà xấu cũng xong, nó sẽ giải thoát anh
khỏi nỗi
thôi thúc vô ích của bao điều tưởng tượng. Vào ngày 28, khi ánh dương
quang
cuối cùng chấp chới trên song sổ cao, ý nghĩ về vở bi kịch Những kẻ thù
bứt anh
khỏi những âu lo tuyệt vọng.
Hladík
đã quá 40. Ngoại trừ một số ít bạn bè, và rất nhiều
thói quen, ba bốn điều viết lách là cuộc đời anh. Như tất cả các nhà
văn, anh
đo lường sự thành tựu của kẻ khác bằng những gì họ đã hoàn tất, yêu cầu
họ đo
lường anh bằng những điều anh nghiên cứu, hoạch định. Tất cả những cuốn
sách
anh xuất bản, đã để lại nơi anh một mớ tình cảm hỗn độn, về nỗi niềm ăn
năn,
thống hối. Những nghiên cứu về tác phẩm của Boehme, Ibn Ezra, và Fludd
cơ bản
chỉ là sản phẩm mang tính ứng dụng vậy vậy; dịch bản Sepher Yezirah,
sản phẩm
của sự cẩu thả, mệt mỏi, đoán mò. Minh xác Vĩnh cửu, theo anh, ít
khuyết điểm
hơn: tập đầu là những quan niệm của con người về vĩnh cửu, từ Hiện Hữu
bất di
bất dịch của Parmenides tới Quá Khứ có thể sửa đổi được của Hinton. Tập
thứ
nhì, (cùng với Francis Bradley), phủ nhận điều, tất cả những sự kiện
trong vũ
trụ cấu thành một chuỗi thời gian, bằng cách lập luận rằng, con số kinh
nghiệm
khả hữu của con người thì không vô cùng, và chỉ một lần "lập lại" đủ
chứng minh, thời gian là một ảo tưởng... Bất hạnh thay, những luận cứ
chứng
minh ảo tưởng này, thì cũng ảo tưởng như rứa. Hladík có thói quen vượt
qua
chúng theo kiểu bối rối, nhuốm chút dè bỉu. Anh cũng đã viết một chuỗi
thơ Biểu
Hiện; và nhà thơ chưng hửng, chúng có trong thi tập xuất bản vào năm
1924, và
thi tập nào xuất hiện sau đó cũng đều thừa hưởng chúng. Trong nỗi nôn
nóng cứu
rỗi chính mình, thoát ra khỏi quá khứ mập mờ, và não nề, tất cả đều
trông mong
vào vở bi kịch thơ, Những kẻ thù. (Hladík coi trọng thể kịch thơ, bởi
vì nó làm
cho khán giả không quên phi thực tại, vốn là một điều kiện cần thiết
của nghệ
thuật.)
Tác
phẩm tôn trọng tính đồng nhất của bi kịch (thời gian,
nơi chốn, hành động). Nó mở ra tại Hradcany, trong một thư viện của Nam
tước Roemerstadt, vào một trong những buổi chiều cuối cùng của thế kỷ
19. Trong
cảnh một, hồi một, một người lạ tới thăm Roemerstadt. (Đồng hồ gõ 7
tiếng, sự
thôi thúc của những tia mặt trời khi lặn, rực rỡ trên những ô cửa kính,
không
gian có tiếng nhạc Hungary
quen thuộc, tha thiết.) Cuộc thăm viếng kéo theo những cuộc thăm viếng
khác;
Roemerstadt không quen biết những người tới làm phiền ông, nhưng ông
lại có cảm
giác khó chịu là ông đã nhìn thấy họ, trước đó: có lẽ trong một giấc
mơ. Tất cả
đều xun xoe, bợ đỡ, nhưng thật hiển nhiên - trước tiên là đối với khán
giả vở
bi kịch, và sau đó, đối với chính Nam tước - họ là những kẻ thù bí mật,
thề huỷ
hoại ông. Roemerstadt tỏ ra cơ trí hơn, hoặc đã thoát khỏi những âm mưu
lằng
nhằng của họ. Trong cuộc đối thoại, người yêu của ông, Julia de
Weidenau, được
nhắc tới, và một tay Jaroslav Kubin nào đó, có thời đã từng cầu hôn cô.
Kubin
bây giờ đã mất trí, và nghĩ anh ta là Roemerstadt... Nguy hiểm trùng
trùng. Roemerstadt,
vào cuối hồi hai, đã bắt buộc phải giết một trong những kẻ âm mưu. Hồi
ba và là
cuối cùng, bắt đầu. Những sự phi lý cứ thế tăng thêm: diễn viên, có vẻ
như đã
đóng xong vai, lại xuất hiện; người đàn ông bị Roemerstadt giết, trở
lại, một
lát thôi. Người nào đó ghi nhận, thời gian trong ngày không tiến triển:
đồng hồ
gõ 7 tiếng, mặt trời hướng tây hắt lên những ô cửa sổ cao, nhạc Hungary
tha thiết trong không khí. Xướng ngôn viên thứ nhất của vở kịch tái
xuất hiện
và nhắc lại những từ anh ta đã nói trong cảnh một, hồi một. Roemerstadt
nói
chuyện với anh ta, chẳng một chút kinh ngạc. Khán giả nhận ra rằng,
Roemerstadt
là anh chàng Jaroslav Kubin khốn khổ. Vở bi kịch chưa từng xẩy ra: chỉ
là vòng
mê sảng Kubin hoài huỷ sống đi sống lại.
Hladík
chẳng bao giờ tự hỏi chính mình, vở bi hài kịch của
những lầm lẫn như vậy, là vô lý, hay đáng yêu; có dụng tâm, hay chỉ là
tuỳ
tiện. Anh trực giác ra rằng, một âm mưu như vậy là phát minh thích hợp
nhất để
che giấu những khiếm khuyết, và để biểu tỏ những điểm mạnh của anh, và
nó còn
cho anh khả năng cứu rỗi, (một cách biểu tượng) ý nghĩa căn bản cuộc
đời anh.
Anh đã hoàn tất hồi nhất và một cảnh hay là hai, của hồi ba. Tính vần
luật của
tác phẩm cho phép anh liên tục suy nghĩ về nó, chỉnh lại khổ thơ mà
không cần
bản thảo ở trước mặt. Anh nghĩ tới hai hồi còn phải làm, và cái chết
cận kề.
Trong bóng đêm, anh khẩn cầu Thượng Đế. Nếu, một cách nào đó, con hiện
hữu, nếu
con không phải là một trong những lập lại của Người, và sự lầm lạc; con
hiện
hữu như là tác giả của Những kẻ thù. Để hoàn tất vở bi kịch này, nó có
thể sử
dụng để biện minh con, biện minh Người, con cần một năm nữa. Xin hãy
cho con
năm đó. Người mà tất cả những thế kỷ, tất cả thời gian đều thuộc về
Người. Đó
là đêm cuối cùng, hãi hùng hơn tất cả, nhưng chỉ mười phút sau, giấc
ngủ như
biển đen sâu thẳm đã nhận chìm anh.
Gần
rạng đông, anh mơ thấy tự giấu mình, ở một trong những
gian, tại thư viện Clementine. Một người thủ thư đeo kính đen hỏi anh:
Anh kiếm
gì? Hladík trả lời: Thượng Đế. Người thủ thư bảo anh: Thượng Đế ở một
trong
những con chữ, của một trong những trang, của một trong 400,000 bộ, của
Clementine. Cha tôi, và những người cha của những người cha của tôi, đã
tìm
kiếm con chữ này. Tôi trở nên mù cũng chỉ vì tìm nó. Ông gỡ cặp kính,
và Hladík
nhìn thấy mắt của ông đã chết. Một độc giả bước vào, mang trả cuốn
atlas. Cuốn
atlas này vô dụng, ông ta nói, và đưa nó cho Hladík, anh mở ra theo
ngẫu nhiên.
Trong một thoáng bàng hoàng, anh nhìn thấy bản đồ xứ Ấn độ. Đột nhiên
hết sức
tự tin về mình, anh chạm vào một trong những con chữ nhỏ bé nhất. Một
giọng như
có ở khắp nơi, nói: Thời gian cho tác phẩm của mi đã được chấp thuận.
Hladík
giật mình thức giấc.
Anh
nhớ ra rằng, những giấc mơ của con người thuộc về Thượng
Đế, và Maimonides đã viết, những từ trong giấc mơ thì linh hiển, khi
chúng được
nói ra một cách rành rẽ, rõ ràng, bởi một người mà không ai nhìn thấy.
Anh mặc
quần áo. Hai người lính vào sà lim và ra lệnh cho anh đi theo họ.
