
|
Chekhov
và Kafka
I.
Thất thu lớn: Về đoạn mở đầu "Cây vĩ cầm của
Rothschild", truyện ngắn của Chekhov.
Trong
những truyện cực ngắn của Kafka, "Y sĩ Đồng
quê" thật đơn giản, nên cũng thật khó hiểu. Người viết còn nhớ, trên
báo
Văn số đặc biệt về Kafka, thời Trần Phong Giao làm thư ký tòa soạn,
Nguyễn Mạnh
Côn đã dịch và giới thiệu "Y sĩ Đồng quê"; ông cho biết: dịch thì
dịch, nhưng chẳng hiểu tác giả muốn nói gì! (Tôi viết theo trí nhớ).
Amoz
Oz*, trên báo Partisan Review, số Mùa Xuân 1999, khi
đặt song song hai truyện ngắn, một của Chekhov (Rothschild's Fiddle) và
một của
Kafka (A Country Doctor), đã giải thích: thế giới truyện Chekhov - trải
ra bằng
những nhận xét chi li mang tính xã hội, bằng nỗi sầu miên man, và bằng
sự diễu
cợt vị tha, cảm thông - lẽ dĩ nhiên thật xa vời thế giới ác mộng của
Kafka,
nhưng cái khế ước mở đầu hai truyện ngắn giống nhau. Nó làm độc giả lầm
đường:
đầy những lỗ hổng ở trong đó.
Ngay
cái tên truyện, "(Cây vĩ cầm của) Rothschild's
Fiddle" (xuất bản lần đầu năm 1894), làm cho độc giả lạc đường 4 lần:
Nhân
vật Rothschild ở trong truyện không phải là nhà hảo tâm nổi tiếng. Ông
ta không
phải là một người chơi đàn vĩ cầm. Vĩ cầm không thuộc về ông ta, cho
tới mãi gần
cuối chuyện. Ông ta cũng không phải là nhân vật chính, mà là phụ, một
người
thổi sáo trong những đám cưới nghèo, một người Do-thái khốn khổ.
Cây
vĩ cầm ở tên truyện, thực ra là của một tay Yakov
Ivanov, được mọi người gọi bằng biệt hiệu đường phố, Đồng (Bronze). Một
ông già
thù hận người Do-thái, tầm thường, vô tim, sống bằng nghề làm quan tài,
và đôi
khi, vì một vài đồng kopecks, chơi vĩ cầm trong những đám cưới cùng với
đám
nhạc sĩ rách rưới Do-thái.
Người
ta có thể nhận ra sự tương tự giữa đoạn mở đầu
"Cây vĩ cầm..." và "Y sĩ Đồng quê" của Kafka: giả thuyết cơ
bản mở đầu, trong cả hai, bị bác bỏ, theo dòng chuyện. Giả thuyết sau
cùng sụp
đổ, để lộ ra, qua nhìn lại, một thứ giả thuyếát khác biệt hẳn. Người
đọc phải
đọc lại, và phải lấy lại sự tin cậy, mọi điều, mọi chuyện.
Đó
là một thành phố nhỏ, thê thảm còn hơn cả một làng quê.
Toàn những người già, họa hoằn lắm mới chịu nằm xuống, thế mới bực! Hơn
nữa, ít
khi người ta cần tới quan tài, dù là ở nhà thương, hay ở nhà tù. Nói
ngắn gọn,
chẳng làm sao buôn bán làm ăn ở đây. Nếu Yakov Ivanov làm nghề đóng hòm
ở một
chốn thị tứ, chắc là ông đã có được một căn nhà, và được gọi là Ông
Ivanov.
Nhưng ở cái chốn tệ mạt này, giản dị chỉ là Yakov. Vì một lý do nào đó,
ngoài
đường họ gọi ông bằng biệt hiệu Đồng. Ông sống nghèo khổ như bất cứ một
người
dân quê bình thường trong một túp lều, cùng với bà vợ Marfa, một cái
bếp, cái
giường, mấy cái hòm...
....
Viên cảnh sát địa phương bịnh dầm dề hai năm ròng, và
đang chờ đi luôn. Yakov nóng ruột, đợi hoài đợi hủy chuyến tầu suốt của
ông
này. Nhưng viên cảnh sát dời lên thành phố chính để chữa trị, và chắc
là phó
thác linh hồn cho quỉ ma ở đó... thế là mất toi ít nhất 10 rúp, bởi vì
đây là
thứ hòm đắt tiền. Cứ đêm đêm Yakov lại bị nỗi mất mát lớn lao hành hạ.
Ông để
cây vĩ cầm kế bên giường và những lúc không thể chịu đựng nổi cơn dầy
vò, ông
mân mê mấy sợi dây. Cây vĩ cầm "tinh, tinh" trong đêm tối, và ông ta
cảm thấy đỡ đi.
Cái
buồn dìu dịu, cái diễu ấm áp, nhân hậu, tha thứ... thật
không ăn khớp gì với cách chọn lọc thật lạnh lùng những chi tiết, cách
nhìn
thiên nhiên như một ông y sĩ giải phẫu, cách đo đạc thật chi ly khoảng
cách
giữa nhân vật và sự thực.
Những
nhân vật thường chẳng để ý, hoặc chẳng thừa nhận chân
lý, sự thực, nhưng độc giả được mời nhận ra nó, giữa những dòng chữ. Ở
đây cũng
như ở trong những chuyện khác, Chekhov tạo một sự cân bằng thật chính
xác, như
một nhà hóa học cân đo đong đếm, giữa dị hợm (ridiculous) và nỗi đau xé
ruột xé
gan. Khế ước là sự đồng cảm, giữa người đọc và người kể, qua những con
chữ.
Thường xuyên người đọc phải nhận ra bằng cách đảo ngược. Thí dụ như
những câu
mở đầu: nỗi khóc than ca cẩm, về chuyện "hiếm" người chết ở trong
làng, về chuyện người già "họa hoằn mới chết và chuyện này thật là
bực". Khế ước là từ người kể chuyện, không phải từ nhân vật, nhưng
người
đọc nhận ra, sau khi đã hết ngỡ ngàng, đây chính là lời than van của
người làm
hòm, do công việc ế ẩm. Cũng vậy, "Marfa, cái bếp, mấy cái hòm...",
người để kế bên vật; ở đây độc giả biết, người kể đã trộn giọng nói của
mình
với giọng của "Đồng không tim".
Đồng
ngần ngại làm hòm cho con nít, "mất thì giờ vì
chuyện không đâu", Chi tiết này, ngay ở đầu truyện, cho thấy đây là một
con người biển lận. Nhưng tới nửa truyện, người đọc biết, Đồng cố xóa
khỏi trí
nhớ, cuộc đời và cái chết của bé gái độc nhất của hai vợ chồng, 50 năm
trước.
Chỉ sau khi bà vợ chết, độc giả mới hiểu, Đồng cố làm cho trái tim của
ông trơ
ra, để cho ông đỡ đau.
Khế
ước khởi đầu làm độc giả lầm lạc, bởi vì người kể đã sử
dụng thoải mái quan điểm, và luôn cả ngôn từ của người làm hòm già. Làm
như
vậy, người kể bắt buộc người đọc làm một công việc "chuyển dịch" cẩn
trọng: biển lận còn là mật mã, để chỉ nỗi cô đơn sâu thẳm. Ngần ngại
làm hòm
cho con nít là để giấu nỗi đau mất con. Tiếng đàn "tinh tinh' trong đêm
theo điệu sáo của Rothschild, là để chống banh ra những vết thương. Dần
dà theo
dòng truyện, người đọc nhận ra, những mất mát lớn lao Bronze than van,
là về
đời người phí phạm, bỏ đi, về nỗi vô thường của vô thường (vanity of
vanities),
tức phận người.
Cốt
truyện giản đơn, chỉ một tí, một tẹo: chuyện một người
làm hòm tại một làng quê cố gắng để đừng bị chết đói, lâu lâu làm thêm:
chơi vĩ
cầm cho đám cưới mạt. Ông thật thảm, thật tã, và cứ thế gầm gừ, với cả
đời sống
và cái chết, bằng một trái tim cố tìm đủ mọi cách để đanh lại; ngày này
qua
ngày khác: chỉ là triền miên mất mát thu nhập. Ngã bịnh, vui ngấm vui
ngầm: bà
vợ chấp nhận cái chết sau cùng tới, như một giải thoát hằng mong đợi,
để ra
khỏi giếng nước mắt. Thấy vợ vui, người chồng đau lòng vì suốt đời đối
sử chai
đá. Ông kéo bà vợ bịnh tới nhà người y sĩ độc nhất trong làng và lạy
lục - đúng
ra là mà cả - hãy cứu vợ tôi. Nhưng viên y sĩ già nhẫn tâm lắc đầu,
quay qua
bịnh nhân khác. Hai vợ chồng về nhà, và người chồng bắt đầu đo hòm cho
vợ: ông
đưa thất thu vào trong cuốn sổ cái. Trong những giờ cuối cùng, bà vợ cố
nhắc
nhở ông chồng về đứa con đã mất, nhưng ông chẳng thể nhớ. Sau đám tang,
ông
cũng ngã bịnh, và hung hãn gây gổ với người thổi sáo Do-thái tới trò
chuyện với
ông. Ông lang thang ra bờ sông, bị những đứa trẻ ngoài đường trêu ghẹo.
Ông di
chúc cây vĩ cầm cho Rothschild. Sau khi ông chết, Rothschild sáng tác
những
giai điệu buồn từ cây vĩ cầm này.
Bốn
nỗi thất vọng, lạc đường ở tên truyện (Rothschild không
phải là vị hầu tước; Rothschild không phải là người chơi vĩ cầm;
Rothschild
không phải là nhân vật trong truyện; cây vĩ cầm không phải của ông),
sau cùng
trở thành đúng, một cách không chờ đợi, ở cuối truyện. Rothschild được
thừa
hưởng cây vĩ cầm trở thành giầu có; ông không còn là một người thổi sáo
mà là
người chơi vĩ cầm, "gieo nhạc buồn
của Bronze đi khắp chốn". Người đọc lúc đầu đã tưởng rằng những sự kiện
ở
tên truyện là sai, sau mới nhận ra giá trị của chúng.
Có
một nối kết thật tinh tế giữa những người Do-thái và âm
nhạc, giữa âm nhạc và tâm hồn (linh hồn). "Rothschild's Fiddle" gợi
nhớ những câu chuyện kể Hassidic (1), và nhân vật Bronze thuộc huyền
thoại về
một con người công chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man), của
dân tộc
Do-thái.
Độc
giả phải chuyển hai lần, những lời ca cẩm, than van
"thất thu" của Bronze: một chuyển hài, và một chuyển bi. Trong chuyển
bi, có những "thất thu không thực hiện" cũng được đưa vào cuốn sổ
cái:
Sau
chót, đây là con sông thực, không chỉ là một con suối
nhỏ. Bạn có thể tới đó câu, rồi bán cá cho những người mua, những viên
thư ký,
và người coi ga, và để tiền vào sổ. Bạn có thể theo thuyền đi dọc con
sông, ghé
những nhà hàng quán nước chơi vĩ cầm, và đủ thứ người sẽ trả tiền cho
bạn. Bạn
có thể lại có một công việc làm ăn trên sông nước, khá hơn nghề làm
hòm. Bạn có
thể nuôi ngan ngỗng, giết chúng và đưa đi Moscow
làm thực phẩm mùa đông. Có thể chỉ tiền cọc không thôi cũng tới 10 rúp
một năm.
Ôi đau đớn làm sao, ông ta cứ để cho nước chẩy qua cầu, mà chẳng chịu
động đậy
chân tay. Ôi, bao nhiêu tiền bạc đã theo dòng nước trôi đi! Nếu bạn cứ
cộng mãi
vào - câu cá này, chơi vĩ cầm này, giữ tầu thuyền, giết ngỗng - ông ta
đã làm
ra biết bao nhiêu là tiền!
Chuyển
bi là đổi mới lớn lao của Chekhov, cả trong chuyện và
kịch: gỡ bỏ cái hàng rào thủ cựu giữa hài kịch và bi kịch, cho về vườn
(canceling) cái qui ước ngặt nghèo: rằng những nhân vật "hạ tiện"
(Chí Phèo?), cục cằn, vô học, bắt buộc thuộc về cõi hài (comic realm),
trong
khi không gian bi là để dành riêng cho những con người phong nhã. Chỉ
những kẻ
phong nhã, những kẻ được soi sáng, là có thể đưa nạng chống trời, có
quyền vác
thánh giá, chống lại những biển sầu, đại dương nước mắt, chống lại
những trục
trặc của thế gian, rồi từ đó, đưa ra một kết luận cảm thông, có thể
hiểu được,
về số mệnh, phận người, cõi nhân sinh phi lý, hay là cái phần dơ dáy
giấu sâu
trong nhân vật, chính vì nó mà họ bị kết
án phải đọa đầy.
Yakov
Ivanov, biệt hiệu Bronze, vào lúc hấp hối đã vươn tới
đỉnh cao của cảm nhận bi. Bằng con đường ngu si đần độn, qua - hoặc quá
- cuộc
đời vô nghĩa của riêng ông, ông đã loáng thoáng nhìn ra phận người:
Đời
cứ thế trôi, không lợi nhuận, không lạc thú, nó cứ thế
qua đi, chẳng nhắm tới đâu, chẳng vì mục đích gì. Chẳng có gì để nhìn
tới, và
nếu bạn ngoảnh lại, chỉ là một phí phạm khủng khiếp tiền bạc, đủ để cho
bạn làm
một cuộc đổi đời tốt đẹp, mầu mỡ. Làm sao con người có thể sống mà
không có tổn
thất, phí phạm?.... Ông kết luận chỉ có thể có lời bằng cách chết: sẽ
không
phải ăn, không uống, không đóng thuế, không sỉ nhục người khác. Kể từ
khi một
người nằm trong mồ, không chỉ một năm mà hàng trăm, hàng ngàn năm, lợi
nhuận
thật bao la, vô cùng... Kết luận như vậy là đúng, lẽ dĩ nhiên, nhưng eo
ôi,
thật không thể chịu nổi. Tại sao chuyện đời lại được sắp xếp một cách
kỳ quặc
như vậy, một khi bạn chỉ có một đời để sống, và không có gì để phô ra,
cho đời?
Khúc
độc thoại thê lương không thoát ra từ cửa miệng một
người hùng (nhân vật, a hero, so với nhân vật, a character mà tác giả,
Amos Oz
dùng để chỉ Bronze), hay một hoàng tử-triết gia nhưng từ cửa miệng một
người
nhà quê vô học, thiển cận, biển lận, đã chiếu một tia sáng khác lạ cho
phần đầu
câu chuyện. Cái biển lận, tham lam, sự tầm thường ti tiện không chỉ
được coi
như là cái vỏ sò mỏng mảnh mà người đọc cứ lột bỏ đi là vớ được viên
kim cương,
hột xoàn ở bên trong: Tham lam, biển lận, ti tiện, tầm phào, cái vỏ,
hột xoàn,
tất cả "là một và chỉ một mà thôi". Với Chekhov, ở đây, Bronze là
Hoàng tử Hamlet. Nỗi đau thê lương, ý thức bi đát, và công cuộc vác
nạng chống
trời, chống lại cái trật tự thế gian, là từ đáy sâu của câu chuyện bật
ra.
