Tạp Ghi
|
37.
Tahar
ben Jelloun: Nhà văn không phải là một ông chủ tiệm.
(A writer is not a shopkeeper).
Câu trên của Tahar ben Jelloun, người Marốc,
viết văn bằng tiếng Pháp, trong một cuộc phỏng vấn trên tờ Điểm Sách
Paris, số Mùa Thu 1999.
Ông hiện nay là một trong những nhà văn nổi
tiếng nhất ở Pháp. Cuốn sách “Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc được giải
thích cho con gái của tôi” (Le Racisme expliqué à ma fille, Racism
explained to My Daughter), là một best-seller. Đêm Thiêng, La Nuit
Sacrée, được giải Goncourt 1987, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của một
nhà văn Ả rập được vinh dự này. Tên ông có trong danh sách chót của
giải Nobel văn chương trong hai năm vừa qua.
Ông sinh tại Fez, Morocco (Marốc). Gia đình
ba trai, một gái, sống tại một căn phòng nhỏ, trong khu vực mang dấu
vết thời trung cổ đẹp nhất thành phố. Cha là chủ tiệm bazzar, sau
chuyển qua thợ may, sản xuất những chiếc áo dài dành cho đàn ông Ả rập
(djellabas).
Năm tuổi, ông vào một trường học dậy kinh
Koran, nơi ông phải nhớ và học thuộc lòng những dòng kinh trên. Hai năm
sau, chuyển qua trường Ả rập-Pháp, học tiếng Pháp buổi sáng, và buổi
chiều, tiếng Ả rập. Một học sinh chăm chỉ, nghiêm túc: Ngay từ nhỏ, tôi
đã cảm nhận cái trách nhiệm phải đứng bằng đôi chân của mình (Very
early, I felt the responsibility of standing on my own feet). Sau đó
ông học triết tại Đại học Rabat.
Vào năm 1971, 26 tuổi, ông di cư qua Pháp,
hoàn tất việc học tại đại học Sorbonne. Sau đó, làm nghề chuyên viên
tâm thần ở Paris. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, “Harrouda”, xuất
bản năm 1973. Tiếp theo là 9 cuốn tiểu thuyết, và vài tập truyện ngắn,
thơ ca, và tiểu luận. Ông có lẽ được biết đến nhiều nhất, qua tiểu
thuyết bộ ba (trilogy) viết về cuộc đời của Ahmed/Zahra, một cô gái mà
người cha, vì quá thất vọng không có một đứa con trai nối dõi tông
đường, đã nuôi dậy cô bé như là một con trai: The Sand Child (L’enfant
de sable, Đứa trẻ cát), một best-seller ở Pháp; Đêm Thiêng, và cuốn vừa
mới xuất bản La Nuit de l’erreur (Đêm Lầm, bản tiếng Anh, The Wrong
Night sắp xuất bản).
Dưới đây là chuyển ngữ cuộc phỏng vấn, được
thực hiện tại văn phòng của ông ở khu St-Germain des-Prés, gần ngay bên
nhà xuất bản Seuil, và quán Café de Flore, nơi ông thường ngồi với bạn
bè.
Người phỏng vấn: Ông sinh ra, và được nuôi
nấng như là một người Marốc. Tiếng nói mẹ đẻ của ông là Ả rập, tuy
nhiên, ông chọn viết văn bằng tiếng Pháp. Cho phép tôi được hỏi: tại
sao?
Tahar ben Jelloun: Sự thực, tôi song ngữ.
Ngôn ngữ đầu tiên, Ả rập; nhưng sau đó tôi học một trường song ngữ. Khi
khởi sự viết, như là một anh chàng thanh niên không tham vọng văn
chương, tôi cảm thấy hạnh phúc làm điều này, với tiếng Pháp. Vào thời
điểm đó, nó không phải là một “chọn lựa” mang tính ý thức.
-Có thể là do ông đọc nhiều tác giả Pháp hơn
tác giả Ả rập?
-Có thể. Nhưng còn do tôi coi tiếng Ả rập là
“cây nhà lá vườn”, chẳng bao giờ mất, nên đâu cần phải mất công với nó.
Một cách vô thức, tôi cho rằng, phải đầu tư hết nghị lực vào một ngôn
ngữ ngoại. Nó hầu như còn là một thách đố, một cú thúc vào đít. Vào lúc
hai mươi tuổi, tôi bắt đầu mê viết, và cứ thế “chơi” luôn tiếng Tây.
Những nhà trí thức trong thế giới Ả rập đã chỉ trích tôi, đôi khi thật
dữ dằn, vì đã không viết bằng tiếng Ả rập. Thật đau cho tôi. Thường ra,
động cơ chỉ trích thật đáng ngờ.
-Chắc chắn là, sau khi ông được (giải thưởng
văn chương Pháp) Goncourt, còn có sự thèm muốn xen vô nữa?
-Có thể. Nhưng câu trả lời là: tôi viết bằng
một ngôn ngữ mà tôi có thể làm chủ một cách diệu nghệ. Một bản văn, bài
đọc (lecture) bằng tiếng Ả rập, được thôi, nhưng tiểu thuyết, là phải
tiếng Tây. Bởi vậy, vì kính trọng tiếng mẹ đẻ cho nên tôi không được
quyền “tàn sát” nó.
-Ả rập là một ngôn ngữ rất giầu có, uyển
chuyển: chỉ với một từ gốc gồm hai hoặc ba phụ âm, người ta có thể xây
dựng cả một tự vựng nào nghĩa đen nghĩa bóng, nào hoa lá cành. Một
tiếng nói đã sản xuất ra thơ ca lớn, văn xuôi lớn. Trên tất cả, đây còn
là một ngôn ngữ thiêng, như ngôn ngữ Hebrew – Thượng Đế đã nói bằng
ngôn ngữ này. Vậy thì, như ông nói, đây không phải là thứ ngôn ngữ để
giỡn chơi, hoặc coi thường. Ông đã học nó ở trường lớp?
-Tại trung học, chúng tôi học những tác phẩm
cổ điển Ả rập. Tôi bị cuốn hút bởi sự giầu có và tinh tế của nó, khi
tôi bắt đầu dịch thuật. Do làm chuyện này, tôi lại càng cảm thấy chớ có
“táy máy” với nó. Như ông biết đấy, vì là một ngôn ngữ thiêng, được
Thượng Đế ban cho qua bộ kinh Koran, con người cảm thấy kinh ngạc, sợ
hãi, thấy mình nhỏ bé trước ngôn ngữ này. Adonis, một nhà thơ lớn người
Lebanon, có lần nói với tôi: tiếng Ả rập chưa từng gặp một nhà văn nào
mạnh hơn nó, đủ khả năng khuất phục nó. Người ta nói về tiếng Anh như
là ngôn ngữ của Shakespeare, tiếng Ý, tiếng của Dante, nhưng đừng nói Ả
rập là ngôn ngữ của al-Ghazali – nó luôn luôn là ngôn ngữ của kinh
Koran. Táy máy với nó là mang tội (one would feel almost guilty
manipulating it).
-Nhưng biết đâu, người ta viết bằng tiếng
Tây, hay tiếng Anh, là để có lắm người đọc?
-Đây là do tình hình
chính trị, một hình ảnh xấu về thế giới Ả rập. Nó ảnh hưởng tới sự phát
triển văn hóa Ả rập. Thật bất công (unfair) – có rất nhiều nhà thơ, nhà
văn lớn Ả rập chưa được biết tới. Như thể văn hóa của một xứ sở tùy
thuộc vào hoàn cảnh kinh tế-chính trị. Hiện nay, Ả rập được coi là tiếng nói của
hai trăm triệu con người. Tiếng Ba tư là cả một nền thi ca lớn. Cả hai
trở thành những ngôn ngữ thiểu số. Hiện tại Tây phương ngó về Viễn
Đông, và bỗng nhiên, mọi người khám phá ra những nền văn hóa Nhật bản,
Trung quốc. Thật khó mà thay đổi được tình trạng này, một khi mà hình
ảnh những xứ sở Ả rập còn đục ngầu vì chính trị; văn hoá Ả rập sẽ còn
đau khổ vì những hậu quả trên.
-(Nhà văn người Mỹ gốc Do thái) John Updike
có lần nói với tôi, khi tới Ai cập, ông đã gặp những nhà văn tuyệt vời
mà hoàn toàn vô danh đối với Tây Phương – đây là trước khi Naguib
Mahfouz được Nobel văn chương – trong khi đó, ông ta hay một tác giả
dòng Anglo-Saxon vừa mới hỉ mũi một cái, thế là thiên hạ xúm lại chuyển
ngữ, nghiên cứu, phê bình nghị luận loạn cả lên, bằng cả chục thứ ngôn
ngữ trên thế giới.
-Văn
hóa Tây phương được quan tâm nhiều hơn, và không đảo lại được. Tôi có
thể làm một bài đọc về Faulkner ở Mỹ, như bất kỳ một nhà trí thức nào
trong thế giới Ả rập; chẳng ai kinh ngạc về chuyện này. Trong khi đó,
sự hiểu biết ở Tây phương về những nhà văn của chúng tôi thật ít ỏi,
hạn hẹp ở một số nhà chuyên môn được gọi là Những nhà Đông phương học.
Tôi hy vọng, một ngày nào đó, tình trạng này sẽ thay đổi, và chẳng bao
lâu nữa, kho tàng giầu có là những nền văn chương Ả rập và Ba tư sẽ
được khám phá tại bất cứ nơi nào trên thế giới, vì lợi ích của nhân
loại.
-Tôi cũng hy vọng như ông. Nhưng có thể tôi
và ông quá lạc quan. Ông có nghĩ rằng, một khi viết bằng tiếng Ả rập,
những tác phẩm của ông sẽ khác đi?
-Lẽ dĩ nhiên. Bởi vì ngôn
ngữ chẳng những là một dụng cụ, nó còn là cả một bộ những cơ chế tinh
thần, như mớ hành trang lỉnh kỉnh mà con
người mang theo cùng với mình suốt cuộc lữ. Văn hóa tiếng Tây phát
triển hơn văn hóa tiếng Ả rập. Vả chăng, như tôi đã nói, Ả rập là một
ngôn ngữ thiêng, những tác giả Ả rập kính sợ, và họ không thể sử dụng
bạo lực chống lại nó.
-Những tác phẩm sẽ khác
đi, chẳng hạn như thế nào?
-Hãy bắt đầu bằng đề tài:
có những điều tôi không thể đụng vô, nếu viết bằng tiếng Ả rập, thí dụ
như dục tính, hay phê bình cách xử sự của nhân vật, nếu nó liên can tới
tôn giáo. Chi ly từng chi tiết không hiểu sao, nhưng sẽ có nhiều cấm kỵ.
-Còn dục tính, ông sẽ
“tiếp cận” bằng đủ mọi cách?
-Có những bản văn huê
tình (erotic) quan trọng trong văn chương cổ điển Ả rập thế kỷ 14, 15,
thí dụ như The Scented Meadow (tạm dịch Hương Đồng Nội Cỏ), của nhà văn
Shaykh Naszawi (thế kỷ 14); đây là một Kamasutra của thế giới Ả rập.
Tôi có thể viết theo cùng một mạch. Nhưng một khi viết, khó mà biết
được “một trăm phần trăm” ngòi bút sẽ dẫn dắt bạn tới đâu – có những
chuyện xẩy ra một cách tự nhiên; bởi vậy, tôi cho rằng, nếu làm chủ
được ngôn ngữ, tôi có thể đề cập tới dục tính bằng tiếng Ả rập, nhưng
điều này ngoài sức tôi.
-Có Kama-sutra của Ấn, có
thi ca huê tình của những nhà thơ Ả rập, thí dụ như nhà thơ Abu Nawas.
Nhưng những diễn tả phòng the xê dịch (differ) giữa những nền văn hóa
và những ngôn ngữ. Văn chương phòng the Ả rập khác với của chúng tôi
theo cách nào?
-Tôi nghĩ quan niệm về
huê tình của Đông phương rộng hơn, và tinh tế hơn, so với của Tây
phương. Thí dụ như, trong Ngàn Lẻ Một Đêm có một “mảnh quần hồng quan
trọng” (an important erotic element), nó là một trong những chìa khóa để hiểu Đông
phương. Nhưng hiện nay có vẻ như người ta e dè vấn đề này, trong thế
giới Ả rập, như thể họ sợ gây sốc, và đây là hậu quả của chủ nghĩa
chính thống (fundamentalism).
-Nếu ông sống ở Bắc Phi
và viết bằng tiếng Ả rập, ông sẽ viết lách ra sao, trong khí hậu chính
thống đó?