Từ
bên trong cửa, Hladík đã mường tượng mê cung với những
lối đi, những cầu thang, và những dẫy nhà nối với nhau. Thực tại tồi tệ
hơn: họ
đi xuống một sân trong, bằng thang sắt hẹp chỉ một người đi lọt. Một
vài người
lính - mặc đồng phục, khuy áo mở banh - đang xem xét một chiếc xe gắn
máy, và
bàn cãi về nó. Viên đội nhìn đồng hồ của anh ta: 8 giờ 44. Họ phải đợi
tới 9
giờ. Hladík thấy mình chẳng đáng chi, hơn là đáng thương hại; anh ngồi
trên
đống gỗ. Anh nhận ra ánh mắt những người lính tránh né anh. Để cho việc
chờ đợi
dễ dàng hơn, viên đội mời anh một điếu thuốc. Hladík không hút thuốc.
Anh nhận
chỉ vì lịch sự, hoặc vì tủi nhục. Trong khi châm thuốc, anh thấy tay
mình run
run. Trời có mây. Những người lính xì xầm nói chuyện, như thể anh đã
chết. Một
cách vô ích, anh cố nhớ một người đàn bà, và qua người này, Julia de
Weidenau
là một biểu tượng...
Đội
hành quyết được tập hợp, và mọi chú ý hướng về họ.
Hladík đứng dựa vào tường doanh trại, đợi loạt đạn. Một người nào đó tỏ
ý lo
ngại, bức tường sẽ dính máu. Kẻ bị kết án được lệnh bước tới phía trước
vài bước.
Thật phi lý, Hladík nhớ lại những sắp xếp sơ khởi của một người thợ
chụp hình.
Một giọt mưa nặng nề rớt, trên thái dương Hladík, rồi lăn dần xuống má.
Viên
đội hô mệnh lệnh cuối cùng.
Vũ
trụ vật chất dừng lại.
Súng
chĩa vào Hladík, nhưng những người được lệnh bóp cò đều
bất động. Cánh tay viên đội trở thành thiên thu, trong cử động chưa kịp
hoàn
tất. Trên phiến đá lát sân, một con ong để bóng im của nó. Gió ngưng,
như trong
một bức tranh. Hladík cố kêu một tiếng, một từ, cố nhấc tay. Anh nhận
ra mình liệt
cứng. Không một âm thanh thoát ra từ thế giới đứng dừng.
Anh
nghĩ: Ta đang ở địa ngục. Ta đã chết.
Anh
nghĩ: Ta điên rồi.
Anh
nghĩ: Thời gian ngưng.
Rồi
anh suy nghĩ, trong trường hợp như vậy, ý nghĩ của anh,
cũng phải tới một điểm ngừng. Anh nóng lòng xét nghiệm khả năng này:
anh nhắc
lại (mà không mấp máy môi) Bài Thơ bí ẩn thứ Tư của Virgil. Anh tưởng
tượng
những người lính đằng xa cùng chia xẻ với anh nỗi nôn nóng; anh mong
được liên
lạc với họ. Anh sững sờ khi thấy mình không một chút mệt mỏi, không
choáng váng
vì sự bất động hoài huỷ. Sau một thời gian dài, không biết là bao lâu,
anh rơi
vào giấc ngủ. Khi tỉnh dậy, anh nhận ra thế giới vẫn bất động, tê cóng.
Giọt
mưa vẫn đọng trên má anh; bóng con ong vẫn dừng trên mặt phiến đá; khói
từ điếu
thuốc anh ném bỏ vẫn chưa tan. Một "ngày" khác đã qua, trước khi anh
hiểu được.
Anh
đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn thành tác phẩm:
Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì anh, Thượng Đế đã
hoàn
thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ Đức sẽ giết
anh, ở
một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã qua
đi, giữa
lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới ngỡ
ngàng; từ
ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ.
Anh
đâu có tài liệu chi, ngoài hồi ức của riêng mình. Đám
rong chơi tài tử, vốn đã quên những chương đoạn mơ hồ, phù phiếm, họ
không thể
tưởng tượng, anh đã từng có được một sự nghiêm thủ hạnh phúc, khi làm
chủ từng
khổ thơ thêm vô đó. Anh không làm, cho hậu thế, ngay cả cho Thượng Đế,
cũng
không, những thưởng ngoạn văn chương cũng chỉ là vô danh đối với anh.
Hết sức
tỉ mỉ, không cử động, hết sức bí mật, anh dệt đúng thời gian, mê cung
vô hình,
kiêu hãnh của anh. Anh làm đi làm lại hai lần, hồi thứ ba. Anh bỏ đi
những biểu
tượng quá lộ liễu: tiếng đập của thời gian, của âm nhạc. Chẳng có gì
thúc hối
anh. Anh bỏ bớt, anh cô đọng, anh khuếch đại. Có chỗ, anh trở lại
nguyên bản.
Anh thấy mình trở nên trìu mến cái sân, doanh trại, một trong những mặt
tiền
của nó, trước mặt anh, đã sửa đổi quan niệm của anh về tính tình của
Roemerstadt. Anh khám phá ra rằng, những tạp âm nặng nề đã làm Flaubert
bực
mình rất nhiều, chỉ là những mê tín thị giác, sự yếu đuối và giới hạn
của chữ
viết, không phải chữ có âm thanh, trầm bổng... Anh kết thúc bi kịch của
anh.
Anh chỉ còn bận tâm với mỗi một câu. Anh đã kiếm thấy nó. Giọt mưa lăn
trên má
anh. Anh bắt đầu một tiếng kêu man rợ, xoay mặt qua một bên. Ba bề, bốn
phía,
một luồng hơi đẩy anh té xuống.
Jaromir
Hladík chết vào ngày 29 tháng Ba, lúc 9:02 sáng.
(Chuyển
ngữ từ bản tiếng Anh của Anthony Kerrigan, nhà xuất
bản Grove Weidenfeld New York).
Borges và Tôi.
[Kỷ niệm 100 năm,
sinh nhật Jorge Luis Borges, August 26, 1899- August 26, 1999]
Hiếm nhà văn được như
Borges: ông đi vào truyền thuyết, ngay từ khi còn sống, không như một
nhà văn
nổi tiếng, mà là một huyền tượng.
Trong
chuyện Tàu có trường hợp tương tự: Để trốn tránh cơn
giận dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó, Wang Fo rời cuộc đời,
bước vào
bức tranh ông vẽ. Trường hợp Borges rắc rối hơn: Sau khi trở thành
huyền tượng,
ông tiếp tục sống thêm nhiều năm, làm phiền cho chính ông trước tiên,
như thể
có hai, Borges, và “Borges”, và ông đành phải chấp nhận sự nhập nhằng,
đôi khi cũng
cố gắng trần tình: Không phải tôi đâu, mọi chuyện là do gã kia, Borges.
Tôi,
tôi đang đi trên đường phố Buenos Aires, nhẩn nha nhìn phố xá. Tôi nhận
được
tin tức của Borges, qua bưu điện, nghe đâu ông ta được đề nghị một chân
nào đó,
hay là được đưa vào một cuốn tiểu sử... tôi thích những chiếc đồng hồ
bằng cát,
thích nhâm nhi ly cà-phê, thơ xuôi Stevenson, ông ta cũng chia sẻ những
sở
thích tương tự... Của đáng tội, nếu nghĩ rằng giao tình giữa tôi và ông
ta tồi
tệ, tôi sống và mặc kệ chuyện đời, miễn sao Borges tha hồ thêu dệt văn
chương
của 'ông ta', vậy là đủ cho tôi rồi (“Borges và Tôi”).
Còn
nữa: bởi vì số mệnh muốn ông không nhìn thấy gì, vào lúc
45 tuổi, người ta bèn gọi ông là Homer, hoặc Milton, những huyền tượng
về thi
sĩ mù.
Mặc
kệ chuyện đời, nói vậy có khác chi, từ chối làm một điều
gì đó, trong đời, để cho gã “chính tôi” kia tha hồ lo chuyện văn
chương? Vả
chăng, “thêu dệt” nghe chẳng thấy ngợi ca, mà còn ra vẻ ám muội, như
thể viết
văn là chơi trò ma mãnh, mưu mẹo, giăng bẫy, chẳng có chút cao sang
thanh nhã;
thôi đành cứ coi đây, những trang viết, cho dù giá trị thế nào đi chăng
nữa, là
một trong những trò chơi. “Trong nhiều năm, tôi đã cố gắng thoát khỏi
ông ta,
và đã trải qua, từ những huyền thoại nhăng nhít bên ngoài, cho đến
những trò
đùa cợt với thời gian và với vô cùng, nhưng những thứ đó bây giờ cũng
thuộc về
Borges, tôi phải nghĩ ra chuyện khác thôi”.
