Note: Bài
viết này, nhờ Google Desktop, G kiếm thấy, cùng lúc,
thấy luôn cái mail sau đây, từ "thuở ban đầu", Gấu cắp
rổ theo hầu SCN đi Chợ Cá Bơ Linh!
Friday, November 30, 2001 6:56
AM
Anh T oi,
Em doc duoc bai "No da noi", (1) vi viet trong word, con cac bai khac
em chua mo ra duoc, phai doi ong xa ve giup.
Anh giup em vai tu duoc khong:
1. regression: chang han, trong ngon ngu co nhung "phat trien giat lui",
nen dich the nao?
2. transfigure: chang han, khi nguoi ta nhin nhan mot viec gi do va co
nhung lien tuong khien viec do tro nen "ly tuong" hon...
Cac de nghi ma tu dien dua ra thi khong the dung duoc.
Em H.
Rainy night on Union Square, full moon. Want
more poems? Wait till I'm dead.
-August 8, 1990, 3:30 a.m.
Đêm mưa ở Quảng Trường Union
Trăng đầy
Muốn thơ nữa ư?
Đợi Gấu chết, nhé!
[Poem]
To live and deal with life as if it were a stone.
Time like a turning stone that grinds my bones.
Time is a dog that gnaws my bones
and grinds my soul to sticks and stones
It's not mere time
that pricks my pride;
Just let my bones
Be satisfied.
-May 21, 1949
Published in: James E. B. Breslin, From Modern to Contemporary.
(University of Chicago Press, June 1984), p. 88.
Sống và “lầu bầu” với cuộc đời như nó là cục
đá
Thời gian thì như hòn đá ghiền đi ghiền lại
ghiền mãi mãi
Những khúc xương của Gấu
Thời gian là… Chó, gặm xương Gấu
Gặm luôn linh hồn Gấu
Thành sỏi thành đá
Thành “linh hồn tượng đá”!
Nhưng, chưa chắc thời gian
Đã lượm mẹ phẩm giá, sự kiêu ngạo… của Gấu
Nhưng thôi kệ cha mọi chuyện
Hảy để cho xương của Gấu
Thoả mãn!
Epitaph for a Suicide
A weary lover
Once he was,
Who wept as only
A lover does.
Or laughed as only
A lover must.
Now his mouth
Is ringed with dust.
The credit's his -
He was quite brave,
To shut his loving
In his grave.
Epitaph for a Poet
This single pleasure
I have had:
I sang a song
When I was sad.
But since my lips
Would rot, in time,
I put my singing
In a rhyme.
On other lips
My songs will ring,
Now I am dead
And must not sing.
-New York, August 20, 1944
"Epitaph for a Suicide" was published in: Allen Ginsberg, The
Book of Martyrdom and Artifice (DaCapo Press, 2006). "Epitaph for
a Poet" was published in: Columbia Jester, vol. 43, no. 9 (October
1944), p. 13.
GCC @ bàn giấy của Sếp, Trưởng
Đài VTD thoại quốc tế, Trần Bảo Thạch, @ tầng lầu chót,
building số 5, Phan Đình Phùng Sài Gòn.
TBT, cũng cán sự kỹ thuật, nhưng tốt nghiệp Phú Thọ,
thuộc lớp đàn anh của đám Cán Sự Kỹ Thuật Bưu
Điện, mà Gấu là thằng học khóa I.
Ông bị mìn VC tại nhà hàng
Mỹ Cảnh, chung với Gấu, cùng hai chuyên viên
RCA Phi Luật Tân, tới Sài Gòn để giúp Bưu
Điện thành lập mạch vô tuyến viễn ký multiplex
teletype. Tức cái bộ máy, hình tiếp theo, dưới
đây. Hai đấng bạn Phi này đều ngỏm cả, 1 tại chỗ, 1 về
Phi chết hậu-giải phẫu.
Ông Thạch mất bộ đồ lòng. Gấu xơi cả
hai trái mìn, nhưng may mắn thay, cái van
xế đạp vưỡn còn!
Nhờ bộ máy này, và tí
vốn liếng tiếng Anh, ngay sau khi Diệm mất, Bưu Điện thành
lập đường dây viễn ký cho báo chí ngoại
quốc, Gấu được thuyên chuyển từ quốc nội qua quốc tế, làm
chung với 1 tay chuyên viên Mẽo, hãng Philco Corp,
đứng lui cui kế bên...
Hình cc 1963
Cái chuyện Gấu học Bưu Điện, về già mới muôn
vàn cám ơn Thầy Viễn, và sau tới… Ông
Trời. Khóa I năm đó, bên Bưu Vụ - ra làm
Trưởng Ty Bưu Điện – thì đông, nhưng bên Kỹ Thuật,
ra Cán Sự Kỹ Thuật Bưu Điện – khác Cán Sự Điện
Phú Thọ - trước khi có Trường Quốc Gia Bưu Điện – kể như
là những khóa đàn anh của đám kỹ thuật bưu
điện – Ông Xếp Đài của Gấu, xuất thân từ trường Phú
Thọ, và còn nhiều người khác nữa - … nhưng bên
Kỹ Thuật, chỉ có 3 tên, sau thêm Gấu, là
bốn.
Một phần nào, Gấu được nhận, dù
bỏ học năm đầu, là vì con số 3 ít ỏi đó.
Nhưng nếu Gấu không giỏi Toán, chắc cũng hỏng cẳng!
Thầy Viễn sau làm Bộ Trưởng Giao Thông
Vận Tải. Ông rất thương Gấu. Khóa thi nào,
cũng kêu Gấu làm giám thị, nhưng do Gấu cứ
tội nghiệp đám thí sinh, tên nào không
làm được bài toán thi, là bèn
làm giùm. Đến tai Thầy Viễn, ông lôi
lên văn phòng rũa cho 1 trận, nhưng tật vẫn không
bỏ, thế là sau đó, ông không cho Gấu làm
giám thị coi thi nữa!
Nếu không làm Bưu Điện, làm
sao Gấu có cái việc làm thêm cho
UPI, nhờ thế mà có tiền mua sách. Ui chao,
về già nhớ lại, cảm khái chi đâu: Đọc túi
bụi, sống túi bụi, yêu – BHD - cũng… túi bụi!
