|
Simone de Beauvoir: Tinh thần không
có giới tính.
(L’esprit n’a pas de sexe)
Thế
kỷ 20 có ba vị “nữ thần” của nó, đó là Simone de
Beauvoir, Hannah Arendt và Simone Weil. George Steiner tự hỏi, cho tới
nay,
liệu có một triết tưởng nào (a philosophic imagination), ở trong số
những bậc
nữ lưu, xứng đáng để kế bên của Simone Weil? Ông tin rằng, người ta
phải có một
chiều sâu tâm lý của Dostoevsky, và lòng từ bi bác ái của một vị thánh,
mới
hiểu nổi Weil. Hai nỗi đau lớn của bà: thân phận con người, tên nô lệ
của con
quái vật nhà máy, và thân phận người dân xứ thuộc địa, đặc biệt là xứ
Đông
Dương.
Hannah
Arendt thì cố gắng tìm cho ra duyên do cái ác, của
thế kỷ hung bạo, trong khi dò tìm những cội nguồn của chủ nghĩa toàn
trị.
Còn
Simone de Beauvoir?
Những
năm tháng của S. de Beauvoir thực sự bắt đầu cùng với
sự xuất hiện tác phẩm Giới Tính Thứ Nhì (Le Deuxième Sexe), vào năm
1949. Và nó
bắt đầu một cách thật là thê thảm!
Ngay
khi những trích đoạn của cuốn sách, được đăng tải trên
báo chí, nó, và tác giả của nó, đã bị tấn công tàn bạo, bởi cả phe ta
lẫn phe
địch, tức cực hữu, đám trưởng giả đầu có sạn (bien-pensant
bourgeoisie), và
Cộng Sản. Nhưng đây là một vấn đề xưa như trái đất, từ khi Chúa lấy cái
xương
sườn của Adam, để tạo ra một toà thiên nhiên là bà Eve.
Đây
là vấn đề liên quan tới nữ quyền.
So
với Pháp, Anh Quốc lại tỏ ra thức thời hơn, đối với nữ
quyền. Ở Anh, ngưỡi phụ nữ có quyền đi bầu, là vào năm 1944. Theo
Sylvie
Chaperon, tác giả cuốn sách viết về Simone de Beauvoir (Những năm tháng
của S.
de Beauvoir 1945- 1970, nhà xb Fayard, Paris), sở dĩ phụ nữ Anh được
may mắn
hơn phụ nữ Pháp, đó là do Ca-tô giáo ở Pháp nghiệt ngã hơn, đối với
phái nữ, so
với những xứ sở đa số người dân theo đạo Protestant ở Tây Bắc Âu Châu.
Trở
lại với Giới Tính Thứ Nhì, và thái độ của giới trí thức
Tây hồi đó. Người thì cho rằng, nó tạo
sốc, trong khi một số khác thì coi, đây là những tia sáng mới mẻ soi
chiếu vào
một cõi tối tăm, ẩm ướt, nơi chốn mà nhà văn người Mỹ, Henry Miller, đã
từng
cho rằng, đó là cánh cửa mở ra mọi siêu hình học, và tôn giáo, và cũng
là nơi
Thượng Đế thường xuyên trú ngụ, hay ẩn náu! “Hiện sinh” như Camus, mà
còn than
phiền, bà làm cho lũ đàn ông như là những thằng khùng, đồ dở hơi (she
had
simply made men look foolish). Còn nhà văn lão thành Francois Mauriac
không
chịu nổi chuyện bà cứ thế xài tỉnh bơ, những thuật ngữ cơ thể học (F.
Mauriac
disliked her fearless use of anatomical terms). Nhưng hàng ngàn những
phụ nữ
bình thường đã biết ơn de Beauvoir – một bậc nữ lưu trí thức lạnh lùng,
không
chồng, không con, quá nửa đời người vẫn chưa có một nơi ăn chốn ở (dòng
dõi quí
tộc, gia đình giầu có, nhưng bà chẳng thèm để ý tới điều gọi là “mái ấm
gia
đình”). Nhờ bà mà họ đã được giải phóng ra khỏi gánh nặng chết chóc của
những
định kiến, và lối sống khuất phục nam giới. Ngay tuần lễ đầu khi sách
được xuất
bản, đã bán được 22 ngàn cuốn, và trở thành một tác phẩm quan trọng
nhất của
thế kỷ 20, viết về vấn đề nữ quyền.
Nhưng
de Beauvoir đã chọn một thời điểm xấu để xuất bản cuốn
sách (1949), theo như Angelica Goodden, người điểm cuốn sách của S.