-Sẽ không thể viết, về
bất cứ điều gì. Đó là tự sát. Chủ nghĩa chính thống chống lại tự do nói
chung, và tự do đối với một nhà văn không chỉ là tự do ngồi xuống ghế
và viết, nhưng còn là tự do tư tưởng, thoải mái nói về chính mình. Bởi
vậy, tôi nghĩ, một xã hội chính thống chẳng đẻ ra một thứ gì, ngoại trừ
sự câm nín, hay là văn chương chống đối, viết từ lưu vong.
-Ông khởi sự viết, trước
tiên với thơ, vào năm nào?
-Thời điểm viết “nghiêm
túc”, là khi tôi ở đại học, 22 tuổi, học triết. Chương trình học như
Sorbonne. Vào năm 1966 tôi bị bắt cùng trên trăm sinh viên khác, do
hoạt động chính trị Tả phái, lẽ dĩ nhiên, như bất cứ người nào trong
thời kỳ đó. Thay vì tống vào tù, nhà nước bắt tụi tôi đi quân dịch
(nghĩa vụ quốc gia, national service), trước đó trong nước chưa hề có
chế độ quân dịch. Thế là tập tành, hít đất hít cát, quân trường đổ mồ
hôi như mọi tân binh khác, nhưng đây là một trừng phạt; nó gây sốc và
tôi phản ứng lại bằng một “trường ca” viết lén lút. Sau 18 tháng, được
thả, tôi nghĩ, có lẽ mình nên “công bố” bài trường ca viết trong “tù”,
bởi vì đây chính là “bổn phận” của người trí thức, phải “chuyển tải”
(transmit) một kinh nghiệm như thế! Bài thơ được in trên báo Soufle,
(Hơi thở), của Abdellatif Laabi, một thi sĩ Marốc. Bài thơ được nhiều
người khen ngợi, và tôi cảm thấy đây là một khích lệ đến từ phía độc
giả. Nếu bài thơ bị chê, có lẽ tôi quẳng bút, cũng nên. Phản ứng của
công chúng đối với một tác phẩm mới ra lò của một nhà văn “lần đầu tiên
trình làng”, là rất quan trọng.
Sau khi tốt nghiệp đại
học, tôi làm giáo sư trung học, môn triết, trong ba năm, trước ở
Tétouan và sau đó ở Casablanca. Vào năm 1971, tình hình chính trị ở
Marốc trở nên bất ổn – đảo chính, rồi lại có tin sắp đảo chính – tôi có
ý định nghỉ dậy học, học tiếp lấy bằng tiến sĩ. Tới Paris, vô Sorbonne,
nhờ một khoản trợ cấp (grant). Tôi nhập vô một môi trường thuận lợi.
Pháp là một nước hiếu khách, thật khó mà tưởng tượng không khí những
ngày này. Dân chúng không bị khiếp sợ bởi làn sóng di dân như bây giờ.
Ngay cả tôi cũng thấy ớn, mỗi lần đang đi phố bất thình lình đụng một
người lạ, thường vẫn là một câu trao đổi niềm nở, nhưng đôi khi bị
phang một câu: “Cút về nhà mày đi, đồ di dân dơ dáy”, hay một câu tục
tĩu khác.
Tại Paris tôi gặp được
những người đã giúp tôi tận tình. Thí dụ, tôi trở thành bạn với chủ bút
tờ Thế Giới; ông yêu cầu tôi viết về vấn đề di dân, và về văn hóa Ả rập
nói chung. Cùng lúc đó, tôi khởi sự viết cuốn tiểu thuyết đầu tay,
Harrouda. Tôi đưa nó cho Maurice Nadeau, ở nhà xuất bản Denoel. Ông rất
chú ý tới việc xuất bản những tác phẩm văn chương ngoại. Những tác phẩm
tới từ “không đâu”, và “mới”; ông chịu nó. Tôi khởi đầu là như vậy.
-Ông đã xuất bản một tập
tho trước cuốn tiểu thuyết đầu tay?
-Vâng. Bữa đó, tôi tới cơ
sở xuất bản của Francois Maspero, và đưa bản thảo cho bà xã của ông ta,
lúc đó lo về thơ ca. Bà quyết định in. Phản ứng của giới phê bình và
của công chúng thưởng ngoạn, phải nói là rất rộng lượng. In hai ngàn
cuốn, một con số khá lớn, vào những ngày đó.
-Có nhiều nhà văn Bắc Phi
khi đó, hay chỉ lèo tèo vài người, trong đó có ông?
-Có vài người. Đặc biệt,
trọn một thế hệ nhà văn Algérie, khởi nghiệp vào thập niên 1950, thí dụ
như Kateb Yacine, Mohammed Dib, Jean Pelegrini, T. Amrouche và những
người khác. Tác phẩm của họ đóng rễ vào cuộc chiến dành độc lập của
Algérie. Khi tôi nói, tôi được “hân hoan” đón nhận, không phải theo
nghĩa “ào ào”. Đây là một tiến trình “tà tà, nhẩn nha”. Tôi nói một
cách nghiêm túc: không phải như bây giờ, khi mà mọi người tranh nhau
nói về một tác giả trong ba tháng, thí dụ vậy, rồi xong. Ông ta biến
mất, chẳng để lại một dấu vết. Harrouda chỉ bán được ba ngàn cuốn,
nhưng, trái ngược với những thành công sớm nở tối tàn khác, là, 24 năm
sau, nó vẫn vớ được độc giả, theo kiểu lai rai, rỉ rả.
-Đây là một tác phẩm
“rất” văn chương, với một cốt truyện rất lạ lùng. Ông lấy ở dâu ra vậy?
-Ở Fez, có một cô điếm
già làm rúng động trí tưởng tượng của trẻ con và thanh thiếu niên. Tôi
là một đứa trẻ, khi sống ở đó. Và tôi biến cô thành một vị thánh, đại
khái như vậy.
-Nhưng thành công thực
sự, là với Goncourt. Ông là nhà văn Ả rập đầu tiên, đúng ra là nhà văn
ngoại quốc đầu tiên thắng giải này.
-Vào năm 1934 đã có một
nhà văn Phi châu được giải, nhưng năm 1987, khi tôi được Goncourt,
chẳng ai nhắc đến ông ta, như vậy cứ coi tôi là người đầu tiên đi. Giải
thưởng cho tôi một công chúng thưởng ngoạn rộng rãi hơn, dù rằng trước
đó, Đứa Trẻ Cát đã bán được 130 ngàn cuốn. Khi Đêm Thiêng được
Goncourt, thế là nó cõng tất cả những cuốn khác của tôi cùng đi theo
với nó.
-Ngoài chương trình học
trung học, nhà văn nào gây nên hứng khởi đầu, “xúi” ông viết?
-Có vẻ kỳ kỳ, tôi không
thấy mình “hợp” với mấy ông nhà văn, mà là
với một vài nhà làm phim: Orson Welles, Federico Fellini, Yasujiro Azu,
Akira Kurosawa, Michelangelo Antonioni – tức là những người kể chuyện.
Lẽ dĩ nhiên, có ảnh hưởng trí thức, từ Sartre, Camus, Genet và những
người khác, nhưng đó là bắt buộc, theo kiểu ảnh hưởng thời đại. Nếu
phải tìm kiếm bà con nghệ thuật, tôi tìm ở Welles và Ozu hơn là ở những
tiểu thuyết gia.
-Ông có thử thời vận, như
là một nhà làm phim?
-Tôi đã muốn nghiên cứu
nghệ thuật điện ảnh tại Viện Nghiên Cứu Cao về Điện Ảnh. Nhưng ngay lập
tức, tôi nhận ra, điện ảnh là một kỹ nghệ, một kỹ nghệ rất nặng nề, và
do đó, rất nhiêu khê. Khi lệ thuộc vào quá nhiều người, quá nhiều hoàn
cảnh, thật khó là một nhà sáng tạo. Tôi đã lẫn lộn tình yêu phim với ao
ước làm phim. Thế là tôi chào thua.
-Điện ảnh là một đam mê ở
Pháp – họ đã phát minh ra nó. Hồi còn là sinh viên ở đó, chắc là ngày
nào ông cũng mò đi coi ciné?
-Tôi mê hình ảnh. Ciné
giúp tôi nhiều nhất, ở cái khoản này: câu chuyện được kể qua hình ảnh,
bởi một Welles hay một Hitchcock. Trong một vài phút đầu tiên của phim,
những nhân vật, hoàn cảnh câu chuyện bầy ra trước mắt bạn, và bạn cứ
thế nhập vô, cứ thế lên đường cùng với phim. Ngày nay, phim ảnh Mỹ khổ
vì muốn… hiện thực. Bạn nhìn một người nào đó uống cà phê, ăn trong
tiệm, thoi vào mặt một người khác. Nhưng Ozu và Welles không sao chép
thực tại. Quan trọng là bịa đặt ra một câu chuyện và làm cho khán giả
tin tưởng câu chuyện đó – quan trọng là, một khi ngồi trong phòng tối
tại một rạp, cuốn phim đưa bạn tới một vũ trụ khác, trong tưởng tượng.
Đó là điều tôi cố gắng làm, với những cuốn sách của tôi.
-Ông đi coi phim, nhưng
còn đọc cả lố, như ông nói đấy. Ai? Có tác giả ngoại nào không?
-Tôi đọc [nhà văn Mỹ]
Steinbeck, Dos Passos, Faulkner, khi tôi còn trẻ. Nhưng nhà văn giúp
tôi nhiều nhất, là James Joyce, không phải bởi vì tôi muốn làm cùng một
điều như ông ta, mà là: ông ta liều cùng mình. Tôi nghĩ nếu Joyce dám
liều như vậy, tôi cũng dám. Khi còn nằm ở trại lính, tôi yêu cầu bạn bè
gửi những cuốn sách dầy nhất mà họ kiếm được. Bởi vì cấm đọc sách ở đó,
tôi đọc lén, và tôi muốn một cuốn sách kéo thật dài. Thế là họ gửi lén
cho tôi cuốn Ulysses, và tôi thật sự kinh hồn bạt vía bởi sự táo bạo,
từ một công trình lớn lao như vậy. Tôi chẳng biết gì về Ái Nhĩ Lan,
nhưng cuộc hành trình của nhà văn làm tôi quan tâm, tính táo bạo của
ông ta. Nhưng tôi chào thua cuốn Finnegans Wake – những hiểm nguy ở đó
thật là vô tích sự (gratuitous). Nó thì tối tăm.
Người phỏng vấn: Tuy nhiên, ông mê thơ hiện
đại, mà cái thứ này nếu không mờ mờ thì cũng thường xuyên tăm tối?
Ben Jelloun: Thi ca tối tăm không hiện hữu,
hoặc nếu tối tăm, thì đó không phải là thi ca (poetry). Thơ thứ thiệt
chẳng bao giờ tối tăm; ngay cả [nhà thơ Pháp] Mallarmé cũng rõ ràng. Về
phần tôi, tôi mê St.-John Perse, René Char, một số bài của Yves
Bonnefoy, của Louis-René des Forêts. Đôi khi tôi đọc những tập thơ mà
tôi nhận được, và nói với chính mình, “Thứ này thật là vô nghĩa! Nó
chẳng mắc mớ gì tới thơ.” Nhưng đời mà, đôi khi người ta chẳng có gì để
nói, hoặc chẳng có gì để nói “thêm”, tuy nhiên họ vẫn cứ tiếp tục nói:
nó vẫn vậy mà! Hãy nhìn [nhà làm phim người Pháp] Jean-Luc Godard: đối
với tôi, những phim đầu tay của ông thật đáng yêu, thế rồi một ngày,
tôi khám phá ra một hiện tượng kỳ cục: Godard là một người đàn ông
chẳng có gì “thêm”, để nói. Cũng vẫn kỹ thuật đó – cách táy máy, mầy mò
hình ảnh thật tuyệt vời (this marvelous way of manipulating images),
những phim của ông chẳng ai thèm quan tâm tới nữa: chúng rỗng tuếch.
Cùng trường hợp như vậy, với một vài nhà thơ.
Như là một hậu quả: tôi nghĩ lúc này chẳng có thơ. Vắng thơ, ít ra ở
Tây phương, và cảm giác kinh cung chi điểu: sợ thơ, như thể mọi người
hết còn dám [làm thơ]. Tại Pháp, thời kỳ Kháng Chiến đã đẻ ra một nền
thi ca lớn, bằng cách đem hứng khởi tới cho những nhà thơ như Aragon,
Éluard, René Char. Họ có một điều gì thật nóng hổi, thật gấp gáp cần
phải truyền đạt, một số giá trị cần phải chống đỡ; và phải làm liền,
làm mạnh bởi vì những giá trị này đang gặp hiểm nguy. Một nhà thơ Pháp
nói gì đây, bây giờ? Viết một bài thơ để chống lại Le Pen? Làm thơ về
nạn thất nghiệp? Về nạn tự tử của lớp trẻ? Đây chỉ là những đề tài lòng
vòng, mang tính nhất thời.
