
|
Vườn
Xưa
“Thời
gian là nhân vật thực sự của tôi”
Naguib Mahfouz
Mahfouz,
người Ai Cập, sinh năm 1911 ở Cairo,
là nhà văn viết bằng tiếng Ả Rập đầu tiên được Nobel văn chương (1988).
Tác
phẩm bộ ba về thành phố Cairo, Cairo Trilogy, gồm Ngõ cụt Lâu đài
(Impasse des
Deux Palais, bản tiếng Anh, Palace Walk, nhà xb Anchor, 498 trang), Lâu
đài Dục
vọng (Le Palais du Désir, Palace of Desire, 422 trang), và Vườn Xưa (Le
Jardin
du Pasée, bản tiếng Anh, Phố Đường, Sugar Street, 308 trang), dầy 1500
trang,
hoàn tất vào năm 1952, là câu chuyện nhiều tập (saga) về một gia đình
trưởng
giả ở thành phố Cairo từ 1917 đến 1944. Trước đó, ông đã thử tay nghề,
và cho
xuất bản ba cuốn tiểu thuyết về Ai Cập cổ đại, khi còn là nhân viên tại
một bộ
lo về tôn giáo (Ministry of Awqaf, Religious Endowments). Ngoài bộ ba
kể trên,
ông còn là tác giả chừng 40 tiểu thuyết, tập truyện, kịch phẩm.
Với
Tam Khúc Cairo, bạn có thể bắt đầu theo bất cứ một trật
tự nào, hoặc đọc cả ba, hoặc đọc chỉ một, điều này cho thấy tài năng
của người
kể chuyện. Thời gian là nhân vật chính, và cùng với nó, một thành phố,
những
con người dính cứng vào đời thường, vào cái nhất thời, sự hữu hạn. Và
cùng với
thời gian, là “tiến hoá”. Bởi vì lịch sử (histoire), như chuyện lớn (la
grande
histoire), hay chuyện nhỏ (la petite histoire), luôn luôn ở phía sau;
nó có đó,
gầm gừ, đe dọa: hãy biến cuộc đời của mi thành định mệnh.
Từ
“định mệnh” ở đây, mang âm hưởng Đông phương. Mà sao
trong sổ đoạn trường có tên: một thứ nghiệp (une forme d’ensorcelante
fatalité), dưới dạng một câu chuyện thần tiên, theo Nicole Chardaire,
khi giới
thiệu Vườn Xưa, bản tiếng Pháp, loại Sách Bỏ Túi. Bà cho rằng, khác với
Ngàn Lẻ
Một Đêm, khu vườn quá khứ của Mahfouz không phải vườn thúy của người
đẹp
Shéhérazade, nhưng được cư ngụ bởi những con người bằng xương bằng
thịt, bởi
nỗi đau, niềm hy vọng. Vẫn theo Nicole Chardaire, cái nguồn thực sự ở
đây, là
từ truyền thống văn chương Nga. Từ Tolstoi, Gogol, Dostoievski; gần
hơn, từ
Balzac, Proust. Gần hơn nữa, Roger Martin du Gard, mà chính tác giả
cũng đã
thừa nhận là ông có mắc nợ. Nói tóm gọn, đây là một dòng văn chương
chơi đùa
(jouer) với những ẩn dụ – của con tim, cuộc đời, lịch sử. Một dòng văn
chương
mà thời gian là nhân vật đích thực của nó.
Thời
gian: Ai Cập từ 1917 tới 1944. “Thời nhân” (nhân chứng
thời đại): một cư dân thành phố có tên là Ahmed Abd el-Gawward. Một
thương gia
có tới hai cái bóng: ban ngày, trong gia đình, ngoài xã hội, đây là một
con
người ngoan đạo, rất nghiêm với vợ con, chí thú làm ăn. Ban đêm, ông
thả lỏng
con lợn lòng, chiều theo rượu và gái, lao vào những thú vui “bị cấm
đoán”, thả
hồn theo những điệu nhạc huê tình… Nhưng rồi giông bão nổi lên, những
cô con
gái của ông bắt đầu nổi loạn chống lại ông bố khắc nghiệt, những ông
con trai
bắt đầu mở những cuốn sách khác, không phải kinh Coran…
Trên
tờ Điểm Sách Nữu Ước (The New York Review of Books), số
Nov 30, 2000, qua bài viết “Sự Độc Ác của Hồi Ức”, Edward Said đã nhìn
lại Tam
Khúc về Cairo, đọc mấy cuốn mới ra lò của “The Great Mahfouz”. Theo
ông, trước
khi được Nobel văn chương, với thế giới bên ngoài, (hay bên ngoài thế
giới Ả
Rập), Mahfouz chỉ được biết tới như là tác giả của những câu chuyện
mang tính
minh họa, về cuộc sống hạ lưu ở Cairo.
