|
Michael
Ondaatje: Con Bệnh Anh
Tahar Ben Jelloun giới thiệu.
Sinh
tại Sri Lanka,
học tại Anh, hiện định cư tại Toronto,
Canada,
nơi ông dậy môn văn chương. Tác phẩm của ông nhằm hòa giải những văn
phong và
những văn hóa, như chúng vẫn thường đối nghịch. Nhà thơ, tiểu thuyết
gia, người
kể chuyện phương Đông này cũng còn là một nhà văn luôn thử nghiệm những
hình
thức mới. Thấu thị, và hiện thực, ông sở hữu cùng lúc, khiếu chi ly về
cõi
riêng thầm và cảm quan sử thi (le gout de lõintimité et le sens
épique). Bởi vì
ông quan tâm, chỉ bước đi của cuộc đời, và những giả tưởng của ông
giống như
những căn nhà miền nhiệt đới, với những kiến trúc di động, mặc tình cho
gió,
không khí, và nước, qua lại.
[Bệnh
nhân Anh đã đoạt giải The Booker năm 1992, được
Anthony Minghella đưa lên màn ảnh, và là phim hay nhất trong năm 1996.
Lần đầu
dịch ra Pháp ngữ với nhan đề Người cháy,
Lõhomme Flambé, nhà xb Olivier, 1993. Bài giới thiệu dưới đây, bằng
Pháp ngữ,
là từ tủ sách Points, nhà xb Seuil, 1995.
Tahar
Ben Jelloun, sinh năm 1944, người Ma-rốc, viết văn
bằng tiếng Pháp, tác giả nhiều tiểu luận, tuyển tập thơ, truyện kể,
kịch, giải
thưởng Goncourt 1987 với cuốn tiểu thuyết Đêm Thiêng, La Nuit Sacrée.]
Nguyên
lý Ngàn Lẻ Một Đêm là nguyên lý tạo nên văn chương.
Ông hoàng khát máu nói với Schéhérazade: “Kể cho ta một câu chuyện, nếu
không
ta giết mi.” Nỗi hăm dọa của cái chết làm cô gái trẻ đẹp biến thành một
người
kể chuyện, với một trí tưởng tượng lạ thường. Nguyên lý Con Bệnh Anh có
thể là
giai đoạn thứ nhì của việc làm văn này, bởi vì bệnh nhân người Anh,
toàn thân
phỏng cháy, nói với Hana, người đàn bà trẻ đang săn sóc anh: “Đọc cho
tôi những
cuốn sách, nếu không, tôi chết.” Anh ta chỉ vẽ cho cô, ngay cả tới cách
đọc:
“Kipling là phải đọc từ từ. Rình mò từng dấu phẩy, và cô sẽ khám phá ra
những
chỗ lặng tự nhiên. Đây là một nhà văn sử dụng ngòi viết, và mực.”
Bệnh
nhân Anh là một trong những cuốn sách mà người ta không
thể không đọc. Với con người kỳ bí, căn cước mù mờ, lửa liếm gần hết
mặt, người
ta có thể mượn lời Jorge Sumprun,* và nối điêu: “Cái đọc, hay là cái
sống; văn
chương, hay là cái chết.” (La lecture ou la vie; la littérature ou la
mort). Bởi vì đây là sự sống sót và hồi
ức dẫn (ta) về hiện tại, một hiện tại còn độc ác hơn, xấu xa ghê tởm
hơn là quá
khứ của những bậc tổ tiên, đã chết trong những cuộc chiến Tôn Giáo.
Câu
chuyện được bịa đặt bởi một nhà văn nhiều gốc gác, với
vô vàn rằng buộc: Michael Ondaatje sanh tại Sri Lanka, học tại Anh, và
hiện
đang giảng dậy tại Toronto. Ông ở trong (dans) rất nhiều văn hóa, không
chỉ ở
giữa (entre) hai văn hóa. Khi người ta ở
giữa, có nghĩa là, chẳng ở đâu. Tuy nhiên, như một số nhà văn không
diễn tả
bằng tiếng mẹ đẻ của họ, ông là mối nối, là cây cầu giữa hai thực thể.