Đâu phải chuyện tai nạn, khi một nhà thơ dở
như Bobin bán ào ào cả chục ngàn ấn bản mỗi lần cho ra lò một tuyển tập
mới. Một thứ thơ tình cảm, giả-tôn giáo, dở ẹt. Nhà Luyện Kim (The
Alchemist), tiểu thuyết của Coeltho, theo tôi, thuộc loại tầm phào, vậy
mà bán ra mười một triệu ấn bản. Đó là vì người ta “cần” thơ và tìm
kiếm một thứ tâm linh nào đó: họ cần “lại cảm thấy yên ổn”, và hy vọng.
Nhưng đây là thứ tâm linh chợ búa, hàng quán (bazaar). Một thứ tâm linh
Đồng Giá (Monoprix).
-Theo tôi, có vẻ như người ta tìm thấy thơ, ở
những nhà văn xuôi hiện nay. Ở Anh chẳng hạn. Sự thành công của những
cuốn sách của ông, tôi nghĩ, một phần là do cách viết và cảm tính của
ông có chất thơ ở trong đó.
-Đó là gia tài Ả rập của tôi. Khi tôi kể một
câu chuyện, tôi cảm [thấy mình là người] Marốc, và tôi kể nó như là một
người Marốc kể chuyện, với hình ảnh và cấu trúc, chẳng hiện thực, nhưng
là một nơi chốn [để cho] thi ca trú ngụ.
-Trong Ngàn Lẻ Một Đêm – vốn tắm đẫm tranh
ảnh, minh họa (pictorial) – tác giả vẽ những bức tranh, có lẽ bởi vì
thoạt kỳ thuỷ những câu chuyện này được truyền miệng, và những người kể
chuyện phải làm cho người nghe chú ý bằng cách nhấn từ, nhấn giọng. Ông
kể những câu chuyện của mình giống như một người kể (conteur) Đông
phương.
-Tôi không cho rằng, mình có hơi hớm tác giả
Ngàn Lẻ Một Đêm, hay phải viện dẫn tới một thời kỳ đặc biệt nào đó
trong lịch sử Ả rập. Tuy nhiên, tôi cảm thấy mình ăn ở với văn hóa Ả
rập. Ít ra đây là lời giải thích thuận lý mà tôi có thể có được, nếu
nói về chất “thơ” trong văn của tôi. Về kỹ thuật tự sự (narrative
technique), tôi bị ảnh hưởng rất nhiều bởi Roland Barthes – những bài
tiểu luận của ông về mối liên hệ giữa bản văn (text) và văn chương. Khi
còn là sinh viên, Tiểu Thuyết Mới làm tôi nản, và tôi không muốn viết
bất cứ một thứ gì giống như vậy. Điều tôi làm, tôi phát minh ra nó trên
đường đi, trong lúc viết, một cách vô thức. Tôi nghĩ, văn phong của tôi
là Marốc, nhưng có lẽ những người Marốc không nghĩ như vậy!
-Những đề tài của ông cũng là Marốc – câu
chuyện luôn luôn xẩy ra ở Marốc, hay ít ra, ở Bắc Phi.
-Đúng như vậy. Những đề tài bám rễ Maghrebi,
bởi vì chúng liên quan tới những vấn đề mắc míu với chúng tôi, những
vấn đề của cuộc sống thường ngày – sự liên hệ giữa đàn ông và đàn bà
trong một xã hội Hồi giáo, giữa nhà nước và luật pháp, hay cá nhân và
tập thể.
-Trong tất cả những xứ sở thuộc thế giới thứ
ba, đặc biệt trong những xứ Hồi giáo, có trạng thái giao động, không
chắc chắn (uncertainty), như là hậu quả do va chạm với hiện đại tính và
Tây phương. Đây là trường hợp [đưa đến] sự thành công lớn lao đầu tiên
của ông, trong Đứa Trẻ Cát; câu chuyện một đứa bé sinh ra là gái, nhưng
cha mẹ cứ làm như nó là trai, bởi vì họ đã có 6 cô “công chúa”, và cảm
thấy nhục nhã vì không sản xuất ra nổi một chú bé đực rựa. Điều này đưa
tới những hậu quả bi thương cho cô bé, khi cô đã trưởng thành. Ông dựa
trên chuyện thực?
-Không, tôi bịa ra nó, bởi vì tôi muốn viết
về thân phận người phụ nữ ở Bắc Phi, nhưng không muốn nó mang vẻ mô
phạm, hay mang tính dấn thân (militant). Tôi muốn phản ứng lại thứ văn
chương nữ quyền của thập niên 1980, vốn đặt nặng tu từ, nghe “the thé”
(strident), và chẳng có tí tưởng tượng nào ở trong đó. Vì vậy, tôi
nghĩ, nếu tôi bịa ra một đứa bé mà số mệnh bắt buộc phải tách ra khỏi
dòng đời bình thường [nữ bị coi là nam] và sau đó sống cả hai thân
phận, là nam là nữ cùng một lúc, như vậy tôi có thể làm bật ra một số
vấn đề.
-Đêm Thiêng, cuốn tiểu thuyết được Goncourt,
tiếp tục câu chuyện kể. Đây là cuốn thứ nhì trong một bộ ba. Cuốn thứ
ba là Đêm Lầm. Cuốn thứ nhất, Đứa Trẻ Cát, đưa ra một số kết cục có thể
xẩy ra. Chi tiết này cho thấy, ông là một trong số những người kể
chuyện Đông phương. Nhưng ông phải chọn một trong những kết cục đó. Làm
cách nào, ông chọn?
-Đây là do những độc giả đòi hỏi tôi tiếp tục
câu chuyện. Tôi nhận hết thư này tới thư khác, hỏi: “Chuyện gì xẩy ra
cho Ahmed/Zahra? – nhân vật chính với căn cước dục tính “kép” (the main
character with the double sexual identity). Đây là một cách nói về thân
phận người phụ nữ mà không rơi vào giáo điều.
-Nếu độc giả không “năn nỉ”, chắc là ông nghỉ
chơi luôn?
-Ông có thể đặt câu hỏi theo một cách khác,
như thế này: nếu câu chuyện chẳng [có một cơ may] tiếp diễn, độc giả đã
chẳng thèm “năn nỉ”.
-Ông đã từng nói: “Là một người đàn bà là một
nhu nhược tự nhiên mà mọi người chấp nhận” (To be a woman is a natural
infirmitythat everyone accepts). “Là một người đàn ông là một ảo tưởng
và một bạo lực mà mọi điều [đều có thể] biện minh và khuyến khích” (To
be a man is an illusion and a violence that everything justifies and
favors).” Đây có phải là quan niệm hiện thời của ông về thân phận người
phụ nữ trong thế giới Hồi giáo, đặc biệt trước đà phát triển của chủ
nghĩa chính thống, cứ chĩa mũi dùi vào người
phụ nữ? Tôi hỏi ông câu này, bởi vì, song song với sự áp bức trà đạp
người phụ nữ của cái gọi là chủ nghĩa chính thống, phong trào đòi hỏi
nữ quyền Hồi giáo hiện đang trỗi dậy.
Những nhà nữ quyền Hồi giáo lấy ra những đòi
hỏi, những luận cứ của họ, từ chủ thuyết và lịch sử đạo Hồi. Họ chứng
minh rằng những áp bức trà đạp người phụ nữ trong những xứ sở Hồi giáo
chẳng mắc mớ chi đến đạo Hồi, thoạt kỳ thuỷ nhằm giải phóng họ, và đã sản xuất ra những vị nữ lưu đứng đầu nhà
nước, những chính trị gia, những nhà thơ, những nhà thần học. Một trong
những vị nữ lưu, đồng bào của ông, Fatima Mernissi: một trong số những
người hùng biện nhất, thông thái nhất của những nhà nữ quyền Hồi giáo.
Tôi đang nghĩ tới những cuốn sách của bà: Những Hoàng hậu đã bị bỏ quên
của Hồi giáo (The Forgotten Queens of Islam), Hồi giáo và Dân chủ
(Islam and Demecracy), Quá khỏi Mạng che mặt (Beyond the Veil)… chúng
cho thấy, Hồi giáo bị biến chất (denatured) tới mức nào, so với tư
tưởng khởi đầu của người sáng lập ra nó. Và nó bị biến chất là do những
nhà cai trị tham nhũng, và những mullahs (giáo sĩ Hồi giáo). Bà cảm
nhận, ngày nay sự áp bức phụ nữ còn liên quan tới sự kém mở mang, nghèo
đói, bất công, và tham nhũng, “chuyện thường ngày ở huyện” trong những
xứ sở thuộc thế giới thứ ba.
-Đúng như vậy. Bức mạng
che hiện hữu trong tất cả các tôn giáo, ngay cả trong đạo Cơ đốc. Người
ta lấy khăn phủ đầu, như là một dấu hiệu của sự kính trọng, khi bước
vào nhà thờ, nhà tu. Khi cầu nguyện bắt buộc phải làm vậy. Nhưng tôi
nghĩ, thiết yếu là phải tách rời chính trị và tôn giáo. Tôn giáo là vấn
đề của từng cá nhân, nó là sự quan tâm giữa từng con người với Thượng
Đế. Sử dụng Hồi giáo vào những mục đích chính trị là mị dân thuần tuý,
một phương thức để áp bức dân chúng. Tôn giáo quan tâm tới điều được
coi là vĩnh hằng, thiên thu, trong khi đó, chính trị, do bản chất của
nó, là tạm bợ, nhất thời. Bởi vậy, chúng ta phải tách rời cả hai, nếu
không, những xứ sở Hồi giáo sẽ chẳng bao giờ vượt lên khỏi tình trạng
kém mở mang và áp bức.
-Chúng ta hãy trở lại với nhân vật
Ahmed/Zahra. Làm cách nào cô giải quyết được bài toán nhức đầu của cô?
-Việc của tôi (My job) không phải đưa ra
những câu trả lời hay tìm giải đáp, nhưng mà hỏi (ask questions), chứng
nghiệm (testify), trong một hoàn cảnh nhân sinh. Tôi kể một câu chuyện,
và hy vọng rằng, nó sẽ gây suy nghĩ (incite reflection), tạo tư tưởng.
-Xen kẽ bộ ba trên, ông
còn viết một cuốn sách nhỏ về tình bạn, Ngợi Ca Tình Bạn (L’Éloge de
l’Amitié, In Praise of Friendship), trong đó ông nhắc tới tất cả những
bạn bè làm cho cuộc đời của ông thêm giầu có. Trong số đó, Jean Genet
có vẻ chiếm một vị trí đáng kể nhất, đối với ông. Tính tình ông ta rất
kỳ lạ: dữ dằn (farouche), nhút nhát, cô độc, rất ít người biết tới. Ông
nghĩ thế nào, về con người và tác phẩm, từ một khoảng cách hiện nay,
nhìn lại?
-Ông ta là một con người
cực kỳ khác thường. Khi cuốn đầu tay của tôi ra lò, tôi gửi một bản tới
ông, qua nhà xuất bản của ông ta, chẳng hy vọng ông trả lời; như mọi
người biết, đây là một con người rất e thẹn, và cô độc. Một bữa, một
tay Cộng sản bạn của tôi, thường xuyên đọc báo “đảng” (tờ Nhân Loại,
L’Humanité), anh ta bảo: có một bài viết về “toa” trên tờ báo đảng đó!
Tôi chạy vội đi mua một tờ! Bài viết hoá ra là một bài phát thanh, của
Genet, về một số nhà văn Ả rập. Trong bài viết, ông ta tấn công Sartre,
buộc tội Sartre đã không quan tâm đúng mức tới những nhà văn này, trong
số đó có chính tôi!
Ngày hôm sau tôi gửi lời
cảm ơn về lòng tốt của ông ta, và cho biết, tôi hiện đang ở Khu Sinh
Viên (Cité Université). Ngày tới, có người gọi cho tôi. Là Genet. Và
ông đề nghị gặp. Đó là khởi đầu một tình bạn kéo dài tới hết cuộc đời
của ông. Vào năm 1979, khi xẩy ra cuộc cách mạng của Khomeini tại Iran,
ông ta bảo tôi: “Tớ khoái tay già này, dám nói ‘Hãy xéo đi!’ với Mỹ và
Tây phương”. Không phải ông quan tâm tới cuộc cãi lộn chính trị giữa
“the Shah” (Vua Iran) và Khomeini, nhưng mà là thái độ nổi loạn của một
con người chống lại một hệ thống, chống lại cả thế giới. Ông luôn luôn
giữ những vị trí tàn bạo (brutal positions), vì ông là một con người
nổi loạn, chống lại quyền lực bất kể dưới dạng nào.
Chúng tôi trở thành bạn,
mặc dù ông chẳng hề tin vào tình bạn, bởi vì theo ông, tự do và sự
trung thuỷ không thể cặp kè với nhau được. Tuy nhiên ông luôn là bạn
tốt, với tôi. Ông bảo tôi: “Khi viết, hãy nghĩ tới người đọc, hãy giản
dị”. Tôi cố theo lời khuyên của ông, bởi vì tôi nghĩ giản dị là một dấu
hiệu của chín chắn.