Làm sao ngồi ở trên đỉnh cồn
mà thấy mình như ở Mắt Bão, khi lui cui
gửi vô tuyến viễn ảnh, từ khắp bốn vùng chiến thuật
gửi về, đi khắp bốn phương trời?
Khóa I, Ban Cán Sự Kỹ Thuật Bưu Điện, chỉ có
3 tên, sau thêm Gấu, là bốn. Ba tên người Nam,
là Lữ Văn Bé, Huỳnh Văn Ba, Nguyễn Phước Lợi - mới được
Lữ Văn Bé, qua 1 vị bạn FB cho biết đầy đủ tên tuổi. Nhà
LVB cũng gần nhà Gấu, cũng khu chung cư Bưu Điện. Khi lấy Gấu Cái,
không có áo sơ mi trắng xuống Cai Lậy rước dâu,
Gấu chạy sang nhà anh. Sau quên trả, bà xã anh
phải nhắc, tếu thế. Bộ đồ vét, cũng đi mượn.
Gấu
có lần ngồi ăn phở với đấng bạn quí NXH tại Tiểu Sài
Gòn. Khi đó bạn quí
dọn lên San Jose
rồi, nghe tin Gấu qua, bèn xuống thăm, hoặc, nhân xuống thăm
Tiểu Sài Gòn, nghe Gấu qua, bèn gặp. Cùng lèm
bèm về thơ DTL. Gấu có phán:
Bạn DTL có rất nhiều đòn. Nếu ra đòn, ‘anh
yêu em’ không ăn, thì đánh vào "người
chị, người mẹ, cô em gái, hay bậc nữ thánh, nữ bồ tát
chuyên cứu vớt kẻ lầm lạc",
ở nơi người phụ nữ, là thế nào cũng gục! Bạn quí phì
cười, gật gù: Đúng, đúng quá!
* Hồi mới ra trường Bưu Điện,
1960 hay 61, Gấu làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến
Điện, số 11 Phan Đình Phùng.Từ phía cổng cơ xuởng
trông ra là con đường Phạm Đăng Hưng. Bên phải, building
số 5, của đám Tây ở. Bưu Điện mướn tầng trên cùng,
đặt mấy đài VTĐ. Quá nữa, là số 3, Đài phát
thanh Sài Gòn. Ra trường Bưu Điện, Gấu làm việc
tại Cơ Xuởng số 11. Hai năm sau, qua số 5 làm việc tại Đài
Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế. Đó là nơi viết Những ngày ở Sài Gòn,
sau khi ăn hai trái claymore của VC tại nhà hàng
Mỹ Cảnh. [Biết rồi khổ lắm nói mãi].
Khi đó, chưa có
trường Bưu Điện. Bọn Gấu phải học nhờ nơi trường Quốc Gia Thương Mại,
ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng. Nhà thờ Phan Xi Cô cũng ngay
đầu đường.
Phiá bên trái
cổng cơ xuởng, là khu nhà của các ông lớn Bưu
Điện, đa số là sếp, và thầy của Gấu. Phía bên
kia đường, là con đường Phan Kế Bính, chạy song song với
Phạm Đăng Hưng, cả hai đều đụng với đường Phan Đình Phùng,
làm thành hai ngã ba. Cả hai đều là hai con
dốc ngắn đổ xuống đường Phan Thanh Giản. Thư viện Văn Hoá Bình Dân nằm
trên đường Phan Kế Bính, quán Làng Văn nằm trong khuôn
viên thư viện.
Đó là nơi cô
bạn tổ chức tiệc cuới, vào một đêm Gấu trực tại Đài,
cũng gần đó, đang trực, kêu đệ tử coi Đài, xách
xe Honda, đi dự, nửa chừng bỏ ra về, rồi xách xe Honda cứ thế
chạy miết xuống tới tận cầu Sài Gòn, tính lao luôn
xuống!
Từ số 11, đi tới 1 chút,
tới ngã tư Phan Đình Phùng/Đinh Tiên Hoàng,
quẹo phải tới quán Con Ve Sầu, La Cigale, chủ Tây, vừa là
nhà hàng ăn, vừa có sàn nhẩy, lâu lâu,
Gấu có ghé, đôi khi, những lần trực đêm. Khu
này là giang sơn của Gấu, Gấu Đa Kao, thì cứ gọi
vậy cho tiện.
Ui chao, chỉ đến khi ra được
hải ngoại, một bữa tình cờ đọc hai câu thơ của DTL:
Em đi áo
lụa mềm lưng phố, Có
động lòng thương kẻ cuối đường
Toàn cảnh trên đột
nhiên sống lại, rõ mồn một. Khủng
khiếp đến nỗi, Gấu có cảm tưởng, hai câu thơ, là từ
con dốc ngắn bò ra!
Bà hoàng hậu trong
Alice lạc xứ thần
tiên, có tài nhớ hai chiều, nhớ quá khứ,
và nhớ cả tương lai. Đúng
là trường hợp hai câu thơ của DTL, đối với Gấu, theo nghĩa,
thời gian có thể đảo ngược, reversible. Cái
bữa Gấu ‘sống cuộc biệt ly, đau nỗi đau' cô bạn đi lấy chồng đó,
chỉ hoàn tất, ‘viên mãn’, chung cuộc… khi hai câu thơ của DTL xuất hiện.
DTL chơi với bạn là số
1, chưa từng thù ghét, nói xấu bất cứ 1 tên
bạn nào.
Và
là 1 trong 2 người bạn, thực sự mừng, khi GNV sống lại. Anh
nói, mày đúng là tái sinh, lần gặp
lại ở Tiểu Sài Gòn, 1998, khi vợ chồng Gấu qua lần
đầu, nhân dịp xb Lần Cuối Sài Gòn.
Người kia là thi sĩ Viên Linh.