Sau
cùng, ở đâu, và bằng cách nào Chekhov gieo những giác
ngộ vô ngôn này (unspoken understandings), giữa người viết và người
đọc, ở đằng
sau lưng nhân vật? Biết đâu đấy, chúng ta có thể nghe thấy chúng, qua
những dạ
khúc của người làm hòm, khi, cố dỗ giấc ngủ trên chiếc giường đời trơ
trọi, ông
ta đưa tay với cây vĩ cầm. Vào những giây phút như thế, Bronze biến
thành cả
hai: Saul (2), khật khừ với quỉ dữ; và David (3), người "sẽ chạm vào
những
sợi dây, cây vĩ cầm lại tinh tinh trong đêm tối, và như vậy ông ta sẽ
đỡ
hơn" (... David, who "would touch the strings, the fiddle would twang
in the dark and he would feel better").
Chú
thích:
(1)
Hassidim: một giáo phái thần bí cực bảo thủ thuộc
Do-thái Chính thống, thành lập vào thế kỷ 18, chủ yếu dựa trên KABBALA
(từ điển
bách khoa Cassell, 1991 edition).
(2)
Saul: Vị vua đầu tiên của Do-thái, chống lại Samuel và
sau cùng tự tử, khi cái đầu hết còn minh mẫn - as his mind became
unbalanced -
(từ điển bách khoa Cassell).
(3)
David: Vị vua thứ nhì của Do-thái, người đã chơi đàn
"harp" để xua đuổi nỗi buồn cho vua Saul.
*
Amoz Oz, người Do-thái, viết văn bằng tiếng Do Thái
Hebrew, sinh năm 1939 tại Jerusalem.
Năm 14 tuổi ông vào kibbutz (một làng, hoặc ấp Do Thái chuyên về canh
nông. Sau
ông làm thầy giáo dậy học tại đây. Ông viết về những chủ đề đương đại,
nhắm vào
tội lỗi, sự bách hại, ngược đãi. Cuốn tiểu thuyết quan trọng làm ông
nổi tiếng,
viết năm 1972: "Bikha' el Sheli", tên tiếng Anh: "My
Michael" ("Michael của tôi"), được tờ New York Times đánh giá là
một "Bà Bovary" (1857, tác phẩm của nhà văn Pháp Flaubert), của văn
chương Do Thái. Những tác phẩm của ông gồm có: "Makom Aber" (1966),
bản tiếng Anh: "Elsewhere Perhaps" ("Một nơi nào đó, Có
lẽ", 1973); "Har Ha-Etsah Ha-Raah" (1976), bản tiếng Anh:
"The Hill of Evil Council" ("Ngọn Đồi Của Ác Hội", 1978);
"Beor Hatkhelet Ha' aza", (1979), bản tiếng Anh năm 1995: "Under
the blazing light", "Dưới ánh sáng chói chang";
"Israel" (1983); "A Perfect Peace" ("Một Hòa bình Hoàn
hảo"), 1984. Cuốn tiểu thuyết "To Know a Woman" ("Để hiểu
một người Đàn bà"), là chuyện một cô gái Do-thái khi còn nhỏ có bạn
trai
người Ả Rập. Bị phân chia do chiến tranh, lớn lên, cô gái lấy chồng,
nhưng
không làm sao quên được những xúc động, tình cảm đầu đời, từ mối tình
thơ dại
với người bạn Ả Rập. Đây vẫn là chủ đề cơ bản của thế kỷ 20, về một
người đàn
bà ngoại tình...
II. Khúc gỗ trên dòng suối ngập: Về
đoạn mở đầu truyện ngắn
"Y sĩ Đồng quê", của Kafka.
“…
Xác thân ông nằm trong nghĩa địa Do Thái Mới ở Zikov cùng
với mẹ và cha. Nghĩa địa bỏ trống quá nửa, thế hệ đúng ra sẽ làm đầy
nơi chốn
này, được chuyển tới những trại tử thần vào những năm 1940, trong đó có
ba chị
em của Kafka."
Peter
Haigh: "Kafka in Prague,
Summer 1996" (Ghi chú nhân một chuyến du lịch).
Strip
his clothes off, then he'll heal us,
If he doesn't, kill him dead
Only a doctor, only a doctor
(Lột trần anh ta, rồi anh ta sẽ chữa chúng ta lành bịnh
Nếu anh ta không làm được, hãy giết anh ta
Chỉ là một y sĩ, chỉ là một y sĩ)
O be joyful, all you patients
The doctor's laid in bed beside you
(Các bệnh nhân ơi, hãy vui lên đi,
Y sĩ nằm trên giường
kế bên anh)
"Y sĩ Đồng quê"
"Y
sĩ Đồng quê" (1919), là câu chuyện một y sĩ
vườn, bị đánh thức trong đêm bão tuyết, tới bên giường một người bịnh
nặng.
Viên y sĩ đáp lời, vượt vài trở ngại kỳ cục, tới bên giuờng, nhưng
không thể
giúp người bệnh. Sau cùng, ông thấy mình "với cỗ xe trần thế, với cặp
ngựa
ngược đời, thân già lạc lõng". Ở cuối chuyện, viên y sĩ nói: "Bị lừa!
Bị lừa!" (1). Câu văn đóng chuyện đẩy người đọc về phần mở đầu, để tìm
cho
ra, nơi đâu, chỗ nào, viên y sĩ đã phạm lỗi lầm, một và chỉ một mà
thôi; một
lỗi lầm chẳng thể nào sửa chữa. Nhìn bề ngoài, phần kết thúc câu chuyện
chứa
đựng một (ý hướng) đạo đức nào đó. Có vẻ như, nếu viên y sĩ biết sớm
điều này,
ông có thể tránh được lỗi lầm định mệnh (the fatal mistake).
Nhưng
thực ra, viên y sĩ, hay người đọc, biết được gì, ở
phần cuối chuyện? Lỗi lầm nào, và đạo đức nào? Liệu viên y sĩ có thể
(chọn lựa
giải pháp) không trả lời (cú gọi trong đêm)? Liệu ông ta có thể biết
ngay từ
khởi đầu, đây chỉ là báo động hoảng? Có cách nào (trong câu chuyện ở
đây, hoặc
có lẽ, vượt quá nó) phân biệt giữa báo động hoảng và báo động thực?
Riết ráo
hơn nữa, viên y sĩ thực sự đáp ứng lời gọi, hay cực chẳng đã, bị văng
lên
đường?
Nói
cho cùng, làm gì có báo động, chẳng có chuông réo trong
đêm, ở ngay đầu câu chuyện - chẳng có báo động hoảng, chẳng có bất cứ
một thứ
chi gọi là báo động. Ở đầu chuyện, có: một báo cáo thật chi li về một
chuyện
xẩy ra (hoàn toàn mang tính sự kiện, khả tín), theo đó, những sự cố hãi
hùng
xoắn xuýt vào nhau. Người đọc thực sự gặp trở ngại khi tìm cách xác
định vị trí
khởi đầu con xoắn. Như trong nhiều tác phẩm của Kafka, không hề có đột
biến,
nhưng thực tại tự nó mù mờ, các hướng các chiều chao đảo; một cuộc biến
hóa (a
metamorphosis), mọi vật dần dần mang những bóng dáng cơn ác mộng.
"Tôi
thật quá bối rối; tôi phải bắt đầu một chuyến đi
khẩn cấp; một con bệnh ngặt nghèo đang đợi tôi, tại một làng cách mười
dặm
đường; giữa con bệnh và tôi, là cơn bão tuyết dầy đặc; tôi có một chiếc
xe
ngựa, loại nhẹ, bánh xe lớn, đúng thứ xe dùng nơi đường quê; người
choàng áo
lông, túi dụng cụ cầm tay, tôi ở sân, sẵn sàng cho cuộc hành trình;
nhưng không
có ngựa để mà có, không có ngựa. Ngựa của tôi đã chết trong đêm, do
kiệt lực vì
những mệt mỏi của mùa đông băng giá này; người tớ gái đang đầu làng
cuối xóm,
cố mượn một con ngựa; nhưng chỉ là tuyệt vọng, tôi biết, và tôi bơ vơ
đứng đó,
tuyết dầy thêm trên người, mỗi lúc thêm khó khăn cử động. Người tớ gái
xuất
hiện tại cổng, một mình, và vẫy vẫy cây đèn; lẽ dĩ nhiên, làm sao có
người cho
mượn ngựa cho một cuộc hành trình như thế? Một lần nữa, tôi đi quanh
sân; không
có lối ra; trong cơn bối rối ngán ngẩm, tôi đá cái cửa ọp ẹp khu chuồng
heo đã
bỏ hoang từ lâu. Cửa bật tung, đập qua đập lại quanh bản lề. Một luồng
hơi có
mùi ngựa tỏa ra. Bên trong, một cây đèn chuồng le lói đong đưa trên một
sợi
dây. Một người đàn ông co rúm người ở khu đất thấp, đưa bộ mặt ngây
ngô, thực
tình. "Tôi sẽ đóng ngựa?", anh ta hỏi, và bò bốn chân ra phía ngoài.
Tôi không biết nói sao, và khom người nhìn coi còn có gì trong chuồng.
Người tớ
gái đứng kế bên tôi. "Ông chủ không bao giờ biết, sẽ kiếm thấy gì, ở
trong
chính căn nhà của mình," cô nói và cả hai chúng tôi đều cười. "Ơ này,
Anh ơi, ơ này, Chị ơi!" người giữ ngựa gọi, và hai con ngựa, những con
vật
lớn lao, hông hùng dũng, chân lẳn vào mình, đầu con nào cũng thật cân
đối, thâm
thấp như đầu lạc đà, con này tới con kia, chỉ mấy cú lắc mông đã chiếm
trọn lỗ
cửa mở rộng. Nhưng ngay khi đứng thẳng, những cái cẳng dài và thân hình
của
chúng tỏa hơi nồng nặc. "Hãy giúp anh ta một tay," tôi nói, và người
tớ gái sốt sắng lo việc thắng ngựa vào xe. Nhưng cô gái vừa tới gần,
người chăn
ngựa túm lấy, đè mặt anh lên mặt cô. Cô kêu lên và chạy trở lại phía
tôi. Hai
hàm răng anh ta hằn dấu máu trên mặt cô gái. "Đồ súc vật," tôi giận
dữ la lên, "anh có muốn ăn roi không?", nhưng chợt nghĩ ra, đây là
một người lạ, tôi không biết anh ta từ đâu tới, lại tự ý giúp đỡ tôi
trong khi
mọi người khác đã làm tôi hụt hẫng. Như biết được ý nghĩ của tôi, anh
không coi
lời hăm dọa là trọng, lại bận rộn với mấy con ngựa, hài lòng xoay lưng
về phía
tôi. "Hãy lên xe!", anh ta nói sau đó, và quả đúng như vậy, tất cả đã
sẵn sàng. Một cặp ngựa tuyệt vời, tôi quan sát, đúng là chưa bao giờ
được ngồi
đằng sau một chiếc xe như vậy, và vui vẻ trèo lên. "Nhưng tôi là người
cầm
cương, anh đâu biết đường", tôi nói. "Lẽ dĩ nhiên" anh ta nói,
"vả chăng, tôi không đi với ông, mà ở lại với Rose."
"Không", Rose la lên, chạy trốn vô nhà, linh cảm sẽ chẳng thoát khỏi
số; tôi nghe tiếng dây xích cửa, tôi nghe tiếng cài then, tôi còn nhìn
thấy cô
gái tắt đèn nơi hành lang và tất cả các phòng, mong sao không bị phát
hiện.
"Anh đi với tôi," tôi nói với người chăn ngựa, "nếu không tôi sẽ
không đi, dù khẩn cấp cỡ nào. Tôi sẽ không đổi cuộc hành trình với giá
cô
gái". "Đi nào!" anh ta nói; anh ta vỗ tay; cỗ xe bật lên như một
khúc gỗ trên dòng suối ngập; tôi còn nghe tiếng cánh cửa chịu thua, vỡ
từng
mảnh dưới những cú đập của người chăn ngựa, rồi mắt mù tai điếc vì cơn
bão, tôi
không còn bất cứ cảm giác."
Cái
tên truyện giới thiệu với chúng ta, người kể chuyện xưng
tôi, mặc dù anh chưa hề nói một lời: một y sĩ đồng quê. Rồi anh trình
bầy tất
cả mọi chi tiết khởi đầu, theo giọng "đây chỉ là sự kiện" (a
matter-of-fact tone), y hệt một báo cáo cảnh sát; như thể anh đang xác
minh
trước quan tòa, như thể anh phải tự bào chữa, bảo vệ, trước những cáo
buộc hình
sự.
Tình
cảnh của anh: hết sức bối rối. Vấn đề của anh: một
chuyến đi khẩn, một người bịnh nặng, một làng cách mười dặm đường, một
cơn bão
tuyết, không ngựa, không hy vọng có được một con ngựa. Những biện pháp
anh đề
ra: 1- Cho người làm đi mượn ngựa, mặc dù chẳng một chút cơ may. 2-
Đứng ở sân
nhà, trong tuyết, sẵn sàng, đợi chờ chuyến đi; để, nếu người làm mượn
được
ngựa, sẽ chẳng mất đi đâu một phút, một giây. 3- Lại đi lòng vòng quanh
sân. 4-
Đá bung cửa chuồng heo bỏ hoang, biết đâu tìm thấy gì ở đó. 5. Khi ngựa
và
người xuất hiện, chẳng mất thì giờ hỏi tra về sự xuất hiện lạ thường
này. 5- Tỏ
thái độ khi cô đầy tớ gái bị xúc phạm, nhưng không trì hoãn chuyến đi,
người
bịnh nặng mới là quan tâm hàng đầu. 6- Thay đổi mối quan tâm hàng đầu,
khi nhận
ra người giữ ngựa sẽ làm nhục Rose, quyết định không bỏ mặc cô gái. 8-
Khi
người giữ ngựa làm cho hai con vật lồng lên, không điều khiển được
chúng, và
chiếc xe bị kéo đi "như một khúc gỗ trên dòng suối ngập" ("like
a log in a freshet").
Không
một phiên tòa nào có thể kết tội viên y sĩ, về hành
vi, cách xử sự của ông, trong bất cứ tình huống, biến động. Tuy nhiên,
ngay từ
khởi đầu, cho tới cuối câu chuyện, những câu hỏi trung tâm vẫn chưa
được trả
lời. Hơn thế nữa, chúng chưa từng được hỏi.