-Tình bạn được tôn thờ
tại những xứ sở Trung Đông. Tại Ba tư, nó gần như “xêm xêm” với tình
yêu. Ở Marốc, cũng rứa?
-Không hoàn toàn như vậy.
Nhưng tình bạn giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đời của riêng tôi.
Tình yêu là một điều chi khác, nhiều khi đối ngược với tình bạn. Tình
yêu thì rắc rối, đầy khó khăn trắc trở. Nó thuộc loại hiếm hoi, nghĩa
là còn tùy thuộc vào những điều mà thường xuyên vượt ra khỏi khả năng
của người trong cuộc. Tình bạn ngược hẳn lại: giản dị, tự nguyện, bền
vững.
-Rữa Thối (Corruption,
dịch từ bản tiếng Pháp: L’homme rompu), xuất bản năm 1994, là về sự
tham nhũng, hối lộ trong một xứ sở như Marốc. Đây là một tiểu thuyết
mang tính chính trị, tố cáo mạnh mẽ nhất trong những tác phẩm của ông.
Ông có nghĩ rằng chính trị có thể làm thay đổi những sự việc ở Maghreb,
hay ở trong những xứ sở thuộc thế giới thứ ba, nói chung? Theo ông có
cần làm sống lại đạo đức, tâm linh (a moral and spiritual revival)?
-Đạo đức và tâm linh
chẳng thể nào tái sinh trong một thể chế chính trị bịnh hoạn, hư ruỗng.
Do đó, cuộc chiến đấu chống lại tham nhũng, hối lộ là một cố gắng làm
cho xã hội trở nên khoẻ mạnh, về đạo đức, cũng như là về văn hóa.
-Cuốn tiểu thuyết mới của
ông, Đêm Lầm, là cuốn thứ ba trong một bộ ba cuốn. Nhân vật chính lại
(again) là một người đàn bà. Có phải đây là phản ứng của ông trước
chuyện (ngược đãi phụ nữ) xẩy ra tại Algeria, vào lúc này?
-Không. Cuốn sách nói về
một bạo lực nào đó, từ lâu vẫn nằm ngủ trong nhân vật chính, và sau
cùng bà đã trả thù. Đây không phải là một câu chuyện mang tính hiện
thực (realistic). Nó là về bạo lực của một người đàn bà đã bị áp bức
quá lâu, và cuối cùng nổ bung ra. Nhưng không phải một người đàn bà
thực (a real woman), bà thuộc về cõi huyền hoặc (she belongs to the
realm of legend).
-Ông nghĩ gì về chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo, sử dụng những hình tượng thần thoại từ những chuyện
dân gian, ở Nam Mỹ, để làm sáng tỏ hoàn cảnh hiện thời? Trường phái
này, gồm những tiểu thuyết gia Nam Mỹ, khác biệt với của ông, ra sao?
Đặc biệt, ông có ái mộ tác giả, hay tác phẩm nào, thuộc trường phái
trên?
-Tôi rất thích Juan
Rulfo, Juan Carlos Onetti, một vài cuốn của Gabriel García Márquez.
Nhưng tôi không nghĩ chúng tôi cùng một trường phái. Họ đóng rễ vào văn
hóa riêng của họ, và tôi, vào của tôi. Và hai văn hóa này khác biệt,
không chỉ vì Hồi giáo, mà còn nhiều yếu tố khác nữa, như lịch sử và địa
dư.
-Ông đã dính vào vụ
Rushdie?
-Lẽ dĩ nhiên. Và tôi đã
chống đỡ cho ông ta. Đây là một biểu tượng và một cần thiết. Chống đỡ
(defend) cho Rushdie là chống đỡ tự do viết, tưởng tượng, sáng tạo.
-Ông tổ chức ba chuyện
viết lách như thế nào?
-Tôi rời nhà rất sớm, mỗi
buổi sáng, và tới đây. Tôi làm việc suốt ngày, trở về nhà, và trải qua
buổi tối với gia đình, vợ và 4 cháu.
-Ông viết tay, hay dùng
computer?
-Tôi viết tay. Computer
là dùng để viết bài (articles), bởi vì mấy tờ báo đòi hỏi, bài ghi trên
dĩa mềm.
-Ý tưởng – viết một cuốn
tiểu thuyết mới, a new novel – tới với ông như thế nào? Ông có ngưng
tất cả mọi việc, khi viết nó?
-Tôi để cho ý tưởng chín
mùi trong một thời gian dài. Tôi ngồi xuống và khởi sự viết, khi cảm
thấy một sự thúc bách nào đó. Khi viết, tôi đọc ít đi. Gần như tôi để
hết tâm trí vào nó, vì đây là một niềm vui.
-Những kẻ quấy rầy, phá
hoại công việc viết, là những gì? Hemingway cho rằng, khốn kiếp nhất,
là cái điện thoại.
-Những bực bội, trói buộc
xã hội, tâm lý, thời gian phí phạm cho con rùa hành chính… Tuy nhiên,
người ta không thể viết, nếu không sống, và cuộc sống là phải đương đầu
với ba chuyện bực mình kể trên. Bởi vậy, điều ngăn trở viết đến từ bên
ngoài nó. Nhưng sẽ hết viết hoàn toàn, nếu thiếu vắng hy vọng, khi
người viết tự hỏi: ích chi đâu, ba chuyện viết? Một khi đối đế, cảm
thấy văn chương là vô dụng, tôi sẽ ngưng viết. Cho tới lúc đó, mặc dù
bực bội, mặc dù chán nản, tôi vẫn tiếp tục. Ngắn gọn, một khi cảm thấy
không cần viết: ngưng!
-Gore Vidal có lần nói,
giống như ông chủ tiệm tới tiệm của mình, hay ông đốc tưa tới phòng
mạch mỗi ngày, nhà văn ngồi và viết, theo nghĩa, đây là nghề của anh
ta, rằng viết là cái điều mà một nhà văn làm. Ông có nghĩ như vậy?
-Không. Đây là viễn ảnh
Mẽo về nhà văn. Với tôi, nếu một nhà văn viết để kiếm sống, ông ta bắt
buộc sẽ phải đẩy mình tới một tình trạng thỏa hiệp. Ông sẽ “băn khoăn,
cân nhắc”: cái này bán được không, cái kia ăn khách đấy. Đây không phải
là mối bận tâm của tôi. Tôi hạnh phúc khi có một số độc giả, nhưng
người ta không thể viết ra, chỉ để bán được. Một nhà văn không phải là
một ông chủ tiệm. Một nhà văn tạo ra một thế giới tưởng tượng, và ông
ta chuyển nó tới cho những người khác.
-Đây có phải là phận sự
(function) của nhà văn? Shelley nổi tiếng với câu nói: thi sĩ là những
nhà lập pháp không được thừa nhận, của thế giới. Ông tin như vậy?
-Tôi không tham vọng tới
mức đó. Với tôi, nhà văn là một chứng nhân. Của thời đại của mình. Do
đó, anh ta có một vị thế riêng. Tôi không nghĩ, nhà văn có một vai trò
quyết định – anh ta kể những câu chuyện, và trong khi làm như vậy, anh
ta phê phán (comments) về xã hội của mình, và về thế giới. Anh ta
truyền đạt qua tưởng tượng.
-Một khi ông đã có một
cái giàn, cái khung cho một cuốn tiểu thuyết, và khởi sự viết, ông có
luôn luôn ở trong tình trạng chủ động, hay là mặc tình cho những năng
lực nội tại của câu chuyện lấn lướt?
-Khó mà biết được chuyện
gì sẽ xẩy ra, nhưng tôi cứ để cho mình tự do. Đừng để xẩy ra tình trạng
bị ép, bị trói, hay là mất kiểm tra. Tôi cứ thế tiến lên, theo trực
giác, và thoải mái khi đụng những ý tưởng mới, hoặc gặp những khúc
quanh không tiên đoán được.
-Cái gì tới trước, cốt
truyện hay nhân vật?
-Ý tưởng chính, là quan
trọng, nhưng từ ngữ cũng quan trọng chẳng kém – Chúng phải được chọn
lựa kỹ, sử dụng đúng chỗ. Như toán học. Cốt truyện có thể do một điều
gì tôi đã chứng kiến, đã đọc, hoặc đã nghe nói. Con người làm sao biết
hết mọi chuyện. Nếu như vậy, viết trở nên nhàm chán. Điều dẫn dắt câu
chuyện, đó là không khí chuyện (ambiance), tức là cái thế giới chung
quanh một nhân vật. Nhân vật bịa ra câu chuyện, nhà văn tiếp diễn (It
is the character who invents the story as the writer proceeds).
-Ông có viết đi viết lại
nhiều lần?
-Những bản văn tuyệt vời
là chỉ có một lần viết. Nhưng thứ này hiếm, hầu như bất khả. Tôi viết
lại cả một chương, chứ không viết lại theo kiểu đây một khúc, kia một
dòng. Tôi có thể bỏ luôn cả một chương, và thêm vào một chương khác.
-Những chương trình trong
tương lai của ông?
-Tôi đang viết một cuốn
tiểu thuyết, lấy khung cảnh Naples (Ý đại lợi). Bởi vì tôi đang tính
rời Marốc. Tôi vừa mới sửa lại và nới thêm ra, một tiểu luận về chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, đã xuất bản vào năm 1984, tựa là “Lòng Hiếu
Khách của người Pháp” (French Hospitality). Tôi viết thêm một lời giới
thiệu dài, để giải thích tại sao nó tồi tệ đi trong 13 năm vừa qua.
-Có thể tôi lạc quan, bởi
vì tôi nghĩ Le Pen chỉ là một sai lạc nhất thời, và sau hết, người Pháp
sẽ trở lại với truyền thống dâng hiến chỗ cư ngụ, và bảo vệ cho những
người bị bách hại. Văn hóa Pháp là từ đó mà ra. Hãy nhìn con số những
nhà thơ, nhà văn, nhà trí thức lớn trong 100 năm qua, đã tới Pháp, từ
bất cứ nơi nào trên trái đất.
-Tôi thành thực hy vọng
là ông đúng. Trong khi đó, chúng ta – những nhà văn, nghệ sĩ, trí thức
– chỉ có thể làm hết sức mình, bằng tác phẩm của mình, bằng những thí
dụ riêng của mình.
Shusha Guppy (biên tập
viên tại London của tạp chí Điểm Sách Paris).
38.
Phỏng
vấn Edward Said
Từ 30 năm nay, E. Said là người phê bình văn
học, giảng dậy Đại Học, và có uy tín nhất trên thế giới trong việc giải
trừ chủ nghĩa thực dân trong văn hóa, khi đứng ở địa vị một nhà trí
thức nhược tiểu phương Đông, phê phán văn chương, và học thuật của
phương Tây, trong việc mô tả và trình bầy xã hội châu Phi, châu Á.
Phỏng vấn dưới đây, do Eleanor Wachtel thực
hiện cho đài CBC Radio (Canada); được in trong (More) Writers &
Company (nhà xb Vintage Canada, 1997).
Edward Said không đơn giản. Khi cố gắng mô tả
ông, tôi đụng những nhãn hiệu thật chỏi nhau. Ông là tín đồ Ky-tô,
Ả-rập Palestine; thân phụ phục vụ trong quân lực Hoa-kỳ thời kỳ Đệ Nhất
Chiến. Một nhà khoa bảng sống tại Mỹ trong 40 năm qua, thành viên,
tiếng nói trực tiếp của Hội đồng Quốc gia Palestine (Palestinian
National Council) từ 1977-1991; tuy nhiên ông không tin cậy chủ nghĩa
quốc gia, lên tiếng chỉ trích Saddam Hussein và bênh vực Salman
Rusdhie.
Học tại Princeton và Harvard, giáo sư môn văn
chương so sánh, ông mê nhất, những cuốn tiểu thuyết trong đó ông chỉ
ra, nào là chủ nghĩa phân biệt sắc tộc, chủ nghĩa đế quốc, cũng như
tinh thần phe nhóm, địa phương.
Tiếng tăm quốc tế của ông, là từ cuốn Chủ
nghĩa Đông-phương, Orientalism (1978), một cuốn sách gây tranh luận, và
làm bực mình. Một cuộc khai quật, mổ xẻ thái độ của Tây-phương đối với
Hồi-giáo và Đông-phương, và cùng với nó là điều mà Said mô tả: "một
màng lưới phân biệt sắc tộc, nguyên mẫu văn hoá, và ý thức hệ phi
nhân." Ngoài ra, Said còn chính trị hóa, điều vốn giản đơn được coi là
"văn chương so sánh". Cuốn sách trở thành đề tài hội thảo, và được dịch
ra 15 thứ tiếng.