Nhưng ngay cả với những sinh viên về Ả Rập hoặc giới nghiên cứu về
Trung Đông,
họ vẫn nghĩ, ông không có được một văn phong, hay một viễn tượng cho
riêng
mình. Lý do một phần là do dịch thuật. Thường là quá dở. Mahfouz lại
không kiếm
ra nổi một dịch giả mê văn ông tới mức để cả đời vào việc dịch. Vào năm
1980
(nghĩa là vẫn trước khi ông được Nobel), Said đã cố gắng giới thiệu ông
với một
nhà xuất bản ở New York; ông này đang đưa mắt nhìn về “thế giới thứ
ba”, coi có
cuốn nào thuộc loại số một, và biến nó thành dịch phẩm hảo hạng. Nhưng
sau khi
cân nhắc đắn đo, ông lắc đầu. Khi Said hỏi tại sao, ông trả lời, không
hề có
ý châm biếm, rằng Ả Rập là một ngôn ngữ
dễ gây tranh luận (I was told – with no dectectable irony - that Arabic
was a
controversial language). Nhưng thú vị là, vài năm sau khi nhà xuất bản
New York
lắc đầu, Said đã có dịp trao đổi với Người Đẹp Jackie, tức Jacqueline
Onassis,
và bà là một trong những người đã hỗ trợ ông ta. Bản quyền tiếng Anh
thuộc nhà
xuất bản Đại Học Mỹ ở Cairo; Mahfouz, chắc gặp lúc quá kẹt, đã bán rẻ
chúng; có
thể ông chẳng thèm nghĩ đến chuyện một ngày đẹp trời, ông trở thành nổi
tiếng
trên khắp thế giới.
Với
độc giả Ả Rập, Mahfouz có một giọng văn đặc biệt, của
riêng ông, một bậc thầy về ngôn ngữ, nhưng với độc giả tiếng Anh, ông
đành ăn
theo dịch giả; và Said thú nhận, ông rất lấy làm buồn mà nói rằng, mấy
ông đó
chỉ đáng là “thợ dịch”, tức là chẳng ai có một văn phong, và có khi
chẳng hiểu
Mahfouz nói gì nữa! Said qua bài viết đã cố gắng giới thiệu với độc giả
tiếng
Anh một Mahfouz vĩ đại của ngôn ngữ Ả Rập.
Giống
như một vị hoàng đế, đứng trên bậc cửu trùng ngó xuống
thần dân tức vương quốc giả tưởng do mình tạo ra, Mahfouz biết, ông có
thể vẫy
tay ra hiệu cho nó tới phủ phục dưới chân ông, chịu sự phán xét, nhào
nặn, uốn
nắn cái hình vóc, dáng dấp của nó, như Alexander, Caesar hay Nã Phá
Luân, những
người chuyên chinh phục, chiến thắng, mở mang vương quốc của họ. Thêm
vào đó,
là những ngón nghề văn hoá, trí thức, như là những phương tiện chuyển
đạt dũng
mãnh, trực tiếp và tinh tế. Những nhân vật của ông luôn luôn được mô tả
một
cách “trực khởi” ngay khi vừa ló mặt, cũng vậy, Mahfouz tới ngay trước
mặt bạn
(độc giả), nhấn bạn vào trong cái dòng chẩy là những câu chuyện của
ông, một
dòng kể dầy, đặc, và bạn cứ thế mà loay hoay bơi lội ở trong đó. Lịch
sử Ai Cập
dưới thời những vị thủ tướng như Saad
Zaghloul và Mustapha el Nahas, chi tiết về những đảng phái, chuyện nhà
này nhà
kia… tất cả được diễn tả thật tài tình. Hiện thực chủ nghĩa, lẽ dĩ
nhiên, nhưng
vượt lên trên là viễn ảnh, là tầm nhìn xa của nhà văn; với Mahfouz, đó
còn là
một tấm lòng trắc ẩn của một con người có niềm tin vào Thiên chúa giáo.