Chaperon
viết về những năm tháng của S. de Beauvoir, trên tờ TLS số May 19, 2000. Một phần là do
chính giới Pháp
những năm sau khi chiến tranh vừa chấm dứt, là thuộc về những gia đình
có tư
tưởng cố hữu, và một phần, Cuộc Chiến Lạnh leo thang
đã dập tắt mọi tư tưởng cấp tiến. Tuy nhiên
những ý tưởng về nam
nữ bình quyền, nhờ cuộc chiến mà bùng nổ lên (phần lớn là do đàn ông đi
ra trận
hết, đàn bà ở nhà phải cáng đáng mọi chuyện, còn hữu hiệu hơn là mấy
đấng mày
râu), thật khó mà dập tắt hoàn toàn. Thực tế là, đàn bà Pháp vẫn bị đàn
áp, bởi
những định chế mà họ đã phục vụ. Nhà nước còn luôn luôn khuyến khích
mấy bà ở
nhà trông nom nhà cửa con cái, để “việc lớn” cho đàn ông lo! Thu nhập
lớn nhất,
là thuộc về những gia đình chồng đi làm, vợ ở nhà trông hai đứa con. De
Gaulle
cho rằng, giống đực giống cái, mỗi giống có một nơi chốn và một vai trò
của
riêng nó (each sex had its own place and role), đã từ chối ban cho phụ
nữ việc
làm trong chính quyền của ông. Tư tưởng “tinh thần không có giới tính”
có thể
đã được biết tới nhiều, từ thế kỷ 17, nhưng trên thực tế, trong một chế
độ phụ
hệ, người phụ nữ luôn luôn được coi là “Kẻ Khác”. Mặc dù khẳng định nổi
tiếng
của Simone de Beauvoir, “người ta không sinh ra, nhưng mà là trở thành
đàn bà”
(one is not born, but becomes a woman), người đàn bà, vẫn bị coi như là
một sức
mạnh không giống ai (unusual force).
Nhiều
người coi dục tính (sexuality) là mặt trận quan trọng
số một trong vấn đề nữ quyền. Giới Tính Thứ Nhì coi giải phóng dục tính
là một
“sine qua non” (vấn đề sinh tử, không thể bỏ qua được). Độc giả đã nhận
ra
thông điệp của Simone de Beauvoir, và những năm tháng vinh quang (the
glory
years) bắt đầu từ giữa thập niên 1950, tiếp tục mãi tới năm 1970. Bà
được coi
như là một nữ tiên tri, trong xứ sở của bà, là nước Pháp. Hiện nay,
Simone de
Beauvoir vẫn được coi như là một trong những vị lãnh đạo của phong trào
nam nữ
bình quyền trên toàn thế giới, mặc dù không phải tất cả những gì mà bà
“tiên
tri” ở trong Giới Tính Thứ Nhì, đã hoàn toàn đúng, nhất là sự tấn công
của bà
đối với nữ tính “thiết yếu” (“essential” femininity), nay đã bị đả phá
bởi
những tác phẩm của Francoise d’Eaubonne (Mặc cảm Diane, Le Complexe de
Diane,
1951), hay của Suzanne Lilar (Ngộ nhận về giới tính thứ nhì, Le
Malentendu du
deuxième sexe, 1969).
Nguyễn Thị Thụy Vũ và câu chuyện về
một “Muỗng Nước Mắm”
“Nhưng
câu chuyện về một Deep South
của Quentin không chấm dứt với chiến tranh. Đại tá Sutpen về nhà,
[Quentin]
nói, để thấy rằng vợ đã chết, con trai, một kẻ trốn chạy, những nô lệ
của ông phân
tán (họ bỏ chạy trước khi được giải phóng bởi quân đội Union), và hầu
hết đất
đai của ông bị trưng thu do nợ nần.”
(Malcolm
Cowley giới thiệu William Faulkner, trong The
Portable Faulkner, nhà xb The Viking Press New
York)
“Tại
sao anh thù ghét Miền Nam?”,
Shreve McCannon hỏi, sau khi nghe xong câu chuyện – “Tôi không thù Miền
Nam”,
Quentin trả lời liền lập tức. “Tôi không thù Miền Nam,”
anh lập lại, như thể nói với tác giả, và với chính mình. “Tôi không thù
…. Tôi
không. Tôi không thù! Tôi không thù!”
William Faulkner. Asalom, Asalom! (1936).