Nơi là Trường Quốc Gia Bưu Điện, trước đó, là
khu Réception, nhìn từ cổng, số 11 Đường Phan Đình
Phùng. Khu bên trái, Nhà Kho. Khu phía
trong, Xưởng Cơ Khí. Gấu làm việc ở Réception, chuyên
lo sửa máy nhận tin, Récepteur, tức cái Đài,
ladô, để nhận tín hiệu morse, điện tín,1 mình
1 cõi. Khi phá đi, để thành lập trường QGBD [Quốc
Gia Bưu Điện, Gấu rời qua khu Nhà Kho, ngự trị ở trên lầu,
và lúc này, có riêng cho 1 tên
đệ tử, nhớ, tên Hùng, đẹp trai, con 1 ông đã về
hưu, bố xin cho con vô học nghề. Trong bài viết ngăn ngắn "Đài
Gương Soi Đến Dấu Bèo", Gấu đã nhắc tới tên đệ tử này
Ẩn dụ
thơ “Đài gương soi đến dấu bèo” - không phải của
Gấu, tất nhiên - lần đầu Gấu thật ‘cay đắng dã man’ được
thưởng thức, là trong một lá thư tỏ tình, của một
cô gái mà Gấu tưởng là cô ‘thuơn’ Gấu,
nhưng hóa ra ‘thươn’ đệ tử của Gấu!
Gấu đã nói sơ qua về vụ này một lần rồi. Nay
nhắc lại, một phần để đáp lại tí ‘tri tình’ của một
độc giả Tin Văn, khi đọc câu chuyện tình mắc cỡ của Gấu, bèn
‘mail’, khen, ui chao ẩn dụ thơ mới đẹp làm sao, lần đầu tiên
tui được nghe, và cuộc tình của ông Gấu mới tội làm
sao!
*
Thời gian trường Bưu Điện đang xây cất đó, Gấu làm
việc bên này, nhìn qua, thấy trong đám thợ hồ
có một em xinh thật là xinh. Thế là cứ rảnh việc một
tí, là thò đầu ra cửa sổ để ngắm em. Rảnh hơn thì
ra hẳn bên ngoài, ngó cho đã con mắt.
Thế rồi, một bữa, được em ngó lại. Ôi chao, hạnh phúc
nào bằng.
Cho đến một ngày đẹp trời, em vẫy tay cho phép gặp.
Gặp, em thẹn thùng đưa cho một lá thư mầu xanh, thẹn
thùng nói, xin nhờ anh làm con chim xanh, [mấy từ
con chim xanh này là của em, không phải của Gấu], đưa
lá thư xanh này cho cái anh nho nhỏ đẹp trai,
hay đứng kế anh, giùm em.
Trong thư, có câu, “đài gương soi đến dấu bèo
này chăng”?
Đài gương, là ông nhóc đệ tử Gấu. Dấu
bèo là thánh nữ của Gấu.
Ông già làm chung, ông Lân, còn
phạng thêm cho một câu, nó là thợ hồ, làm
sao dám ngó lên tới đài gương, là ông
cán sự Bưu Điện! Gấu, nhà văn
*
Nhưng thú vị nhất, là cái
lần talawas bị tường lửa, và bà chủ quán lên
BBC than phiền, cái vụ Gấu này nhanh hẩu đoảng, ăn mừng
chiến thắng:
Tôi đâu có muốn được điểm của hải ngoại!
Và Gấu lại phải lên tiếng thanh minh, hải ngoại đâu
cần điểm, mà cần một "nửa linh hồn" của nó, bị thất lạc,
từ thuở Tây mủi lõ đánh chiếm Nam Kỳ!
* “Còn những
người, trong những ngày qua, có lời chúc mừng talawas
đã đạt được cái thành tích là trở thành
món hàng cấm và vì thế có hương vị ngọt
ngào hơn, thậm chí cả những người cho rằng talawas cố tình
bị tường lửa để kiếm điểm tại nước ngoài, những người ấy sẽ thấy
mình đã kết luận vô lối và vội vàng như
thế nào. Nếu phải thành một huyền thoại thì đó
là bất hạnh lớn cho chúng tôi”.
Phạm Thị Hoài, trả lời BBC, đăng lại trên
talawas.
Trên
tờ Gió Đông ngày nào - mà đa số cộng
tác viên là những cây viết ra đi từ miền bắc
- người chủ trương, Lê Trọng Phương, trong một bài viết, đã
mượn một ẩn dụ của Borges, khi nói về một bức bản đồ Việt Nam, tỉ
lệ xích là 1/1, bị rách nát, mà những
người Việt hải ngoại cố mang ra ngoài này để khâu vá
lại, cho nó được như xưa.
Một tấm bản đồ "văn học" như thế, chỉ có một nửa, nếu thiếu
những người như Lê Trọng Phương, những diễn đàn như talawas.
Trong tinh thần đó, Tin Văn viết, "... và như vậy
văn học hải ngoại sẽ không còn ở trong tình trạng
chông chênh, thiếu tới một nửa 'cuộc đời, linh hồn'... của
nó." Talawas bị tường
lửa
*
Bài post lên, NTV đọc, phôn
khen: Hình ảnh một "nửa linh hồn", mày dùng, đắt
lắm !
Gấu, vừa mừng lại vừa lo, hỏi:
-Nhưng liệu bà chủ quán có biết, có
'đài gương soi đến dấu bèo'... ?
NTV:
-Làm sao không biết !
Có hay không một quán cà
phê có mặt bàn sơn màu đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách anh quen ?
Trời chưa qua mùa đông nên đường chưa
trắng tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp
một ngụm cà phê
Và đọc vài trang trong chồng sách
mới
K
For the Sleepwalkers
Tonight I want to say something wonderful
for the sleepwalkers who have so much faith
in their legs, so much faith in the invisible
arrow carved into the carpet, the worn path
that leads to the stairs instead of the window,
the gaping doorway instead of the seamless mirror.
I love the way that sleepwalkers are willing
to step out of their bodies into the night,
to raise their arms and welcome the darkness,
palming the blank spaces, touching everything.
Always they return home safely, like blind men
who know it is morning by feeling shadows.
And always they wake up as themselves again.
That's why I want to say something astonishing
like: Our hearts are leaving our bodies.
Our hearts are thirsty black handkerchiifs
flying through the trees at night, soaking up
the darkest beams if moonlight, the music
of owls, the motion if wind-torn branches.
And now our hearts are thick black fists
flying back to the glove if our chests.
We have to learn to trust our hearts like that.
We have to learn the desperate faith of sleep-
walkers who rise out of their calm beds
and walk through the skin of another life.
We have to drink the stupefying cup of darkness
and wake up to ourselves, nourished and surprised.