Thực
sự, viên y sĩ bị cáo buộc vì cái gì? Đâu là những lời
tố giác, buộc tội ông phải chiến đấu
trong tuyệt vọng để phản bác? Chúng từ đâu mà ra? Ai buộc tội ông? Ai
kết án
ông, ở cuối chuyện (phải): "Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào
cái thời bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già
như
tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to the frost of this most
unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly horses, old man
that I am,
I wander astray.") Và vì tội (sin)
gì?
Chừng
1/3 chuyện, là về những toan tính của viên y sĩ nhằm
tự chống đỡ trước cáo buộc, vốn chẳng có, trước một bên nguyên chẳng hề
xuất
hiện ở trong chuyện. Thêm vào "lời xin lỗi" (apology) ở đầu chuyện,
thật hữu lý, và cũng thật vững vàng, một "biện hộ khác" xuất hiện sau
đó như một lời than van, tự thương thân, khác biệt hẳn biện hộ khởi đầu.
"Tôi
là y sĩ quận lỵ, làm bổn phận của tôi tới cùng,
gần như quá sức tôi. Tôi được trả lương tồi, nhưng tôi rộng lượng, giúp
đỡ
người nghèo. Tuy nhiên tôi còn phải lo cho Rose, và sau cùng tên chăn
ngựa có
thể không có lỗi; tôi cũng vậy, tôi chỉ muốn chết. Tôi làm gì ở đây
trong cái
mùa đông vô tận này! Ngựa của tôi thì chết, vậy mà chẳng một người nào
trong
làng cho tôi mượn một con khác. Tôi phải lấy ngựa từ nơi nuôi heo; nếu
sự tình
cờ không để đôi ngựa ở đó, chắc là tôi phải đóng xe bằng mấy con heo...
Đâu
phải đây là lần đầu tôi bị kêu ra khỏi nhà vì một chuyện vô ích, tôi đã
quen
với nó rồi, cả cái quận lỵ biến cuộc đời tôi trở thành khốn khổ khốn
nạn với cú
gọi đêm, nhưng lần này có lẽ tôi phải hy sinh Rose... thật là đòi hỏi
quá
đáng..."
Trái
ngược với biện hộ ngắn ngủi ở đầu chuyện, khúc độc
thoại ở đây cho thấy, không phải toan tính nhằm thuyết phục, mà là cố
gắng làm
mủi lòng. Có lẽ, một độc thoại vượt quá cơn tuyệt vọng, chán ngán, kể
từ lúc
người nói, ở đoạn đầu, đã tỏ ra mong ước được chết (ngay sau khi Rose
được an
toàn), ở đoạn cuối, anh nhìn lại chuyến đi thăm người bịnh - và cả đời
mình -
như là một thất bại vô phương sửa chữa.
Đoạn
mở đầu là một biện hộ, vững vàng, không thể chê trách
được, ít ra ở bề ngoài. Một biện hộ bi thảm: nó hầu như là một câu dài,
với
nhiều mệnh đề, xác định bằng dấu chấm phẩy. Lời khai của viên y sĩ, là
thì hiện
tại, như một buổi phát thanh trực tiếp ("at the moment she went to him
and
here, yes, the groom grabs her and knocks his face against hers. The
girl lets
out a shriek and flees toward me."),
có vài chuyển tiếp giữa dòng (mid-sentence transitions) từ quá khứ qua
hiện tại
như thế.
Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát"
(deliver: sinh nở, giải thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn
và hai
con ngựa, từ nơi chuồng heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh
mì, trong
chuyện của Gogol, sự xuất hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y
sĩ
Đồng quê" đã được miêu tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người
chăn
ngựa bò ra "bằng bốn chân", hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia,
bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào má Rose là hành động đầu tiên của
người
chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ gọi anh là "đồ súc vật". Tính dâm tà
của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự mang tính thú vật. Viên y sĩ có
thể nghe
"cánh cửa nhà tôi long ra từng mảnh dưới những cú đập của tên chăn
ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai quen thuộc của quỉ dữ, trong
chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao đổi ma quái. Tên giữ ngựa/con
quỉ như
từ dưng không trồi lên, dụ khị (offering) thân chủ của nó: mày muốn
được cái đó
hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ lấy đi còn quí giá, còn ý nghĩa
hơn
nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi chuyến đi với cái giá cô gái.
Nhưng một
khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an bài"!
Ở
đầu chuyện, là một số gắng nhằm giải quyết vấn đề di
chuyển - làm sao tới bên giường một người bệnh ngặt nghèo, tại một làng
cách đó
mười dặm đường, một cơn bão tuyết trong đêm - cuối cùng hóa ra là một
"vụ
việc" (affair), với đầy tủi hổ, nhục nhã, và tội lỗi: ngựa của viên y
sĩ
chết vì bị hành quá mức, ông ta không thể bảo vệ cô gái, ông ta cũng
thất bại
không cứu nổi người bịnh. Có lẽ chính vì vậy mà đoạn mở đầu mang cái vỏ
một lời
xin lỗi (sự thực, cả câu chuyện là một lời xin lỗi). Hỡi ơi, đây chỉ là
một lời
xin lỗi phi lý, xin lỗi theo kiểu vòng vo Tam quốc, giống như trong
chuyện dân
gian: "Có một lỗ hổng ở trong cái xô của tôi": điều thứ nhất không
thể thực hiện vì thiếu điều thứ hai, điều thứ hai bị ngăn chặn (thực
hiện) vì
những trói buộc ở điều thứ ba... và cứ như thế. Đạt được điều thứ nhất
là đạt
được tất cả, khốn nỗi...
Hãy
thử thực hiện câu chuyện "Y sĩ Đồng quê" theo
kiểu trên, xem sao:
-Nếu
mọi chuyện đều sẵn sàng cho chuyến đi - bao gồm cả
chuyện "một chiếc xe nhẹ với những bánh xe lớn" - tại sao ông không
đi?
Bởi
vì không có ngựa.
-Ngựa
đâu?
Chết
đêm hôm qua.
-Tại
sao ngựa chết?
Vì
những mệt mỏi mùa đông băng giá.
-Tại
sao ngựa mệt mỏi trong mùa đông băng giá?
Bởi
vì cả quận lỵ biến đời tôi trở thành khốn khổ khốn nạn
với cú gọi đêm.
-Tại
sao cú gọi này lại nặng nề đối với ông, hơn là những cú
khác?
Lần
này "chắc tôi phải hy sinh Rose"
-Như
vậy tại sao ông bỏ mặc cô gái? Tại sao ông để tên chăn
ngựa cắn cô ta?
Tôi
đã trách anh ta, tôi dọa quất roi anh ta.
-Tại
sao ông không quất?
Bởi
vì ngay lập tức tôi nhớ ra "người đàn ông này là
người lạ; tôi không biết anh ta từ đâu tới".
-Tại
sao ông nhận sự giúp đỡ từ một người lạ khi ông không
biết gốc gác người đó?
Bởi
vì anh tự ý giúp tôi thoát ra khỏi khó khăn trong khi
tất cả mọi người làm tôi hỏng cẳng.
-
Tại sao những người khác làm ông hỏng cẳng?
"Cả
quận lỵ biến đời tôi thành khốn nạn".
-Tại
sao ông không ngăn tên giữ ngựa phá cửa, và rồi xâm
phạm cô gái?
Tôi
đã cố. Tôi ra lệnh cho anh ta đi với tôi, nếu không
"tôi sẽ không đi, dù khẩn cấp cỡ nào".
-Nếu
vậy, tại sao ông không huỷ chuyến đi?
Bởi
vì tên giữ ngựa bất thình lình vỗ tay ra hiệu cho ngựa
vùng lên, chiếc xe bị kéo đi, "như khúc gỗ trên dòng thác".
-Tại
sao ông phó mặc tính mạng của ông vào một tên chăn
ngựa?
Bởi
vì có một người bịnh ngặt nghèo đang đợi tôi, tôi lại
không có ngựa.
Ở
đây có bóng dáng vòng vo câu chuyện "bà
già đi chợ đàng trong, mua năm cây
mía vừa cong vừa dài; bà già đi chợ đàng ngoài, mua năm cây mía vừa dài
vừa
cong" (còn được truyền tụng như sau: Mẹ em đi chợ đường trong, mua em
cây
mía vừa cong vừa dài; mẹ em đi chợ đường ngoài, mua em cây mía vừa dài
vừa
cong).
Cũng
vẫn một "mẫu mã" như trên, là đoạn viên y sĩ
gặp người bịnh, đoán bịnh lầm. Thoạt đầu, ông không nhận ra vết thương
của cậu
bé, rồi không thể giúp nó...
Vậy
thì đâu là "khế ước mở đầu", người đọc được
yêu cầu chấp nhận?
Thoạt
kỳ thuỷ, là mong ước người đọc: tin tưởng người kể
chuyện-y sĩ, tỏ ra có cảm tình với con người đạo hạnh đã đáp ứng lời
gọi trong
đêm bão tuyết, đi chữa một bịnh nhân... Những đòi hỏi khẩn cấp, hình
huống ngặt
nghèo, lời khai, lời xin lỗi... của viên y sĩ khiến người đọc nhận ra ý
nghĩa
việc viên y sĩ quyết định sử dụng đôi ngựa. Ngay cả vụ tấn công cô gái
cũng
không đủ để hoãn cuộc hành trình, và độc giả hài lòng với việc trách
móc
"qua loa" của viên y sĩ.
Chỉ
tới khi đôi ngựa lồng lên (bi kịch bắt đầu!), người đọc
mới băn khoăn tự hỏi, phải chăng hoàn cảnh (thực sự) ở trong tầm tay,
ngay từ
khởi đầu. Những quyết định của viên y sĩ có thực sự là những quyết
định? Cả một
chuỗi lo toan tính toán, quyết định như thế, cuối cùng hóa ra chỉ là
một cơn "hoang
tưởng" hãi hùng của viên y sĩ: ông ta đã bị lừa. Ông ta đã đáp ứng một
báo
động hoảng. Không phải chỉ viên y sĩ bị lạc đường, mà luôn cả độc giả
cũng bị
"văng lên đường", theo với ông!
Bởi
vì nói cho cùng, chẳng có báo động hoảng, ông ta đã
"bị" lên đường, ngược lại ý muốn của ông.
"Y
sĩ Đồng quê", dù hiểu thế nào đi chăng nữa,
không phải là câu chuyện của tội lỗi và trừng phạt. Càng chẳng phải một
câu
chuyện ngụ ngôn về chuyện chuyển hướng lầm, chọn lầm (taking the wrong
turn,
making the wrong choice). Thảm kịch của viên y sĩ không phải là do hậu
quả của
những hành động, và thất bại của ông. Chuyện "xin lỗi" chỉ là nói cho
vui. Khế ước mở đầu chỉ là đối tượng của một khế ước thực, khế ước
ngầm. Theo
những điều kiện của khế ước ngầm này, viên y sĩ đã có tội, "ngay từ
tiên
thiên, tiên nghiệm" (à priori). Ông ta đã bị kết tội, kết án ngay từ
khởi
đầu, mặc dù sự vô tội của ông. Ông ta có tội ngay cả trước khi bắt đầu
những
lời than van, xin lỗi, tự kiểm thảo bản thân. Ngay từ "thoạt kỳ thuỷ"û,
ông ta chẳng khác nào "một khúc gỗ trên dòng suối ngập". Ông ta có
tội, bởi vì "tội lỗi của người đàn ông" (a man's guilt) luôn luôn nằm
sẵn đó, đợi ông.
Cô
gái Rose hình như đã nói ra những điều kiện thực sự của
tờ khế ước, của Kafka: "Bạn chẳng thể nào biết điều bạn đang tìm, trong
chính căn nhà của mình".
Tội
lỗi ngồi thu lu đằng sau "cánh cửa ọp ẹp của cái
chuồng heo đã bỏ hoang từ bao nhiêu năm tháng...".
(Theo
bài viết của Amoz Oz trên Partisan Review, số Mùa
Xuân, 1999).
Chú
thích:
(1).
Bản tiếng Anh: "Betrayed! Betrayed!" (Bị phản
bội); bản tiếng Pháp của Claude David, (nhà xb Gallimard, tủ sách
Folio, 1990:
"Dupé! Je suis dupé!" (Bị lừa! Tôi bị lừa!).
The Marvels of Walter Benjamin
J. M. Coetzee
Những kỳ tích về Walter Benjamin.
“To
great writers, finished works weigh lighter than those
fragments on which they work throughout their lives.”
(“Với những nhà văn lớn, những tác phẩm
hoàn tất nhẹ ký hơn,
so với những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.”)
Walter Benjamin (1892-1940)
1.
Bây
giờ, câu chuyện về ông được nhiều người biết cho nên
cũng chẳng cần kể lại một cách chi tiết.
Nơi
chốn: biên giới Pháp-Tây Ban Nha. Thời gian: 1940.
Benjamin chạy trốn một nước Pháp bị chiếm đóng, tới gặp bà vợ một anh
chàng
Fittko nào đó, mà ông gặp gỡ ở trong trại tù. Theo ông, Bà (Frau)
Fittko có thể
dẫn ông và những người cùng đi vượt dẫy núi Pyrenees
tới
xứ Tây Ban Nha trung lập. Dọc đường, thấy ông ì ạch với chiếc cà tạp
nặng nề,
bà dẫn đường hỏi: cái gì vậy, có cần thiết [mang theo nó] không? Trong
đó là
một bản thảo, ông trả lời. “Tôi không thể chịu rủi ro mất nó. Nó… PHẢI
được gìn
giữ. Nó còn quan trọng hơn cả tôi.”
Hôm
sau, họ vượt dẫy núi. Đi được mươi phút là Benjamin phải
ngưng để thở, do đau tim.
Tới
biên giới, họ bị chặn lại. Giấy tờ không hợp lệ, cảnh
sát Tây Ban Nha phán, phải trở về Pháp. Nản quá, trong đêm đó, Benjamin
làm một
liều thuốc phiện thật nặng. Cảnh sát làm biên bản những món đồ của
người quá
cố. Không có bản thảo nào hết trong biên bản đó.
Trong
cà tạp có gì, và nó biến đi đâu, chúng ta chỉ phỏng
đoán. Gershom Scholem, bạn của Benjamin, gợi ý: đó là bản sửa chữa lần
chót,
tác phẩm chưa hoàn tất, Passagen-Werk, được biết qua tiếng Anh bằng cái
tên
“Arcades Project” (“Thương Xá”). (“Với những nhà văn lớn,” Benjamin
viết,
“những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với những mẩu đoạn mà họ miệt
mài suốt
đời.”). Bằng một cố gắng anh hùng, nhưng vô vọng – làm sao cho lửa Nazi
đừng
thiêu đốt bản thảo, làm sao mang nó tới một vùng đất an toàn, trước
tiên là Tây
Ban Nha, sau đó là Mỹ quốc – chỉ với một cố gắng như vậy đủ khẳng định,
đây
chính là một huyền tượng trong giới học giả của thời đại chúng ta.