Trong
số những truyện ngắn của Thụy Vũ, có một, ít được nhắc
tới, nhưng có lẽ đây là truyện ngắn hay nhất của bà, cho thấy cái mạch
ngầm của
‘dòng văn học miền nam’: thiên về tâm linh, và nó ‘nhập thế’ qua hình
ảnh của
một đạo gia hơn là của một nhà văn. Đây là điểm thật khác biệt giữa hai
dòng
văn chương, một mang “chiến đấu tính”, và một tuân theo sức mạnh vô
hình, của
điều được gọi là “thiên tài của nơi chốn”, hay của Thần Đất (genius
loci, the
spirit or guardian deity of the place).
Đó
là câu chuyện về một người đàn bà, hình như một ‘Chị Hai’
trong một gia đình miền nam. Chị Hai nhiều khi không hẳn là một ruột
thịt trong
gia đình, mà chỉ là một người làm công lâu đời, người viết không khỏi
liên
tưởng tới người vú da đen, trong Âm Thanh và Cuồng Nộ của William
Faulkner:
những con người gìn giữ lương tâm của cả một miền đất. Malcolm Cowley
viết về
những nhân vật của Faulner: dù anh hùng, hay tiểu nhân, họ có một cảm
quan kỳ
cục: nhẫn nhục với số mệnh của mình (They… carry, whether heroes or
vilains, a
curious sense of submission to their fate).
Bà
Chị Hai của Thụy
Vũ, suốt đời ăn chay niệm Phật, tới phút hấp hối, bỗng muốn được hưởng
mùi
trần: hãy cho tôi nếm thử một muỗng nước mắm! Thế là có người thì giẫy
nẩy, đây
là Quỉ ám, cản trở không cho bước vào cõi Phật. Họ viện dẫn, ngay cả
Đức Phật
trước khi đắc đạo, trước nhìn ra ý nghĩa đau khổ của cõi đời sinh tử
lão bịnh,
và tìm ra được giải thoát ra khỏi vòng luân hồi, cũng đã từng bị Quỉ ám
ảnh. Có
người gật gù, phải thực hiện ao ước cuối cùng của một linh hồn trước
khi lìa
đời….
Tôi
không nhớ Thụy Vũ đã ‘quyết định” ra sao, về nhân vật
của mình, “chấp nhận luân hồi, anh bước vô”, hay là…
Theo
tôi, câu chuyện muỗng nước mắm của Thụy Vũ nằm trong
dòng văn chương “tâm linh”, như một “Con
Thằn Lằn Chọn Nghiệp” của Hồ Hữu Tường. Hay một Cửa Tùng Đôi Cánh Gài,
của Nhất
Hạnh.
“Hãy
nói về Miền Nam”,
một người bạn học ở chung phòng tại Harvard nói với Quentin. Một tay
người Canada
tên là Shreve McCannon vốn tò mò về một vùng đất chẳng ai biết
(unknown) vượt
bên ngoài Ohio. “Nó ra
sao”, anh
ta hỏi. “Người ta làm gì ở đó? Tại sao người ta sống ở đó. Tại sao
người ta
sống, vậy đó?”
Nỗi
băn khoăn về một miền đất quá bên kia dẫy Trường Sơn, có
thời được coi là Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân, nhưng bắt đầu
trở thành
“unknown”, không phải với một người Canada, mà là với chính mình, đó là
một ám
ảnh viết mở ra Khung Rêu, của Thụy Vũ:
“Từ
hồi nhỏ, tôi phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự
suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở Miền Nam.
Nguyên nhân chính của sự suy sụp này thì ai cũng biết: chiến tranh… Khi
khởi
công viết quyển truyện này, tôi đặt trước cho mình một chủ định: ghi
lại cái ám
ảnh từ thuở nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa
nó cho
xong”.
Khung
Rêu làm độc giả say mê Faulkner nhận ra trang trại nho
nhỏ có tên là Sutpen’s Hundred, lọt thỏm trong Thiên Đàng Giả Tưởng: Xứ
Yoknapatawpha (The Yoknapatawpha County) của ông. Khung Rêu, qua tóm
tắt của
Vương Trùng Dương, trong bài viết Nguyễn Thị Thụy Vũ Giữa Dòng Đời
Nghiệt Ngã:
“Bối cảnh câu chuyện xoay quanh gia đình ông Phủ, điền chủ, quan lại,
giai đoạn
về hưu. Nhìn bên ngoài gia đình giầu sang nhưng bên trong từ ông Phủ
đến con
cái chẳng ra gì, con trai có đứa thì chơi bời trụy lạc, đứa thì dốt
nát, con
gái có đứa lăng loàn, đứa thì thất tình hóa điên, đứa thì á nam á nữ.