Edward Hirsch: The Living Fire
Cho tên mộng du
Bữa nay Gấu muốn nói 1 điều thần sầu
Cho mấy tên mộng du có quá nhiều
niềm tin
Vào cẳng của chúng
Và vào cái mũi tên vô
hình
Cắm vào cái thảm
Con đường mòn đưa tới cầu thang thay vì
cửa sổ
Lối đi hở, trống thay vì gương liền
Gấu mê cách mấy tên mộng du ước ao
Bước ra khỏi cơ thể của chúng, vào đêm
tối
Giơ tay chào mừng bóng đen
Sờ khoảng không, soạng mọi thứ,
Luôn luôn an toàn trở về nhà,
Như những tên mù
Biết rạng đông, vì ngửi ra những cái
bóng
Và luôn luôn chúng tự chúng
nhỏm dậy, tỉnh giấc, ra khỏi cơn thụy
Chính vì thế mà Gấu muốn phán
1 điều rất ư là kinh ngạc:
Trái tim của chúng ta bèn rời cơ
thể của chúng ta
Trái tim của chúng ta thèm khát
những chiếc khăn tay đen
Bay qua những tàng cây trong đêm
Khua loạn cào cào
Những chùm tối cực tối của ánh trăng,
Âm nhạc của những con cú
Chuyển động của những cành tan tác vì
gió
Và bây giờ trái tim của chúng
ta là những cú đấm dày đen
Bay trở về cái bao tay là lồng ngực của
chúng ta
Chúng ta phải học tin tưởng trái tim của
mình như thế
Chúng ta phải học cái niềm tin ngao ngán,
rã rời của mấy tên mộng du
Chúng bước ra khỏi những cái giường êm
ấm của chúng
Vào bước vào trong bộ da của một đời khác
Chúng ta uống cái chén ngỡ ngàng
của bóng tối
Và tự chúng ta bật dậy
Được nuôi dưỡng, và bèn ngạc nhiên
To Both Of U
And Tks
NQT
Bài thơ sau đây của Borges, đúng
là về năm cùng, tháng tận, đời tàn -
K phán, nhớ là sống thêm ít lắm là
10 năm nữa, để đọc và viết cho K và mọi người cùng
đọc -
Borges: Year’s End
Neither the symbolic detail
of a three instead of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying and another emerging
nor the fulfillment of an astronomical process
muddle and undermine
the high plateau of this night
making us wait
for the twelve irreparable strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances are infinite
and though we are
drops in Heraclitus’ river,
allows something in us to endure,
never moving.
– Jorge Luis Borges (translated by W.S. Merwin)
Năm tận
Không phải chi tiết biểu tượng
Rằng ba, thay vì hai
Chẳng phải ẩn dụ thô thiển
Rằng một cái gì đó mất đi
Thì bèn có 1 cái gì
đó bò ra đời
Cũng chẳng có sự hoàn thiện tiến trình
thiên văn cái con mẹ gì hết
Khuấy đảo, soi mòn cao nguyên đêm
nay
Khiến chúng ta chờ đợi
12 tiếng chuông đồng hồ vô phương sửa chữa
Lý do thực sự là sự hồ nghi u ám
của chúng ta
về sự bí ẩn của Thời Gian
Chính là sự kinh hoàng của chúng
ta trước phép lạ,
Mặc dù những cơ may thì là vô
cùng
Mặc dù chúng ta là những giọt nước
của dòng sông Heraclitus
Nó cho phép một điều gì đó
ở trong chúng ta liên luỷ, hoài hoài
Chẳng hề chuyển động.
Note: Mấy dòng thơ của K, cùng bài
viết này, Gấu kiếm hoài không ra, thế rồi FB bèn
kiếm giùm, Tks FB.
Cái chuyện Gấu học
Bưu Điện, về già mới muôn vàn cám ơn
Thầy Viễn, và sau tới… Ông Trời. Khóa I năm
đó, bên Bưu Vụ - ra làm Trưởng Ty Bưu Điện – thì
đông, nhưng bên Kỹ Thuật, ra Cán Sự Kỹ Thuật Bưu
Điện – khác Cán Sự Điện Phú Thọ - trước khi có
Trường Quốc Gia Bưu Điện – kể như là những khóa đàn
anh của đám kỹ thuật bưu điện – Ông Xếp Đài của Gấu,
xuất thân từ trường Phú Thọ, và còn nhiều người
khác nữa - … nhưng bên Kỹ Thuật, chỉ có 3 tên,
sau thêm Gấu, là bốn.
Một phần nào, Gấu được nhận, dù bỏ
học năm đầu, là vì con số 3 ít ỏi đó.
Nhưng nếu Gấu không giỏi Toán, chắc cũng hỏng cẳng!
Thầy Viễn sau làm Bộ Trưởng Giao Thông
Vận Tải. Ông rất thương Gấu. Khóa thi nào,
cũng kêu Gấu làm giám thị, nhưng do Gấu cứ
tội nghiệp đám thí sinh, tên nào không
làm được bài toán thi, là bèn làm
giùm. Đến tai Thầy Viễn, ông lôi lên văn
phòng rũa cho 1 trận, nhưng tật vẫn không bỏ, thế là
sau đó, ông không cho Gấu làm giám
thị coi thi nữa!
Nếu không làm Bưu Điện, làm
sao Gấu có cái việc làm thêm cho
UPI, nhờ thế mà có tiền mua sách. Ui chao,
về già nhớ lại, cảm khái chi đâu: Đọc túi
bụi, sống túi bụi, yêu – BHD - cũng… túi bụi!
Làm sao ngồi ở trên đỉnh cồn mà
thấy mình như ở Mắt Bão, khi lui cui gửi vô
tuyến viễn ảnh, từ khắp bốn vùng chiến thuật gửi về, đi khắp
bốn phương trời?
Có hay không một quán cà phê
có mặt bàn sơn màu đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách anh quen ?
Trời chưa qua mùa đông nên đường chưa trắng
tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp một ngụm
cà phê
Và đọc vài trang trong chồng sách mới
K
4.11.09
Cụ Mác
Cụ không thể suy nghĩ. Luân đôn thì ẩm
Trong mọi phòng một người nào đó ho
Cụ chưa hề mê mùa đông.
Cụ viết lại bản thảo đã qua
Viết lại, rồi viết lại,
Chẳng đam mê đam miết khỉ gì hết.