Câu
chuyện không đến nỗi quá bi đát, với đứa con tinh thần
của ông, bởi vì một bản sao của “Thương Xá” không đi theo chủ nhân, ở
lại Paris,
và được bạn thân của Benjamin là Georges Bataille giấu giếm tại Thư
viện Quốc
gia. Sau chiến tranh, được xuất bản nguyên xi vào năm 1982, nghĩa là
bằng một
thứ tiếng Đức xen những mảng lớn tiếng Pháp ở trong.
Bây
giờ chúng ta có dịch bản tiếng Anh tác phẩm chính
(magnum opus: đại tác phẩm) của Benjamin. Dịch giả là Howard Eiland và
Kevin
McLaughlin. Và bây giờ, sau cùng, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao
lại [có
người] quan tâm tới mức như thế, về mỗi một chuyện đi mua sắm, ở nước
Pháp thế
kỷ 19?
**
Benjamin
sinh năm1892, tại Berlin,
trong một gia đình Do Thái đã hội nhập. Cha ông là một người thành công
trong
nghề đấu giá những nghệ phẩm, và sau đó tách ra làm ngành đầu tư tài
sản; dòng
họ Benjamin thịnh vượng, về nhiều mặt. Sau một thời thơ ấu ốm yếu, được
đùm
bọc, vào lúc mười hai tuổi, Benjamin được gởi tới một trường nội trú có
khuynh
hướng tiến bộ ở miền quê, và rơi vào ảnh hưởng của một trong những vị
giám đốc
trường là Gustav Wyneken. Nhiều năm, sau khi đã rời ngôi trường,
Benjamin vẫn
hoạt động trong phong trào chống lại tính quyền thế, trở lại với thiên
nhiên,
của Wyneken; ông chỉ đoạn tuyệt với nó khi Wyneken ra mặt ủng hộ Đệ
Nhất Thế
Chiến.
Vào
năm 1912, Benjamin ghi tên học ngành ngữ văn tại Đại học
Freiburg. Nhận thấy không hợp khẩu vị với môi trường trí thức, ông lao
vào
phong trào vận động cải cách học vấn. Khi chiến tranh bùng nổ, ông trốn
tránh
quân vụ, lúc đầu giả vờ bệnh, sau dời tới nước Thụy Sĩ trung lập. Ông ở
đây tới
năm 1920, học triết và lo làm luận án tiến sĩ ở Đại học Berne. Bà vợ
phàn nàn,
họ không có một cuộc sống xã hội.
Bạn
của ông là Theodor Adorno nhận xét, Benjamin mệt vì
những đại học, như Kafka mệt vì những
công ty bảo hiểm. Dù nghi ngại, Benjamin vẫn đi suốt qui trình lấy bằng
tiến sĩ
thực thụ cho phép ông làm giáo sư, bằng cách đệ trình luận án “Kịch
nghệ Đức
thời đại Baroque” với Đại học Frankfurt vào năm 1925. Thật lạ lùng,
luận án
không được chấp nhận; nó rớt đài vì không chịu nằm gọn trong lãnh vực
văn học,
hoặc triết học, và Benjamin thiếu một vị thầy bảo trợ, bênh vực cho
trường hợp
của ông.
Những
chương trình, kế hoạch khoa bảng kể như hỏng, Benjamin
lao vào ngành dịch thuật, phát thanh, và làm ký giả tự do. Trong số
những việc
làm lấy tiền hoa hồng, có việc dịch “Đi Tìm Thời Gian Đã Mất” của
Proust; ba,
trong bẩy cuốn, đã được hoàn tất.
**
Vào
năm 1924 Benjamin đến Capri, vào lúc đó, là trung tâm
nghỉ mát được giới trí thức Đức ưa thích. Ông gặp Asja Lacis, nữ giám
đốc kịch
viện ở Latvia, và là một người Cộng Sản. Cuộc gặp gỡ đúng là định mệnh,
“mỗi
lần tôi đụng vô một mối tình lớn, là mỗi lần hoá thân”, ông sửng sốt về
mình,
khi ngoái lại. “Một tình yêu thứ thiệt biến tôi thành người đàn bà mà
tôi yêu”.
Với người tình này, còn kéo thêm sự thay đổi về đường hướng chính trị.
“Với
những người tiến bộ, nếu tuân theo cảm quan đúng đắn của mình, con
đường suy
tưởng của họ sẽ dẫn tới Moscow chứ không phải tới Palestine”, nàng nói
một cách
thật nghiêm nghị với chàng. Thế là mọi dấu vết của chủ nghĩa duy tâm
trong tư
tưởng của ông, chưa nói tới chuyện láng cháng với chủ nghĩa quốc gia Do
Thái
(Zionism), phải bị bỏ đi. Ông bạn tâm phúc Scholem đã di cư qua
Palestine, mong
Benjamin đi theo. Ông nại cớ này cớ nọ, và cứ thế chần chờ cho tới chót.
Vào
năm 1926, Benjamin tới Moscow vì có hẹn với nàng. Lacis
coi bộ không hoan hỉ đón tiếp (nàng lúc này có bồ khác). Ghi nhận về
chuyến đi
cho thấy Benjamin không được thoải mái cái đầu cho lắm, có cả nỗi băn
khoăn có
nên gia nhập Đảng Cộng Sản, và tự đặt mình vào đường lối của Đảng. Hai
năm sau
đó, chàng và nàng lại có dịp tái hợp, tuy ngắn ngủi, tại Berlin; họ
sống bên
nhau, tay trong tay cùng tham dự những cuộc họp của Liên minh những Nhà
văn
Cách mạng Vô sản. Cuộc tình làm cho vụ li dị với người vợ đầu nhanh
chóng thêm.
Benjamin
có ghi nhật ký chuyến đi Moscow, và sau đó sửa lại
và cho xuất bản. Ông không nói được tiếng Nga, nhưng thay vì nhờ mấy
thầy
thông, ông cố gắng nhìn thành phố qua bề ngoài của nó [nguyên văn: đọc
Moscow
từ phía bên ngoài, read Moscow from outside], và ông gọi đây là thuật
xem tướng
mặt, chắc là theo kiểu người Việt mình nói, “trông mặt mà bắt hình
dong, con
lợn có béo thì [bộ] lòng mới ngon!”. Ông giải thích thêm về phương pháp
của
mình: khoan trừu tượng, khoan phê phán… hãy trình bầy thành phố
[Moscow], theo
kiểu như thế này: tất cả tính sự kiện, thì đã là lý thuyết (all
factuality is
already theory; câu này của Goethe, theo Coetzee).
Những
khẳng định của Benjamin về kinh nghiệm “mang tính lịch
sử về thế giới”, như ông nhìn thấy xẩy ra ở Liên bang Xô viết, bây giờ
có vẻ
ngây thơ; tuy nhiên con mắt của ông thật là sắc bén. Rất nhiều cư dân
mới của
Moscow vẫn giữ nguyên bộ vó dân quê, sống cuộc sống làng mạc, theo nhịp
sống
quê mùa; sự phân biệt giai cấp có thể đã bị bãi bỏ, nhưng bên trong
Đảng, một
hệ thống đẳng cấp mới đang thành hình. Một cảnh tượng nơi chợ trời cho
thấy
tình trạng hạ thấp tông giáo: một thánh tượng được kèm bởi những bức
chân dung
của Lênin, “như một tù nhân giữa hai tay công an”.
Mặc
dù sự hiện diện của nàng, Asja Lacis, là cái nền thường
trực của những trang nhật ký lần thăm viếng (“Moscow Diary”), và tuy
chàng, như
nhận ra, cuộc tình chăn gối của đôi bên không ổn, chúng ta chẳng biết
gì về con
người nàng. Là nhà văn, nhưng chàng không có tài làm cho những người
khác sống
dậy, qua những miêu tả của mình. Trái lại, trong những bản viết của
riêng
Lacis, chúng ta có một hình ảnh sống động hơn, về Benjamin: đôi kính như hai ngọn đèn pha, ôi đôi bàn tay của “ảnh”
mới vụng về làm sao!
**
Trong
suốt quãng đời còn lại, Benjamin tự nhận hoặc một tay
Cộng Sản, hoặc một bạn đồng hành. Chúng ta tự hỏi, cuộc tình giữa ông
với chủ
nghĩa Cộng Sản say đắm, sâu xa tới mức nào?
Nhiều
năm sau khi gặp gỡ Lacis, Benjamin có lẽ vẫn lập đi
lập lại những ‘chân lý’ù Mác xít, mà chẳng cần đọc Marx, thí dụ như
“giai cấp
trưởng giả… bị kết án phải suy sụp do những mâu thuẫn nội tại, và nó sẽ
tiêu
luôn theo với đà phát triển của những mâu thuẫn này”. “Trưởng giả” là
một từ
nguyền rủa đối với ông, và nó có nghĩa là chạy theo vật chất, thờ ơ,
ích kỷ,
giả hình, và trên tất cả, hoàn toàn tự mãn về mình – và ông tỏ ra rất
thù
nghịch, do bản năng. Tự coi mình là Cộng Sản là một hành động chọn bên,
vừa về
mặt đạo đức vừa về mặt lịch sử, nhằm chống lại giai cấp trưởng giả và
luôn cả
dòng dõi trưởng giả của chính ông. “Một điều không thể khá được, đó là
quên
không chạy trốn cha mẹ”, ông viết như vậy trong “Đường Một Chiều”, một
tuyển
tập những mẩu nhật ký, những nghi thức của cõi mơ, những châm ngôn,
những tiểu
luận bỏ túi (mini-essays), và những nhận xét chì chiết về nước Đức thời
cộng
hoà Weimar. Với cuốn sách đó, ông tự tuyên bố về mình, vào năm 1928:
một trí
thức tự do (freelance intellectual). Do chạy trốn cha mẹ không sớm sủa
cho lắm,
ông bị kết án phải chạy xa [cha mẹ là] Emil và Paula Benjamin trong
suốt quãng
đời còn lại: trong khi phản ứng ngược lại ý muốn của cha mẹ muốn hội
nhập vào
giai cấp trung lưu Đức, ông giống nhiều người Do thái nói tiếng Đức
cùng thế
hệ, kể luôn cả Kafka. Điều gây bối rối, ở nơi bè bạn của ông, về chủ
nghĩa Marx
của ông: hình như có một điều gì gượng gạo, một điều chi giống như là
thù đáp
(reactive).
Những
bài viết tả khuynh đầu tiên của Benjamin đọc thật nản.
Người ta đành phải nói, một “sự ngu xuẩn cố tình”, khi đọc những dòng
ông
“thổi” (rhapsody) Lênin; (“những lá thư của Lênin mới hoành tráng ngọt
ngào làm
sao”, nhưng bài này bị những biên tập viên bản dịch của Harvard loại
bỏ); hay
là hùa theo lối nói khéo léo, nhưng ẩn tàng mầm tai tương, của Đảng:
“Chủ nghĩa
Cộng Sản không mang tính triệt để. Do đó, nó không có ý định giản dị
xoá bỏ mọi
liên hệ gia đình. Nó chỉ thử nghiệm những liên hệ này, để kiểm tra khả
năng của
chúng, trước chuyển đổi. Nó tự hỏi chính nó: Liệu gia đình có thể được
tháo gỡ
ra, nhờ vậy mà những thành phần của nó có thể được tái phối trí vào xã
hội?”
Những
dòng trên đây, là từ bài điểm một vở kịch của Bertolt
Brecht. Ông gặp nhà soạn kịch người Đức này qua Lacis. “Kiểu suy tư thô, nguyên” – lột bỏ những nhận xét tinh tế
trưởng giả – của Brecht, có một dạo, đã quyến rũ Benjamin. “Đường Một
Chiều”
được đề tặng người tình: “Con đường này mang tên em, vị kỹ sư đã phóng
nó qua
người anh.” [nguyên văn: “Con đường này mang tên Phố Asja Lacis, theo
tên nàng,
một người mà giống như một vị kỹ sư, đã cắt nó xuyên qua tác giả”]. So
sánh
đấy, mà là khen ngợi đấy. Kỹ sư là một người, nam hay nữ, của tương
lai; một
người - bực bội với ba cái trò lắm lời; được trang bị bằng tri thức
thực hành -
hành động, và quyết tâm hành động nhằm thay đổi toàn cảnh. (Stalin cũng
ái mộ
những kỹ sư. Theo quan điểm của ông, nhà văn phải trở thành những vị kỹ
sư của
tâm hồn, theo nghĩa, họ phải coi đây là chức năng của mình: tái phối
trí nhân
loại, từ phía bên trong mà ra).
Trong
số những bài viết được khá nhiều người biết tới, bài
“Tác giả như người sản xuất” (“The Author as Producer”, 1934) cho thấy
ảnh
hưởng của Brecht thật rõ rệt. Trọng tâm của bài viết là một “vấn nạn”
cũ rích
của mỹ học Mác xít: Cái gì quan trọng, hình thức hay nội dung? Benjamin
đề
nghị, rằng một tác phẩm văn học sẽ “chỉ đúng về lập trường chính trị
nếu nó
cũng đúng về lập trường văn học”. “Tác giả như người
sản xuất” là một bài viết nhằm bảo vệ nhóm
khuynh tả thuộc lực
lượng tiên-phong hiện đại - với Benjamin, là nhóm Siêu thực - chống lại
đường
lối của Đảng đối với văn học, vốn chỉ nhắm những gì dễ cảm thông, những
câu
chuyện hiện thực nặng khuynh hướng tiến bộ. Để bênh vực cho trường hợp
của
mình, Benjamin, một lần nữa, đành phải kêu gọi tới sức quyến rũ của
[vai trò]
kỹ sư: nhà văn, như người kỹ sư, là một chuyên viên kỹ thuật và phải có
tiếng
nói của mình trong những vấn đề kỹ thuật.
Lập
luận ở mức thô thiển như thế thật không dễ dàng đối với
Benjamin. Liệu lòng trung với Đảng khiến cho ông chẳng hề băn khoăn,
vào lúc mà
sự bách hại nghệ sĩ của Stalin đang ở đỉnh cao? (Asja Lacins, chính
nàng, cũng
trở thành một trong những nạn nhân của Stalin, và phải trải qua nhiều
năm trong
trại lao động cải tạo). Một mẩu viết trong cùng năm đó, 1934, có thể
cho chúng
ta một chút manh mối. Ở đây, Benjamin chế nhạo đám trí thức “coi đó là
niềm
hãnh diện, khi toàn thân thể hiện trong mọi vấn đề [mà Đảng vạch ra],”
từ chối
không chịu hiểu, để thành công, họ phải trình bầy những bộ mặt khác
nhau cho
những khán thính giả khác nhau. Ông nói, họ giống như một gã đồ tể,
không chịu
cắt từng mảnh, cứ nài nỉ bán trọn con thịt. Chúng ta phải hiểu câu nói
của ông
ra sao? Phải chăng Benjamin ca ngợi một cách châm biếm sự liêm khiết
trí thức
đã lỗi thời? Hay đây là lời thú nhận bóng gió về mình, ‘dzậy mà không
phải
dzậy”, theo cách nói của người Việt miền nam (that he, Walter Benjamin,
is not
what he seems to be)? Hay ông đưa ra một quan điểm thực tế, nếu không
muốn nói
là chua chát, về cuộc sống của một nhà văn chuyên viết thuê làm mướn.