Cuốn sách xuất bản năm 1993 của ông, "Văn hóa
và Chủ nghĩa Đế quốc", đặc biệt là do tham vọng và tính uyên bác của
nó. Như một nhà điểm sách nói về ông: "Said là một, trong số đếm trên
đầu ngón tay, những nhà phê bình lớn lao, mang tính nhân bản, vượt biên
cương, bờ ngăn".
Trong cuốn sau, Said phân tích tác phẩm của
Austen, Thackeray, Dickens, Eliot, Kipling, Conrad, những tác giả khác,
và khẳng định rằng: thời đại hoàng kim của tiểu thuyết Anh mắc míu ngay
từ khởi thuỷ với sự thành lập Đế quốc Anh. Rằng biện minh cho chủ nghĩa
đế quốc nằm ngay trong tim trong hồn giấc mơ văn hóa Tây-phương. Ông
còn đi xa hơn. Ông nghiên cứu thật tỉ mỉ văn chương những cựu thuộc
địa, và vẽ ra bản đồ lịch sử cuộc đề kháng, và cùng với nó, là văn
chương phản ảnh cuộc kháng chiến đó. Ở đây, ông lại đi sâu, và xa hơn,
trên cái nền của cuốn trước, Orientalism.
Said tiếp tục kếp hợp phê bình văn hóa với
nghiên cứu chính trị, người đọc hiển nhiên nhận ra điều này, trong hai
bài viết năm 1996: "Đại diện cho người Trí thức (Representation of the
Intellectual)", và "Hòa bình và Bất mãn: Những tiểu luận về Palestine
trong Tiến trình Hòa bình Trung Đông (Peace and Its Discontents: Essays
on Palestine in the Middle East Peace Process").
Vào năm 1992, bác sĩ phát hiện, ông bị bệnh
hoại huyết (leukemia). Bệnh chỉ làm ông cất cao tiếng nói. Nó cũng làm
ông phải thực hiện một chuyến thăm viếng Jerusalem, nơi chốn ra đời, và
khởi sự viết hồi ký về cuộc đời trước 1967 của ông.
Bài phỏng vấn được thực hiện tại văn phòng
của ông tại Đại học Columbia vào ngày 26 tháng Hai, 1993; đúng ngày
Trung tâm Thương mại Thế giới bị ăn bom.
Wachtel: Ông từng nói, cái nền của ông là một
chuỗi những đổi dời, di xứ, và không thể vãn hồi. Rằng cái cảm quan ở
giữa những nền văn hóa bám riết ông. Có lẽ chúng ta nên lần theo những
đổi dời, bắt đầu bằng nơi chôn rau cắt rốn: Jerusalem, thời Palestine.
Ông cảm thấy ở giữa những văn hóa, khi còn là một đứa trẻ?
Said: Đúng như vậy. Tôi sinh ra ở Jerusalem,
cha tôi là từ Jerusalem, nhưng ông thuộc mẫu người khá lạ. Sống ở Hoa
Kỳ trước khi lấy vợ. Ông trốn đi lính cho Thổ Nhĩ Kỳ, qua Mỹ vào năm
1911 hay 1912. Họ tính bắt ông đi đánh nhau ở Bulgaria, tôi nghĩ vậy.
Lúc đó ông 16 hay 17 tuổi. Sau đó, ông gia nhập quân đội Hoa Kỳ, vì
nghĩ rằng sẽ được đi chiến đấu chống Thổ Nhĩ Kỳ.
Thực sự, ông gia nhập quân đội Canada, rồi bỏ ngũ, vì biết họ sẽ không
đưa ông qua Trung Đông. Sau đó mới tới quân đội Hoa Kỳ. Ông chiến đấu ở
Pháp, và bị thương ở đó. Thành công dân Hoa Kỳ. Sau chiến tranh chừng
một năm, khoảng 1919, ông trở lại Palestine, làm ăn chung với một người
bà con. Cuối thập niên 1920, ông có một cơ sở kinh doanh sách vở và đồ
dùng văn phòng tại Ai Cập. Tôi sinh tại Jerusalem vào năm 1935, khi đó
cha mẹ tôi đi đi lại lại giữa Palestine, và Ai Cập. Tôi không sống
nhiều ở Palestine, và ở bất cứ nơi nào, là vì vậy. Chúng tôi lúc nào
cũng di chuyển. Có thể, đầu năm Ai Cập, giữa năm Palestine, cuối năm ở
Lebanon, nơi đây chúng tôi có một căn nhà. Lại thêm, có cha là công dân
Hoa Kỳ, tôi thừa hưởng cùng lúc hai thứ, Hoa Kỳ và Palestine. Tôi sống
ở Ai Cập, mà không phải là người Ai Cập. Tôi cũng giống cha, một mẫu
người phức hợp kỳ cục. Đây là hồi ức sớm sủa nhất của tôi.
Wachtel: Ông cũng đã từng coi mình là một
thiểu số trong một thiểu số.
Said: Cha mẹ tôi đều là tín đồ Tín Lành
(Protestants) ở Palestine. Điều này thực sự có nghĩa, họ bị tách rời
khỏi khối đa số tín đồ Ky-tô (Christians), khối đa số này lẽ dĩ nhiên
lại là thiểu số trong một xã hội thiết yếu là Hồi-giáo. Hầu hết tín đồ
Ky-tô giáo ở Trung Đông - hay ít ra ở vùng Levant - là theo Chính Thống
giáo Hy Lạp (Greek Orthodox), nhưng cha mẹ tôi lại là con cái của những
người đã cải đạo, không còn giữ gốc Chính Thống Giáo Hy Lạp. Cha tôi,
qua cha của cha tôi, trở thành tín đồ Anglican - một Episcopalian. Má
tôi - qua ông già của bà - trở thành Baptist. Đây là một trong những
điều lý thú từ những phái đoàn truyền giáo mà ra. Khi tới Palestine,
Lebanon, Jordan, và Syria vào những năm 1850, họ đã thất bại, không làm
sao cho những người Hồi giáo hoặc Do-thái chuyển qua Ky-tô giáo; đây là
điều họ định làm; thay vì vậy, cuối cùng họ chuyển những tín đồ Ky tô
từ khối đa số qua những tân giáo như trên.
Wachtel: Một đứa bé, lại ở giữa những nền văn
hoá như thế, thì sao?
Said: Tôi phải nói sự thực, một cách "thực
thà, lương thiện nhất": thật thê thảm. Hồi ức đeo đuổi hoài hoài, ngay
từ bé: mình là thứ trôi sông lạc chợ (a misfit). Xấu hổ trần ai. Tôi
luôn luôn bức xức về liên hệ của mình với người khác, như thể lúc nào
cũng muốn được như họ, hoặc Hồi giáo/Ai Cập, hoặc Hồi giáo/Palestinian.
Và tôi luôn luôn có cảm giác (mình) hoàn toàn không đúng. Cuốn sách tới
của tôi có tên là "Không Hoàn Toàn Đúng" (Not Quite Right).
Tôi luôn luôn nghĩ rằng, mình có đây là để trả giá cái điều đó (I was
being made to pay for it), cách này hoặc cái khác.
Tôi quên không thêm vô một yếu tố quan trọng:
tôi luôn học, trường Anh hoặc trường Pháp. Thành thử ngoài vấn nạn căn
cước Arab, còn chuyện do học hành mà ra. Vào cái tuổi mười ba, mười
bốn, có thể nói là tôi biết mọi điều về lịch sử Anh, hay Pháp. Nhưng
tôi chẳng biết gì về nơi tôi đang sống. Đó là phong cách học (style of
education). Đây là một sự mất thoải mái thường xuyên. Gia đình tôi khu
trục nó, bằng cách tạo vỏ bọc chung quanh chúng tôi. Chúng tôi khác
biệt nhau một cách không bình thường, và chúng tôi - bốn chị em và tôi
- mỗi đứa có những loại quà khác nhau. Hậu quả là chúng tôi sống trong
một thế giới giả đò (a make-believe world), và thế giới này không có
liên hệ gì tới: a/ thực tại, b/ lịch sử và thực tế nơi chốn mà chúng
tôi đang sống.
Wachtel: Nói chung là ông không hòa đồng được
với một số bạn bè. Như tôi được biết, khi gia đình ông chạy qua Cairo
vào năm 1947, ông đã trải qua vài tháng tại một ngôi trường có tên là
"Eton của Trung Đông", dành cho con nhà quyền quí, trong đó có ông vua
tương lai của Jordan, King of Hussein, và tài tử Omar Sharif.
Said: Vào thời học chung, tôi không biết anh
sẽ là một tài tử nổi tiếng. Anh là đầu đàn trong trường, lớn hơn tôi
bốn hoặc năm tuổi, và thường chỉ chơi với đám nhỏ như tôi. Học sinh ở
đây được phép có thầy riêng. Và bị đòn không ít. Ngày đầu tiên tôi đã
bị đòn vì nói chuyện trong lúc cầu nguyện. Thầy toàn người Anh, họ đều
tỏ ra khinh bỉ học trò như tụi tôi. Luôn luôn có chiến tranh giữa hai
bên. Đó là những ngày cuối cùng người Anh còn hiện diện tại Ai Cập,
thành thử mấy ông thầy coi như họ là những người còn lại sau cùng, đại
diện cho cả một đế quốc. Nói chung thật không vui vẻ một tí nào, vài
năm sau (ở đây ghi là vài năm, trong khi câu hỏi, vài tháng. CTND), tôi
bị đá văng ra khỏi trường.
Wachtel: Tại sao?
Said: Thì bị gán cho là hạnh kiểm xấu, thực
sự là, luôn gây rối trong lớp, chọc tức mấy ông thầy. Bây giờ nhìn lại,
tôi có cảm tưởng những ông thầy là những người lính già mệt mỏi của Đệ
Nhị Chiến. Nếu họ quay lưng về phía lớp học, là nó biến thành bãi chiến
trường - chúng tôi thô bỉ không thể tưởng tượng được - và họ chỉ còn
một cách lắc đầu. Họ là người Anh (British), và không thể hiểu những
điều chúng tôi nói bằng tiếng Ả Rập. Một sự kiện quan trọng: khi tới
nhập học, chúng tôi được phát một tập kỷ yếu, trong đó là những luật
lệ; luật thứ nhất: tiếng Anh là ngôn ngữ ở trong trường, và nếu học
sinh bị bắt gặp đang nói tiếng Ả Rập, hay một ngôn ngữ khác, người đó
bị đánh đòn, hoặc bị nhốt. Bởi vậy chúng tôi nói tiếng Ả Rập là để tấn
công thầy giáo. Ông già tôi sau đó quyết định, nếu có cố cho tôi trở
lại trường Anh, thì cũng như không. Thế làø ông tống tôi qua Mỹ, vào
một trường thanh giáo chán không thể chịu được, ở New England. Đó là
lần đầu tiên tôi nhìn thấy tuyết, vẻ đẹp của nó.
Wachtel: Nhưng trường học là một thảm họa?
Said: Nó thật kinh khủng. Nhưng do tôi khá
khôn, lại học được, nên họ không thể đuổi. Tôi không nói tên trường, vì
nó thật sự nổi tiếng. Bạn phải thức dậy vào giờ ma họp chợ (ungodly
hour), và làm những chuyện như vắt sữa bò, hoặc
đủ thứ chuyện "thánh thiện" khác. Nhưng do tôi đã được cái lò Anh (the
English system) huấn luyện quá kỹ, cho nên mọi thứ đều là trò trẻ con
đối với tôi. Mấy chuyện còn lại đều quá tệ. Vả chăng, ngay cả ở đó, tôi
cảm thấy mình không hợp với hệ thốngï. Có thể là do bản chất, tôi không
thích nó, hoặc trong tôi thiếu, cái gọi là hệ thống. Bởi vậy sau hai
năm, tốt nghiệp, với điểm cao nhất, tôi vẫn không được ngợi khen hoặc
công nhận giá trị. Khi cố hỏi, họ nói tôi không hội đủ điều kiện đạo
đức. Và tôi chẳng bao giờ tha thứ cho họ về chuyện coi thường luật lệ
học vấn, do chính họ đặt ra, khi phải đối diện với thành quả của tôi.
Wachtel: Ông coi cuốn "Văn hóa
và Chủ nghĩa Đế Quốc" như một cuốn sách của lưu vong. Như thế, ông
đúng là một con người mà những quan tâm hiện thời được "kiểm tra một
cách chặt chẽ" bởi cuộc tranh chấp giữa văn hóa từ đó ông được sinh ra,
và văn hóa ông đang sống. Ông có nghĩ, theo một nghĩa nào đó, chúng ta
đều là những kẻ lưu vong trí thức. Ông có coi lưu vong là một sự kiện
hồ hởi?