Trang giấy vàng
chỉ cần sờ vô
là biến thành tro than.
Tại sao mà cuộc sống lại hăm hở,
lì lợm,
chạy về chốn huỷ diệt?
Nhưng mùa xuân trở về trong những giấc mộng,
với tuyết không thể nói,
bằng bất cứ tiếng nói nào quen biết
Và ở chỗ quái quỉ nào trong hệ thống Mác
Xịt do cụ phịa ra,
tình yêu tìm được chỗ vừa khít với nó?
Ở nơi chốn nào, bạn tìm thấy những bông hoa mầu
xanh?
Cụ tởm, gớm, ghét những tên vô chính phủ.
Những tên lý tưởng làm cụ ngấy đến tận cổ
Cụ nhận được những báo cáo từ mãi tít
Nga Xô
Chi tiết ra sao thế nào, thì cũng mãi tít
như thế.
Nước Pháp trở nên giầu,
Ba Lan thì thường thôi, và êm ả,
Mẽo không ngừng phát triển,
Máu ở khắp mọi nơi.
Có lẽ, giấy dán tường cần thay cái mới
Cụ bắt đầu nghi ngờ,
rằng, nhân loại nghèo đói
sẽ vẫn luôn luôn mệt mỏi lê bước,
qua trái đất già nua, cũ kỹ,
như mụ điên trong làng,
hăm he đưa nắm tay,
đe dọa một vị Thượng Đế không nhìn thấy. Adam Zagajewski
Chúc sức khoẻ
Thursday, December 17, 2009 1:12 PM
From:
To:
Trụ,
Tao mới vào địa chỉ của mày, thấy hình mới nhất
(?) của mày posted ở giữa trang, mặt trông mập ra, già
hơn và có vẻ yếu hơn trước. Sức khoẻ mày lúc
này thế nào? Ăn uống có còn bình thường
không? Chúc sức khoẻ mày. Chúc cả nhà
có những ngày lễ, Tết vui vẻ, đầm ấm.
Tks.
The same to U and All, there.
Hình mới chụp, tháng trước.
Chắc sắp theo Cụ Mác rồi!
Không biết có gặp Bác Hồ ở dưới đó không,
hay Bác đã bỏ Đảng rồi!
NQT
Có hay không một quán cà phê
có mặt bàn sơn màu đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách anh quen ?
Trời chưa qua mùa đông nên đường chưa trắng
tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp một ngụm
cà phê
Và đọc vài trang trong chồng sách mới
K
For the Sleepwalkers
Tonight I want to say something wonderful
for the sleepwalkers who have so much faith
in their legs, so much faith in the invisible
arrow carved into the carpet, the worn path
that leads to the stairs instead of the window,
the gaping doorway instead of the seamless mirror.
I love the way that sleepwalkers are willing
to step out of their bodies into the night,
to raise their arms and welcome the darkness,
palming the blank spaces, touching everything.
Always they return home safely, like blind men
who know it is morning by feeling shadows.
And always they wake up as themselves again.
That's why I want to say something astonishing
like: Our hearts are leaving our bodies.
Our hearts are thirsty black handkerchiifs
flying through the trees at night, soaking up
the darkest beams if moonlight, the music
of owls, the motion if wind-torn branches.
And now our hearts are thick black fists
flying back to the glove if our chests.
We have to learn to trust our hearts like that.
We have to learn the desperate faith of sleep-
walkers who rise out of their calm beds
and walk through the skin of another life.
We have to drink the stupefying cup of darkness
and wake up to ourselves, nourished and surprised.
Edward Hirsch: The Living Fire
Cho tên mộng du
Bữa nay Gấu muốn nói 1 điều thần sầu
Cho mấy tên mộng du có quá nhiều niềm tin
Vào cẳng của chúng
Và vào cái mũi tên vô hình
Cắm vào cái thảm
Con đường mòn đưa tới cầu thang thay vì cửa sổ
Lối đi hở, trống thay vì gương liền
Gấu mê cách mấy tên mộng du ước ao
Bước ra khỏi cơ thể của chúng, vào đêm tối
Giơ tay chào mừng bóng đen
Sờ khoảng không, soạng mọi thứ,
Luôn luôn an toàn trở về nhà,
Như những tên mù
Biết rạng đông, vì ngửi ra những cái bóng
Và luôn luôn chúng tự chúng
nhỏm dậy, tỉnh giấc, ra khỏi cơn thụy
Chính vì thế mà Gấu muốn phán 1
điều rất ư là kinh ngạc:
Trái tim của chúng ta bèn rời cơ thể của
chúng ta
Trái tim của chúng ta thèm khát
những chiếc khăn tay đen
Bay qua những tàng cây trong đêm
Khua loạn cào cào
Những chùm tối cực tối của ánh trăng,
Âm nhạc của những con cú
Chuyển động của những cành tan tác vì gió
Và bây giờ trái tim của chúng ta
là những cú đấm dày đen
Bay trở về cái bao tay là lồng ngực của chúng
ta
Chúng ta phải học tin tưởng trái tim của mình
như thế
Chúng ta phải học cái niềm tin ngao ngán,
rã rời của mấy tên mộng du
Chúng bước ra khỏi những cái giường êm ấm
của chúng
Vào bước vào trong bộ da của một đời khác
Chúng ta uống cái chén ngỡ ngàng
của bóng tối
Và tự chúng ta bật dậy
Được nuôi dưỡng, và bèn ngạc nhiên
To Both Of U
And Tks
NQT
Bài thơ sau đây của Borges, đúng
là về năm cùng, tháng tận, đời tàn - K phán,
nhớ là sống thêm ít lắm là 10 năm nữa, để
đọc và viết cho K và mọi người cùng đọc -
Borges: Year’s End
Neither the symbolic detail
of a three instead of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying and another emerging
nor the fulfillment of an astronomical process
muddle and undermine
the high plateau of this night
making us wait
for the twelve irreparable strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances are infinite
and though we are
drops in Heraclitus’ river,
allows something in us to endure,
never moving.