“Borges
và Tôi” tận
cùng như vầy: “Không biết ai, trong hai đứa tôi, viết trang sách này”.
Một
viên thủ thư đeo kính đen hỏi: “Anh tìm gì?” Hladik
đáp: “Tôi tìm Thượng Đế.” Viên thủ thư
nói với anh: “Thượng Đế ở một trong những con chữ, của một trong những
trang,
của một trong bốn trăm ngàn bộ sách, của (thư viện) Clementinum.”
Trong
bài Tựa cuốn Chữ và Vật, Michel Foucault cho biết,
cuốn sách của ông được gợi hứng từ một bài viết của Borges. Và cùng với
bài
viết, là tiếng cười làm rung rinh lề thói suy tưởng của chúng ta. Theo
một cuốn
bách khoa toàn thư nào đó của Trung-hoa, loài vật được chia ra thành:
a) thuộc
về nhà vua, b) được tẩm nước thơm, c) được thuần hóa, d) heo sữa, e)
nhân ngư,
f) huyền hoặc, g) chó được thả tự do f) bao gồm trong bảng sắp xếp này,
i) cử
động như người điên, j) không đếm được, k) được vẽ bằng một bút lông
lạc đà
thật mịn, l) vân vân và vân vân, m) vừa mới làm bể một cái bình, n) từ
xa trông
như ruồi. Foucault viết, đằng sau bảng phân loại kỳ tuyệt này, là sự
quyến rũ,
nét duyên dáng của một tư tưởng khác, và là giới hạn tư tưởng của chúng
ta.
Theo
Jean-Yves Pouilloux, tác giả cuốn Borges, Fictions,
trong những bài viết về Borges, bài của Maurice Blanchot “rõ ràng, trầm
trọng,
sắc sảo” nhất. Bài viết nhan đề Vô cùng của văn chương: L’Aleph, trong
Cuốn
sách sẽ tới (Le livre à venir). Sau đây là trích đoạn:
Tôi
nghi rằng, Borges đã nhận được cái vô cùng của văn
chương. Nói như vậy không có nghĩa là ông có được sự hiểu biết trầm
lắng chiết
ra từ những tác phẩm văn học, nhưng để khẳng định một điều, kinh nghiệm
văn
chương có thể gần gụi một cách thật sâu thẳm với những nghịch lý, những
trò
ngược ngạo mà Hegel, để tránh né nó, đã gọi là vô tận xấu (le mauvais
infini).
Sự
thực văn chương nằm trong sự lầm lạc về cái vô cùng. Thế
giới mà chúng ta “sống” nó, may mắn thay, nông cạn. Chỉ cần vài bước là
chúng
ta ra khỏi căn phòng, cần vài năm là ra khỏi “đời mình, đời nhau”
(notre vie).
Nhưng giả dụ rằng, trong cõi 'nhân gian bé tí' đó, tự nhiên tối tăm,
bỗng nhiên
mù lòa, chúng ta lạc mất nhau. Giả dụ rằng, chốn sa mạc địa lý kia bỗng
trở
thành sa mạc thánh kinh: không phải bốn bước, không phải mười một ngày
chúng ta
vượt được, mà là thời gian của hai thế
hệ, mà là cả lịch sử nhân loại, có thể hơn thế nữa. Đối với con người
cân đo
đong đếm, và được đánh giá như vậy, căn phòng, sa mạc, thế giới là
những nơi
chốn được xác định hết sức rõ ràng. Đối với con người “sa mạc, mê
cung”, những
con người chỉ cầu mong một bước đi nhỉnh hơn cuộc đời mình một chút
xíu, vậy là
chính cõi không gian vừa kể trên kia, bỗng biến thành vô cùng. Borges
hiểu rằng
phẩm giá nguy nàn của văn chương không phải vì nó khiến cho chúng ta
giả dụ
rằng, có một tác giả lớn lao, đắm đuối trong những trò mộng mị, huyền
hoặc,
nhưng nó cho chúng ta cảm nhận một điều, gần gụi đâu đây là một sức
mạnh kỳ lạ,
vô tính, vô ngã. Ông thích người ta nói như vầy về Shakespeare: “ông ta
giống
như mọi người, trừ điều này: ông ta giống như mọi người”.
Phôi
thai
Ở
Crayle, người Hy-lạp - liệu anh ta có lầm không? -
Khi
nói chữ là mẹ của sự vật:
Trong
những con chữ hồng có mùi thơm của hoa hồng,
Và
dòng Nil luồn lách qua những con chữ của từ Nil.
Vậy
thì có một Cái Tên khủng khiếp, từ đó yếu tính
của
Thượng Đế được mã hóa - và đó là một từ của con người,
Bảng
mẫu tự đánh vần, bàn tay ghi lại;
Kẻ
nói lên có Sức Mạnh-Toàn Năng.
Những
ngôi sao biết Cái Tên này. Adam cũng vậy,
Ở
Khu Vườn; nhưng liền đó, anh ngỡ ngàng và hoang mang:
Tội
lỗi đục gỉ anh ta, những người thần bí giáo bảo vậy;
Mọi
dấu vết đến đây là ngưng. Như thế đấy.
Jorge
Luis Borges Thi Phẩm (1925-1965).
(Theo
bản tiếng Pháp của Nestor Ibarra, Gallimard).
Borges
là tác giả cổ điển, trước khi là một huyền tượng.
Nhưng như Philippe Sollers khi giới thiệu "Tại sao đọc cổ điển", của
nhà văn người Ý, Italo Calvino: Bởi vì chính họ đang đọc chúng ta. Trò
dởm đời:
đòi nguyên gốc và tính thực (authenticité), vốn chỉ là thói soi gương
bao giờ
cũng chỉ để nhìn ngắm mình, của chúng ta. Calvino biết rõ điều này, bởi
vì kẻ
hiện đại độc nhất, có thể là một cổ điển. Luôn luôn là vậy, cổ điển là
hiện
đại. Và phải chứng minh điều đó ra.
Theo
Calvino, lịch sử gia tài Borges ở Ý, tính ra là đã được
30 năm. Nó bắt đầu vào năm 1955, khi bản dịch đầu tiên Giả Tưởng
(Ficciones)
dưới cái tên Thư Viện Babel, xuất hiện tại nhà xb Einaudi. Mới nhất, là
toàn bộ
tác phẩm của ông, trong tủ sách Meridiani, của Modadori. Nhưng nó có
sau Pháp,
và đây là công của Roger Caillois. Ông này tới Buenos Aires, Argentine,
quê
hương của Borges, vào năm 1939 và ở đây đến cuối Đệ nhị chiến. Quá mê
Borges,
ông dịch Xổ số tại Babylone, Thư viện Babel (1944), rồi tuần tự những
tác phẩm
khác, cho xuất bản trong tủ sách "La Croix du Sud" do ông đảm đương
tại nhà xuất bản Gallimard. Liên hệ giữa hai người cũng thật gai góc.
Một giai
thoại: Khi Roger Caillois cho xuất bản tại Buenos Aires một nghiên cứu
về tiểu
thuyết trinh thám, ông cho rằng nguồn gốc của nó là ở thời Napoléon, và
sự
thành lập cơ quan cảnh sát, theo một hình thức hiện đại. Borges nói,
tầm bậy,
bởi vì "rõ ràng là thể loại tiểu thuyết trinh thám chẳng mắc mớ gì tới
cảnh sát: đây là một thể loại khác biệt hẳn thể ký sự". Thực ra, vấn đề
cơ
bản ở đây là, với Caillois: giữa thực tại và văn chương, có sự liên
tục, có qua
lại, và tương đồng. Còn Borges coi đây là hai miền hoàn toàn khác biệt,
tự chủ,
mỗi nơi có, và bị chi phối bởi những luật lệ riêng. Sau đó, ông than:
Chính
nước Pháp đã phát minh ra tôi. Tôi đâu có hiện hữu. Caillois đã làm cho
người
ta nhìn thấy tôi. Than ôi, người ta nhìn thấy tôi: rõ quá!
Cũng
vì lý do đó, đọc Borges bằng tiếng Pháp sẽ mất đi một
điều thiết yếu: giọng điệu (tonalité) của bản văn. Điều này cho thấy,
sự trung
thành với một văn bản nói (thí dụ như văn chương nói của Miền Nam chẳng
hạn),
là một điều rất cần thiết: Khi nói, người ta tính tới "thời lượng"
(la durée) của câu chuyện đang được kể: Người đẹp trong Ngàn Lẻ Một
Đêm, đã
"nát óc" tính toán, làm sao cho câu chuyện ngưng lúc nào, để bắt đầu
một câu chuyện mới, nếu nàng muốn sống thêm một đêm nữa.