Ông cũng
có một quãng cách đủ xa, với căn cước mượn của mình, để nói điều cần
nói, để
cầm cái gì khẩn cấp phải cầm. Cái nôi, hay là quê nhà của ông không
thực sự
xuất hiện ở trong cuốn tiểu thuyết. Thì cứ nói rõ ra ở đây: ông đã để
cho anh
chàng trẻ tuổi theo đạo Sikh, Kip, nói chiều sâu tư tưởng của mình, về
những
nền văn minh được gọi là giống trắng này; những nền văn minh mà hồ sơ
luật pháp
đã ngập đầu tại tòa án xét xử các quốc gia. Cõi dã man đâu có đặc quyền
riêng,
một cửa khẩu nào. Nó ở ngay nơi người đàn ông cúi xuống quá khứ thú vật, nơi gợi nhớ gốc gác man rợ của mình.
Bệnh
nhân người Anh, do những vết bỏng da, do bộ dạng không
còn, đã được đẩy về trinh nguyên tư tưởng, về trần trụi kỷ niệm. Đọc
chầm chậm,
tái tạo cuốn sách đã thoát kiếp phần thư, phân biệt đâu là từ Kipling,
đâu
thuộc về Kinh Thánh, đó là một trong nhiều bổn phận, của cô y tá săn
sóc anh
ta; cô không rơi từ trên trời xuống như người bệnh của mình, nhưng đến
từ tiền-xứ, của nhà văn, người kể chúng ta
nghe,
câu chuyện lạ kỳ, và cũng thật giản đơn cảm động.
“Đâu
là nền văn minh tiên đoán (được) thời gian và ánh
sáng? El-Ahmar hay Al-Abiyadd, bởi vì
đây chắc chắn là một trong những bộ lạc của sa mạc tây-bắc,” người đàn
ông mặt đắp cỏ, tự hỏi. Một bộ lạc văn
minh có
thể cứu được người đàn ông ở mấp mé bờ sinh tử. Hãy ngả mũ chào những
người
Bédouins,1 hay người Touaregs,2 những con người của sa mạc đang quan
sát thân
thể bị lửa đốt. Nhưng cuốn tiểu thuyết vượt quá những quan tâm liên-văn
hóa.
Cuốn tiểu thuyết là để đọc từ từ. Phải
chú ý đến từng nhân vật, bởi vì câu chuyện cứ từng bước lộ diện. Phải
chú ý hơn
thế nữa, bởi vì nó được chế tạo, y hệt những trái bom mà anh chàng theo
đạo
Sikh đến để gỡ bỏ. Sẽ là một màn tứ tấu,
bắt được trong bước nhẩy thầm, tại một nơi chốn, một biệt thự bên trên
thành
phố Florence, được dùng như một bệnh viện tình cờ. Mặt đất nhiều cạm
bẫy, cũng
như cuốn tiểu thuyết. Người gỡ mìn là một nghệ sĩ. Người đọc phải có
tài. Và
Michael Ondaatje thì chịu chơi, ông thích những thai đố,
những câu chuyện, ông thích chữ viết.
Chúng
ta có được ở nơi đây, tụ họp, rất nhiều định mệnh thêu
dệt từ những xứ sở khác nhau (Ý, Canada,
Ấn-độ, Anh, và chắc chắn rồi, Sahara, sa mạc của những sa mạc) và trên
những
niên biểu văn chương khác biệt. Những điển cố (Hérodote) được coi như
là những
cơ duyên (prétexts) để kể tên, những ngọn gió: Aajei, Africo, Arifi, Bis Roz, Ghibi, Haboub, Harmattan, Imbat,
Khamsin, Datou, Nafhat, Mezzar-Ifouloussan, Beshabar,
Samiel... tất cả là để gợi cho chúng ta,
hãy chọn ngọn gió nào
sẽ quét sạch văn minh tây phương. Bởi vì những cuốn sách, trầm luân,
những
trang, thiếu hụt, những nhà thờ, những pho tượng, những hồi ức bị chà
đạp. Và
Kip, chàng gỡ mìn, đã nhắc lại, lời nhắc nhở của người anh em: “Đừng
bao giờ
quay lưng lại, về phía Âu châu. Những con người này chuyên lo chuyện
kinh doanh,
khế ước, những tấm bản đồ. Đừng bao giờ
tin tưởng những người Âu châu.” Và những
trái bom nguyên tử đã được bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki.