Một lá
thư gửi bạn tâm phúc, Scholem (mà không phải Benjamin bao giờ cũng tiết
lộ toàn
bộ sự thực), cho thấy, cách hiểu chót có lẽ đúng hơn cả: trong thư,
Benjamin
bảo vệ chủ nghĩa cộng sản của ông như là “một toan tính hiển nhiên, có
suy
nghĩ, của một người đã hoàn toàn, hoặc hầu như đã hoàn toàn, bị tước
đoạt bất
cứ một phương tiện sản xuất, để mà đòi hỏi quyền của mình, về những
phương tiện
sản xuất.” Nói một cách khác, ông theo Đảng bởi vì đây là lợi lộc vật
chất của
mình.
2.
Vào
lúc Nazi lên nắm quyền, nhiều người cộng sự với
Benjamin, đọc ra cái điềm báo trước của thời đại, đã theo nhau mà bôn
tẩu.
Benjamin vốn từ lâu cảm thấy không có đất cắm dùi ở Đức, lại hay lai
vãng Pháp
và Ibiza, bèn theo gót bạn bè. (Ông em trai,
Georg, bất
cẩn hơn, ở lại, bị bắt vì những hành vi chính trị, và tàn đời tại
Mauthausen
vào năm 1942).
Định
cư tại Paris, cố kiếm cơm bằng cách cộng tác với những
nhật báo Đức dưới những bút hiệu đọc lên nghe có tí dòng giống tối
thượng Aryan
(Detlef Holz, K. A. Stempflinger); lúc quá kẹt, sống bằng của bố thí.
Khi chiến
tranh bùng nổ, Benjamin thấy mình ở trong trại tù, như là một ngoại
nhân thù
nghịch. Được thả, nhờ Hội Văn Bút (PEN) Pháp can thiệp; ngay lập tức
ông kiếm
mối manh, tìm đường đào tẩu qua Mỹ, và sau cùng là chuyến đi định mệnh,
kết
thúc tại Port-Bou, biên giới Pháp-Tây Ban Nha.
Những
chiếu rọi sắc sảo của Benjamin, khi ông nhìn chủ nghĩa
phát xít, kẻ thù tước đoạt gia đình, sự nghiệp, và sau cùng đã giết
chết ông,
là từ những phương tiện mà nó sử dụng để chiêu dụ dân chúng Đức: tự
biến thành
tuồng hát. Những chiếu rọi thần tình này được diễn tả đầy đủ nhất ở
trong (dùng
cái tên được Harvard ưa thích) “Nghệ phẩm trong thời đại tái sản xuất
bằng kỹ
thuật” (The Work of Art in the Age of Its Technological
Reproducibility”,
1936), nhưng chúng đã thấp thoáng ở trong bài điểm, vào năm 1930, cuốn
‘Chiến
tranh và những Chiến sĩ’, do Ernst Junger biên tập.
Quan
niệm thông thường cho rằng, những đại hội diễu hành ở Nuremberg
của Hitler, đã lấy khuôn mẫu từ những ca nhạc kịch của Wagner ở Bayreuth
[một thành phố Đức]: réo rắt hùng hồn, âm thanh hớp hồn, vũ điệu dành
cho đám
đông, và đột biến bi thảm. Nhưng điều được coi là uyên nguyên, ở
Benjamin, đó
là ông cho rằng chính trị - như là kịch nghệ hoành tráng hơn là như
tranh luận
– không chỉ là những mặt nổi huy hoàng, giầu sang của
chủ nghĩa phát xít: nó chính là chủ nghĩa
phát xít, tự yếu tính.
Trong
những cuốn phim của Leni Riefenstahl cũng như trong
những phim thời sự, được trình diễn trong mọi rạp hát nội địa, quần
chúng Đức
được dâng hiến những hình ảnh của chính họ, như những nhà lãnh đạo kêu
gọi: hãy
là như vậy. Chủ nghĩa phát xít sử dụng quyền năng nghệ thuật của quá
khứ – điều
mà Benjamin gọi là nghệ thuật hào quang, cộng thêm quyền năng được nhân
lên
nhiều lần của phương tiện truyền thông đại chúng mới mẻ thời kỳ hậu-hào
quang,
trên tất cả là phim ảnh, để tạo ra những công dân phát xít mới của nó.
Với
những người dân Đức bình thường, căn cước độc nhất đem trình diễn, cái
căn cước
từ trên màn ảnh chiếu xuống họ, là căn cước phát xít trong bộ đồ phát
xít, và
những dáng đứng phát xít, hoặc chế ngự hoặc tuân phục.
Phân
tích của Benjamin về chủ nghĩa phát xít gây ra nhiều
câu hỏi. Phải chăng chính trị như là kịch cảnh (spectacle) thực sự là
trái tim
của chủ nghĩa phát xít, chứ không phải sự phẫn uất, hay những giấc mơ
về sự
phục thù lịch sử? Nếu Nuremberg là chính trị được thẩm mỹ hoá, tại sao
những
cuộc diễu hành ngày 1 tháng 5 và những vụ án phô trương của Stalin,
không được
coi là chính trị thẩm mỹ hóa? Nếu thiên tài của chủ nghĩa phát xít, là
xóa bỏ
lằn ranh giữa chính trị và phương tiện truyền thông, đâu là thành tố
phát xít
của chính trị-do truyền thông-điều động của những nền dân chủ Tây
phương? Lẽ
nào chẳng có những biến điệu khác nhau của chính trị thẩm mỹ?
**
Quan
niệm chìa khóa mà Benjamin sáng chế ra - mặc dù trong
nhật ký của ông lờ mờ cho thấy, sự thực đây là sáng kiến của nữ sĩ
Adrienne
Monnier, chủ nhà bán sách và chủ nhà xuất bản ở Paris -
để miêu tả chuyện gì xẩy ra cho nghệ phẩm
trong thời đại tái sản xuất bằng kỹ thuật (chủ yếu là thời đại chụp
hình – Benjamin
không nói gì nhiều về in ấn), đó là [hiện tượng] “mất hào quang” (“loss
of
aura”). Gần như tới giữa thế kỷ 19, ông nói, một hình thức tương liên
người với
người còn tồn tại, giữa một nghệ phẩm và người nhìn nó: người nhìn,
ngắm, và
nghệ phẩm, ngắm lại, đại khái như vậy. “Để cảm nhận hiện tượng hào
quang có
nghĩa là gán cho nó cái khả năng nhìn lại chúng ta.” Do đó, có điều chi
huyền
diệu về hào quang, gốc gác cổ xưa còn sót lại, giờ nhạt nhòa đi, giữa
nghệ
thuật và nghi lễ tông giáo.
Lần
đầu tiên Benjamin nói tới hào quang, là ở trong bài viết
“Lịch sử nho nhỏ về chụp hình” (1931), trong đó ông cố gắng giải thích
tại sao
(dưới mắt ông), những bức hình chân dung ở cái thời thoạt kỳ thủy của
môn chụp
hình – cổ bản của nhiếp ảnh, hãy nói như vậy - [lại]
có hào quang trong khi những bức hình một thế
hệ sau đó không còn.
Trong “Nghệ phẩm”, ý niệm hào quang được nới rộng khá tùy tiện, từ
những bức
hình cổ xưa tới những tác phẩm nghệ thuật nói chung. Sự chấm dứt hào
quang,
Benjamin nói, sẽ được bồi đáp dư dả bằng những khả năng giải phóng của
những kỹ
thuật tái sản xuất mới. Phim ảnh sẽ thay thế nghệ thuật hào quang.
Ngay
cả những người bạn của Benjamin cũng thấy khó mà nắm
bắt được hào quang. Brecht - người được Benjamin nói nhiều về quan niệm
này
trong những lần Benjamin ghé thăm nhiều ngày ở nhà ông, tại Đan Mạch -
đã viết
như sau, trong nhật ký của ông: “[Benjamin] nói: ‘khi bạn cảm thấy cái
nhìn
chăm chăm của một người nào đó, nóng bỏng trên bạn, ngay cả ở đằng sau
lưng, sự
mong mỏi rằng bất cứ cái chi bạn nhìn tới, đang nhìn [lại] bạn, tạo nên
hào
quang… tất cả rất huyền bí, mặc dù những thái độ phản-huyền bí, đây là
cách
tiếp cận lịch sử được thích nghi bởi các nhà duy vật! Ôi thật kinh
khiếp.”
Những bạn bè khác cũng chẳng thể nào mà hồ hởi hơn [khi nghe Benjamin
nói về
hào quang].
Trong
suốt thập niên 1930, Benjamin loay hoay phát triển một
định nghĩa mang tính duy vật có thể chấp nhận được, về hào quang và mất
hào
quang. Phim ảnh là hậu hào quang, ông nói, bởi vì cái máy thu hình, vốn
chỉ là
một dụng cụ [cho nên] không thể nhìn. (Một lập luận đáng thắc mắc: các
diễn
viên chắc chắn đã đáp ứng với cái máy thu hình như thể nó đang nhìn
họ). Trong
bản văn viết lại sau đó, Benjamin đề nghị, rằng sự chấm dứt hào quang
có thể
xác định thời điểm được, trong lịch sử: đó là khi cư dân thành thị trở
nên đông
nghẹt – những người qua kẻ lại – đến nỗi chẳng còn ai thèm đáp lại cái
nhìn
chăm chăm của người khác nữa. Trong “Thương Xá”, ông coi mất hào quang
là một
phần trong sự phát triển rộng rãi hơn, mang tính lịch sử: càng ngày
càng có
nhiều người cho rằng, sự độc đáo, bao gồm cả sự độc đáo mang tính
truyền thống
của nghệ phẩm, đã trở nên thương phẩm, như bất cứ thương phẩm nào khác.
Kỹ nghệ
thời trangï chuyên việc sản xuất những nghệ phẩm độc nhất – những sáng
tạo – kể
từ nay sẽ được tái sản xuất theo kiểu đại trà, [và nó] đã chỉ lối cho
sự phát
triển này.
**
Benjamin
không đặc
biệt quan tâm đến tiểu thuyết, như là một thể loại; những câu chuyện
ông viết,
được in trong Tập 2 hiển nhiên cho thấy, ông không có tài của một nhà
văn tự
sự. Thay vì tự sự, những bản văn mang tính tự thuật của ông được xây
lên từ
những thời điểm đứt đoạn, căng thẳng. Hai tiểu luận về Kafka coi Kafka
như là
một nhà ngụ ngôn và ông thầy dậy minh triết (wisdom), hơn là một tiểu
thuyết
gia. Nhưng điều mà Benjamin trường kỳ gớm ghiếc nhất, là dành cho [thể
loại]
lịch sử tự sự (narrative history). “Lịch sử tan rã thành hình ảnh,
không phải
thành tự sự”, ông viết. Lịch sử tự sự áp đặt tính nhân quả và động cơ
từ phía
bên ngoài; những sự vật cần có cơ hội tự nói về chúng.
“Một
ấu thời ở Berlin vào khoảng năm 1900”, một trong những
tác phẩm tự thuật ấp ủ, tha thiết nhất, không được xuất bản khi ông còn
sống,
sẽ xuất hiện trong Tập 3 của “Tuyển Tập” (“Selected Writings”). Bản văn
mà
chúng ta có được ở trong Tập 2, là “Ký sự Berlin”
(“Berlin Chronicle”) sớm sủa hơn tác phẩm kể trên, và cũng được viết
dưới cái
bóng của Proust. Mặc dù cái tên, bản văn này xây dựng, không phải theo
biên
niên, mà như một dàn dựng những mẩu đoạn, xen lẫn những suy tưởng về
bản chất
của tự thuật, và sau cùng, là về những thăng trầm của hồi ức, hơn là về
những
biến cố có thực trong thời thơ ấu của Benjamin. Benjamin sử dụng một ẩn
dụ mang
tính khảo cổ học để giải thích tại sao ông chống tự thuật, như là tự sự
về cuộc
đời. Ông nói, nhà tự thuật nên nghĩ về chính mình, như một tay khai
quật, đào
sâu, sâu mãi, ở một vài chỗ, trong cuộc tìm kiếm những điêu tàn chôn
giấu, của
quá khứ.
Ngoài
“Nhật Ký Moscow” và “Ký sự Berlin”, Tập 1 và 2 gồm một
số những bản văn tự thuật ngắn ngủi hơn: một báo cáo khá văn vẻ về
chuyện bị
một người yêu cho leo cây; những ghi nhận về những lần thử chơi cần sa
(hashish); những ghi chép về những giấc
mơ; những mẩu đoạn nhật ký (Benjamin đã bị ám ảnh bởi chuyện tự tử vào
năm 1931
và 1931); và một nhật ký Paris, được ông để tâm hoàn tất cho xuất bản,
trong đó
bao gồm chuyến đi thăm một nhà thổ nam, nơi Proust thường xuyên lui
tới. Trong
số những phát giác gây nhiều ngạc nhiên, là sự ái mộ [của Benjamin]
dành cho
Hemingway (“Tu tập về nghĩ đúng, qua cách viết đúng”, “an education in
right thinking
through correct writing”), và [sự kiện ông] không ưa Flaubert (quá nặng
tính
kiến trúc học, too architectonic).
**
Cơ
sở triết học và ngôn ngữ của Benjamin được đề ra ngay từ
khi khởi nghiệp. Trong tiểu luận chìa khóa, “Về Ngôn ngữ tự thân và về
Ngôn ngữ
của Con người” (“On Language as Such and on the Language of Man”,
1916), ông
khẳng định, một từ không chỉ là một ký hiệu, một thế thân cho một điều
chi
khác, nhưng là tên của một Ý tưởng (the name of an Idea). Trong “Nhiệm
vụ của
Dịch giả” (The Task of the Translator”, 1921), ông cố gắng đưa ra bộ
khung cho
ý nghĩ của mình, về Ý tưởng, viện dẫn trường hợp Mallarmé và một ngôn
ngữ thơ
tự do, thoát ra khỏi chức năng truyền thông của nó.