Theo
tôi, những người viết Miền Nam ở hải ngoại hầu như đã
quên mất bài học sinh tử này.
Borges
sinh tại Buenos Aires năm 1899, mất tại Genève, Thụy
sĩ vào năm 1986. Năm nay, nhân loại kỷ niệm lần thứ 100, năm sinh của
ông, và
người ta nhận ra một điều: thế giới hình như đã được xây dựng, theo một
đề án
của Borges. Bởi vì rất nhiều thành phố lớn sẽ tổ chức lễ hội này. Bà vợ
góa của
ông, Maria Kodama, là người đứng ra tổ chức và New York sẽ là một trong
những
nơi diễn ra lễ hội văn chương này. Sẽ cho phát hành ba ấn phẩm bằng
tiếng Anh,
gồm chuyện kể, thơ, tiểu luận (toàn bộ). Công việc được giao cho John
Coleman,
người chuyên dịch thơ ông. Ông đã xin nghỉ hưu tại Đại học New York, để
có toàn
thời gian lo việc này. Hai vị chủ tịch uỷ ban tổ chức lễ hội Borges, là
Gabriel
Garcia Marquez và Carlos Fuentes. Tại Paris sẽ có hội thảo văn chương,
với sự
tham dự của những nhà văn dòng Mỹ châu La tinh, hay những kế thừa gia
tài của
Borges. Tủ sách Pleiade sẽ trình làng bộ sách mới nhất, những tác phẩm
của ông.
Tại Madrid, một công trình in ấn đồ sộ cũng góp mặt. Toán chuyên viên
dịch
thuật Borges đã tranh luận từ 10 năm nay: làm sao có được một bản dịch
thuật/in
ấn tuyệt vời nhất! Rồi ở London, ở Venise...
Đọc
Borges, mỗi độc giả tìm ra một câu chuyện khác nhau.
Maurice Blanchot, như ở trên, đã nghĩ, mình tìm ra cái vô cùng của văn
chương.
John Barth lại coi đây là sự kiệt cạn (épuisement) của nó. Nabokov coi
mê cung
của Borges là cõi nhân gian bé tí, bé nhất nếu so với mê cung của
Kafka, rồi
tới mê cung của Alain Robbe-Grillet. Mê cung của Kafka vẫn còn có
người, dù là
"như một con chó". Mê cung của Robbe-Grillet chỉ còn đồ vật.
Như
một huyền tượng, ngay trong đời thường. Trong những ngày
cuối đời, khi Borges chọn Genève để chết, ông bảo Maria hãy kiếm một
căn nhà
tại khu phố cổ của thành phố, nơi ông đã sống trong thời gian xẩy ra Đệ
nhất
thế chiến, với cha mẹ và người chị (hoặc em). Mặc dù mù, ông vẫn nhớ,
và
"nhìn ra" nơi chốn cũ, và bà vợ đã tìm được con phố, căn nhà ngày
xưa. Borges già gặp lại Borges trẻ, và cùng chết ở một nơi cả hai đã
từng sống.
Celan: Mẹ có đau khổ không, Mẹ ơi,
như Mẹ đã từng đau khổ...
Tại sao
thi sĩ, trong
một thời đại khốn khổ như thế này?
(Pourquoi des
poètes, en temps de détresse? Holderlin).
Theodor Adorno, triết
gia Đức, gốc Do thái, cho rằng sau cuộc chiến, chẳng những không thể,
mà còn
chẳng nên viết. Rằng, làm thơ ca trữ tình sau kinh nghiệm Auschwitz là
một hành
động dã man. Một hành động thậm vô tình, ngu si đần độn, mà một thi sĩ
thực sự
chỉ còn một cách là tháo lui, chào thua. Hãy hiện hữu trong vắng bóng,
trong im
hơi lặng tiếng. Celan cho thấy là Adorno đã lầm. Ông, có lẽ, là thi sĩ
duy nhất
làm được như vậy.
Đã
có nhiều thơ ca viết về Lò Thiêu Người, đọc lên nghe cũng
cảm động, nhưng chúng không thể trở thành điều khủng khiếp: Lò Thiêu
Người.
Chúng không thể thực hiện được điều này bằng giọng độc nhất của thi ca.
Celan,
chỉ mình ông, đã làm thế giới đó trở thành của riêng ông, như một nhà
thơ.
Ông
sinh ra với tên Paul Antschel, đôi khi viết là Ancel,
trong một cộng đồng Do thái định cư tại Bukovina, phía bắc Romania.
Celan, một
trò chơi đảo tự, là bút hiệu được ông sử dụng từ năm 1947, và trở thành
tên
thật. Điều này cũng đặc biệt đối với một thi sĩ từng gọi một trong
những thi
tập của mình là Bông Hồng của Không Ai, Die Niemandrose, một từ tiếng
Đức, đẹp,
không thể dịch được, ôm hình ảnh ma quái của một thi sĩ biết anh ta
không hiện
hữu, ngoại trừ trong những từ mà anh ta tạo nên.
Bao
tình cảm đối với bậc sinh thành, Celan dồn hết cho bà
mẹ. Bà đã từng thủ thỉ với cậu con những vần thơ và cổ văn Đức. Ông
viết về bà
thật cảm động:
Và
mẹ có đau khổ không, mẹ, như mẹ đã từng đau khổ,
ôi
chao, một lần ở quê nhà,
Sự
dịu dàng, tiếng nói Đức, điệu ru đau buồn đó.
Celan
không làm sao quên nổi cái chết của bà mẹ. Vào năm
1942, một năm sau khi Đức xâm lăng, cha mẹ ông bị đưa đi trại tập trung
ở
Ukraine, nơi người cha chết vì bệnh ban đỏ, bà mẹ bị giết, hình như bị
bắn vào
sau cổ bởi lính Đức, sau khi bà ngã bịnh và không thể làm việc. Trong
một trại
cưỡng bức lao động khác tại Romania, người con sống sót, tìm được cách
qua
Vienna từ Bucharest, hai năm sau khi chiến tranh chấm dứt, và sau đó,
tới Paris
vào năm 1948, nhưng thực ra hồn ông vẫn quanh quất ở Ukraine, nơi bà mẹ
ngã
xuống. Ông đã viết về cái chết của mẹ, trong những vần thơ đầu, bằng
những từ
giản dị không thể chịu được:
Cây
Bạch Dương
Bạch
Dương lá trắng trong đêm
Tóc
mẹ tôi chẳng bao giờ bạc...
Vòng
sao, cây cuộn vòng vàng
Trái
tim mẹ tôi bị cắt bằng dây chì.
Cửa
sồi kia, ai ép mi kẽo kẹt
Mẹ
dịu hiền của tôi chẳng thể trở về.
Đối
với Celan, ngôn ngữ độc nhất có thể diễn tả nỗi mất mát
lớn lao đó là tiếng Đức, tiếng được nói bởi những người đã gây nên điều
đó. Tuy
có thể nói được tiếng Romanian, tiếng Yiddish, bà thực tình cảm nhận
tiếng Đức
mới là tiếng mẹ đẻ của bà, như người con sau này đã từng khẳng định:
"Chỉ
trong tiếng mẹ đẻ, một người mới nói lên sự thực của riêng người đó.
Trong
tiếng nước người, thi sĩ nói dối." Ông đã nói lên sự thực của riêng
ông,
bằng tiếng mẹ đẻ và cũng là tiếng của đám người đã giết bà.
Thực
sự, vào thời gian chấm dứt cuộc chiến, Celan chưa từng
suy nghĩ, ông sẽ là một thi sĩ. Và nếu như vậy, ông sẽ sử dụng ngôn ngữ
nào.
Ông "ở nhà", trong tiếng Romanian, và bị quyến rũ bởi những tính chất
riêng của nó, cảm thấy thích hợp với dòng thơ siêu thực mà nhiều thi sĩ
Romania
thời đó thường làm. Ông hầu như cũng "ở nhà", với tiếng Pháp, và
tiếng Nga - ông đã từng viếng thăm Paris trước chiến tranh và có ý định
trở nên
một sinh viên y khoa- và ngay cả trong thời gian chiến tranh ông đã
dịch những
thi sĩ được ông yêu thích như Esenin, và Mandelstam.
Suốt cuộc đời, ông dịch đủ loại thi sĩ -
Marvell, Housman, Emily Dickinson... và rất nhiều thi sĩ khác nữa -
nhưng sự
thực của riêng ông chỉ có thể thốt lên bằng tiếng mẹ đẻ, tiếng của bọn
đao phủ.