– Jorge Luis Borges (translated by W.S. Merwin)
Năm tận
Không phải chi tiết biểu tượng
Rằng ba, thay vì hai
Chẳng phải ẩn dụ thô thiển
Rằng một cái gì đó mất đi
Thì bèn có 1 cái gì đó
bò ra đời
Cũng chẳng có sự hoàn thiện tiến trình
thiên văn cái con mẹ gì hết
Khuấy đảo, soi mòn cao nguyên đêm nay
Khiến chúng ta chờ đợi
12 tiếng chuông đồng hồ vô phương sửa chữa
Lý do thực sự là sự hồ nghi u ám
của chúng ta
về sự bí ẩn của Thời Gian
Chính là sự kinh hoàng của chúng
ta trước phép lạ,
Mặc dù những cơ may thì là vô cùng
Mặc dù chúng ta là những giọt nước của
dòng sông Heraclitus
Nó cho phép một điều gì đó ở trong
chúng ta liên luỷ, hoài hoài
Chẳng hề chuyển động.
Note: Mấy dòng thơ của K, cùng bài
viết này, Gấu kiếm hoài không ra, thế rồi FB bèn
kiếm giùm, Tks FB.
NQT
Note: Bài viết này, viết khi còn tá
túc ở địa chỉ VHNT trên lưới, Sao Mai, của nhóm
Ô Thước, do PCL làm chủ biên
…
no life is lived for the sake of an obituary.
Brodsky.
Chẳng
có cuộc đời nào, sống, chỉ để mong có được một
câu ai điếu!
Cho dù chết một cái chết thật ngoạn mục!
Nhưng,
giả như có một lời ai điếu… ngoạn mục, trong hằng hà
những tạm biệt, hẹn gặp lại, đã đi vào lịch sử, đã
tự bôi xóa mình trước vĩnh cửu, về người tình
talawas?
Ui chao lại nhớ đến bản nhạc Somewhere My Love, dành
cho người tình Lara! (1)
Tuy
nhiên, cái kỷ niệm [chưa kể ra] của GNV, về talawas xem
ra lại dễ thương nhất, trong số những lời 'rỏ máu mắt' khóc
người tình talawas!
Bản
nhạc này, GNV cũng có 1 kỷ niệm tuyệt vời về nó,
những ngày sau 1975: Trong khi Gấu ngồi viết bài điểm
cuốn Ngôi nhà của những hồn
ma, của Isabel Allende, cho tờ Tuổi Trẻ, thì nghe lại
bản nhạc này, qua Đài Phát Thanh Sài Gòn,
và nghĩ mình đang sống lại, như cả Miền Nam đang sống
lại cùng bản nhạc, cùng câu chuyện tình của
Pasternak...
Ui chao,
cứ tưởng bở!
Nghèo mà ham!
Đài gương soi đến dấu bèo!
*
Kỷ niệm sầu
như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười
Nhã Ca: Thanh
Xuân
Kỷ niệm được
coi như là ai điếu talawas của GNV thì cũng thường thôi,
nhưng cú hậu kỷ niệm, thì thật là tuyệt vời, vì
nó liên quan đến kỷ niệm của Gấu về cô bạn, những ngày
đầu gặp lại nơi Xứ Lạnh.
Gấu thực sự chẳng có ý định xung phong,
mặt dầy xin viết khống cho talawas, và đây là
‘đề xuất’ của NTV, ông phải viết cho diễn đàn này,
và dí cái số điện thoại của SCN vào tay
Gấu.
Thế là gọi điện thoại. Anh chờ em một chút,
em đang bận.
Chẳng hiểu SCN đang bận, hay là muốn giành
quyền trả tiền điện thoại viễn liên.
Và
SCN gọi lại liền sau đó. Nói chuyện thân mật
lắm.
Chính
cái câu ‘em đang bận’ làm GNV viết cho talawas!
Nó làm Gấu nhớ đến câu của cô
bạn, khi gặp lại, nhắc kỷ niệm cũ, và cô nói,
"You are N/A”.
Ý của cô là, ngay từ hồi đó
đó, anh cũng đâu có rảnh!
*
J'écris depuis que tu me lis.
Les mots sont en retard sur nos vies. Cầm Dương Xanh
*
Bọ tạm thời
đóng cửa comments, mong bà con thông cảm.
Sến tôi tạm thời cho talawas ngỏm dài hạn,
mong bà con thông cảm.
Bắt
khẩn cấp CGDL, do dám đụng tới Hoàng Tử Ghiền! Tống giam CHH Vũ vì
dám kiện Trùm VC!
Đâu phải chuyện đùa!
Thiệu, chửi Râu Kẽm, hóa
ra không chỉ chuyện đùa với vận nước ngày nào,
mà còn chuyện nhục ngày này:
Về quỳ lạy VC.
Người sao thì củ vậy, đúng như các
cụ nói!
* Một kỷ niệm
tuyệt vời nữa, với talawas, liên quan tới từ ‘thất kinh’, của
GNV trong bài viết về thơ trẻ ở trong nước!
Những dòng trong ngoặc trong câu sau đây,
(1) là của SCN, trong 1 cái mail, trong cái
mail, còn 1 câu, viết thêm cho đủ: Anh là
đàn ông, anh không thể nào hiểu được đàn
bà đau khổ như thế nào khi mãn kinh, và
sợ nó như thế nào…!
Hà,
hà!
(1)
Octavio Paz, trong "Thơ ca, Xã hội, Nhà nước" cho rằng,
thật "khẩn trương" (urgent), yêu cầu đánh tan mọi mập
mờ đánh lận con đen, giữa cái gọi là nghệ thuật
của quần chúng, của tập thể, với cái gọi là nghệ
thuật "quan phương" (official art). Một bên, là nghệ
thuật được gợi hứng từ niềm tin, lý tưởng của xã hội,
một bên là nghệ thuật được viết dưới ánh sáng
của Đảng (art subjected to the rules of a tyrannical power). Tư tưởng
Ky Tô giáo đã nhập thân vào những
đế quốc quyền uy, nhưng thật lầm lẫn khi coi nghệ thuật Gothic hoặc
Phục Hưng là do quyền lực giáo hoàng sáng
tạo ra. Quyền lực chính trị có thể sử dụng, và
còn có thể thúc đẩy một dòng nghệ thuật,
nhưng nó chẳng bao giờ sáng tạo ra nổi nghệ thuật.