Hiện
nay ông nổi tiếng khắp thế giới, hoặc như là một nhà văn hiện thực xã
hội theo
kiểu Balzac, hoặc như một người kể chuyện huyền hoặc (a fabulist) từ
Ngàn Lẻ
Một Đêm bước thẳng ra. Nhưng có lẽ đúng nhất, là đề nghị của tiểu
thuyết gia
người Lebanon, Elias Khoury; ông coi đây là một dạng lịch sử về thể
loại tiểu
thuyết, từ giả tưởng mang tính lịch sử tới chuyện diễm tình, chuyện
nhiều tập,
chuyện gươm đàn nửa gánh tiếu ngạo giang hồ, theo sau đó, là một tác
phẩm với
đủ kiểu: hiện thực, hiện đại, tự nhiên, biểu tượng, và phi lý (a kind
of
history of the novel form, from historical fiction to the romance,
saga, and
picaresque tale, followed by work in realist, modernist, naturalist,
symbolist,
and absurdist modes).
Hơn
nữa, mặc dù bề ngoài dễ đọc, Mahfouz là một thế giá rất
phức tạp, rất vi diệu (sophisticated): ông không chỉ là một “tay chơi”
ngôn ngữ
Ả Rập (an Arabic stylist), mà còn là một sinh viên cần cù theo dõi tiến
trình
xã hội, và tri thức luận. Said cho rằng, thế giá này là số một, có lẽ
độc nhất
vô nhị trên thế giới. Những cuốn tiểu thuyết “được gọi là hiện thực xã
hội” của
ông, từ đó danh vọng ông nổi lên như cồn, không chỉ là một tấm gương
phản ánh
mang tính xã hội, thuận lý về một Ai Cập hiện đại; chúng còn là những
toan tính
thật táo bạo vén màn bí mật về cuộc thi thố quyền lực. Bắt phong trần
phải
phong trần, vì vậy, quyền lực này có thể đến từ ông Trời, như trong ngụ
ngôn
Awlad Haritna (Những đứa con của Gebelaawi), xuất bản năm 1958 nhưng bị
nhà cầm
quyền Ai Cập cấm đoán cho tới mấy năm gần đây. Đây là chuyện một đại
điền chủ,
một thứ ông trời, đã cấm đoán con cái của mình không được vào Thiên
Đàng, không
được nối ngôi ông, cũng không được tham gia đảng phái chính trị, đại
học, nhân
viên bàn giấy nhà nước vv…
Nhưng
như vậy không có nghĩa là những tiểu thuyết của
Mahfouz được hướng dẫn bởi những nguyên lý trừu tượng, mà ngược hẳn
lại, nếu
không, chúng đã không gây ấn tượng mạnh mẽ ở những độc giả Ả Rập, thoạt
kỳ
thuỷ, và bây giờ, là cả thế giới.
Mục
tiêu mà Mahfouz muốn nhắm tới, theo Said: ông muốn những
tư tưởng nhập thân hoàn toàn vào những nhân vật, vào những hành động
của họ;
không một điều gì mang tính lý thuyết bị bỏ qua không được đem ra thi
thố.
Nhưng điều luôn luôn làm Mahfouz ngỡ ngàng, đó là, Cái Tuyệt Đối – với
một
người Hồi giáo, đó là Thượng Đế, như là quyền năng tối hậu – bằng cách
nào nó
bắt buộc trở thành vật chất, và không thể khôi phục lại được (the way
the
Absolute – which for a Muslim is of course God as ‘the’ ultimate power
–
necessarily becomes material and irrecoverable simultaneously), như khi vị đại điền chủ ra lệnh cấm đoán con cái,
thế là chúng cứ muôn đời lưu vong, mặc dù ông bố đã thối lui vào trong
pháo
đài, hay căn nhà của ông, một căn nhà mà những đứa con vẫn có thể nhìn
thấy, từ
đất đai của họ.