Như
Mandelstam mà ông ngưỡng mộ, theo đó, thi ca giản dị chỉ
là "văn hóa thế giới", Celan cho cảm tưởng, ông có thể đem vào thi ca
mọi điều Âu châu và Mỹ châu có thể dâng hiến, trong khi cùng lúc, vẫn
là chính
mình, một cách trọn vẹn, một cách đau thương, tức tưởi. Nghịch lý này
cũng thật
hiển nhiên, ở Kafka - Celan đã dịch một số truyện của Kafka qua tiếng
Romanian,
vào lúc cuối cuộc chiến. Kafka đã làm những độc giả nước ngoài say mê
ông ngạc
nhiên, khi tỏ ra là một người tin tưởng mạnh mẽ, và ái quốc, đối với Đế
Quốc Hapsburg
cổ xưa. Cũng vậy, Celan coi Vienna, một trong những thành phố bài-Do
thái
nhất Âu châu, như Thánh địa thiên nhiên
của bất kỳ một dân tộc Trung-Âu có văn
hóa: Những dân tộc ngoại vi Đế quốc Áo-Hung đã nhìn Vienna như ngôi nhà
tinh
thần của họ.
Ở
đó, Vienna, vào năm 1947, Celan đã tạo dựng con đường của
ông một cách gian khổ, khó khăn. Ông tự trình diện, cùng những bài thơ
của mình
trứớc một tạp chí. Một người quen biết hồi đó, sau đó viết, về mặt văn
chương,
không biết ông ở đâu chui ra, một nhận định "cha chú" làm bực mình
những đồng hương của Celan, ở Bucharest. Một nhà xuất bản Thuỵ sĩ còn
hùa theo,
khi ca ngợi một cách ngây thơ, Celan đã "vượt mọi khó khăn" làm chủ
được tiếng Đức đến có thể làm thơ bằng tiếng đó. Làm sao một anh chàng
Do thái-Romanian
trẻ tuổi từ một vùng đất nhà quê hủ lậu lại có thể làm được điều này?
Nhà xuất
bản nói trên đã xuất bản một số thơ của Celan vào năm 1948, bài Cây
Bạch Dương
được xuất bản ba lần trong cùng năm. Như chúng ta đã biết, bà mẹ đã
từng thủ
thỉ đọc cho cậu con nghe Goethe và Schiller, đã nuôi dưỡng cậu ngay từ
khi còn
nhỏ trong thế giới của Holderlin và Rilke, mặc dù bà đã đôi khi nghi
ngờ tài
thi phú cùng là tương lai của cậu. Và tuy hai mẹ con thân thiết như
vậy, bà
chẳng bao giờ để mắt tới những vần thơ Đức của ông, thi sĩ đã có lần
chua xót
ghi nhận.
Lý
do chính của danh vọng tức thời - một điều sau này Celan
ân hận và gần như loại ra khỏi cuộc đời của ông - đó là từ một bài thơ
"lạ
thường" mà ông làm liền sau khi chiến tranh chấm dứt,
"Todesfugue", "Tẩu Khúc của Thần Chết". Thực ra bài thơ lần
đầu xuất hiện trên báo Romania, do một người bạn của Celan dịch, mặc dù
bản
thân ông có thể làm điều này. Tên của bài thơ khi được dịch là "Tangoul
Mortii", "Điệu Tango của Thần Chết".
Không
phải chỉ riêng Celan là người đầu tiên đặt tên bài thơ
của ông là "Tango của Thần Chết". Một tên
sĩ quan SS cũng mơ mộng với cái tên đó, và
đã từng ra lệnh cho
một dàn nhạc Do thái ở một trong những trại tập trung soạn và chơi bản
nhạc có
tên như vậy. Cũng vẫn điệu Tango đã từng được chơi tại Paris khi Celan
ở đó vào
đầu năm 1939. Ban nhạc sau đó đã "phục vụ" Hitler và Goebbels, cả hai
đều thích điệu Tango, thay vì Jazz của New York, bị coi là thoái hóa.
Cho
dù Tango (văn minh Mỹ châu La tinh) hay Fugue (văn hóa
âm nhạc Đức), bài thơ khác thường của Celan không như bất kỳ một "cái
gì
khác" - một nghệ phẩm thực sự, nguyên sơ nào cũng bắt buộc phải như vậy
-
không giống ngay cả những điều ghê tởm mà nó đã diễn tả, hoặc nó từ đó
mà ra.
Không phải bài thơ đã "chuyên chở" những điều ghê tởm "bầy ra
đấy", nhưng nó tạo nên một viễn ảnh tuyệt đối, của riêng nó, về chúng:
Bắt
buộc phải như vậy, thi ca vĩ đại "đẻ ra" thế giới của riêng nó.
Chúng
ta có quyền nghi ngờ, có một nghịch lý ở đây. Có một
điều đáng nghi ngờ về sự "thành công mang tính đại chúng" của bài thơ
"Tẩu Khúc của Thần Chết" ở Đức, sau khi chiến tranh chấm dứt, đặc
biệt trong giới trẻ, trở thành trò thờ phụng, sùng bái. Auden đã từng
nói:
"Không một thi sĩ nào có thể ngăn cấm chuyện thơ của người đó được sử
dụng
như là trò phù thuỷ." "Tẩu Khúc của Thần Chết" đã đem đến cho
người Đức một niềm khuây khỏa "lớn lao, kỳ diệu", ngang xứng với khôi
hài đen, một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng thời: "Người Đức sẽ
chẳng
bao giờ có thể tha thứ cho người Do thái về Auschwitz." Nhưng bài thơ,
chính bài thơ, trong sự thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn dửng dưng trước
tất cả
những phản ứng "ngoắt ngoéo", và luôn cả những đáp ứng của trái tim
con người.
Tác
giả của nó không được may mắn như vậy.
Trong
những lần nói chuyện sau đó ở Đức, về thơ ca của ông,
Celan đã kết hợp mọi trò lịch sự, nhãn nhặn qua một lời nhắc nhở "sắc
bén" rằng, tính "hài âm", thuận tai, của thi ca truyền thống
Đức, trong những năm chiến tranh đã có thể, "nhiều hay ít không bị bực
bội, gây rối, để rong ruổi cùng với những điều ghê tởm nhất." Tính hài
âm
trong thơ của riêng ông không như vậy. Nó "đã là" sự bực bội, điều
gây rối. Và tuy nhiên, bằng một sự khôi hài khủng khiếp, cao độ, nó
cũng có thể
để cho sự bực bội nằm an nghỉ ở trong trái tim, trong tâm hồn người
Đức, những
người có thể "suy cảm" tội lỗi của họ một cách tuyệt vời, chẳng đau
đớn một chút nào, thông qua môi trường đại chúng của bài thơ.
Chẳng
có gì là ngạc nhiên, nếu sau đó Celan từ chối, không
cho phép sử dụng bài thơ trong những bài đọc, hay được in lại trong
trong tuyển
tập thi ca phổ thông. Cũng chẳng có gì là ngạc nhiên, khi ông cảm thấy
khốn khổ
khốn nạn, mỗi lần thăm viếng nước Đức, và được đón rước rộn ràng, được
ca tụng
và trao bằng khen, giải thưởng. Ông tự cảm thấy ông là một người Do
thái đã
được "thuần hóa", một người mà thơ ca nổi tiếng làm cho người Đức cảm
thấy thoải mái hơn: tệ hại hơn thế nữa, thơ ca của ông đã được "hạ cấp
hóa", trở thành một loại nhạc pop. Thế hệ trẻ có thể nghe, vừa mua vui,
vừa chọc quê, vừa dễ dàng kết án đám đàn anh của họ.
Chẳng
có gì, trong số những điều vừa kể, ảnh hưởng tới hiệu
năng, sức mạnh lạc hồn lạc phách, không có chi để bàn cãi nữa - của
"Tẩu
Khúc của Thần Chết". Bài thơ đã được John Felstiner, tác giả cuốn
"Paul Celan: Thi sĩ, Kẻ Sống Sót, Một người Do thái" (Yale University
Press, 344 trang, 1996), dịch qua Anh ngữ một cách tuyệt vời, và nói về
từng
chi tiết của bài thơ, từ khúc mở đầu, lừng danh:
Black
milk of daybreak we drink it at evening
we
drink it at midday and morning we drink it at night
we
drink and we drink
we
shovel a grave in the air there you won't lie too cramped
A
man lives in the house
he
plays with his vipers he writes
he
writes when it grows dark to Deutschland your golden hair
Margareta
he
writes it and steps out of doors and the stars are all
sparkling
he
whistles his hounds to come close
he
whistles his Jew into rows has them shovel a grave in the
ground
he
command us play up for the dance
Black
milk of daybreak we drink you at night
we
drink you at morning and midday we drink you at evening
we
drink and we drink
A
man lives in the house he plays with vipers he writes
he
writes when it grows dark to Deutschland your golden hair
Margareta
Your
ashen hair Shulamith we shovel a grave in the air there
you won't lie too cramped...