Còn điều này nữa: về lâu về dài,
nó tạo ra phản ứng phụ, làm cho nghệ thuật "thất kinh"
(mãn kinh đúng hơn, nhưng cái từ " thất kinh "
này lại có được cái bóng chữ của nó
!) bất lực, nghĩa là hết còn đẻ đái gì nữa.
Trong
hai từ trên, là, hai nghĩa. Một liên quan đến Nàng
Kiều có bầu: Thất kinh
nàng chửa...
Mãn kinh, là hết chửa!
Bởi vậy SCN mới nhận xét, ‘có được cái
bóng chữ của nó’, và 'bóng chữ', cũng
là để vinh danh nhà thơ Lê Đạt, 1 đấng nam nhi
không bao giờ đau khổ chuyện kinh nguyệt!
Ui chao đúng là cái thuở ban đầu!
V/v Thơ trẻ ở trong nước: Bài
viết này, SCN mail, đề nghị cho đăng ở talawas, khi nó
vừa mới đi khúc dạo đầu, trên VHNT, hình như là
do một nhà văn nhà thơ nào đó báo
động với talawas, khi đó đang làm một chuyên đề
về thơ.
Thời gian đó, GNV còn liên lạc meo
miếc với một số nhà văn nhà thơ trong nước, nhân
chuyến về nước bắt tay với VC còn nóng hổi, và
NN đã mail, khen, ‘được được’!
Đọc
lại, thấy ‘được’ thật, nhưng là do ‘mết’ em quá mà
mới viết tới như thế!
Best
wishes to All Of U there!
And, Take Care!
NQT
Nhật Ký Tin
Văn
Happy Birthday,
Quoc!
From all of us at Facebook,
we hope you have a wonderful ye
Kolyma Stories is a collection of short
stories inspired by the fifteen years that Varlam Shalamov (1907–1982)
spent as a prisoner in the Soviet Gulag. Shalamov did six years of slave
labor in the gold mines of Kolyma before gaining a more tolerable position
as a paramedic in the prison camps. He began writing his account of life
in Kolyma after Stalin’s death in 1953.
—The Editors
TRAMPLING THE SNOW
How do you trample a road through virgin snow? One man walks
ahead, sweating and cursing, barely able to put one foot in front of the
other, getting stuck every minute in the deep, porous snow. This man goes
a long way ahead, leaving a trail of uneven black holes. He gets tired,
lies down in the snow, lights a cigarette, and the tobacco smoke forms a
blue cloud over the brilliant white snow. Even when he has moved on,
the smoke cloud still hovers over his resting place. The air is almost
motionless. Roads are always made on calm days, so that human labor is not
swept away by wind. A man makes his own landmarks in this unbounded snowy
waste: a rock, a tall tree. He steers his body through the snow like a
helmsman steering a boat along a river, from one bend to the next.
The narrow, uncertain footprints he leaves are followed by
five or six men walking shoulder to shoulder. They step around the footprints,
not in them. When they reach a point agreed on in advance, they turn
around and walk back so as to trample down this virgin snow where no
human foot has trodden. And so a trail is blazed. People, convoys of sleds,
tractors can use it. If they had walked in single file, there would have
been a barely passable narrow trail, a path, not a road: a series of holes
that would be harder to walk over than virgin snow. The first man has
the hardest job, and when he is completely exhausted, another man from
this pioneer group of five steps forward. Of all the men following the
trailblazer, even the smallest, the weakest must not just follow someone
else’s footprints but must walk a stretch of virgin snow himself. As
for riding tractors or horses, that is the privilege of the bosses, not
the underlings.
[Note: To U, the figure of the
lady, a California image, in this poem. GNV]
THE IMAGE
The child brought blue clay
from the creek
and the woman made two figures: a lady and
a deer.
At that season deer came down from the mountain
and fed quietly in the redwood canyons.
The woman and the child regarded the figure
of the lady,
the crude roundnesses, the grace, the coloring
like shadow.
They were not sure where she came from,
except the child's fetching and the woman's
hands
and the lead-blue clay of the creek
where the deer sometimes showed themselves
at sundown.
Ảnh Tượng
Đứa bé mang đất sét
màu xanh từ thung lũng về Và người đàn bà
nặn thành hai bức tượng, một vị phu nhân và một
con nai. Vào mùa này,
nai thường từ núi xuống Và kiếm ăn lặng lẽ trong
những hẻm núi với những cánh rừng màu đỏ Người đàn bà và
đứa bé nhìn bức tượng của vị phu nhân Cái gì gì,
khuôn trăng đầy đặn, một vầng trăng tròn thô
thiển, ân sủng, màu như bóng… Họ không chắc, vì
phu nhân tới từ đâu, Ngoại trừ vẻ say mê của
đứa bé, và bàn tay của thiếu phụ Và đất sét xanh
màu chì của thung lũng Nơi nai cao, “gót lẩn
trong mù hoàng hôn”.
as long as death and love
are there, art will remain - Adonis
Today at 1:47 PM
Mới đọc trên Tin Văn cái câu
trên , thật là perfect .
Vì mình là thứ viết và
đọc lơ mơ, dở ẹc, nên chỉ chọn một trong hai thôi,
vế sau.
Oanh ơi, đi lặn cũng phải có người đi chung
mới vui .
Về đề nghị của bạn đọc TV, mình nghĩ, mình
đang thong dong, muốn đọc, muốn viết về đề tài gì
cũng được, lúc nào và nơi đâu cũng
được, như một ân sủng của thời gian và của Trời, mình
chẳng dại buộc mình vào một lời hứa suốt cả năm trường,
chẳng biết để làm gì .
Chúc khỏe Oanh và anh Trụ nghe .
K
Tks ALL OF 3
NQT
We hope you enjoy looking back on
your memories on Facebook, from the most recent memories to those long
ago.
Sau 1975, khi viết cho tờ Tuổi Trẻ, Gấu dùng đúng
cái tít của TTT, “Bạn đã đọc Ngôi Nhà
Của Những Hồn Ma”, của Isabel Allende chưa? Bài viết gây
chấn động trong 1 cõi giang hồ Sài Gòn, đừng nghĩ
là Gấu tự sướng, vì nó xẩy ra đúng như thế.