Cuốn
tiểu thuyết Malhamat al Harafish (1977), (Epic of the
Harafish) mở rộng ra, và đào sâu hơn, đề
tài trong Những đứa con của Gebelaawi. Bằng vào khả năng ngôn ngữ tinh
tế,
Harafist có thể chuyển dịch (translate) Cái Tuyệt Đối vào trong câu
chuyện,
nhân vật, biến động, nơi chốn… nhưng cùng lúc, bởi vì cái tuyệt đối là
nguyên
lý đầu tiên của sự vật, cho nên nó ương ngạnh, cứng đầu, vẫn giấu biệt
cội
nguồn của nó, giống như một cái gì lơ lửng, gây nhức nhối, dằn vặt. Cái
sống,
cái cảm nhận đều hiển nhiên, cụ thể, nhưng thật khó tóm bắt mặc dù được
bầy tỏ
thật chi ly theo dòng văn xuôi thật đặc biệt của ông. Cũng vậy, sự hiện
diện
đầy quyền uy của ông bố ở trong Tam Khúc Cairo như treo lơ lửng bên
trên mọi
hành động của ba thế hệ con cái tiếp theo nhau, sau khi ông đã chết.
Quyền uy
của ông cứ thế nhạt nhòa đi, như thể ông lui dần về pháo đài, nhưng vẫn
lơ lửng
đâu đó, kết quả là, tới cuối chuyện, bạn cảm thấy vừa nuối tiếc – về
những gì
xẩy ra cho những nhân vật ở trong đó - vừa
hy vọng, mong trở lại với mở đầu câu
chuyện. Tác giả như muốn giải thích tiến trình này, bằng một đoạn có
tên là
“Một thông điệp”, trong cuốn Những tiếng dội từ một Tự thuật” (Echoes
from an
Autobiography, 1994): “Sự độc ác của hồi ức tự nó biểu lộ qua tưởng nhớ
những
gì bị xoá nhoà qua quên lãng.” (The cruelty of memory manifests itself
in
remembering what is dispelled in forgetfulness). Mahfouz là một người
ghi nhận
chính xác bước đi của thời gian. Một ghi nhận chính xác, đừng mong cứu
chuộc,
nhưng với phán đoán cao độ.
Bạn đã đọc Don Quixote chưa?
Đối
với độc giả Tây-phương, một câu hỏi như vậy có thể làm
họ bực mình. Nhưng số phận của Cervantès cũng giống như của Homer,
Dante, hoặc
Goethe: họ vừa nổi tiếng vừa bị lãng quên, như thể hào quang của tác
phẩm làm
cho độc giả (phải) bỏ chạy!
Một
nghịch lý đáng yêu như thế đã khiến nhà xb Seuil đưa ra
một bản dịch mới nhất tác phẩm khổng lồ này (nữ dịch giả Aline
Schulman, 1997).
Đi
trước Tartarin de Tarascon của Alphonse Daudet, Don
Quichotte đã từng võ trang đến tận răng để chiến đấu với mấy con sư
tử... ở
trong chuồng. Cũng may sư tử không thèm chấp mấy trò trẻ con; khi cửa
chuồng mở
ra, con vật hào hoa phong nhã, được "ăn học" đàng hoàng (le noble
animal, fort bien élevé) nhìn ngang, nhìn dọc rồi quay đít về phía Don
Quichotte, tiếp tục dỗ giấc ngủ trưa của nó. Và Don Quichotte đáng yêu
của
chúng ta quay qua Sancho, người hầu: Tới Madrid, nếu Đức Vua có hỏi tên
ta, mi
hãy nói, ta là Hiệp Sĩ Sư Tử, không còn là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa.