(Tạm
dịch:
Sữa
đen hừng đông chúng ta uống buổi chiều
chúng
ta uống trưa, sáng, chúng ta uống đêm
chúng
ta uống và chúng ta uống
chúng
ta đào huyệt trên không như vậy bạn sẽ không bị nhồi
nhét
Một
người đàn ông sống trong căn nhà anh ta chơi với rắn anh
ta viết
anh
ta viết anh ta viết khi bóng tối tới Đức, tóc vàng của
bạn Margareta
anh
ta viết nó và ra ngoài cửa
và
muôn sao lấp lánh
anh
ta huýt chó săn ti gần
anh
ta huýt đám Do thái đứng thành hàng đào huyệt dưới đất
anh
ra lệnh chúng ta hãy cố mà vui chơi nhẩy nhót
Sữa
đen hừng đông chúng ta uống bạn lúc đêm
chúng
ta uống bạn lúc sáng, trưa, chúng ta uống bạn lúc
chiều
chúng
ta uống và chúng ta uống
Một
người đàn ông sống trong căn nhà anh ta chơi với rắn anh
ta viết
Anh
ta viết khi bóng tối tới Deutschland tóc vàng của bạn
Margareta
Tóc
tro của bạn Shulamith chúng ta đào huyệt trên không bạn
sẽ không bị nhồi nhét...) -
cho
đến khúc cuối, như điện giật. Khúc này đã xuất hiện
trong bài thơ ở những nốt khác nhau, khi được lập lại. Tác giả cuốn
sách đã
không chuyển ngữ (trong những đoạn lập lại, ông đã cho thấy nghĩa của
nó: Death
is a Master from Germany/Your golden hair Margareta/Your ashen
Shulamith), cho
nên, những từ tiếng Đức xuất hiện giống như sự trở về của những hồn ma
trong
bản dịch của ông:
...
der Tod ist ein Meister aus Deustchland
dein
goldenes Haar Margarete
dein
aschenes Haar Shulamith
Một
số bài thơ của Celan nổi tiếng là cực kỳ khó hiểu, nhưng
chúng và ngôn ngữ của chúng có cùng phẩm chất tuyệt đối: luôn luôn là
chính nó
và không là gì khác. Bởi vậy độc giả cũng đừng quá đòi hỏi "hiểu"
chúng một cách trọn vẹn.
Về
vấn đề ngôn ngữ, Celan quan tâm tới Heidegger, triết gia
hiện sinh, ông vua bí mật của tư tưởng, như Hannah Arendt đã gọi ông.
Một bài
thơ kỳ lạ và cảm động của Celan có tên "Todtnauberg", nơi Heidegger
sống ẩn dật, ở đó nhà thơ đã gặp gỡ triết gia, một người cho đến khi
chết vẫn
im lặng về số phận của những người Do thái, cũng như về quá khứ chính
trị của
ông. Có người nói Heidegger luôn tự coi mình là kẻ vắng mặt, và chẳng
bao giờ
tiếp Celan, nhưng liên hệ giữa hai người, gặp gỡ hay thư từ, cho thấy
thái độ
thân mật và có ích cho Celan.
Trong
những năm tháng muộn màng cuối đời, Celan rất cô đơn,
và suy sụp. Khi được trao tặng giải thưởng Bremen Prize cho thơ của ông
vào năm
1958, ông tỏ ra thực tình biết ơn, nhưng bài cảm tạ của ông cho thính
giả thấy
Denken và Danken - suy nghĩ và cám ơn, vốn từ cùng một nguồn - hai
tiếng này
nhắc nhở chúng ta tới "những kẻ khác" cũng nói cùng "ngôn ngữ
của chúng ta", một mỉa mai cay đắng của một người Do thái thời kỳ
hậu-chiến tại Đức.
Mặc
dù nhiều bạn, sự cô đơn của ông đã ăn ruỗng mọi ngõ
ngách của tâm hồn, của cuộc đời ông, như "một người của không ai".
Ông luôn đau nỗi đau mà nhà văn, triết gia Do thái Emmanuel đã từng gọi
là
"cơn mất ngủ trên chiếc giường đời".
Trong
một đêm tối trời, vào năm 1970 ông đi xuống một cây
cầu trên sông Seine, và chẳng ai thấy ông trầm mình, thi hài ông mãi
sau mới
tìm thấy ở cuối sông. Trên bàn viết của ông tại một căn phòng Tả Ngạn,
Paris,
là tiểu sử của Holderlin, có một câu Celan gạch dưới: "Đôi khi thiên
tài
này trở nên âm u, và chìm vào cái giếng chua cay là trái tim của mình."
"Paul
Celan est mort", "Paul Celan đã
chết", một tuần báo hàng đầu của nước Pháp loan tin nóng hổi trên trang
nhất. Nhưng bài viết kể thêm, ông thuộc loại nhà thơ "vô danh",
unknown, tại Pháp, xứ sở mà ông đã từng chọn lựa, mặc dù bao lần được
Israel
mời gọi. Nhưng bài thơ cuối cùng của ông, viết trước khi chết không
lâu, mang
tên "Gửi về Sabbath."
(Theo bài viết của John Bayley,
The New York Review of
Books, Nov 14, 1996)
Chekhov:
Cửa vào Vĩnh Cửu
"Một trong những
nhà văn 'phá hoại, lật đổ' sâu thẳm nhất từng có mặt trên cõi đời này":
rất ít người, ngay cả trong số những độc giả ái mộ Chekhov, đồng ý với
nhận
định trên của Simon Karlinsky, người tuyển chọn, và bình luận một số
thư từ của
nhà văn Nga thường vẫn được coi là "hiền lành" này. (Anton Chekhov's
Life and Thought: Selected Letters and Commentary, Michael Henry Heim
và Simon
Karlinsky dịch từ tiếng Nga, 494 trang, nhà xb Northwestern University
Press,
1997).
Khác
với tiểu thuyết của Dostoevsky: cơn lũ ma quái, của cái
gọi là tâm lý con người, kịch và truyện của Chekhov là về những con
người bình
thường, với cuộc sống nhàm chán, vô vị của họ. Trong khi Tolstoy rao
giảng chủ
nghĩa vô chính phủ chống lại Nhà Thờ Nga, và Nhà Nước, Anton Chekhov
lặng lẽ
làm một ông thầy thuốc nhà quê, một ông chủ trại nho nhỏ, cho tới khi
tình
trạng sức khoẻ bắt buộc ông phải lui về sống những mùa đông ở Yalta.
Một cuộc
sống tránh né mọi vấn nạn nóng hổi của thời đại, cuối cùng cho thấy, sự
thiếu
vắng ý thức "dấn thân" như thế đó, đã làm cho những gì ông viết ra,
đầy chất phá hoại (subversive). Thái độ diễu cợt khi đả động tới "cái
đúng", "phải đạo", bây giờ mới cho thấy tính "tiên
tri" của nó. Ông "coi thường" rất nhiều những "tín lý"
của xã hội hiện đại, về tiến bộ, tự do, đạo đức cá nhân và (không như
Tolstoy),
ông đã không tìm cách thay thế những gì mà ông huỷ diệt, bằng những
"huyền
thoại" riêng của mình.
Xã
hội thời đó trông mong ở những nhà văn của nó, như những
người dẫn đường về ý thức hệ, đạo đức, trong cuộc chiến chống lại vương
quyền.
Trong khi những nhà phê bình cấp tiến đề cao những nhà văn "hạng nhì"
như Zlatovrasky và Gled Uspensky, với những nhân vật đối nghịch: thầy
tu, nhà
buôn, sĩ quan (những nhân vật phản diện xấu xa)/những người dân quê,
những con
người trẻ tuổi lý tưởng (những nhân vật với trái tim trong trắng),
Chekhov viết
thư cho vị chủ báo bắt đầu in tác phẩm của mình: Tôi chẳng cấp tiến,
chẳng bảo
thủ, chẳng tu sĩ, chẳng dửng dưng. Tôi chỉ muốn là một nghệ sĩ tự do,
và chẳng
cần chi nữa... Thái độ đạo đức giả, sự ngu si đần độn, hành động hiếp
đáp, cả
vú lấp miệng em, bạo chúa... ngự trị không chỉ ở trong những gia đình
con buôn,
những trạm cảnh sát. Tôi thấy chúng ở trong khoa học, văn chương, thế
hệ trẻ.