“Một trái bom, rồi một trái bom nữa.”
Cuốn
sách về sự độc ác của những con người, huỷ diệt chỉ vì
mê hoặc; sửa sang chỉ vì ích kỷ; những con người chẳng hề áy náy, và họ
khám
phá ra rằng, sa mạc không chỉ là cát, mà còn là một nơi chốn diệu kỳ ấp
ủ một
nền văn minh lớn, của những người Bédouins, Touaregs, hay những người
xanh.
Người bệnh Anh đã mất bộ mặt, và chính sa mạc sẽ cho lại anh ta, kể cả
khi cái
chết còn đó, kỷ niệm cuộc chiến cận kề thì khốc liệt và sự bí ẩn thì
tràn
khắp, ở từng nhân vật.
Michael
Ondaatje là một người kể chuyện biết rất rõ Tây
phương mà ông ta đang đốt cháy. Cách viết của ông, chính xác; những con
chữ,
xàng lọc; cấu trúc, đa dạng và xảo diệu; văn phong, nhiều tầng. Lối kể chuyện không đơn tuyến; nó sử dụng,
không chỉ thơ mà luôn cả truyền thuyết, ẩn
dụ, cũng như huyền thoại. Đây là một người phương
Đông đã đọc rất
nhiều về Tây phương, và đã đang sống tại đó. Ông để cho một người Anh
nói,
(trong kỷ niệm của Hana): “Tình yêu thì nhỏ bé đến nỗi nó có thể rách
bươm, khi
chui qua lỗ trôn kim”. Thật đúng là một
hình ảnh mà một người Đông phương có thể viện dẫn ra để tóm gọn, chỉ
trong vài
từ, quan niệm tình yêu, bằng cách bịa ra một nhân vật kỳ bí, có tên
khiến người
ta mơ mộng: Zerzura. Ông biến mỗi sinh vật thành một hành tinh, làm xáo
trộn,
gieo hỗn loạn. Và người đàn bà nói với người đàn ông: “Nếu anh làm tình
với em,
em sẽ không nói dối. Nếu em làm tình với anh, em sẽ không nói dối.”
Cuốn
tiểu thuyết là một lời thú nhận, Michael Ondaatje cho
nghe nó. Nhưng có một điều chắc chắn, ông
ta sẽ không trao cho chúng ta chiếc chìa khóa. Chìa khóa ở trong chúng
ta,
những độc giả chăm chú, và sững sờ. Cuối cuốn sách, người ta cảm thấy
như bị cuốn
hút vào “giải im lặng” (nappe du silence) mà Maurice Nadeau đã nói tới,
nơi
những từ chỉ là vô tích sự, và những sinh vật hiện hữu chỉ vì chúng.
Những nhân
vật tiếp tục sống, và chết giữa đôi tay của chúng ta. Và người ta tự
nhủ, tác
giả viết, để giũ khỏi cõi tưởng tượng của mình, vài vết phỏng, những
vết thương
cả một dân tộc cưu mang.
Ai đìếu Frank Kafka.