Tạp
chí Văn Học Pháp, số Oct, 1997, đặc biệt về Cervantes:
Don Quichotte hay là sự phát minh tiểu thuyết hiện đại. Có Carlos
Fuentès, một
nhà văn lão thành người Mexico, với bài viết: Cervantès hay là phê bình
việc
đọc (sách). Liên hệ giữa tác giả và đất nước Tây-ban-nha, là đầy trăn
trở, xung
đột: "Họ là kẻ khác, của chính chúng tôi. Tây-ban-nha, mặt trời và bóng
đêm, nửa yêu thương nửa hận thù. Gọi một tên thôi: Đam mê". Trả lời câu
hỏi: liệu Don Quichotte chết cô đơn? Ông nói: Marthe Robert đã đưa ra
câu trả
lời chung quyết: Don Quichotte chết ngay khi anh ta trở thành có lý...
nhưng
cuốn sách của anh ta không chết, nó tiếp tục sống, như một bảng chỉ
dẫn, tham
khảo về những điều khả thể... Lần đầu tiên trong lịch sử văn chương,
một nhân
vật biết (rằng) người ta đang viết (về anh) cùng lúc anh sống những
cuộc phiêu
lưu giả tưởng. Đây là một nạn nhân kép: Don Quichotte mất lý trí, không
phải
một, mà tới hai lần; lần đầu, khi anh ta đọc, lần thứ nhì, bị đọc.
Juan
Benet, một tác giả khác, trong cùng số báo cho rằng,
Cervantes quyết định tự ban cho mình một huyền thoại riêng, không vay
ai, không
mượn lịch sử, truyền thuyết, tôn giáo, huyền thoại học... Nói ngắn gọn:
ông ta
phát minh ra cái gọi là: Phát minh văn chương.
Trong
những hiện tượng Don Quichotte tiếp theo (xin coi hồi
sau sẽ rõ), có một, thật đáng yêu: Từ trưa
23 đến trưa 24 tháng Tư, năm 1996, nhân Ngày
Hội Sách, hàng ngàn
người, giầu cũng như nghèo, ngoại quốc cũng như bản xứ, đã tụ họp tại
Madrid để
nghe đọc Don Quichotte.
Sự
bắt chước Đức Ông Don Quixote của chúng ta, là nhan đề
bài viết của Simon Leys trên tờ Điểm Sách Nữu Ước số đề ngày 11 tháng
Sáu 1998.
Theo ông, qua những cuộc tranh luận này nọ, từ quixotic gần như có
nghĩa, một
sự sỉ nhục, và điều này làm ông ngỡ ngàng. Cung cách mọi người khi nhắc
tới,
làm cho bạn tự hỏi, không hiểu người đó đã (thực sự) đọc tác phẩm hay
chưa.
Thật cũng thú vị, nếu có ai đó bỏ công tìm hiểu, Don Quichotte có được
đọc một
cách đại trà, như tính bình dân của nhân vật này. Nhưng chớ đụng đến
những con
người có học, bởi vì theo họ, có một số tác phẩm mọi người (phải) đọc, đây là một bổn phận, do bắt buộc của tri
thức. Leys thú nhận, chỉ đọc vì thích thú.
Theo
ông, người ta có cảm tưởng những nhà phê bình thực sự
không thích văn chương: họ không "enjoy" (hưởng thụ, thưởng thức) cái
thú đọc sách. Tệ hơn nữa, họ thường tỏ ra nghi ngờ, nếu không muốn nói
là dè
bỉu, những cuốn ăn khách. Dưới mắt họ, cái gì vui, gây cười thường
không quan
trọng, hoặc không nghiêm túc. Buồn một nỗi, thái độ của họ đã tiêm
nhiễm vào
chúng ta, một cách vô thức, đưa đến hậu quả: chúng ta quên đi rằng, cho
tới
nay, những đại tác phẩm đều được viết ra, cho đại chúng, và để mua vui
cho họ:
Từ Rabelais, Shakespeare và Molière của thời cổ điển tới những tiểu
thuyết gia
khổng lồ thế kỷ 19 - Balzac, Dumas, Hugo, Dickens, Thackeray - quan tâm
chính
của những nhà sáng tạo văn chương không phải là để được sự chấp nhận
của giới
kinh viện, của những chuyên viên thưởng ngoạn, (một việc làm tưởng khó
tuy dễ),
nhưng mà là để sờ mó tới người ngoài phố, làm cho anh ta cuời, khóc, và
đây là
một nhiệm vụ khó khăn vô cùng. Nhìn theo cách đó, Don Quixote đã đạt
tới mức
tối hảo, của thể loại văn chương cổ điển: viết cho nhiều người đọc,
càng nhiều
bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và nếu thu được lợi nhuận, càng nhiều bao
nhiêu,
càng vui bấy nhiêu!