Đó là lý do tại sao tôi chẳng trông mong gì ở đó... Điều thánh thiện
nhất trong
mọi điều thánh thiện, riêng với tôi, đó là thân thể người ta, sức khoẻ,
sự
thông minh, tài năng, hứng khởi, tình yêu và... tự do - thoát ra khỏi
bạo lực
và những điều dối trá - không cần biết hai thứ sau mang hình dáng nào."
Sự
ghê tởm bạo lực và giọng ấm ớ đạo đức, Chekhov có rất
sớm, ngày càng lộ rõ. Ông có lần nhận xét (nhân nói về thái độ lý tưởng
của
Tolstoy đối với dân quê Nga): "Tôi nhà quê ở trong máu, và tôi chẳng hề
bị
xúc động bởi những đức hạnh của họ."
Ông
sinh năm 1860, được một tuổi là bãi bỏ chế độ nông nô.
Ông nội, ông ngoại là nông nô. Ông già trút được lốt nhà quê khi chen
chân làm
chủ một cửa tiệm tại thành phố Taganrog ở phía Nam nước Nga. Là con
trai thứ ba
trong sáu người, ông nhớ hoài nguồn gốc nông dân, chế độ gia trưởng tàn
bạo của
ông bố mà ông và hai người em trai là nạn nhân, chưa kể những giờ dài
đằng đẵng
quì trên đá lạnh, hát thánh ca tại nhà thờ, dưới con mắt khắc nghiệt
của ông
thầy dậy nhạc. Mười sáu tuổi, bị bỏ lại ở Taganrog, tự lo thân, khi ông
bố khánh
tận phải đem gia đình về Moscow tìm việc làm. Trong ba năm vừa học vừa
lo kèm
trẻ, ông làm được điều Tolstoy suốt đời mơ ước nhưng không sao thực
hiện được:
tái tạo ra chính mình, một con người như một toàn thể đạo đức, thoát ra
khỏi
những biến dạng, bởi chế độ bạo chúa vốn đè nặng đời đời kiếp kiếp lên
người
dân Nga.
Ông
trở thành đầu đàn trong gia đình, sự sống còn chỉ còn
trông vào số tiền ông gửi về. Cùng thời gian, ông lo tự trau giồi bằng
những
giờ tại thư viện thành phố. Thành quả của những năm tháng cô đơn đó,
chúng ta
có thể nhìn ra, trong thư viết cho người em, Nicolai: "để vượt lên khỏi
những ngọn roi khốc liệt thuở ấu thời, (em) phải làm sao tạo được sự
kính trọng
của những con người có nhân cách; phải tự kiềm chế trước hành động nông
nổi,
liều lĩnh, và lừa dối; không được ngừng đọc, nghiền ngẫm sâu xa, trau
giồi ý
nguyện của mình. Mỗi giờ là một hiếm hoi, quí báu." Vào năm ba mươi
tuổi,
ông đã chứng tỏ điều này, khi một nhà xuất bản coi ông là một nhà văn
"vô
nguyên tắc": "Tôi chưa từng nịnh bợ, nói dối, sỉ nhục bất cứ một
ai", "chưa từng viết ra một dòng mà tôi cảm thấy nhục nhã vì
nó."
Đời
văn của Chekhov bắt đầu, là để giúp đỡ gia đình, khi ông
được học bổng, và rời thành phố quê hương tới Moscow làm sinh viên Đại
học Y
khoa. Trước tiên là những bài viết nho nhỏ, gửi cho những tuần báo.
Thành công
đến nỗi, sau khi tốt nghiệp y khoa, ông "đành" phải chia thời giờ ra
làm hai, "giữa y học... người vợ hợp pháp, và văn chương... người tình
(bà
vợ bé), của tôi."
Truyện
ngắn của ông có một sắc thái riêng, đề tài đa dạng,
trải dài toàn cảnh nước Nga với những con người của nó. Chưa tới ba
mươi, ông
đã là một nhà văn lớn. Năm 1887, vở Ivanov cho ông danh hiệu: người
viết bi
kịch. Nhờ nó, ông mua được căn nhà cho gia đình, thuộc vùng ngoại vi
Moscow.
Trở thành nhân vật trung tâm của giới văn nghệ thủ đô, và của phái đẹp;
một số
người tình (trước khi có vợ, vào năm bốn mươi) sau này trở thành bạn
thân. Bạn
trai cũng "mê" ông: Họa sĩ Konstantin Korovin mô tả bạn mình
"cực kỳ đẹp trai", với đôi mắt dịu dàng, và một nụ cuời "e thẹn
lạ chi đâu", "toàn vẻ bề ngoài gây một sự tin cậy đặc biệt".
Niềm tin cậy đặc biệt này, là do tình nhân loại "chân trần", luôn
luôn bám vào đất của ông. Chính nó đem đến cho ông "một cái mũi rất
nhọn" chuyên trị mùi ghê tởm, của "thói đời".
"Tôi
có niềm tin vào sự tiến bộ, ngay khi còn là một đứa
bé, nhưng chuyện đó chẳng giúp tôi, khi không tin vào nó, bởi vì sự
khác biệt
giữa thời kỳ thấm đòn, và hết còn bị đòn, thật là lớn lao." Ông ngưỡng
mộ
thái độ lý tưởng của những người Nga cấp tiến, nhưng những lời hô hào
của họ
chỉ làm ông nhớ lại ấu thời: "Tôi quá ớn sự lạm dụng, bất kể nó nhắm
vào
ai." Ông buộc tội tầng lớp trí thức, do không tưởng nên bỏ qua những
thành
quả của zemstva - Những Thay Đổi Lớn, The Great Reforms, hay là những
định chế
mà chính quyền đưa ra vào thập niên 1860 - nhằm canh tân xã hội Nga. Về
những
tiến bộ trong ngành giải phẫu tại Nga trên hai thập niên trước đó, ông
có lần
đưa ra nhận xét, "nếu phải chọn lựa giữa không tưởng cấp tiến, được
miêu
tả như trong tiểu thuyết của Nicolai Chernyshevsky, What Is to Be
Done?, nổi
tiếng vào thập niên 1980, và bệnh viện tồi tệ nhất 'zemstvo', tôi chẳng
do dự
lấy một chút, khi ôm lấy bệnh viện."
Những
nghiên cứu, ghi nhận riêng của ông, về "việc
thiện", humanitarian work, thật đáng nể. Cuốn sách của ông về đảo tù
Sakhalin (The Island of Sakhalin, 1893, dựa trên số liệu từ những cuộc
thanh
tra tình trạng y tế ở đó) đã bầy ra cho cả nước Nga thấy sự khủng
khiếp, ghê
rợn của hệ thống nhà tù. Những cố gắng của ông trong việc cứu đói tại
vùng ông
vào năm 1891-1892, được kèm theo bằng những chuyến đi mệt nhoài, thường
lội bộ
suốt vùng băng giá, như một ông thầy thuốc không được trả lương có
nhiệm vụ
ngăn chặn một trận dịch, bên cạnh một trận đói. Ông đã chữa trị hàng
ngàn dân
quê tại y viện địa phương, hoạch định, tham gia việc xây cất trường
lớp, thư
viện, đóng góp tiền bạc cho những công trình phúc lợi, trong đó có việc
cứu trợ
một tờ báo y học bị khánh tận; mua ngựa phân phát cho dân chúng, làm
phương
tiện chuyên chở lúa gạo. Chính thái độ lăn sả vào cuộc sống hàng ngày
đã khiến
ông trở nên khinh khi, những phương thuốc về một "ngày mai ca hát",
hay rõ hơn, một cuộc cứu đói toàn cầu: nhân một chuyến thăm Venice, ông
đưa ra
nhận xét, một trong những niềm vui của "Đến thăm Venice rồi hãy
chết": thành phố thiếu vắng hẳn, những bộ mặt làm ra vẻ quan trọng, của
mấy ông Mác-xít. Khi đến thăm Hong Kong, ông nhận xét, so với người
Nga, người
Anh vậy mà đã nhiệt tình quan tâm tới những "người làm" (employees)
của họ. Ông viết, tôi chẳng hề tin, vào tầng lớp trí thức "en masse";
ông đặt để niềm hy vọng của mình, ở nơi những cá nhân, bất kể trí thức
hay nông
dân, rải rác khắp nước Nga, chỉ có họ là đáng kể: chỉ với những hiểu
biết,
những cố gắng của họ mà xã hội từ từ biến đổi.