Said: Tôi không biết bất cứ một điều kiện nào
khác, để mà nói ra sự thực với bà. Năm nay tôi 57 tuổi. Năm ngoái tôi
trở lại Palestine, sau 45 năm xa nó. Đi với vợ con. Chúng tôi có trở
lại căn nhà nơi tôi ra đời. Thật dễ chịu khi được nhìn lại căn nhà, sau
bao năm tháng như thế đó, nhưng cũng thật rõ ràng: tôi không thể trở
lại. Tôi thực sự không hiểu được thế nào là cảm thấy hoàn toàn ở nhà.
Tôi cứ giả dụ, như nó là những trái nho chua chát, và có lẽ cũng chẳng
đáng tìm kiếm làm chi.
Wachtel: Tôi nghĩ là, ngay từ khởi thuỷ, ông
đã cố tách rời, văn chương và chính trị. Một bên là nghiên cứu văn học
Anh theo lối trường lớp, và một bên là những quan tâm chính trị của
ông. Tôi nghĩ, ông có một cuộc sống rất là "schizophrenic" (thần kinh
bại liệt), như ông đã từng gọi. Làm cách nào, ông kiếm ra con đường để
nối kết những điều ông quan tâm?
Said: Sự kiện (cần nói ra là), chúng ta sống
trong thế giới. Đây là vấn đề thời-cơ (time and right event). Trong
trường hợp của tôi, đó là Cuộc Chiến 1967. Lúc đó, tôi là một bậc mô
phạm gương mẫu; tôi làm toàn những điều phải, điều đúng - học trung
học, đại học, lấy bằng Ph. D., có việc làm, tạo môi trường bạn bè, có
sách xuất bản - và rồi 1967: thế giới mà tôi biết đó vỡ vụn ra. Thêm
nhiều phần đất Palestine, phải nói là phần còn lại của Palestine, bị Do
Thái tước đoạt - West Bank, và Gaza - và bất thình lình, tôi cảm thấy
mình bị cuốn hút vào khu vực này. Tôi chưa từng dậy môn văn chương
Trung Đông - Tôi có dậy vài cuốn sách Ả Rập, qua bản dịch, nhưng cơ bản
mà nói, mọi sáng tác của tôi là về văn chương Tây-phương. Thế là tôi
bắt đầu tự làm quen với chính mình, với cái phần đời bị đàn áp, hủy
diệt, tức phần lịch sử đời tôi như là một người Ả Rập. Tôi làm được vài
chuyện. Tôi đi Trung Đông khá thường xuyên. Lấy vợ ở đó. Một người đàn
bà Trung Đông. Và lần thứ nhất trong đời, tôi lo học, nghiên cứu một
cách hệ thống ngữ văn (philology) Ả Rập, và những tác giả cổ điển thuộc
truyền thống Ả Rập. Vào thời điểm này, lực lượng Palestine đụng độ nặng
nề với những người Jordanians. Bởi vì phần lớn gia đình tôi sống ở
Jordan, tôi tới viếng thăm bà con ở Amman vào năm 1970. Ở đó, tôi gặp
một số bạn bè cùng học trung học, người Palestine, họ đã trở về và gia
nhập lực lượng. Thật là một cú sốc đối với tôi. Và cứ thế tôi càng ngày
càng dính líu tới phong trào, khi nó chuyển tới Beirut (thời gian những
năm 1970, gia đình tôi ở đó). Tôi ngày càng quan tâm tới những vấn đề
chính trị trong cuộc chiến đấu của người Palestine. Lẽ tự nhiên, trong
đó có cả quan tâm tới những giải pháp cho nỗi đau bị tước đoạt, lưu
vong, cuộc chiến chính trị cho nhân quyền, chiến đấu để nói lên điều
không thể nói lên được. Tất cả mớ bòng bong, và rồi cuốn sách của tôi, Orientalism, đã thoát thai từ kinh nghiệm đó.
Wachtel: "Chủ nghĩa Đông-phương"
là một trong những cuốn tạo ảnh hưởng nhất của ông.
Trong đó, ông đưa ra vấn đề: những người Ả Rập hay thế giới Đông-phương
đã được tiêu biểu như thế nào, trong và bởi, những người Tây-phương. Cơ
bản mà nói: nó đã được tiêu biểu sai (misrepresented).
Said: Có tiêu biểu là có là sai lạc, hoặc thế
này hoặc thế khác. Nhưng trong "Chủ nghĩa Đông-phương",
tôi khẳng định một điều rằng: những quan tâm trong việc tiêu biểu hóa
Đông-phương qua cái nhìn Tây-phương, đều nằm trong sự kiểm soát của đế
quốc, và đây là những "đặc quyền" của nó. Tôi cố gắng chứng tỏ: cuộc
xâm lăng Đông-phương, bắt đầu với Nã Phá Luân, vào cuối thế kỷ 18, và
tiếp tục khi Anh và Pháp cứ thế ăn sâu vào Đông phương, nó đã tạo nên
mầu sắc, và hình dáng cho cái gọi là tiêu biểu hóa Đông-phương bằng cái
nhìn Tây-phương. Điều này chẳng mắc mớ gì tới cách giải thích, vào thế
kỷ 19, của đa số những nhà khoa bảng chuyên nghiên cứu về Đông-phương -
đặc biệt là những giáo sư người Đức, cũng có cả những giáo sư người
Anh, và Pháp. Theo họ, nó (sự tiêu biểu, cái nhìn Đông-phương bởi
Tây-phương) mang tính khách quan, và khoa học. Thực sự, đây là vận hành
của quyền lực, và kiểm soát thường xuyên, liên tục đám dân mà họ cố
gắng cai trị.
Wachtel: Những những hình ảnh - những biếm
họa (caricatures) của một Đông-phương không thể nào chiếu giọi, một
phương Đông huyền bí, tính quỉ ma, sự ghê rợn của thế giới Ả Rập - tại
sao chúng "cần thiết được tạo ra"?
Said: Tôi nghĩ, ở đây sự ngu dốt, thiếu hiểu
biết đã đóng một vai trò lớn lao. Đã có một sự thù nghịch, và nó ngăn
cản điều mà tôi gọi là sự trao đổi bình thường giữa những văn hóa. Một
trong những điều thực sự quái lạ, đó là có một sự liên tục bướng bỉnh,
ngu đần giữa những cái nhìn Âu-châu về Hồi Giáo ở thế kỷ 12, và những
cái nhìn Âu-châu về Hồi Giáo của thế kỷ 18, 19, và 20: chúng cứ thế,
không thay đổi. Trước hết, tôi khẳng định: không có một Đạo Hồi, Islam,
thuần nhất, và giản dị. Có rất nhiều tín đồ Hồi giáo (Muslims) và rất
nhiều cách để giải thích Đạo Hồi (Islam) - đây là chủ đề một cuốn sách
khác nhan đề là "Covering Islam" (Tạm dịch: "Theo dõi Hồi giáo"). Có một khuynh hướng, luôn luôn
muốn đồng hóa, gói tròn cái khác, một điều gì đó, do ngu dốt, một phần;
ngoài ra còn do sợ hãi, bởi vì những đạo quân Ả Rập đã tiến vào
Âu-châu, và bị đánh bại ở thế kỷ 14, và 15. Thành thử ý nghĩa này đã có
từ lâu rồi. Thứ nữa, lẽ dĩ nhiên, còn bộ ba tín ngưỡng nhất thần: Đạo
Hồi là sau chót, trong ba tín ngưỡng nhất thần lớn (hai đạo kia là
Do-thái giáo và Ky-tô giáo). Theo một nghĩa nào đó, sự liên hệ gần gũi
giữa người Ả Rập, thế giới Hồi-giáo với Âu-châu đã phát sinh từ một
điều khó chịu, mất thoải mái. Thật dễ hiểu: con người, khi đứng trước
dị biệt, thường miêu tả cái đó nguy hiểm, cái đó đáng sợ, cuối cùng
giản đơn nó về một vài bản kẽm có sẵn.
Điều này thực đáng sợ. Rằng trọn lịch sử tạo
thành Đông-phương đang được giảm trừ, cho nên, bây giờ, trong báo chí
Tây-phương, thí dụ vậy, những gì mà người đọc về Đạo Hồi, về thế giới Ả
Rập, đã được tối giản một cách ghê sợ, và được hóa trang, giả mạo, như
là lịch sử của hai hoặc ba trăm năm liên hệ gần gũi giữa những người
Âu-châu, và về một mức độ nào đó, những người Mỹ, một bên, và bên kia,
là những người Ả Rập và những người Hồi giáo. Như thể cả hai luôn ở
trong thế đối diện, ở giữa họ là con mương rộng lớn, và cứ thế đôi bên
ném đồ ăn hư thối vào nhau.
Watchtel: Chuyện này không thể thay đổi?
Said: Không. Và ngày càng tệ. Khi có khủng
hoảng, như Cuộc Chiến Vùng Vịnh, và trên cái nền "chuyện thường ngày ở
huyện" của giới truyền thông báo chí Mỹ, những bản kẽm như trên ngày
càng trở nên hết hấp dẫn, mất đi dần sự tha thứ, tính xác thực của
chúng. Càng ngày, chúng càng không đáp ứng thực tại có thể chấp nhận
được, mang tính nhân bản. Đạo Hồi ở Tây-phương là nguyên mẫu sắc tộc,
văn hóa cuối cùng có thể chấp nhận được; bạn có thể rũ bỏ mà không cần
nghĩ làm như vậy là sai, hay phải lo ngại, sợ hãi.
Wachtel: Tại sao ông lại nghĩ nó là như vậy?
Said: Có nhiều lý do, nhưng tôi nghĩ nguyên
nhân chính là không có sự ngăn ngừa. Không một người phương Tây, hay
nói như thế này, không một người Bắc Mỹ nào hiểu biết nhiều về thế giới
Hồi giáo. Nó ở ngoài kia, nó chủ yếu là sa mạc, (ở đó có) rất nhiều
cừu, lạc đà, những con người miệng ngậm dao, những tên khủng bố, vv...
Gia tài văn hóa, những cuốn tiểu thuyết, và những cuốn sách khác xuất
hiện bằng tiếng Anh không hề quan tâm, để ý tới nó. Chẳng có gì ngăn
chặn người ta ở đây nói điều họ mong muốn. Về mặt khác, những người Ả
Rập và những người Hồi giáo không thực sự hiểu những phương thức chính
trị về biểu thị văn hóa ở Tây Phương. Hầu hết những chế độ ở trong thế
giới Ả Rập lại mang tính độc tài cơ bản, rất không được lòng dân, những
chế độ thiểu số hoặc loại này hoặc loại khác; họ không quan tâm khi nói
bất cứ một điều gì về chính họ, bởi vì như vậy là bắt buộc chường mặt
ra để biện minh, về những chỉ trích. Những huyền thoại về Mỹ Châu, và
Tây Phương trong thế giới Ả Rập đã được bản kẽm hóa, tất cả những người
Mỹ đều quá ám ảnh bởi sex, họ có cẳng dài, họ ăn rất nhiều. Hậu quả là,
nơi đúng ra có con người, lại chỉ thấy trống không, nơi đúng ra có trao
đổi, đối thoại, cảm thông, lại chỉ có một thứ không-trao đổi tệ hại.
Wachtel: Một trong những mâu thuẫn bề ngoài,
phức tạp của đời ông, đó là: mặc dù là thành viên chính quyền-lưu vong
Palestine, một quán quân trong vấn đề giải phóng Palestine, ông lại tỏ
ra không thoải mái với chủ nghĩa quốc gia.
Said: Chủ nghĩa quốc gia thật dễ thoái hoá,
biến thành chủ nghĩa sô vanh (chauvinism). Khi bạn bị tấn công ba bề
bốn bên, nhất là trong những phong trào như của người Palestine, khi mà
chúng tôi không thực sự có nhiều bạn bè; nó dễ trở thành co cụm, và coi
tất cả mọi người không suy nghĩ như nó, đều là kẻ thù. Đây là trường
hợp đối với những người Palestine sống trong thế giới Ả Rập. Thật quá
dễ hiểu. Đã có một thời, là một người Palestine là một điều thực phong
nhã, cao cả. Nhưng thế giới Ả Rập ngày càng bị thu hẹp, giản trừ, cùng
với nó là nghèo đói, kinh tế, xã hội phân hóa. Mọi người quá mệt mỏi vì
cuộc chiến đấu kéo dài quá lâu. Lại thêm vấn đề nghi ngờ lẫn nhau. Cứ
thế họ càng trở nên co cụm thành những nhóm nhỏ, đồng nhất, tin tưởng
nhau. Hãy nhìn chuyện xẩy ra ở Nam Tư, nơi vốn được coi là một nhà nước
đa văn hóa, đa ngôn ngữ; nó đã thoái hóa đưa đến thanh lọc chủng tộc
(ethnic cleansing). Cũng chuyện như thế xẩy ra ở Lebanon, nơi một xã
hội đa nguyên (pluralistic society), với những người Ky-tô và Hồi, cuối
cùng đã trở thành một cuộc tắm máu hàng ngày, vì cái điều được gọi là
tấm căn cước, như người ta thường gọi tại đây. Nếu bạn bị hỏi căn cước,
và nếu bạn có một cái tên sai, một tôn giáo lầm, bạn sẽ bị bắn, hoặc bị
cắt cổ.