Ông Phủ
lắm vợ nhưng đầu óc đầy nhục dục, hãm hiếp người làm trong nhà tuổi
bằng con
cái… tạo ra thảm kịch, băng hoại của gia đình đến thời suy sụp”
Như
trên cho thấy, Thụy Vũ đổ cho chiến tranh gây nên sự suy
sụp. Nhưng Faulkner nhìn xa hơn, ông cho rằng sự suy tàn của Miền Nam,
là do chính những con người của nó. Như Malcolm Cowley chỉ ra: Miền Nam
Sâu
Thẳm được cai trị bởi những điền chủ, một số là quí tộc như bộ lạc
Sartoris,
trong khi một số khác, là dân ở đâu mới tới, như Colonel Sutpen. Cả hai
đều
cùng chung một mục đích: xây dựng một trật tự xã hội lâu dài, trên một
vùng đất
họ cướp được từ những người thổ dân da đỏ. Đầu óc thẳng băng, sống theo
một qui
luật nhất định (fixe code), nhưng “sâu thẳm” ở trong họ, là một ám ảnh
tội lỗi,
ở trong cách sống của họ, ở trong mơ ước tạo lập thiên đường hạ giới
của họ
(but there was also an inherent guilt in their “design”, their way of
life); và
chính chế độ nô lệ mà họ bắt dân da đen phải chịu đựng, đã gieo vào
mảnh đất
một lời nguyền, và từ đó, là Cuộc Nội Chiến. Như trong thư của Faulkner
viết
cho Cowley, đám con cháu của Sutpen đã coi ông như là một thứ rác ruởi,
đồ trôi
sông lạc chợ (trash, originless), nhưng lại cảm thấy được an ủi, bởi sự
kiện:
rằng một người như Sutpen, giấc mơ của họ mới cao làm sao, nhưng chỉ đủ
sức
mạnh, và sự dẻo dai, để thất bại một cách thật là cao cả (the fact that
a man
like Sutpen ‘could only have dreamed so high but have had the force and
strength to have failed so grandly.) Do đó, không phải do tính tình, mà
chính
là do số mệnh, mà Sutpen trở thành một nhân vật mang tính biểu tượng
của Miền Nam.
Faulkner
thường được coi như là một “ông già nhà quê”, với
độc giả người Mỹ. Và không phải nước Mỹ, mà là thế giới, đặc biệt là
nước Pháp,
đã “khám phá” ra ông. Nếu trí nhớ không phản lại người viết, khi ông
được Nobel
văn chương, tờ NY Times, trong một bài báo đã “cảnh cáo” độc giả nước
ngoài:
đừng nghĩ rằng ở Mỹ, nơi nào cũng có những thảm kịch loạn luân, thù hận
da đen,
như trong tiểu thuyết của Faulkner mô tả.
Cuộc
Nội Chiến, kết quả của nó, là một nước Mỹ hùng cường
ngày nay. Liệu một khi người Mỹ nhẩy vào Miền Nam Việt Nam, họ có mơ
tưởng một
lập lại lịch sử của chính họ, tại một vùng đất “unknown” nơi đầm lầy
nhiệt đới
Việt Nam? Và họ đã thất bại một cách thật là cao cả?
Trên
đây chỉ là một “giả tưởng”, của người viết bài này,
nhưng trên thực tế, với tác giả Thụy Vũ, nó là một hy vọng thực sự, nếu
chúng
ta để ý đến hoàn cảnh gia đình của bà, mà như tác giả Vương Trùng
Dương, qua
bài viết đã dẫn ở trên: “Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng
Lĩnh,
sinh năm 1937 tại Vĩnh Long. Nhà văn sống giữa lằn ranh Quốc-Cộng trong
gia
đình. Vì sống giữa lằn ranh đó, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã gánh chịu bao
điều ngộ
nhận về khuynh hướng chính trị… thân phụ là nhà thơ Mặc Khải, tác giả
Phấn Nội
Hương Đồng. Mặc Khải nằm vùng, hoạt động cho Cộng Sản…”. Nếu Thụy Vũ
cho rằng
chiến tranh là duyên do của suy sụp, nhưng bởi vì “sống giữa lằn ranh”,
bà cũng
còn tin tưởng, chiến tranh dưới dạng giải phóng, là khởi đầu một hưng
thịnh của
nó.
[Chú
thích: Người viết xin tóm tắt sơ qua, cái nghiệp của
một con thằn lằn. Tác giả của nó, Hồ Hữu Tường, theo người viết, cũng
là một
thứ đạo gia, xuống núi hành hiệp, qua những vai trò: hiệp sĩ, khi chấp
nhận
triết lý hành động của một Đệ Tứ, nhà văn, khi viết Phi Lạc, thiền sư,
trong
Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình, và sau cùng, một người dân Miền Nam,
như tất
cả mọi người, sau 1975.