Bản
thân Cervantes chẳng có gì làm người đọc liên tưởng tới
những nhà sáng tạo đại tác phẩm. Nguyên là một anh lính quèn, bị thương
và trở
thành đồ bỏ; bị hải tặc tóm, đem bán làm nô lệ ở Bắc Phi, cuối cùng lê
về được
cố hương Tây-ban-nha, chắc chắn chỉ để chết trong nghèo khổ. Đã từng
nếm mùi
nhà tù vài lần, đời ông đúng là một cuộc tranh đấu để sinh tồn. Đã từng
đòi
phen viết lách để kiếm ăn, nhưng không thành công: nào kịch, tiểu
thuyết đồng
quê, hầu hết đã mất dạng, chút còn lại cũng chẳng ghê gớm gì. Chỉ đến
gần chót
đời, khi đã 59 tuổi, với Don Quixote, xuất hiện vào năm 1605, ông mới
vớ trúng
mỏ vàng: liền lập tức, cuốn sách là một best seller. Tác giả của nó
chết, một
năm sau khi phần nhì, và là phần cuối của cuốn sách được xuất bản
(1615).
Tìm
hiểu động cơ khêu gợi trí tưởng tượng của Cervantes,
chúng ta ngỡ ngàng: ông đã coi cuốn sách, như bộ máy chiến tranh (une
machine
de guerre), nhằm chống lại nền văn chương hiệp sĩ, vốn thời thượng lúc
đó, và
đã dồn hết cả sức lực vào mục tiêu này. Như chúng ta biết, toàn thể cấu
trúc
của cuốn sách thật giản dị, và được đề ra ở ngay vài trang đầu, Chương
Một;
hàng ngàn trang tiếp theo, chỉ lập đi lập lại những ứng dụng của nó,
vào trong
những tình huống khác biệt; hàng trăm biến điệu (variations), cũng một
đề tài.
Tác giả, một trưởng giả nhà quê, tốt tính, khôn ngoan, có học, có ít
tiền,
nhưng thừa thì giờ, cho nên đã mắc nghiền văn chương hiệp sĩ lang
thang, như
lời ông nói: "Ông ta chẳng việc gì để làm, đành chúi mũi vào văn chương
hiệp sĩ lang thang, nó làm ông say mê, quên cả việc săn bắn, chăm sóc
nhà cửa,
đến nỗi cứ bán dần cơ ngơi để mua sách... (cuối cùng) chết đắm chết
đuối trong
mớ sách vở, đọc đêm quên ăn, ngày quên ngủ, não bộ khô kiệt, mất luôn
sự hiểu
biết, túi khôn.. Rồi ông quyết định,
biến chính mình, thành một hiệp sĩ lang thang, quên một điều, thời đại
hiệp sĩ
lang thang đã qua từ lâu rồi. Sau cùng, ông thức giấc, từ cơn mộng,
khám phá ra
rằng, tất cả những cuộc phiêu lưu tận cùng bằng thất bại, chúng biến
ông thành
nạn nhân của sự độc ác; điều ông săn đuổi như một chủ nghĩa anh hùng
phi lý,
thật sự chỉ là ảo mộng! Khám phá sau cùng là tận cùng của thất bại: ông
chết vì
vỡ tim".
Cái
chết của Don Quixote ở trang cuối là tuyệt đỉnh, của
không khí toàn câu chuyện. Tôi (Leys) đố bạn đọc đến đây mà không rớt
nước mắt.
Điều làm ông ngạc nhiên, một tác phẩm lớn lao như thế, tại sao lại bắt
nguồn từ
một thông điệp chật hẹp như vậy: viết chỉ để chống lại thứ văn chương
kiếm hiệp
ba xu, rẻ tiền? Và Leys nhớ đến câu chuyện về Hemingway, khi trả lời
một ký giả,
về những thông điệp trong tác phẩm của ông: Chẳng có thông điệp nào ở
trong đó.
Khi cần gửi thông điệp, tôi tới Bưu Điện.