Tôi sợ rằng, những chuyện không vui về chủ
nghĩa quốc gia cũng đang ló diện tại những xã hội như Hoa Kỳ, và có thể
ở Canada cũng vậy. Những cộng đồng sắc tộc khác nhau đang cảm thấy vấn
đề làm thế nào để bảo tồn, gìn giữ căn cước của riêng họ, chống lại sự
tấn công của những kẻ khác. Chính trị căn cước biến thành chính trị
phân biệt, và người ta cứ thế lui vào pháo đài. Tôi có cảm tưởng quái
đản là "một người nào đó" đang khoái chuyện này,
thường là những người ở trên cao, vốn thích chuyện giựt dây những cộng
đồng, khiến họ chống đối lẫn nhau. Nó cổ điển, và là luật chia để trị
của đế quốc. Thí dụ như ở Ấn Độ, bạn có trong tay người Sikhs, người
Muslims, người Hindus phụ thuộc vào bạn, và nghi ngờ những người ái
quốc. Đó là tất cả cái phần gọi là tiến trình của chủ nghĩa quốc gia.
Về điều này, tôi tự cảm thấy chẳng vui vẻ một chút nào hết.
Wachtel: Như vậy là những chuyện quá đa đoan
phức tạp đã khiến cho ông ở vào thế đi trên dây, bởi vì ông phải bước
hai bên, không chỉ về chính trị, mà còn theo kiểu, của một kẻ đánh
động, đưa ra những giải pháp cho chủ nghĩa đa văn hóa, và kinh điển văn
học (the literary canon). Một mặt ông hô hào chuyện cởi trói (opening
things up), một mặt ông bảo vệ qui tắc văn chương, kinh điển văn học.
Said: Tôi bảo vệ điều mà tôi gọi là tác phẩm
tốt (good work). Nguyên tắc chính của tôi khi đánh giá một cuốn tiểu
thuyết, một bài thơ, hay một vở kịch, không liên quan gì tới căn cước
cá nhân người viết ra tác phẩm. Căn cước cá nhân, cũng thú vị đấy, nếu
biết được, nhưng đây không phải là giải pháp chính cho vấn đề. Một cá
nhân "may mắn" thuộc loại có mầu da "đúng", có giới tính "được", có
quốc gia "ngon", như vậy không có nghĩa là tác phẩm của người đó tốt,
tuyệt. Có lẽ bà đã nghe nói về Hanan Ashrawi, một phụ nữ Palestine,
phát ngôn viên của Phong Trào Giải Phóng Palestine, PLO. Bà là một sinh
viên của tôi, và đã có viết một luận án văn chương về West Bank dưới sự
chiếm đóng. Bà đã nhận ra một điều, là một người Palestine, và viết về
(cái việc) bị chiếm đóng, bị thống trị, như vậy không có nghĩa là sáng
tác ra được một bài thơ hay, hoặc một cuốn tiểu thuyết tốt. Đấy là vấn
đề, và nó thật quan trọng.
Tôi không nói, như thế là không chủ quan.
Phải rất chủ quan, nếu quyết tâm viết ra một tác phẩm tốt. Tôi thường
đụng hoài với những người nói về khách quan tính, nhất là trong giới
truyền thông. Bởi vì hiển nhiên, mọi chuyện trên đời đặt trên cái nền
diễn giải mang tính chủ quan. Theo một nghĩa nào đó, khi nói về phẩm
chất là nói về chủ quan tính. Không ai có thể nói cho bạn, rằng cuốn
sách này lớn lao, vĩ đại, "bạn phải tin như vậy, bởi vì tôi nói ra điều
này". Đây là vấn đề của tra hỏi, nghiên cứu. Theo tôi, một cuốn sách
hay đòi hỏi một cái đọc kỹ, đọc đi đọc lại, cứ mỗi lần đọc lại có thêm
thú vị, hoặc là do nó mở rộng phần ý thức, tăng khiếu thưởng ngoạn, cảm
tính hay gì gì đi nữa, một tác phẩm kém không đạt được như vậy. Chúng
ta ai cũng có kinh nghiệm này. Bạn đọc một cuốn tiểu thuyết của
Danielle Steel - như tôi thường đọc - bạn đâu cần phải đọc lại, nhưng
nếu bạn đọc một cuốn của Dickens, bạn muốn trở lại với nó.
Wachtel: Ông có trích dẫn Walter Benjamin:
Mọi tài liệu về văn minh đều là một tài liệu về dã man. Một cách nào
đó, cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc" là bàn về vấn
đề này.
Said: Đúng như vậy. Một tác phẩm lớn lao
không có nghĩa là nó tất yếu ngây thơ, vô tội, hoặc nó chẳng mắc mớ gì
đến điều thô bỉ, tởm lợm. Khi "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế
quốc" của tôi xuất hiện tại Anh, thế là có một trận bão phê bình
điểm sách nổi lên. Rất nhiều người trong số đó cho rằng họ bị sỉ nhục,
rằng một tác giả thánh thiện như Jane Austen thì có liên can gì tới đế
quốc, nô lệ, mặc dù cái điều này không phải là tôi bịa đặt ra mà chính
bà đã nói tới. Tôi không nói là bà kém tài văn đi, là vì điều này. Tôi
chỉ muốn nói là tất cả những tác phẩm nghệ thuật cũng giống như con
người đều mắc míu tới cái gọi là kém hấp dẫn, dã man, hoặc lúc này lúc
khác, chỗ này chỗ nọ. Điều này thật dễ nhận ra trong những tác phẩm
thuộc loại qui chuẩn của thế kỷ 19 tại Âu-châu. Chúng ta đều bị vướng
vào chuyện nô lệ, đế quốc qua những gì được nói về chúng. Tôi không tin
đây là chuyệïn khó hiểu. Câu hỏi đặt ra là: một khi bạn nhận ra điều
này, bạn làm gì với nó? Bạn muốn đè bẹp nó, hay là bạn cho rằng có gì
đâu mà phải quan tâm, để ý.
Wachtel: Ông nói, ông không muốn là một người
khắt khe, nhưng ông lại tránh đọc văn chương cổ điển, theo nghĩa chúng
là những tác phẩm tuyên truyền cho thực dân thuộc địa?
Said: Tôi không đọc chúng theo cách đó. Trong
cuốn sách, tôi nói, thật lầm lẫn nếu giản trừ những tác phẩm cổ điển
như thế, vào một bảng danh sách dài những trường hợp này nọ, của chủ
nghĩa đế quốc. Hoặc nói đây là những tác phẩm mang tính đế quốc. Chúng
đâu phải như thế. Chúng là một phần của văn hóa đế quốc, và một phần
của tiến trình - như những lý thuyết gia về đế quốc thường nói - liên
can tới không chỉ những hành xử ghê tởm nhất nhưng còn tới vài sắc thái
tốt đẹp nhất của một xã hội. Rất nhiều người thật sáng chói đã liên can
tới đế quốc: những nghệ sĩ lớn, như Delacroix; những nhà văn lớn, như
Flaubert. Lẽ dĩ nhiên, trong mỗi trường hợp, bản chất, mức độ liên can
khác biệt nhau, và cách nhìn của họ thật là khác biệt. Họ chẳng có gì
là như nhau, và đây là lý do tại sao có rất nhiều nghiên cứu tìm hiểu,
trong những cuốn sách của tôi, trong cả hai cuốn "Văn hóa
và Chủ nghĩa Đế quốc" và "Chủ nghĩa Đông-phương". Tôi
không cố gắng chứng tỏ: họ đều là đế quốc, nhưng mà là: họ đưa ra những
cái nhìn khác nhau về thế giới đế quốc, trong những tác phẩm của họ. Họ
chi li, chau truốt nó, đem đến cho nó một vài loại cảm giác, sự thích
thú; như Kipling đã làm với (tác phẩm) Kim, thí dụ vậy.
Wachtel: Ông còn đưa ra một nhận định rất khó
nắm bắt, theo đó, tiểu thuyết và sự tạo thành đế quốc đã mắc míu với
nhau, không thể nào gỡ ra được; rằng tiểu thuyết không giản dị chỉ là
phản ảnh điều gì đang xẩy ra, nhưng chủ nghĩa đế quốc và tiểu thuyết,
một cách nào đó, đã hỗ trợ lẫn nhau.
Said: Đây là một nhận định khá xa vời, nhưng
tôi nghĩ, nó thực.
Wachtel: Làm sao chúng hỗ trợ cho nhau?
Said: Cuốn tiểu thuyết Anh có giá đầu tiên là
"Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký (Robinson Crusoe)".
Và "Robinson Crusoe" sẽ không thể hiểu được nếu thiếu
cuộc truy tìm săn đuổi mang tính đế quốc. Lỗ Bình Sơn rời Anh quốc, bị
đắm tầu, thấy mình ở trên hoang đảo, và chỉ trong vài ngày, vài trăm
trang tiểu thuyết, anh ta trở thành ông chủ tất cả những gì quanh anh
ta. Và sau đó, bạn nhận ra một điều là, những gì hoang đảo đã làm cho
anh ta, cho phép anh ta tạo dựng một thế giới riêng của mình. Nói một
cách khác, chủ nghĩa đế quốc, như ở mức độ như thế, đã liên hợp với một
phương hướng sáng tạo nào đó. Sau này, vào cuối thế kỷ 19, John Seely
nói, rằng sự kiện trung tâm Anh Quốc, sự kiện trung tâm văn hóa Anh,
căn cước Anh, nó là: bành trướng. Điều này không đúng, đối với mọi xã
hội. Nhận định của tôi là: trong thế kỷ 19 và 20, Anh quốc, tự thân nó,
đã là một cái gì thật độc đáo. Ý nghĩ thật lạ đời: bạn đang ngồi ở
London - hãy giả dụ bạn có một căn phòng nho nhỏ ở Hampstead - và buổi
sáng, thức dậy, bạn nói: "Ta kiểm tra cuộc sống của hàng trăm con
người", bởi vì mỗi một người Anh kiểm tra một trăm, hoặc trăm rưởi con
người khác, nếu so dân số Anh và dân số Ấn- độ, nơi họ chiếm đóng trên
ba trăm năm năm. Sự kiện đó, cộng thêm sự kiện này: chưa có một xã hội
Tây phương nào giữ được tính cha chú (kiểm tra, chiếm đóng) liên tục
như thế, trong truyền thống đế quốc, ngoài Anh quốc ra. Và sự liên tục
không bị bẻ gẫy này còn là của chuyện viết văn, viết tiểu thuyết. Không
có tiểu thuyết Ý trước 1860, hay 1870. Không có tiểu thuyết Đức, cho
mãi đến sau 1870. Với một vài ngoại lệ, không có tiểu thuyết
Tây-ban-nha, ở thế kỷ 19. Tôi đang nói về sự liên tục. Theo hầu hết các
nhà sử gia, tiểu thuyết Anh bắt đầu với những người như Defoe vào ngay
đầu thế kỷ 18 và cứ thế tiếp tục, không gẫy
khúc, qua thế kỷ 18, 19 và 20.
Wachtel: Nhưng như vậy là ông đặt nặng vấn đề
nhân quả (causality), trong khi ở đây, chỉ là vấn đề đồng thời
(synchronicity)?
Said: Không, tôi không nói về nhân quả, mà về
đồng hành (accompaniment). Tất cả những tiểu thuyết gia lớn của thế kỷ
19 đều nhắc nhở tới những sự kiện chiếm đóng thuộc địa, thí dụ như di
dân tới những nơi chốn như là Úc, Hoa Kỳ hay Phi Châu. Cũng như vậy,
tuy ở mức độ thấp hơn, là Pháp. Nhận định của tôi là như thế này: Sự
kiện chiếm đóng thuộc địa đã tác động lên trí tưởng tượng, gây hứng
khởi, và là một phần trong cấu tạo căn cước cá nhân. Hầu hết tiểu
thuyết thực sự chỉ là sáng tạo ra một căn cước giả tưởng, tôi là ai?
Thí dụ, tôi là Pip, trong "Great Expectations" ("Hoài Bão
Lớn", tác phẩm của Dickens, CTND), hay là Tom Jones, đứa con hoang.