Làm
sao mà một quan niệm mang tính Biểu tượng về ngôn ngữ
lại có thể giao lưu hòa giải với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Benjamin
ở giai
đoạn sau đó, điều này thật không rõ ràng, nhưng Benjamin duy trì [quan
điểm],
rằng một cây cầu có thể xây dựng, “tuy nhiên, cây cầu này có thể căng thẳng, và mang tính vấn nạn”. Trong
những tiểu luận văn học của thập niên 1930, ông đã mơ hồ cho thấy một
cây cầu
như vậy, hình dáng của nó ra làm sao.
Ông nói, trong Proust, trong Kafka, trong những nhà Siêu thực, từ ngữ
rút lui
khỏi sự tạo ý nghĩa trong cung cách trưởng giả và lấy lại
quyền năng sơ khởi mang tính điệu bộ của nó
(the word retreats from signification in the “bourgeois” sense and
resumes its
elementary, gestural power). Do đó, trong “Tòa Lâu Đài”, hai phụ tá của
Trắc
địa viên K. diễn ra cái trạng thái bào thai chưa sinh, bằng cách khoanh
tròn
chân tay bất cứ lúc nào mà họ có thể làm được, cuộn mình như trái banh.
Điệu bộ
là “hình thức tối thượng theo đó sự thực có thể xuất hiện trước chúng
ta trong
một thời đại bị tước đoạt thần học (theological doctrine).”
Thời
Adam, từ ngữ và điệu bộ [dùng để] gọi tên [sự vật] là
như nhau. Rồi sau đó, ngôn ngữ đã trải qua một sa đọa dài, mà [tháp] Babel
chỉ là một giai đoạn. Nhiệm vụ của thần học là khôi phục từ ngữ, với
tất cả
quyền năng bắt chước bản gốc của nó, từ những bản văn thiêng liêng mà
nó còn
được gìn giữ ở trong đó. Nhiệm vụ của phê bình thiết yếu cũng không
khác, bởi
vì các ngôn ngữ sa đọa, trong toàn thể những ý hướng của chúng, vẫn có
thể chỉ
cho chúng ta hướng về cái ngôn ngữ thuần khiết kia. Do đó, nghịch lý ở
trong
“Nhiệm vụ của người dịch thuật” là: dịch thuật còn cao hơn cả bản
chính, theo
nghĩa, nó ra điệu bộ về phía cái ngôn ngữ tiền-Babel.
Benjamin
có viết một số bài về khoa chiêm tinh, chúng là
những đối trọng cần thiết so với những gì ông viết về triết lý ngôn
ngữ. Khoa
chiêm tinh mà chúng ta có ngày nay, ông nói, là một văn bản suy thoái
của một
nền tri thức cổ xưa, ở những thời đại mà khả năng bắt chước, còn mạnh
mẽ, cho
phép những tương ứng mô phỏng (imitative), có thực, giữa đời người và
chuyển
động của những vì sao. Ngày nay chỉ trẻ con là còn giữ được, và đáp ứng
được
với thế giới, bằng một quyền năng bắt chước có thể so sánh được [với
những thời
đại kể trên].
Trong
những tiểu luận tính từ 1933, Benjamin phác thảo một
lý thuyết về ngôn ngữ dựa trên sự mô phỏng (mimesis). Ngôn ngữ thời
Adam mang
tính tượng thanh, ông nói; những từ đồng nghĩa trong những ngôn ngữ
khác nhau,
tuy không đọc lên như nhau, hoặc trông không giống nhau (lý thuyết này
được sử
dụng cho cả ngôn ngữ nói cũng như viết), chúng có những tương tự “phi
cảm
quan”, những tương tự mà từ đó chúng có ý nghĩa, như những lý thuyết
“huyền
bí”, hay “thần học”, về ngôn ngữ, luôn luôn nhìn nhận. Những từ “bánh
mì”,
“pain”, “Brot”, “xleb”, mặc dù bề ngoài khác hẳn nhau, nhưng chúng
giống nhau,
ở mức độ sâu xa hơn, [bởi vì trong chúng đã] cưu mang Ý tưởng về bánh
mì. ( Để
có thể thuyết phục chúng ta về một điều mơ hồ như vậy, Benjamin chắc là
phải
vận dụng hết quyền năng của mình). Ngôn ngữ, phát triển tối thuợng của
khả năng
bắt chước, mang trong chính nó một thư khố những tương tự phi cảm quan
đó. Việc
đọc có tiềm năng trở thành một thứ kinh nghiệm mơ mòng, mở cho chúng ta
cõi vô thức
chung của loài người: cõi ngôn ngữ, miền ý tưởng.
Tiếp
cận ngôn ngữ của Benjamin hoàn toàn trật bản lề so với
khoa học ngôn ngữ thế kỷ 20, nhưng nó ban cho ông một lối đi vương giả
vào thế
giới của huyền thoại và ngụ ngôn, đặc biệt là, (như ông cảm nhận được
điều
này), nó đưa ông tới gần “thế giới đầm lầy” ban sơ, hầu như trước khi
có con
người, của Kafka. Một cách đọc miệt mài Kafka đã để dấu ấn không phai
mờ trên
những bản viết sau cùng, bi quan, của chính Benjamin.
3.
Câu
chuyện về “Thương Xá” đại khái như sau.
Vào
cuối thập niên 1920 Benjamin thai nghén một tác phẩm
được gợi hứng từ những hành lang, hai bên có cửa hàng buôn bán, trên có
mái che
hình cung của Paris. Nó đề cập tới kinh nghiệm đô thị; nó sẽ là một văn
bản về
Người Đẹp Ngủ Trong Rừng, một câu chuyện thần tiên mang tính biện
chứng, được
kể theo kiểu siêu thực, qua phương pháp dàn dựng bằng những đoạn văn
mảnh mún.
Giống như nụ hôn của vị hoàng tử, nó sẽ đánh thức quần chúng Âu châu,
đối diện
với sự thực về cuộc đời của họ dưới chủ nghĩa tư bản. Nó sẽ dài cỡ
chừng năm
chục trang; trong khi sửa soạn cho việc viết bản văn trên, Benjamin bắt
đầu lấy
những trích dẫn, từ những gì ông đọc, để dưới những đầu đề như là U
Uất, Thời
Trang, Bụi Bặm. Nhưng khi ông đính chúng lại với nhau thành một bản
văn, nó trở
nên quá khổ: từng phen đính là từng phen thêm ghi chú, trích dẫn. Ông
bàn những
khốn khó của mình với Adorno và Max Horkheimer, họ thuyết phục ông,
rằng ông
không thể viết về chủ nghĩa tư bản mà không nắm vững tư tưởng của Marx.
Thế là,
ý tưởng về Người Đẹp Ngủ Trong Rừng mất tiêu luôn phong quang của nó.
Vào
năm 1934, Bejamin có một chương trình mới, đầy tham vọng
và tràn trề tính triết học: dùng ngay phương pháp dàn dựng trên, ông
vạch ra
con đường từ thượng tầng cấu trúc văn hóa của nước Pháp thế kỷ 19, trở
lại, tới
những thương phẩm và quyền năng của chúng, để trở nên những bái vật.
Khi những
ghi chú của ông trở thành cồng kềnh, ông phân chúng thành một hệ thống
hồ sơ tỉ
mỉ dựa trên ba mươi sáu cuốn (convolutes, từ tiếng Đức, Konvolut, có
nghĩa là
sheaf, dossier, hồ sơ), với những từ chìa khoá và những đối chiếu. Dưới
tựa đề
“Paris, Thủ đô của thế kỷ 19”, ông viết một bản tóm lược tư liệu được
sắp xếp,
rồi trình cho Adorno (lúc này đang ăn lương của Viện Nghiên cứu Xã hội,
và theo
một mức độ nào đó, có trách nhiệm với Viện, khi đó đã được Adorno và
Horkheimer
chuyển từ Frankfurt tái định cư ở New York).
Benjamin
nhận được những lời phê bình khắc nghiệt từ Adorno,
đến nỗi ông quyết định tạm thời để dự án qua một bên, và rút ra từ khối
lượng
tài liệu đó một cuốn sách về Baudelaire. Adorno được coi một phần của
cuốn
sách, và tỏ ra nghiêm ngặt: chỉ mới đưa ra sự kiện để chúng tự nói về
chúng,
chưa đủ lý thuyết. Benjamin nhuận sắc lại, sau đó, và được đón nhận
nồng nhiệt
hơn.
Baudelaire
là trung tâm của chương trình Thương Xá bởi vì,
dưới mắt Benjamin, Baudelaire qua tác phẩm “Ác Hoa” (“Les Fleurs du
Mal”), là
người đầu tiên khám phá ra đô thị hiện đại: như một đề tài của thi ca.
(Benjamin hình như lúc đó chưa đọc Wordsworth, là người năm mươi năm
trước đó,
đã viết về cái cảm giác khi là một phần trong đám đông trên đường phố:
ba bề
bốn bên chịu trận trước những cái nhìn xiên xéo, và bị quáng gà vì
những tấm
biển quảng cáo).
Tuy
nhiên, Baudelaire đã diễn tả kinh nghiệm của mình về
thành phố, bằng ám dụ (allegory), một hình thức văn học lỗi thời, kể từ
thời kỳ
Baroque. Thí dụ như trong bài thơ “Thiên
Nga”, ông ám chỉ nhà thơ như là một loài chim phong nhã, một con thiên
nga, quờ
quạng trên hè phố, không làm sao xoải cánh để bay vút lên.
Tại
sao Baudelaire chọn hình thức ám dụ? Benjamin sử dụng
“Tư Bản Luận” của Marx để giải thích câu hỏi của chính mình. Marx nói,
sự nâng
giá cả thị trường thành thước đo giá trị duy nhất đã giản lược thương
phẩm
thành chẳng là chi hết, mà chỉ là ký hiệu – một ký hiệu của cái nó bán
ra. Dưới
sự ngự trị của thị trường, vật thể sẽ tương quan với giá trị thực thụ
của chúng
một cách độc đoán chẳng khác nào như thời Baroque, biểu tượng sọ người
tương
quan với [sự kiện] con người bị lệ thuộc vào thời gian, thí dụ vậy. Do
đó, các
biểu tượng bất ngờ quay ngược về một giai đoạn lịch sử dưới dạng thương
phẩm,
là những thứ trong chủ nghĩa tư bản không còn như dạng bề ngoài của
chúng, và
như Marx cảnh cáo, chúng chứa đầy những tế vi siêu hình và những chi li
thần
học.” Benjamin lập luận, ám dụ chính là phong cách đúng đắn cho một
thời đại
thương phẩm.
Trong
khi làm việc với cuốn sách chẳng bao giờ hoàn tất, về
Baudelaire, Benjamin tiếp tục những ghi chú về Thương Xá, thêm vô những
cuốn
(convolutes). Sau chiến tranh, người ta lôi ra, từ chỗ giấu giếm tại
Thư viện
Quốc gia, một xấp dầy chừng chín trăm trang, bao gồm những trích dẫn,
chủ yếu
từ những nhà văn thế kỷ 19, nhưng cũng từ những người đương thời với
Benjamin,
được chia thành từng nhóm, với những tiêu đề, xen những bình luận, cộng
những
chương trình, những đề cương này nọ. Được Rolf Tiedemann xuất bản năm
1982,
dưới nhan đề là “Passagen-Werk”. Bản dịch của Harvard, “Thương Xá’,
dùng bản
văn của Tiedemann, nhưng bỏ đi rất nhiều tài liệu làm nền
và khung biên tập, của Benjamin. Tất cả những
đoạn tiếng Pháp đều được dịch qua tiếng Anh, cộng thêm những ghi chú bổ
ích, và
tràn đầy hình ảnh minh họa. Đây là một cuốn sách rất bảnh, và trong
cách xử lý
những đối chiếu phức tạp của Benjamin cho thấy: đây là một thắng lợi của kỹ thuật in tinh xảo.
Lịch
sử của “Thương Xá” – một lịch sử của lần lữa, và những
khởi đầu hỏng cẳng, của những lang thang trong những mê lộ thư khố, tìm
kiếm
cho đến triệt để, tất cả những nét này đúng là đặc trưng của một tính
khí sưu
tập, xoay chuyển cơ sở lý thuyết hoài hoài, của sự phê bình quá dễ dàng
gánh
chịu, và thường cho rằng, Benjamin không hiểu chính đầu óc mình – lịch
sử ấy có
nghĩa, cuốn sách chúng ta hiện có, cơ bản phải là dở dang: dở dang
trong thai
nghén, và hiểu theo nghĩa thông thường, khó thể gọi [đây] làø một cuốn
sách
được sáng tác. Tiedemann so sánh nó như những vật liệu xây cất một căn
nhà. Giả
dụ như căn nhà được xây cất, thì chất keo gắn bó ắt sẽ là tư tưỡng của
Benjamin. Phần lớn tư tưởng đó nằm dưới dạng những đoạn chêm vào của
Benjamin,
nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng biết cách làm cho tư tưởng kia
phù hợp,
hoặc quán xuyến khối vật liệu.
Trong
tình trạng như vậy, Tiedemann nói, tốt nhất là chỉ in
những từ của riêng Benjamin, gạt bỏ những trích dẫn. Nhưng ý định của
Bejanmin,
tuy không tưởng, là, tới một điểm nào
đó, lời bình của ông sẽ được âm thầm rút ra, để cho tài liệu trích dẫn
chịu
đựng toàn thể sức nặng của cấu trúc.
Trong
một cuốn sách chỉ dẫn vào năm 1852, có đoạn: Những vòm
cung ở Paris là “những đại lộ nội…, những hành lang trên có vòm thuỷ
tinh, mở
ra trọn một khu cao ốc… chạy dài hai bên
hành lang là những gian hàng lịch sự nhất, một vòm cung như thế là một
thành
phố, một thế giới thu nhỏ lại.” Vòm thuỷ tinh mở ra bầu trời, và kiến
trúc bằng
thép của chúng chẳng bao lâu được những thành phố Tây phương khác rập
theo.
Thời hoàng kim của những thương xá kéo dài tới cuối thế kỷ, khi chúng
bị những
cửa hàng bách hoá lấn át.
Cuốn
“Thương Xá” không hề được viết ra theo ý hướng: một
lịch sử kinh tế (mặc dù một phần trong tham vọng của nó, là hành động
sửa sai,
đối với toàn thể môn lịch sử kinh tế). Một phác thảo sơ khởi gợi ra một
hình
ảnh rất giống như ở trong“ Thời thơ ấu ở Berlin”:
Người
ta biết, Hy lạp cổ có những nơi, con đường đưa xuống
thế giới ở bên dưới. Tương tự, cuộc sống [khi] thức giấc của chúng ta,
là một
vùng đất mà, ở vài điểm che giấu nào đó, đưa xuống thế giới ở bên dưới
– một
vùng đất đầy những nơi chốn kín đáo, từ đó những giấc mơ trỗi dậy. Suốt
ngày,
chẳng nghi ngờ chi, chúng ta đi ngang qua, nhưng vừa mới chợp mắt, là
chúng ta
hăm hở mò mẫm con đường trở lại, để mất mình trong những hành lang tối
đen. Ban
ngày, mê cung của những nơi chốn thị tứ giống như ý thức; những vòm
cung… lối
xuống phố không dấu hiệu, không bảng chỉ tên đường (unremarked). Tuy
nhiên, đêm
đến, dưới khối lượng âm u của những căn nhà, bóng đen dầy đặc của nó
nhô ra như
đe dọa, và khách bộ hành đêm rảo bước – trừ phi có gan rẽ vào một ngõ
hẹp.