Sẽ
có người bực mình thốt lên: Sao? Không có thông điệp
trong những tác phẩm lớn của văn chương thế giới? Lẽ dĩ nhiên, nhiều
nhà văn,
thi sĩ nghĩ rằng, họ có những thông điệp để truyền đi, nhưng thường
thường, sau
cùng họ đều nhận ra: những thông điệp như thế chẳng quan trọng chi, như
thoạt
đầu họ nghĩ. Hầu hết những độc giả bây giờ chẳng thèm để ý đến thần học
thời
Trung Cổ, khi say mê Dante. Và đây là lời khuyên của D. H. Lawrence:
Đừng bao
giờ tin tưởng nghệ sĩ. Hãy tin câu chuyện kể. Chức năng chính hiệu của
một phê
bình gia, đó là cứu vớt (save) câu chuyện, ra khỏi nghệ sĩ, kẻ tạo ra
nó.
Một
trong những phê bình gia bị dội, khi đọc Cervantes, đó
là Nabokov. Thoạt đầu, khi phải soạn cours, ông
tính dựa vào hồi ức khi còn trẻ, ông rất mê cuốn
sách. Nhưng ông thấy cần phải trở lại với
bản văn.
Và ông hết sức phẫn nộ, về những sự độc ác, tàn nhẫn, dã man của cách
kể
chuyện. Ông so sánh sự độc ác dã man với sự sỉ nhục Christ, với những
trò tra
tấn bách hại của những mật vụ nhà thờ người Tây-ban-nha (Spanish
Inquisition),
với trò đấu bò hiện đại. Ông tỏ vẻ hết sức thích thú, khi kể tội
Cervantes, làm
thịt cuốn sách, trước thính giả là những sinh viên của ông; khiến đồng
nghiệp
bực mình, và cảnh cáo: Harvard nghĩ khác. Vài năm sau, ông xin chân
giảng dậy,
bị bác đơn, ông cảm thấy thật cay đắng, chua chát vì cái tát gió này.
Chắc còn
nhiều nguyên nhân, nhưng không thể loại trừ thái độ của ông đối với
Cervantes.
Trong những nghiên cứu của ông về tác phẩm, có một, thật thú vị:
Nabokov chứng
minh rằng, giải pháp cho từng cuộc phiêu lưu của Don Quixote, là gần
như không
thể tiên đoán được; ông còn so sánh những cú làm bàn và bị ghi bàn -
những
chiến thắng và thất bại của Don Quixote - với trò chơi quần vợt, thật
nghẹt
thở: 6-3, 3-6, 6-4, 5-7. Nhưng ván chót chẳng bao giờ xẩy ra: Cái chết
đã xóa
sạch tất cả.
Sự
ghê tởm đã khiến ông nghỉ chơi với cuốn sách trong suốt
thời gian dậy đại học Cornell: ông không dám đề cập tới nó nữa. Nhưng
thái độ
thù nghịch này, thực ra là do sự ngưỡng mộ đối với nhân vật của
Cervantes, như
đoạn cảm động sau đây: (Don Quixote) đã rong ruổi 350 năm xuyên qua
những rừng
rậm, những hoang địa khô cằn, là tư tưởng nhân loại; và anh ta đã có
được sự
sống động, và phong thái. Chúng ta đừng cười anh ta nữa. Huy hiệu của
anh ta,
đáng thương, lá cờ của anh, đẹp. Anh ta là hiện thân của tất cả những
gì dịu
dàng, trinh nguyên, không một chút vị kỷ, và tính nịnh đầm.
Theo
Kundera, Nabokov đã đưa ra một nhận định tiêu cực, đầy
tính gây hấn về Don Quixote: quá lố, ngây ngô, lập đi lập lại, đầy
những sự độc
ác không thể chịu nổi, không thể tin được; cuốn sách cay đắng, chua
chát, dã
man nhất cho tới nay đã được viết ra. Nhưng chúng ta không ở trong thế
giới của
Zola, khi một hành động độc ác nào đó, được miêu tả thật tỉ mỉ, trở
thành một
tài liệu chính xác của thực tại xã hội. Don
Quixote bị chèn ép, trở nên không thể hiểu được,
khi đụng phải tinh
thần Zola, hoặc Mỹ học Lãng mạn, vốn đòi hỏi sự xác tín.