Câu
chuyện Con Thằn Lằn mở ra tại một ngôi chùa hẻo lánh,
tại một miền đất xa xôi. Bữa đó, có hai người khách lãng du tình cờ ghé
qua.
Đúng vào ngày cuối cùng, trước khi quyết định lên giàn hỏa tự thiêu của
vị sư
trụ trì. Nhân câu chuyện lúc cùng khách, vị sư cho biết, ông đã tụng đủ
mấy
ngàn lần một bộ kinh, và theo như truyền thuyết, sau khi tụng xong lần
cuối
cùng vào tối nay, ông sẽ lên giàn hỏa, tự thiêu, và sẽ thành… Phật. Hai
ông
khách, khi về phòng riêng, nói chuyện với nhau, cho rằng nhà sư đã hiểu
lầm ý
nghĩa của bộ kinh, hơn nữa còn hiểu sai Phật Giáo, vốn cấm con người tự
huỷ
mình. Không ngờ khi họ nói chuyện, con thằn lằn trong chùa đã nghe
được. Đây là
một con thằn lằn đã tu nhiều đời, hiểu được tiếng người. Và nó cũng đã
tin
tưởng như nhà sư, và cũng tính theo ông lên giàn hoả, sau khi nghe ông
tụng
xong lần cuối bộ kinh. Thế là con thằn lằn cố tìm cách cứu mình, và cứu
vị sư.
Bằng cách uống dầu đèn, nó làm cho vị sư không làm sao tụng xong lần
thứ… chót
của bộ kinh, để lên giàn hoả tự thiêu. Vị sư sau cùng khám phá ra, và
tiện tay
cầm vồ tụng kinh, ông đập chết con thằn lằn, rồi tụng tiếp, và tự
thiêu. Hồn cả
hai lên gặp Phật. Phật quở vị sư, tu mà còn đủ sân si, lại còn thêm tội
sát
sinh, bắt trở lại làm người, tu tiếp. Còn con thằn lằn, Phật giải
thích, tuy đã
ngộ ra được một phần chân lý, nhưng phương tiện “nuốt dầu” như thế là
còn có
tính “bạo động”, ép buộc, và “ngẫu nhiên”. Phật cho phép con thằn lằn
được tự
chọn nghiệp, trước khi đầu thai. Như người viết còn nhớ, truyện lần đầu
chấm
dứt ở đây, [Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp (1950) được giải thưởng truyện
ngắn thế
giới, khu vực nói tiếng Pháp (1951). Đăng
lại trên tuần báo Mới (Sài Gòn), số 28,
ngày16-5-1953, có trong
tuyển tập truyện ngắn Nợ Tinh Thần, nhà xb Tân Sinh, Sài Gòn, 1965],
nhưng sau
đó, tác giả viết thêm (trên tờ Văn ở Sài Gòn, khi tác giả trở về từ Côn
Đảo,
khoảng sau 1963 ít lâu, nếu trí nhớ người viết không lầm), cho con thằn
lằn đầu
thai, làm một nhà văn hóa. Liệu có thể coi Cửa Tùng Đôi Cánh Gài
(1966), là một
tiếp nối Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp? Đây là câu chuyện một vị sư trẻ
xuống núi
hành hiệp, mang theo một cây gươm, và một cái kiếng chiếu yêu. Nhờ
kiếng chiếu
yêu, chàng dũng sĩ trong chiếc áo thầy tu đã dùng cây kiếm trừ khử được
rất
nhiều yêu quái đội lốt người… nhưng dần dần, anh ít sử dụng tới kính
chiếu yêu,
và do đó, cũng ít phải có dịp rút kiếm ra khỏi vỏ, như thể thiên hạ đã
hết cả
yêu quái… Rồi tới một ngày kia, nhớ thầy, nhớ chùa, anh trở lại. Cửa
chùa ngày
anh còn, thường luôn luôn mở rộng, sao nay khép lại, trước anh? Buồn
rầu, anh
ngồi bên con suối xưa, thấy bóng mình trên dòng nước: một con người mệt
mỏi,
chán chường… Anh tự dưng có ý định soi một lần bóng mình, trên kiếng
chiếu yêu…
và rụng rời thấy, một con quỉ trên mặt suối giận dữ nhe nanh…
Không hiểu Hồ Hữu Tường có đọc
“Cửa Tùng…."?.
Không hiểu Nhất Hạnh có từng đọc lại "Cửa Tùng..."
|