Hai
cuốn sách Benjamin dùng làm khuôn mẫu: “Một người nhà
quê ở Paris”, của Louis Aragon, trong đó tác giả thân ái ca ngợi hành
lang hý
viện (“Passage de l’Opéra”), và “Spazieren in Berlin” (“Lang thang ở
Berlin”),
của Franz Hessel, cuốn này tập trung vào Kaisersgalerie [Kaisers là tên
một
thành phố ở Đức, nổi tiếng vì có một nhà thờ từ hồi đầu thời kỳ Gothic
– thế kỷ
13-14 – và một phòng trưng bầy tranh], và quyền năng của nó: làm sống
lại một
thời vang bóng. Trong cuốn sách của mình, Benjamin mong làm sao nắm bắt
được
cái kinh nghiệm lang thang ở Paris giữa những gian hàng, một kinh
nghiệm vẫn có
thể hồi sinh được, vào thời của ông, khi
“những vòm cung chấm phá điểm tô cảnh quang đô thị, như những hang động
còn giữ
những bộ xương hóa đá của một loài quái thú đã tuyệt chủng: đó là khách
tiêu
thụ thời tiền-đế quốc của chủ nghĩa tư bản, [là] loài khủng long cuối
cùng của
Âu châu.” Sự đổi mới lớn lao của Thương Xá chính là dạng thức của tác
phẩm. Nó
dựa trên nguyên tắc dàn dựng [của điện ảnh], đặt những đoạn văn thuộc
quá khứ
và hiện tại cạnh kề nhau, với ước mong rằng, chúng sẽ nháng lửa và soi
sáng cho
nhau. Thí dụ như, nếu mục 2,1 của cuốn L, chiếu về việc mở ra một viện
bảo tàng
nghệ thuật ở cung điện Versailles vào năm 1837, được đọc nối kết với
mục 2,4
của cuốn A, vẽ lại sự phát triển thương xá thành những cửa hàng bách
hóa, như
thế là trong trí người đọc lý tưởng, sẽ loé lên sự tương tự, “viện bảo
tàng so
với cửa hàng bách hóa, thì cũng giống như nghệ phẩm so với thương phẩm.”
Theo
Max Weber, mất tín ngưỡng và bỏ cõi thiên đàng là dấu
ấn của thế giới hiện đại. Benjamin nhìn theo một góc độ khác: chủ nghĩa
tư bản
đã ru ngủ người ta, và họ chỉ thức giấc khỏi cơn mê ly tập thể, khi nào
người
ta làm cho họ hiểu được, chuyện gì đã xẩy ra với họ. Câu tiêu đề của
cuốn N, là
từ Marx: “cải tạo ý thức CHỈ gói trọn vào điều … thức tỉnh thế giới,
khỏi cơn
mê tự thân.” (The reform of consciousness consists solely in…. the
awakening of
the world from its dream about itself”).
Những
giấc mơ của thời kỳ tư bản đã nhập thể vào thương
phẩm. Toàn thể, chúng tạo hồn ma bóng quế, thay hình đổi dạng hoài hoài
tùy
theo sự trồi sụt của thời thượng, [những thương phẩm như thế đó] được
ban cho
đám đông, là lũ tín đồ mê ly đắm đuối, như hiện thân của những dục vọng
sâu
thẳm nhất ở trong họ. Hồn ma bóng quế luôn luôn giấu gốc gác của nó
(vốn là lao
động bị vong thân). Hồn ma bóng quế với Benjamin cũng giông giống như ý
hệ với
Marx – một mạng những gian dối công cộng được quyền năng của tư bản duy
trì,
nhưng nó càng giống hơn [nếu so sánh với] sự tạo mộng của Freud, [khi
nó] tác
động lên tập thể, xã hội.
**
“Tôi
không cần nói điều chi. Chỉ bầy ra thôi, “ (I need’nt
say anything. Merely show,” Benjamin nói; và ở một chỗ khác, “Ýùtưởng
so với
vật thể, như tinh hà so với những vì sao.” Nếu bức khảm của những trích
dẫn
được thiết dựng đúng đắn, thì một dạng thức sẽ xuất hiện, một dạng thức
[còn]
hơn [cả] tổng số những thành phần, nhưng không thể hiện hữu độc lập với
các
thành phần đó. Đây là yếu tính của một hình thức mới, trong cách viết
duy vật
lịch sử mà Benjamin tin rằng ông đang hành xử.
Điều
làm Adorno ngán ngẩm về dự án vào năm 1935, đó là niềm
tin của Benjamin: rằng chỉ cần lắp ghép những vật thể (trong trường hợp
này,
những trích dẫn tách ra khỏi ngữ cảnh), là có thể tự nói về nó. Ông
viết,
“Benjamin ở ngã ba đường, giữa huyền thuật và chủ nghĩa thực chứng.”
Vào năm
1948, Adorno đã có dịp may được đọc toàn bộ văn bản “Thương Xá”ù, nhưng
lại một
lần nữa, tỏ ra nghi ngờ, rằng nó quá nhẹ về lý thuyết.
Đối
với những phê phán kiểu trên, cách trả lời của Benjamin
là phát minh ra ý niệm về hình ảnh biện chứng – để làm điều đó, ông trở
lại với
khoa biểu tượng của thời kỳ Baroque – những ý tưởng đại diện bằng hình
ảnh – và
ám dụ theo kiểu Baudelaire – sự tương tác, the interaction, của ý tưởng
được
thay bằng sự tương tác của vật thể làm biểu tượng. Ám dụ, theo ông, có
thể đoạt
vai trò của tư tưởng trừu tượng.
Những
vật thể và hình tượng (figures) ở trong những thương
xá – những con bạc, những gái điếm, những tấm gương soi, những hình
tượng bằng
sáp, những con búp bê chạy bằng dây thiều – (đối với Benjamin) là những
biểu
tượng (emblems), và sự tương tác giữa chúng tạo nên nghĩa; nghĩa ám dụ
này
không cần du nhập lý thuyết. Theo cùng những dòng, những mẩu đoạn của
bản văn,
lấy ra khỏi quá khứ, đặt vào trong dẫn trường (charged field), của hiện
tại
mang tính lịch sử, chúng có thể ứng xử chẳng khác chi những thành phần
của một
hình ảnh Siêu thực, tức thời tương tác để phát ra năng lượng chính trị.
(Benjamin viết, “Những biến cố quanh nhà sử học, và trong đó, ông tham
dự, sẽ
làm nền cho sự trình bầy lịch sử của ông, như một văn bản viết bằng một
thứ mực
vô hình.”). Như vậy, các mẩu đoạn tạo nên hình ảnh biện chứng, [trong
khi] vận
động biện chứng bị ngưng đọng trong khoảnh khắc, mở phơi cho thẩm sát,
[đây là]
“phép biện chứng ở điểm đứng” (“dialectic at a standstill”). Chỉ những
hình ảnh
biện chứng mới là những hình ảnh đích thực.
Lý
thuyết là thế đó, khéo léo đấy, và là điều cuốn sách, bề
sâu mang tính phản lý thuyết của Benjamin, hướng vọng. Nhưng với những
độc giả
không bị lý thuyết kia thuyết phục, đối với độc giả mà những hình ảnh
hiện hữu
kia chẳng bao giờ trở thành sống động như trong giả thuyết, những độc
giả có lẽ
chẳng tiếp thu lối tự sự chủ chốt về giấc ngủ triền miên của chủ nghĩa
tư bản,
tiếp theo là bình minh của chủ nghĩa xã hội: đối với độc giả đó, cuốn
“Thương
Xá” có gì để cống hiến?
Danh
sách ngắn ngủi trong những thứ cống hiến sẽ gồm: một
kho báu những thông tin kỳ lạ về Paris; vô vàn những trích dẫn gợi suy
tư, sự
thu hoạch của một trí tuệ sắc bén và đặc dị bủa lưới qua hàng ngàn cuốn
sách;
những nhận xét cô đọng, được mài giũa để ánh lên, sắc nước như châm
ngôn, và
hầu hết những chủ đề ưu ái của Benjamin (thí dụ: “mại dâm có thể đòi
được coi
là ‘lao động’, vào lúc mà lao động trở thành mại dâm.” (Prostitution
can lay
claim to being ‘work’ the moment work becomes prostitution.”); và những
thoáng
nhìn của Benjamin, khi ông đùa giỡn với một cách nhìn mới về chính
mình: như là
một nhà sưu tập những “từ chìa khóa trong một cuốn từ điển bí mật,”
người biên
soạn cuốn “bách khoa huyền ảo”. Bất thình lình, Benjamin, độc giả nhập
thất của
một thành phố ám dụ, có vẻ gần gụi với người đồng thời của ông, là
Jorge Luis
Borges, nhà ngụ ngôn về một vũ trụ được viết lại.
Từ
một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi
nhớ một điêu tàn lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, “Thi khúc”
(“Cantos”), của
Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách
theo kiểu
cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và
những
trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ
học hiện đại bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng. Cả
hai đều có tham
vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một
bên là
Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư
vào trong
những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi của
chúng đối với
thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì dừng. Và cả
hai, sau
cùng đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin,
là một
kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.
Số
phận của “Thi Khúc”: chỉ được trích dẫn đưa vào tuyển
tập, cái còn lại cứ thế mà âm thầm bị bỏ rơi. Số phận của “Thương Xá”
chắc cũng
tương tự. Người ta có thể tiên đoán, về những ấn bản dành cho sinh
viên, rút ra
chủ yếu là từ Cuốn B [“Thời Trang”), H (“Kẻ Sưu Tập), I (“Nội Thất”), J
(“Baudelaire”), K (“Thành Phố Mộng”), N (“Tri Thức Luận ”), và Y
(“Nhiếp Ảnh”),
trong đó, những trích dẫn sẽ bị cắt bỏ chỉ còn tối thiểu và hầu hết văn
bản sót
lại sẽ là do chính Benjamin viết.
Đó
chắc không phải hoàn toàn là một điều xấu.
4.
Phạm
vi những đề tài quan tâm được trình bầy trong “Tuyển
Tập” thì rộng. Ngoài những bản văn được bàn tới ở trong bài điểm sách
này, còn
có tuyển thêm những bài viết thuở mới khởi nghiệp, rõ nét duy tâm, về
giáo dục;
nhiều tiểu luận phê bình văn học, gồm cả hai tiểu luận dài về Goethe,
một dẫn giải
về cuốn tiểu thuyết “Tương khí tương cầu” (“The Elective Affinities”),
một tổng
quan bậc thầy về sự nghiệp của Goethe; những tuỳ bút, đề tài đa dạng,
về triết
học (luận lý, siêu hình, mỹ học, triết học về ngôn ngữ, triết học về
lịch sử);
những tiểu luận về sư phạm, về sách trẻ em, về đồ chơi, một bài rất lôi
cuốn về
thú chơi sách của bản thân tác giả; và đủ thứ bài viết về du lịch, và
những
chuyến lãng du vào cõi giả tưởng. Tiểu luận về “Tương khí tương cầu”
sừng sững
như một phong cách chơi kỳ dị: Một trường ca trữ tình độc tấu, bằng một
văn
phong cao sang, tế nhị tuyệt vời, ngợi ca tình yêu và cái đẹp, huyền
thoại và
số mệnh, giọng bổng chót vót nhờ mối thanh khí ngầm mà Benjamin nhìn ra
giữa
lớp lang của cuốn tiểu thuyết kể trên, và cuộc tình tay tư đắm đuối, bi
hài mà
vợ chồng ông bị mắc míu.
Tập
thứ ba và là tập chót của “Tuyển Tập” phải tới mùa xuân
năm 2002 mới được xuất bản. Sẽ bao gồm những bản tóm tắt của Benjamin,
về
“Thương Xá”, vào những năm 1935, 1938, và 1939; “Nghệ Phẩm”, qua hai
bản văn;
“Người kể chuyện”; “Một thời thơ ấu ở Berlin”; “Những luận đề về Quan
niệm Lịch
sử” (“Theses on the Concept of History”), và một số thư chìa khóa trao
đổi giữa
Adorno và Scholem, trong có cả lá thư quan trọng vào năm 1938, về Kafka.
Dịch
thuật ở Tập 1 và 2, là do nhiều người, và tuyệt hảo.
Nếu phải kể một người kiệt xuất thì đó là Rodney Livingstone, do hiệu
quả kín
đáo – thay đổi văn phong và giọng điệu - để ghi dấu con đường phát
triển của
Benjamin như một nhà văn. Những chú thích cũng gần đạt tiêu chuẩn cao
đó, nhưng
không bằng. Thông tin về những nhân vật mà Benjamin nhắc tới, đôi khi
bị lỗi
thời (như với Robert Walser) hay không đúng: niên đại về Karl Korsch -
là người
mà Benjamin dựa vào rất nhiều, trong việc tìm hiểu Marx (Korsch bị khai
trừ
khỏi Đảng Cộng sản Đức vì những quan điểm lệch lạc) - được ghi là
1892-1939,
trong khi đúng ra phải là 1886-1961. Có một số lầm lẫn về từ Hy lạp và
La tinh.
Một
vài lối hành xử của nhóm biên tập và dịch thuật cũng gây
thắc mắc. Benjamin có thói quen viết những đoạn dài nhiều trang: lẽ ra
dịch giả
phải tự tiện ngắt chúng ra. Đôi khi, hai bản thảo của cùng một văn bản
được đưa
cả vào sách mà không nêu rõ lý do. Những bản dịch hiện hữu từ những văn
bản Đức
mà Benjamin trích dẫn, được nhóm biên tập sử dụng, rõ ràng không đạt
tiêu
chuẩn.
**
Walter
Bejamin là ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một
sử gia? Hay “chỉ là” một nhà văn?
Câu
trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah Arendt: ông ta là
một “trong số những người không thể xếp loại… là những người có tác
phẩm không
hợp với trật tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới nào.”
Cách
tiếp cận độc đáo của ông – tới với một đề tài không
theo lối thẳng băng, mà đi xiên từ một góc độ, bước từng bậc, từ một
tổng kết
qui mô đã hoàn hảo, tới bậc kế tiếp – khiến
người ta nhận ra ngay, vì chẳng ai bắt chước
nổi, với trí tuệ sắc
bén, với kiến thức nhẹ mang, và với một văn phong chính xác và súc tích
tuyệt
vời, đã có lần ông đành không dám nghĩ về mình, là giáo sư tiến sĩ. Làm
sao tới
được sự thực về thời đại của chúng ta, đó là cốt lõi dự án của ông, và
nó được
nhấn mạnh bởi một tư tưởng, mà Bejamin nhận thấy, đã được diễn tả bởi
Goethe:
làm bật ra những sự kiện, theo kiểu này: những sự kiện sẽ là lý thuyết
của
chính chúng.