Trong
những tác giả tắm đẫm văn hóa Tây-ban-nha là nhà văn
Pháp, Henry de Montherlant; ông sống ở đó, rành rẽ ngôn ngữ
Tây-ban-nha, và đã
từng học nghề đấu bò. Ông đọc đi đọc lại bốn lần nguyên tác, và rất khó
chịu vì
sự thô bỉ của Cervantes, khi ông đụng tới một nhân vật cao cả, kiểu
thánh nữ
của tiểu thuyết lãng mạn. Ngoài ra theo
ông, cuốn truyện quá dài, nhiều câu chuyện diễu vô vị, và độc ác. Phản
ứng của
ông tương tự như của Nabokov, và điều ông bực nhất, đó là Cervantes
chẳng hề
đưa ra một lời cảm thông nào cho nhân vật, cũng chẳng hề kết tội, về
những trò
độc ác nhắm vào anh. Nhưng đây chính là nghệ thuật của Cervantes: Những
điều
chỉ trích ông chính là sức mạnh nghệ thuật của ông: sự bí mật của cái
điều
giống như chính cuộc đời: Ai trong số chúng ta dám tin rằng cuộc đời
vốn thiện
vốn mỹ, vốn không hề có sự độc ác? Chúng ta càng thù tác giả bao nhiêu,
chúng
ta càng tin vào thực tại thế giới của ông, và những nhân vật ông tạo ra.
"Ông
chủ hãy coi kìa," Sancho nhắc đi nhắc lại,
"những vật trông giống như những người khổng lồ ở dưới kia thực sự
không
phải là những người khổng lồ, nhưng mà là những cối xay gió." Nhưng ông
chủ của anh không nhìn: Don Quichotte đọc, và cái đọc của anh nói rằng,
đây là
những người khổng lồ. Cuốn sách đưa ra một vấn nạn, về tác phẩm lớn:
lớn là lớn
với đời sống, hay với những cuốn sách?
Trong
những ngụ ngôn về Quixote, có một của Jorge Luis
Borges: Một Bài Toán. Sau đây là tóm tắt:
Chúng
ta hãy tưởng tượng, người ta tìm thấy ở Toledo một bản
văn bằng tiếng Arabic, được coi như thủ bản của Cide Hamete Benengeli,
tác phẩm
của Cervantes đã thoát thai từ đó. Qua bản văn chúng ta đọc thấy vị anh
hùng
(vốn nổi tiếng, đã lang thang khắp xứ Tây-ban-nha, trang bị với cây
gươm và
ngọn giáo, gặp ai cũng thách đấu, chẳng cần lý do gì hết), vị anh hùng
khám phá
ra rằng, sau một trong những cuộc chiến đấu như thế, anh ta đã giết
chết một
người.. Tới đây bản văn đứt đoạn, và bài toán đặt ra là: hãy thử đoán
coi Don
Quixote xử sự ra sao?
Theo
như tôi được biết, có thể có ba câu trả lời. Câu đầu có
tính tiêu cực, nghĩa là, chẳng xẩy ra chuyện gì hết; bởi vì trong thế
giới
hoang tưởng của Don Quixote, cái chết cũng tầm phào như chuyện huyền
hoặc, và
sự kiện giết chết một người chẳng làm phiền cá nhân đang chiến đấu,
hoặc tin
rằng anh ta đang chiến đấu, với những quái vật huyền hoặc, và với đám
phù thuỷ.
Câu trả lời thứ nhì thuộc về bệnh lý.
Don
Quixote không hề bao giờ quên một điều, anh ta chỉ là
phóng bản của Alonso Quijano, độc giả của những chuyện huyền hoặc; sự
kiện nhìn
thấy cái chết, hiểu rằng giấc mơ đã đẩy anh ta tới tội ác của Cain,
điều này đã
đánh thức anh ta, có lẽ hoài hoài, ra khỏi cơn điên khùng.
Câu
trả lời thứ ba có lý hơn cả. Một khi người đàn ông chết,
Don Quixote không thể cho rằng hành động giết người ghê tởm chỉ là sản
phẩm của
cơn điên rồ... thế là Don Quixote không làm sao ra khỏi cơn điên của
anh.
Câu trả lời
chót lại đẩy chúng ta trở về điểm xuất
phát: thế nào là tác phẩm lớn? Lớn là lớn với văn chương, hay với cuộc
đời?
|