Milena Jesenka
Dr
Franz Kafka, một nhà văn viết bằng tiếng Đức, sống ở
Prague, và chết ngày hôm kia, ở Viện điều dưỡng Kierling, gần
Klosterneuburg
bei Wien. Ở đây ít người biết ông, bởi vì ông là một người sống ẩn dật,
một
hiền nhân luôn mang nỗi sợ cuộc đời. Trong nhiều năm, ông đau khổ với
căn bệnh
phổi, và tuy loay hoay tìm cách chữa trị, ông lại như muốn nuôi căn
bệnh đó,
cưu mang nó trong tư tưởng của ông. Có lần ông viết trong một lá thư:
khi trái
tim và linh hồn không thể chịu đựng nó được nữa, buồng phổi sẽ chịu
giùm nửa
gánh nặng, như vậy là nó được chia khá đồng đều - căn bệnh của ông là
vậy. Nó
cho ông một sự dịu dàng kỳ diệu, và một sự tinh khiết trí thức không
đắn đo,
câu thúc. Tuy nhiên, chỉ riêng về mặt hình hài thể chất, Franz Kafka
dồn lên
hai vai của căn bệnh, toàn thể nỗi kinh hãi cuộc đời. Ông là một người
cả thẹn,
luôn khắc khoải, nhẫn nại, dịu dàng, tuy những cuốn sách ông viết ra
thì thật
ghê sợ, và đau đớn. Ông đã nhìn thế giới như đầy những quỷ dữ vô hình,
vò xé,
và tiêu huỷ những con người vô phương chống đỡ. Ông quá tiên tri, quá
thông
minh để có thể sống, và quá yếu ớt, để chiến đấu. Ông yếu ớt như những
con
người cao đẹp yếu ớt, những con người không thể chiến đấu chống lại nỗi
sợ bị
ngộ nhận, chống lại trò ma muội, hay tính toán chi ly, bởi vì họ thừa
nhận ngay
từ đầu, cái điều của riêng họ, đó là đừng mong chi một sự trợ giúp; sự
nhẫn
nhục cam chịu này chỉ làm cho kẻ thắng thế hổ thẹn. Ông hiểu thế nhân,
một sự
hiểu biết mà chỉ một ai cao cả, có một sự mẫn cảm hoài hoài mới có thể
có được.
Chỉ một ai cô đơn. Chỉ một ai, trong một thoáng nhận ra kẻ khác, hầu
như một
nhà tiên tri. Sự hiểu biết thế giới của ông thật phi thường, và sâu
thẳm; chính
ông là một thế giới phi thường và sâu thẳm. Ông đã viết những cuốn sách
có ý
nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện đại, những cuốn sách cưu mang
trong nó
sự chiến đấu của thế hệ hôm nay xuyên suốt thế giới - trong khi kìm giữ
mọi
thiên vi. Chúng thực, trần trụi, và đau thương nên hết đỗi tự nhiên
ngay cả khi
có tính biểu tượng. Chúng đầy sự khinh miệt khô cằn và là cảm quan của
một
người nhìn thế giới một cách rõ ràng đến không thể chịu đựng được nó,
một người
mà nỗi chết không rời, kể từ khi người đó chối từ mọi bon chen hay tìm
nơi ẩn
trú, như những người khác thường làm, trong những ảo tưởng này nọ, của
lý trí,
hay của vô thức - kể luôn cả những con người cao cả. Dr Franz Kafka đã
viết
"The Stoker", chương thứ nhất của một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, vẫn
chưa được xuất bản (đã xuất hiện bằng tiếng Czech trên Neumann's Cerven
(1);
"the Judgment", sự xung đột của hai thế hệ; "The
Metamorphisis", cuốn sách mãnh liệt nhất của văn chương Đức hiện đại;
"In the Penal Colony"; và những tuyển tập Meditation và A Country
Doctor. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng (2), Before the Law, còn trong dạng
bản
thảo, sẵn sàng để in ấn, từ nhiều năm. Nó là một trong những cuốn sách,
một khi
đọc, cho (ta) cảm nghĩ về một thế giới được miêu tả hoàn hảo đến nỗi
mọi phê
phán sau đó đều chỉ là phù phiếm. Tất cả những cuốn sách của ông vẽ nên
sự ghê
rợn của những ngộ nhận thầm kín, của niềm ngây thơ tội lỗi giữa những
con
người. Ông là một nghệ sĩ và là một người với một lương tâm khắc khoải,
đến nỗi
ông có thể nghe, trong khi những người khác, điếc, cảm thấy, chính họ
đang yên
ổn.
(Národni
Listy, June 6, 1924)
(1). Milena muốn nói
tới tuần báo Kmen, cũng của S. K. Neuman.
(2). Đây là muốn nói
tới cuốn Vụ Án, Milena chỉ biết có truyện ngắn Before the Law. Bà cũng
không
biết cuốn tiểu thuyết chót của Kafka, Lâu Đài. (Ghi chú của nhà xb
Kafka
Library).
|