Người ta thấy anh ta ở trên giường, ở ngay đầu cuốn truyện; tới cuối
truyện, chúng ta biết anh ta là ai. Tiểu thuyết thực ra chỉ là một dạng
tích tụ văn hóa, và tiện nghi hóa, làm sao cho cái tôi được thoải mái,
dễ thở trong xã hội. Một phần của tiến
trình này đó là: cái tôi bị vướng víu với những mục tiêu mang tính đế
quốc. Trong trường hợp Mansfield Park của Jane Austen,
thí dụ vậy, đồn điền nô lệ mà Sir Thomas Bertram sở hữu ở Antigua đã
được sử dụng như túi bạc bảo đảm cuộc sống
ở Mansfield Park, Anh quốc. Điều tôi gọi là dự phóng hoá, ở trong giả
tưởng, trong cách tự sự, nó giả dụ rằng Anh quốc đã dính chặt với những
thuộc địa ở hải ngoại theo nhiều đường hướng khác nhau. Nhưng chúng ta
không nhai đi nhai lại mãi cùng một điều, bởi vì mỗi cuốn tiểu thuyết
là mỗi chút khác biệt.
Wachtel: Liệu có thể bị coi là quá ngây thơ
khi coi: cốt truyện nó phải như vậy?
Said: Đâu có gì là ngây thơ: nó chính là cốt truyện. Nhưng tại sao cốt truyện đó mà không phải
cốt truyện khác? Mọi cuốn tiểu thuyết liên quan tới chuyện chọn lựa,
một phần của nhà văn, và của sự kiện, rằng đó là một đề tài sẵn có
trong tầm tay; phần khác thuộc về tài sản trí thức, tình cảm, tưởng
tượng, của người Anh. Nếu bạn đọc một cuốn tiểu thuyết Đức, sẽ khác
hẳn. Sẽ chẳng có bàn vềà những vùng đất, lãnh thỗ của chúng ta, và
chúng ta không thể đi Ấn-độ. Nó (Ấn-độ) có một chức năng khác hẳn: một
chủ nghĩa hương xa (exoticism), đại khái như vậy. Trong khi ở Anh quốc,
nó là một nơi chốn người ta có thể đi tới, bởi vì chúng ta ở đó, thí dụ
như trong "Đường qua Ấn-độ, A Passage to India" (tác
giả E.M. Forster, CTND); Kim, hay trong vài tác phẩm
của Conrad. Anh quốc là tất cả mọi nơi, nói theo nghĩa đen. Bạn cứ thử
nghĩ về nó, một phút thôi: rõ ràng là người Anh gần như chỗ nào cũng
có. Vào thời kỳ 1918, một nhóm nhỏ những quyền lực Âu-châu đã ngự trị,
chiếm đóng 85% thế giới. Cái điều giản dị, tự nhiên - chiếm đóng, sở
hữu, vốn chỉ là một kinh nghiệm lịch sử - biến thành kinh nghiệm cho
trí tưởng tượng (imaginative experience), bạn thấy không? Tôi tin nó là
như vậy, nó có đó, và bạn làm gì với nó?
Wachtel: Ông làm gì với nó?
Said: Tôi nghĩ bạn phải coi đây là một phần
của một điều gì lớn lao hơn nhiều. Ý của tôi là: kinh nghiệm này một
phần do việc đọc tiểu thuyết Anh. Tôi không nói phần quan trọng nhất,
nhưng nó là một phần quan trọng. Người ta còn phải nhớ - nhiều người
không nhận ra - một điều là: những nơi chốn được Jane Austen hay
Kipling nhắc tới, có một lịch sử vượt ra ngoài vai trò của nó ở trong
tiểu thuyết. Vào năm 1814, khi cuốn "(Công viên) Mansfield
Park" được xuất bản, Antigua là một thuộc địa đồn điền của Anh
quốc, hầu hết những người đọc nó nói, thì nó như vậy, đúng rồi. Nhưng
sự kiện (cần nói ở đây là), kinh nghiệm (về một trú sở, nơi chốn được
nhắc tới, như ở trong tiểu thuyết) vẫn tiếp tục, và Antigua đã được
giải phóng, trở thành độc lập.
Đã có trọn một nền văn chương thoát thai từ
vùng Caribbean, được viết bởi những người như V.S. Naipaul hay George
Lamming và cả một trường nhà văn Caribbean; họ nhìn kinh nghiệm đế quốc
trong lịch sử của vùng đất này - như là thuộc địa nô lệ - khác hẳn cái
nhìn của Jane Austen.
Điều tôi đang nói: cách thích thú nhất, đầy
đủ nhất, để đọc những người như Jane Austen hay sau đó, Kipling - những
người viết về Ấn-độ - đó là không coi họ chỉ như tác giả những tiểu
thuyết Anh mà còn như những tác giả khác từ đó mà ra. Bạn có thể đọc họ
theo kiểu đối âm (contrapuntally), nếu phải sử dụng một ẩn dụ của âm
nhạc. Họ cũng vẫn bàn về cùng một đề tài, cùng một lịch sử, nhưng từ
quan điểm khác biệt. Khi bạn đọc họ theo cách đó, bạn có cảm tưởng về
tính tương thuộc (interdependence) của những nền văn chương vốn được
coi như phải cách ly lẫn nhau. Không có điều gì thú vị hơn, hứng khởi
hơn (nếu đọc theo kiểu đó). Bởi vì nó cho bạn chạm tới một cách viết
lớn. Nó cho bạn cảm tưởng, đây là một cuộc thi (contest), và rất nhiều
nền văn chương cùng tham gia trong một cuộc chiến đấu về một lãnh thổ,
một vùng đất mang tính hình tượng hay có thực. Nó còn cho bạn chạm tới
những ý tưởng giải phóng con người, rằng con người không thể nào chịu
đựng được, trong một thời gian quá dài, chủ nghĩa thuộc địa. Tôi chắc
chắn một điều, những người đọc Jane Austen, biết rất ít, chuyện gì xẩy
ra tại một nơi mà Sir Thomas Bertram đã tới đó. Tác giả đâu có nói chi
nhiều về nơi chốn đó, bởi vì bà cũng chẳng biết chuyện chi xẩy ra: nó
chỉ là một nơi bạn đến đó lượm bạc rồi trở lại Anh quốc. Bạn đi, và nếu
có một cuộc nổi loạn của nô lệ, như ở trong tiểu thuyết, bạn "thanh
toán" (fix) nó, rồi trở về Anh.
Wachtel: Có vẻ như những tiểu thuyết gia thời
Victoria đã tiếp cận chủ nghĩa đế quốc theo cùng một kiểu, nếu nói về
mưu đồ, cốt truyện.
Said: Đúng như vậy. Nhưng quan điểm của tôi,
ở ngay đầu cuốn "Văn hóa và Chủ nghĩa Đế quốc", đó là
thế giới bây giờ đã thay đổi. Chẳng còn chuyện, những người Ấn-độ ở Ấn,
Những người Anh ở Anh, và du lịch lòng vòng. Hầu hết những xứ sở
Âu-châu ngày nay không còn là những xứ sở thuần nhất, hoàn toàn được
tạo nên bởi giống trắng. Có một cộng đồng lớn người Ấn-độ ở Anh, cộng
đồng rất lớn người Bắc Phi Hồi-giáo ở Pháp, ở Đức, Thụy-điển, Ý và cứ
như thế... Thế giới đã được pha trộn (mixed) rất nhiều. Tại sao có
người Bắc Phi ở Pháp? Phần lớn, là do Pháp là ông chủ thuộc địa ngày
xưa, và khi những người này phải bỏ nhà bỏ cửa vì nạn cướp phá, họ chọn
Pháp là nơi tới; họ là dân nói tiếng Pháp. Trường hợp được coi là đơn
tính (unilateral) ở thế kỷ 19 không còn nữa. Có những nhà phê bình viết
bằng tiếng Anh, nhưng không phải là người Anh. Khi Conrad viết "Giữa Lòng Đen, Heart of Darkness", ông tin rằng - và
điều này hiển nhiên sai, nhưng không thể chê trách ông được, bởi vì do
lệch lạc thời gian (the bias of time) - không
một người Phi-châu nào có thể đọc nó; rằng ông viết cho những người
Anh. Sự kiện là, những người Phi Châu bây giờ đã đọc "Giữa
Lòng Đen", và họ nhìn nó khác hẳn những người da trắng đồng thời
với Conrad, vào thập niên 1900, và cái đọc của họ trở thành một yếu tố
của cuốn tiểu thuyết. Như vậy là cuốn sách mở ra theo một đường hướng
mà ngay cả những tác giả của nó như Jane Austen, Dickens hay Conrad, dù
nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra được. Điều này thật đáng đón nhận
bởi vì nó chỉ ra cho bạn thấy một mặt mới của tác phẩm, và nó khiến cho
bạn nhìn sự vật trước đó bạn không thể nào nhìn thấy.
Wachtel: Đó là lý do tại sao Conrad là một
tác giả ruột của ông?
Said: Có một điều gì rất "cùng một lứa bên
trời lận đận" (tương đồng, affinity) giữa ông ta và tôi. Bởi vì ông
người Ba-lan, rời quê hương chừng 16 tuổi, sống một thời gian ở
Thụy-sĩ, Pháp; học tiếng Pháp, và vào tuổi hai mươi, bắt đầu viết và
học tiếng Anh, sống ở Anh, trở thành thành viên của Thương Thuyền Anh
(British Merchant Navy), đi biển đâu chừng 15 năm, rồi định cư ở Anh.
Khi là nhà văn, ông chừng 40 tuổi. Ông luôn là người Ba-lan, ở bên
ngoài cái gọi là vòng tròn Anh, theo một nghĩa nào đó, nhưng ông lại
viết ra những cuốn tiểu thuyết Anh tuyệt vời. Ông có một thứ tâm thức
lưu vong kỳ cục. Ông luôn ở bên ngoài bất cứ một hoàn cảnh nào mà ông
viết về nó, và tôi chia sẻ tâm trạng này với ông. Cách ông nhìn sự vật
hoàn toàn không giống bất cứ một người nào trong thời kỳ đó. Ông rất
thân thiện với những người như Henry James và John Galsworthy, họ cũng
là những nhà văn tuyệt vời nhưng không cho bạn cảm quan kỳ cục, muôn
mặt của đổi dời và trên tất cả, chủ nghĩa ngần ngại, hồ nghi, đặc biệt
là hồ nghi về căn cước và về hiện hữu ổn định (settled existence) như
Conrad. Conrad là một trong số ít tiểu thuyết gia viết bằng tiếng Anh,
theo cách của bậc thầy (tuy trong vài trường hợp có thể phản bác), về
những nơi chốn như Indonesia, Malaysia, Thailand, Phi Châu, và Nam Mỹ.
Ông ta thực sự là một người theo chủ nghĩa quốc tế (internationalist),
của thời kỳ đế quốc.
Ông là một khuôn mặt phức tạp, và tôi không
có ý giả dụ, tôi quan tâm tới ông là do ông chia sẻ cùng một cái nền
khá giống nhau. Hoàn toàn không phải như vậy. Ông là một tiểu thuyết
gia vĩ đại, và có một điều chi thật phức tạp, thật xum xuê mầu mỡ, và
cũng thật giầu có về ông khiến tôi phải trở đi trở lại. Không một người
nào nhìn sự vật hoàn toàn giống như cách ông nhìn. Còn một tương đồng
nữa là, ông viết tiếng Anh như một người nào đó không phải là người nói
tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ (native-born speaker). Tôi kinh ngạc hoài về
điều này. Có vẻ như ông không thèm để ý tới cú pháp (syntax). Cách nhấn
tính từ cũng thật kỳ quặc. Cách viết theo bản năng ở một số điều như
vậy thật là quá thích thú đối với tôi.
Wachtel: Còn một nhận định cũng thật khó nắm
bắt nữa là: hơn bất cứ một lý thuyết nào khác như Marxism, giải cấu
trúc, hay chủ nghĩa duy lịch sử mới (new historicism), chủ nghĩa đế
quốc là chân trời chính trị xác định chủ chốt (the major determining
political horizon) trực diện (vis-à-vis) với lý thuyết văn chương.
Said: Ý niệm về một giàn dựng toàn cầu trong
văn chương thoát thai từ kinh nghiệm đế quốc. Loài người (people) có
những đế quốc toàn cầu - đế quốc Anh, đế quốc Pháp thực sự đã là như
vậy - và bây giờ, ở thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã thành công trong việc đi theo
con đường bá quyền của Anh và Pháp. Do đó, thật thiếu chín chắn, thiếu
nghiêm túc, khi nghiên cứu văn hóa mà không tính tới cái chân trời rộng
lớn hơn - tôi muốn nói cái giàn toàn cầu ở trên - Tất cả những gì tôi
đang làm là nói rằng: có một sự nối kết. Tôi không nói mối nối này là
giản dị, là trực tiếp hay mang tính nhân quả; tôi nói là có rất nhiều
những liên-kết (inter-connections), những tương thuộc
(inter-dependencies), giữa hai trái cầu. Cho tới nay, chủ nghĩa đế quốc
đã vươn tới tầm toàn cầu, đang có tầm toàn cầu, như vậy đây là lúc giàn
dựng cho sự gia nhập của một vài cơ cấu văn chương, một vài cơ cấu và
cách hành xử văn hóa.
|