Đề
tài trấn ngự, cơ bản của nghệ thuật
"Chekhovian", là từ cuộc chiến đấu đầu đời, cộng với những thực hành,
do nghề thầy thuốc mang lại: cuộc chiến đấu của những ước vọng con
người, chống
lại những hoàn cảnh "bất thuận lợi". Những năm tháng ở Taganrog đã
dậy ông một điều: những cuộc chiến đấu quan trọng nhất, mang tính đạo
đức,
"được hay thua" không phải vào thời điểm căng thẳng, bi đát, mà thông
qua một quá trình những chọn lựa chẳng có gì đáng kể, rất cá nhân.
Chúng ta có
thể nhận ra dáng dấp của "người hùng Chekhovian", qua lời khuyên của
ông, gửi tới nhà xuất bản, và cũng là bạn, Aleksei Suvorin, khi ông này
viết
một bi hài kịch truyền thống: Bạn không thể kết thúc với những người
theo chủ
nghĩa hư vô. Với họ, chỉ có bão tố, hung bạo. Điều vở kịch của bạn cần,
là một
kết cục êm ả, trữ tình, cảm động... Nếu nữ nhân vật của bạn, sau cùng
nhận ra,
những con người quanh cô, đều làm xàm, vô dụng, xấu xa... điều này
chẳng lẽ
không "khủng khiếp", hơn cả chủ nghĩa hư vô, hay sao?
Điều kỳ lạ, ở cái bình thường; thảm kịch, của
điều "chẳng có gì bi thảm", đó là đề tài kịch Chekhov, cùng với nó là
cuộc cách mạng kịch nghệ Nga, vào thập niên cuối đời ông. Vở kịch lớn
đầu tay,
Ivanov, vẫn còn giữ những yếu tố bi kịch truyền thống, đã được đón nhận
khá
nồng nhiệt; vở kế, The Seagull (trong đó, ông đưa ra kỹ thuật của mình,
bỏ đi
những "mưu đồ" kịch mang tính ước lệ), đã là một thất bại thê thảm,
ngay đêm đầu được trình diễn, vào tháng Mười, 1896; nhưng lần trình
diễn thứ
nhì, tại Moscow vào năm 1898, đã được nồng nhiệt đón nhận, cũng như
những vở kế
tiếp: Uncle Vanya, Three Sisters, và vào tháng Giêng 1904, The Cherry
Orchard.
Sự kiện "chẳng có gì xẩy ra", ở trong kịch Chekhov, đã trở thành
"dấu ấn" của ông, nhưng giới phê bình lại coi đây là khả năng tạo nên
không khí, trạng thái kịch, chúng thường được cắt nghĩa như những gợi
nhớ u
buồn về một nước Nga tranh tối tranh sáng, khi những bậc trưởng thượng,
đại
diện cho giai cấp đang hấp hối, "nhìn ngắm những cuộc đời thừa thãi của
họ."
Richard
Gilman, trong "Kịch Chekhov: Cửa vào Vĩnh
cửu" (Yale University Press, 261 trang, 1997), đả phá những nhận định
"bản kẽm" như thế. Ảnh hưởng
Francis Ferguson, khi coi The Cherry Orchard là "thơ-kịch của nỗi khổ
đau,
do tang thương dâu bể", Gilamn tiếp cận kịch Chekhov: "một điều giả
dụ như là không-bi đát"; "miêu tả, không phải một hành động, nhưng
một điều kiện"; nỗi thống khổ ở đây là do cảm nghĩ của chúng ta - những
con người sinh tử lão bịnh - về thế gian; chúng ta: mồi ngon của thời
gian, và
của đổi dời. Khả năng của Chekhov - khi "bi đát hóa" nỗi
"không-bi đát", thảm kịch của điều vô ích, của chuyện thường ngày -
thật mãnh liệt, ở Three Sisters, trong đó, bước đi thời gian sói mòn
dần mọi hy
vọng về tương lai vẹn toàn, qua chuyến về thành phố, nơi đồng nhất với
quá khứ
lý tưởng của họ. "Nó đâu mất rồi? Đâu? Đâu? Chúng ta sẽ chẳng bao giờ
trở
về được Moscow, chẳng bao giờ... giờ này, tôi thấy rõ điều đó."
Như
Gilman chỉ ra, rất nhiều nhân vật của Chekhov mong ước
trở nên một người nào khác, ở một nơi chốn nào khác, "kịch" bắt họ
trở về nơi chốn, con người, là họ hiện giờ. Nhưng ở đây không có vấn đề
"số mệnh, căn phần". Diễn tiến đơn tuyến, ước lệ đưa đến nút mở chót,
được thay thế bằng điều mà Gilman gọi là "trường bi kịch" (dramatic
field): chuỗi phản ứng đưa đến cảm nhận về sự mất mát. Chúng ta chỉ
nhìn thấy
những nhân vật, một khi, bị giam cứng vào vùng ao tù đóng váng, họ
chẳng còn
chi để mà vui đùa, giải trí, ngoại trừ những câu nói dấm dẳn, những mẩu
chuyện
nhát gừng, đong đưa giữa hoài nhớ, và nhận thức, được đánh dấu bằng
những trống
vắng, bằng đột biến, từ khôi hài qua nghiêm trọng. Như Karlinsky chỉ
ra, một
trong những tư tưởng "chìa khóa" của Chekhov, là trong bản tự thuật
tóm tắt (resumé), theo đó, tác giả khẳng định, nghề y của ông đã có một
ảnh
hưởng quan trọng đến sáng tác văn học. Ông nhấn mạnh, nhà văn phải
trung thành
với thực tại thực nghiệm, về thế giới, hành vi cư xử của con người; và
đưa ra
những nhân vật, với những cái nhìn "khách quan tuyệt hảo". Khi một
truyện ngắn của ông bị coi là không có
một thái độ rõ ràng về chủ nghĩa bi quan, ông trả lời: công việc của
nhà văn
không phải là giải quyết những vấn đề như là Thượng Đế, bi quan...
nhưng ghi
nhận, ai, trong điều kiện nào, đã nói, hay đã nghĩ thế này thế nọ, về
Thượng
Đế, về bi quan.
Trên
tờ TLS, July 18, 97, John Stokes, khi điểm cuốn Anton
Chekhov: A Life (Donald Rayfield, nhà xb HaperCollins, 674 trang,
1997), đã cho
rằng chủ nghĩa nhân bản Chekhovian, vốn nhập thân vào những nhân vật
thầy
thuốc, mãnh liệt, vì nó kính trọng "tiếng hát nhân ngư" từ cõi tư
riêng (the siren-songs of privacy), từ nỗi bầm rập, té lên té xuống,
của con người.
Những đức hạnh của con người, "chân thật nhất, hướng thượng nhất, nhưng
cũng khó khăn nhất", có cội rễ ở từ "Sod", tên con mongoose, hay
mangu, của Chekhov. Ông nói, những đặc tính của con vật, là "can đảm,
tò
mò, và rất mến con người". Con vật Sod tội nghiệp có cơ hội là bỏ chạy,
cuối cùng chấm dứt cuộc đời, tại Sở Thú Moscow. Chủ của nó cũng chia sẻ
với con
vật thân yêu của ông, "đặc tính" chạy trốn đó, nhất là khi có đàn bà
dính vô! Rayfield cho biết Chekhov sợ sex như sợ bệnh nghiền; nếu ông
đầu hàng,
nó sẽ tiêu huỷ tự do và tài năng sáng tạo của ông. Thù Zola, khi miêu
tả những
cuộc tình "nhà nghề, thô bỉ", ông đã viết về một gái điếm Nhật,
"nghề riêng ăn đứt", đến nỗi "bạn cảm thấy không phải đang tình
tự, mà là tham dự một lớp cao học, về nghệ thuật cưỡi ngựa." Tuy đẹp
trai,
nhưng qua cuốn tiểu sử của Rayfield, chúng ta thấy đây là một con người
với
những cuộc tình "bỏ đi". Thê thảm nhất là cuộc tình với
"Lika" Mizinova, một người đẹp nghệ sĩ. Trong nhiều năm họ chia sẻ hoan
lạc, hiến dâng, và sự lạnh lùng, dửng dưng.
"Tin
tưởng vào Chúa, một chuyện quá dễ dàng. Đám
"mật vụ" nhà thờ người Tây Ban Nha (inquisitors), tin vào Chúa.
Không, bạn phải tin vào con người! Niềm tin này, chỉ có thể khả hữu, ở
một số
rất ít những con người hiểu và cảm thấy Christ.", một truyện ngắn Giáng
Sinh của Chekhov đã kết thúc như vậy, nhưng đã bị kiểm duyệt đục bỏ.
(Theo
bài viết "Chekhov, the Subversive", của
Aileen Kelly, NYR Nov 6, 1997; và
"The Human Virtues", của John Stokes TLS July 18, 1997).
|