Cuốn
sách “Thương Xá”, cho dù chúng ta đánh giá nó như thế
nào – điêu tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project – đề
nghị một
đường lối mới, để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm
chất
liệu, thay vì những nghệ phẩm của cái nền văn minh đóù; lịch sử từ đáy
thay vì
lịch sử từ đỉnh. Và lời kêu gọi của Benjamin (trong “Những luận đề” -
“Theses”), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay
vì thành
tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung
cách mà
việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn
ngủi của
chúng] ta.
[Chuyển
ngữ bài viết
của Coetzee, “The Marvels of Walter Benjamin”, trên
tờ “Điểm sách New York”, số đề ngày 11.1.2001.]
Ghi
chú thêm về Walter Benjamin, trường phái Frankfurt, và
J.M. Coetzee.
Walter
Benjamin, văn nhân, nhà mỹ học, hiện nay được coi là
nhà phê bình văn học Đức quan trọng nhất của nửa đầu thế kỷ 20.
Xuất
thân từ một gia đình Do thái giầu có, Benjamin học
triết tại Berlin, Freiburg im Breisgau, Munich, và Bern. Định cư tại
Berlin vào
năm 1920 và sau đó làm phê bình văn học và dịch giả. Nửa muốn theo đuổi
một
chân khoa bảng, nửa không, sau cùng giấc mộng nửa vời này cũng thành
không, khi
Đại học Frankfurt không công nhận luận án tiến sĩ của ông, Nguồn gốc Bi
Kịch
Đức (1928): sáng chói, nhưng không đúng qui ước. Khi Quốc Xã lên nắm
quyền
(1933), ông qua Pháp, định cư tại Paris. Tiếp tục viết tiểu luận và
điểm sách
cho các tạp chí, nhưng khi Pháp rơi vào tay Nazi vào năm 1940, ông chạy
xuống
miền nam với hy vọng tới được Hoa Kỳ qua ngả Tây Ban Nha. Được viên
cảnh sát
trưởng thành phố Port-Bou gần biên giới Pháp-Tây Ban Nha cho biết ông
sẽ bị
giải giao cho Gestapo, Benjamin tự hủy mình.
Tính
chất siêu hình trong tư tưởng hồi trẻ làm ông nghiêng
về Marxist trong thập niên 1930, và là một trong những thành viên của
trường
phái Frankfurt, gồm một nhóm nghiên cứu liên kết với Viện Nghiên Cứu Xã
Hội ở
Frankfurt am Main, Đức quốc. Viện này được thành lập năm 1923, bởi Carl
Grunberg, và là viện nghiên cứu đầu tiên theo đường hướng Marxist được
kết hợp
với một đại học lớn ở Đức, Đại học Frankfurt. Max Horkheimer nắm quyền
giám đốc
viện vào năm 1930, và qui tụ quanh ông rất nhiều lý thuyết gia tài
năng, bao
gồm T.W. Adorno, Erich Fromm, Herbert Marcuse, và Walter Benjamin.
Những
thành viên của nhóm này cố gắng phát triển một lý
thuyết về xã hội dựa trên chủ nghĩa Marx và triết học Hegel, nhưng còn
sử dụng
cả những nhận thức về phân tâm học, xã hội học, triết học hiện sinh, và
nhiều
môn học khác nữa. Họ sử dụng những quan niệm Marxist cơ bản để nghiên
cứu những
liên hệ ở bên trong những hệ thống kinh tế tư bản. Cách tiếp cận này
sau được
biết dưới cái tên “lý thuyết phê bình” (critical theory) nhắm vào những
tổ hợp
lớn, những cơ sở độc quyền thao túng thị trường, vai trò của kỹ thuật
học, kỹ
nghệ hóa văn hóa (industrialization of culture), và sự thoái hoá của cá
nhân
con người bên trong xã hội tư bản. Chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa toàn
trị cũng
là những đề tài nghiên cứu nổi bật của họ. Rất nhiều bài viết được đăng
trên tờ
báo của viện (Journal for Social Research, 1932-41). Hầu hết những học
giả của
viện đã bắt buộc phải rời bỏ Đức quốc, và tị nạn ở Mỹ sau khi Hitler
lên cầm
quyền (1933), và viện sau đó được kết hợp với Đại học Columbia cho tới
năm
1949, khi nó lại trở về nguyên quán là Frankfurt. Vào thập niên 1960,
hầu hết
trong số họ đều tỏ ra ‘quá chán’ cái gọi là “chủ nghĩa Marx chính
thống”, tuy
vẫn giữ một thái độ phê bình cứng rắn đối với chủ nghĩa tư bản. Phê
bình của
Marcuse về điều mà ông gọi là sự gia tăng kiểm soát mọi sắc thái trong
cuộc
sống xã hội của chủ nghĩa tư bản đã gây một ảnh hưởng lớn lao ở giới
trẻ (ông
này có thời được coi là một trong ba đại sư, tên bắt đầu bằng chữ M:
Marx, Mao
và Marcuse). Tuy nhiên khuôn mặt nổi bật nhất của lò Frankfurt những
thập niên
hậu chiến, là Jurgen Habermas. Ông đã cố gắng mở rộng lý thuyết phê
bình vào
những phát triển trong triết học phân tích, cơ cấu luận và cổ văn.
Với
Walter Benjamin, những tác phẩm xuất bản sau khi ông đã
mất ngày một làm tăng thế giá của ông, ở cuối thế kỷ 20. Những tiểu
luận văn
chương chứa đựng những suy tưởng triết học được viết bằng một văn phong
cô
đọng, nặng chất thơ. Phê bình xã hội và nghiên cứu ngôn ngữ tẩm đẫm nỗi
quan
hoài lịch sử, và niềm bi ai.
Tính
uyên nguyên, độc lập trong tư tưởng của ông thật là
hiển nhiên trong tiểu luận về Goethe (Goethe’s Elective Affinities,
1924-25),
và những tiểu luận được in trong “Illuminations”, 1961.
(Tài
liệu trích từ Bách khoa tự điển Britannica Encyclopedia).
Nhà
xuất bản Belknap Press/Harvard University Press vừa mới
cho ra lò những tác phẩm sau đây của ông:
Selected
Writings, Volume I: 1913-1926; 520 trang, bìa cứng,
giá $37.50.
Selected
Writings, Volume II:1927-1934; 870 trang, bìa cứng,
giá $37.50.
The
Arcades Project; 1,073 trang, bìa cứng, giá $37.50.
**
Trên
tờ Người Kinh Tế số ra ngày 19 tháng Hai 2000, dưới đề
mục “Những anh hùng của cuộc chiến. Chẳng bao giờ quên”, là bài điểm
cuốn “Một
Người Mỹ Trầm Lặng: Cuộc chiến bí mật của Varian Fry”, tác giả Andy
Marino (nhà
xb St Martin’s Press).
Theo
bài viết, vào tháng Tám 1940, một ký giả Mỹ, trẻ, xuất
thân Harvard, đã tới cảng Marseilles “để cứu vớt những gì còn lại của
văn hóa
Âu Châu trước khi quá trễ”. Ông muốn nói, những con người, chứ không
phải những
nghệ phẩm. Trong số những người nhờ ông mà toàn mạng có những khuôn mặt
nổi
cộm, có số lúc đó ở trong trại cấm Pháp, có số đang ẩn trốn. Rồi tin
tức được
loan truyền, nhiều người không có tên trong danh sách của Fry cũng xúm
nhau tới
gõ cửa nhà Fry. Ông và những người cộng sự có cảm tưởng, họ là những “y
sĩ
trong cơn địa chấn”, thứ tình cảm bất lực trước hoàn cảnh, vốn được
chia sẻ bởi
hầu hết những con người làm công việc thiện nguyện.
Danh
sách những người được Fry giúp đỡ trở thành một thứ
“Who’s Who” của văn hóa thế kỷ 20, trong đó có Hannah Arendt, Marc
Chagall, ba
tay đầu sỏ của trường phái siêu thực Max Ernst, André Breton và André
Masson.
Đó là những người may mắn. Một trong số họ, nhà văn người Đức, Lion
Feuchtwanger, khi tới được New York, đã “dại đột” kể lại cuộc trốn chạy
may mắn
của mình cho báo chí hay. Bởi vậy, một cặp đã bị bắt tại Madrid: họ
ngừng lại
để thăm viếng Prado.
Cảnh
sát chính quyền Vichy thân Quốc Xã lẽ dĩ nhiên muốn tóm
Fry, nhưng ông còn bị toà đại sứ, lãnh sự Mỹ ghẻ lạnh; ngoại trừ tay
lãnh sự ở
Marseilles, số còn lại đều tỏ ra thù nghịch và bài Do Thái. Ngược lại
Fry được
giới “dưới hầm” ở cảng Marseilles và nhất là Mafia gốc đảo Corse, tận
tình giúp
đỡ.
Chưa
đầy một năm Fry bị bắt giữ, và tống xuất. Điểm tống
xuất là làng Banguls, nơi nhiều người tị nạn đã vượt biên giới.
Thật
khó mà sống lại một cách bình thường, sau cơn địa chấn
ghê gớm như vậy. Vợ chồng, hôn nhân tan vỡ, làm việc gì cũng thấy chán.
Ít
người chịu ơn còn nhớ tới Fry, ngoại trừ André Malraux, khi giữ chức Bộ
Trưởng
Văn Hoá, đã trao cho Fry huân chương danh dự (La Grande Croix de la
Legion
d’Honneur) vào năm 1967. Bốn tháng sau đó, Fry mất. Vào năm 1996, người
ta
trồng một cây để tưởng nhớ ông tại đại lộ The Avenue of the Righteous
Gentilles, ở Jerusalem.
Không
may mắn, có trường hợp của Walter Benjamin. Và cùng
với ông, là bản thảo một tác phẩm mà ông mong nó thoát khỏi Gestapo,
còn hơn cả
mạng sống của mình. (I cannot risk losing it. It… ‘must’ be saved. It
is more
important than I am).
**
Hannah
Arendt đã viết về Walter Benjamin, trong bài giới thiệu
tác phẩm “Illuminations” của ông (trích đoạn):
Fama,
nữ thần được (người đời) say đắm nhất, có nhiều bộ
mặt, và danh vọng (fame) tới với họ bằng đủ kiểu - từ tiếng tăm
một-tuần cho
tới vượt-thời-gian! Danh vọng "muộn" (posthume) - sau khi đã xuống lỗ
- ít được người đời ham chuộng, tuy đây là thứ vững vàng nhất. Thứ hàng
(nhà
văn) có lời nhất, thì đã chết, và do đó, không phải là đồ "lạc xoong"
(for sale).
Trong
vài món hiếm muộn, phi-thương, phi-lợi (uncommercial
and unprofitable), có Walter Benjamin. Không nổi tiếng, tuy có được
người đời
biết đến, như là một "cộng tác viên" cho vài tạp chí, trang văn nghệ
nhật báo trong thời gian chừng 10 năm trước khi Hitler nắm quyền, và
cuộc tống
xuất "tự nguyện" của riêng ông.
Cái
chết "tự nguyện" sau đó, vào những ngày sắp
sửa đứt phim, thời kỳ 1940, đối với nhiều người cùng gốc gác và thế hệ
ông, đã
đánh dấu một thời điểm đen tối nhất của cuộc chiến - mất nước Pháp, Anh
quốc bị
hăm dọa, và hiệp ước Hitler-Stalin (lúc đó) còn nguyên vẹn, và hậu quả
đáng sợ
nhất, từ nó: sự hợp tác chặt chẽ giữa hai lực lượng công an quyền lực
nhất tại
Âu-châu.
Giả
dụ đường đời bằng phẳng: chuyện đời sẽ khác hẳn, nếu
những kẻ chiến thắng trong cái chết, là những kẻ thành công trong cuộc
đời (How
different everything would have been "if they had been victorious in
life
who have won victory in death”). Danh vọng muộn, một điều chi rất ư kỳ
cục, cho
nên không thể trách cứ, rằng không có mắt xanh (người đời mù hết), hay
là
chuyện chiếu trên chiếu dưới, xôi thịt, tham nhũng... trong "đám" nhà
văn, "ô nhiễm" trong "môi trường văn chương".
Bất
tri tam bách: không thể coi, đây là phần thưởng cay đắng
cho một kẻ đi trước thời của mình, như thể lịch sử là một chạy đua,
người chạy
nhanh nhất đã mất hút trước khi người đời kịp nhìn...
Ngược
lại: Trước khi có danh vọng muộn, đã có tri âm, dù ít
oi, giữa những kẻ ngang hàng. Khi Kafka mất vào năm 1924, sách của ông
bán
chừng vài trăm cuốn, nhưng với bạn văn và một ít độc giả, qua mớ tản
mạn này
(chưa có một cuốn tiểu thuyết nào của Kafka được xuất bản): không nghi
ngờ chi,
đây là một trong những bậc thầy của văn xuôi hiện đại. Walter Benjamin
cũng
được vinh dự này. Bertolt Brecht, khi được tin ông mất, đã tuyên bố:
đây là tổn
thất thực, thứ nhất, mà Lò Thiêu đã gây ra cho văn chương Đức.
George
Steiner, khi được hỏi, ảnh hưởng quan trọng nhất tới
cõi viết của ông, là gì, là ai, đã trả lời: Trường phái Frankfurt. Phải
chi mà
Benjamin không vội vã ra đi, chắc chắn người viết cuốn “Sau Babel” (tác
phẩm
của George Steiner) phải là ông ta. Và nó sẽ tuyệt vời tới cỡ nào!
John
Michael Coetzee sinh tại Cape Town
(Nam Phi) ngày 19.2.1940. Học tại Đại học Cape Town và sau đó tại Đại
học
Texas, lấy bằng Ph.D (1969), và trở lại Nam Phi năm 1972, dậy Anh ngữ
tại Đại
học Cape Town. Tiểu thuyết gia, nhà phê bình, dịch giả; những cuốn tiểu
thuyết
của ông là về hậu quả của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Trong cuốn
tiểu thuyết
đầu tay của ông, thực ra là hai truyện vừa, “Dusklands” (1974), ông đối
chiếu
sự hiện diện của người Mỹ tại Việt Nam với những người Hòa Lan đầu tiên
định cư
tại Nam Phi. Trong lịch sử 31 năm của giải thưởng văn học The Booker,
ông là
người đầu tiên hai lần đoạt giải, lần thứ nhất vào năm 1983 với cuốn
“Đời và
Thời của (Life and Times of) Michael K.”, và năm 1999, với cuốn
“Disgrace” (Nhục
nhã).
|