Một anh bạn làm chủ 1 sạp báo, cho biết, khách hàng
của anh nhao nhao tìm đọc. Hoàng Lại Giang, chủ nhà
xb Văn Học ở phía Nam, vừa thấy Gấu ló mặt ra ở toà
soạn – khi đó đang lo sửa bản dịch Mặt Trời Vẫn Mọc, trước 1975,
được Văn Học tái bản, dưới sự chỉ đạo của Nhật Tuấn – bèn
kêu cô thư ký, hay phát ngân viên
cái con khỉ gì chẳng biết, ra lệnh, phát cho tên
Ngụy 1 mớ tiền nhuận bút - cuốn “Ngôi Nhà” là
do Văn Học xb.
Mấy chuyện nhảm nhí này đã từng kể trên
Tin Văn. Ra tới hải ngoại, thì Gấu được biết, đó là
cụm từ hay được dùng, khi có 1 cuốn sách lạ, hiếm,
quí… xuất hiện.
xuân ca
Trót nghe nửa tiếng cười đùa
Xóm hoa mưa đổ hương xưa nghẹn ngào
Thuở buồn ai đẹp phương nao
Cúi đầu trinh khóc xôn xao trêu người
Yêu nhau không dám ngó trời
Trời xanh mây trắng xuân đời bỏ hoang
Hoa mai nở đón mắt nàng
Mà môi trống lạnh muôn vàn cách
xa
Hôm nay muốn gió thành hoa
Muốn mây thành tóc lòng ta rũ cười
Bao giờ trọn vẹn cuộc đời
Ta ôm mây trắng cho trời mãi xanh.
I wanted to go on an immense journey, to travel night and day into
the unknown until, forgetting my old self, I came into possession of a
new self, one that I might have missed on my previous travels. But the first
step was beyond me. I lay in bed, unable to move, pondering, as one does
at my age, the ways of melancholy-how it seeps into the spirit, how it
disincarnates the will, how it banishes the senses to the chill of twilight,
how even the best and worst intentions wither in its keep. I kept staring
at the ceiling, then suddenly felt a blast of cold air, and I was gone.
Mark Strand: Collected Poems
Khi Gấu trăm tuổi hạc
Gấu muốn làm 1 chuyến viễn du nhớn, ngày và
đêm, vào 1 miền vô danh, quên mẹ cái
thằng Gấu cũ ngày nào, có được 1 tên Gấu mới
- thì cái thằng mà Gấu hụt là nó, trong
những chuyến đi trước. Nhưng, chưa kịp đi, thì cái chân
nhanh hẩu đoảng đã vọt khỏi Gấu. Gấu nằm trên giường, không
sao cử động, ngẩn ngơ, như bất cứ 1 tên già nào lụm
cụm như Gấu, về những đường đi lối bước của “cái gọi là” buồn
phiền – làm thế nào nó len lén chui vô
thần trí, tiêu trầm ý chí, dập tắt cảm quan trước
cái lành lạnh của buổi hoàng hôn, ngay cả những
ý hướng, tốt nhất và tệ nhất, thì cũng lụi tàn
vào trong sự cầm giữ của nó của nó. Gấu ngẩn ngơ nhìn
cái trần nhà, và bất thình lình, cảm
thấy lạnh thốn…. dế, và bèn... "đai"!
Give me
six lines written by the most honourable of men,
and I
will find a reason in them to hang him.
Richelieu
We never found the last line he had
written,
Or where he was when they found him.
Of his honor, people seem to know nothing.
And many doubt that he ever lived.
It does not matter. The fact that he
died
Is reason enough to believe there were
reasons
Mark Strand: Collected Poems
Cho ta 6 dòng
được viết bởi kẻ đáng kính trọng nhất trong
lũ đàn ông,
ta sẽ tìm ra 1 lý do trong đó, để treo
cổ hắn Richelieu
Chúng ta chẳng bao giờ kiếm thấy những dòng
cuối cùng GCC viết
Hay là, thằng khốn đó ở đâu, khi họ kiếm
thấy hắn
Về cái đáng kính, của hắn, mọi người
chẳng biết gì
Và nhiều người hồ nghi, hay là chưa hề có
thằng cha GCC ?
Chẳng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó
Cái chuyện thằng khốn đó ngỏm củ tỏi,
Là đủ để tin rằng,
Có những lý do ở trên đời này rồi!
--------------------
Self-portrait as Eurydice
Edward Hirsch: The Living Fire
How I dreamt about your engulfing arms,
my Orphic secret, my haunting primaI chant,
from my place amid the phantom forms
and waited for you to startle the grave
path into the underworld – dank - silent
where I shivered in the night's embrace
until I heard your fatal cry, your fate
ful voice rising like a forgotten dream
or a wandering soul calling for light
in eternity's dense fog, an eager song,
and I followed it toward the earth's seam
hoping to breathe again, listening,
until you whirled around, my dark flame.
and then I died for you a second time.
Trong vương quốc của những người
đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Chân Dung Tự
Họa như là Eurydice
Như thế nào tôi mơ những
vòng tay nhận chìm vực thẳm của em,
Niềm bí ẩn Orphic của tôi, giọng hát ám
ảnh đầu đời của tôi
Từ nơi chỗ của tôi, giữa những hình dáng
ma quái
Và đợi chờ em làm giật nẩy mộ phần,
mở lối xuống Vương Quốc Người Chết –
âm u, lặng ngắt –
Nơi tôi rùng mình trong vòng tay
của đêm
Cho tới khi tôi nghe tiếng kêu than định mệnh,
tàn khốc của em
Dâng lên, như giấc mơ quên lãng
Hay linh hồn lang thang kêu gọi ánh sáng
Trong thềm sương mù dầy đặc của vĩnh cửu,
một bài ca háo hức
Và đi theo nó tới cái sẹo của trái
đất
Hy vọng lại hít thở, lắng nghe
Tới khi em vần vũ loanh quanh,
Ngọn lửa u tối của tôi
Và tôi chết cho em lần thứ nhì
Hát ở đâu
đâu...
Nguyễn Quốc Trụ
Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi.
Mùa thu ở đây đẹp não nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh ty
Mộ thành tuyết
Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng cuối
Hát ở đâu đâu...
Cô bạn thân ơi, những ngày tháng
đó
Chạy xe như điên trên đường phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng những hồn ma Mậu
Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất
thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu giấc mộng cuối (2)
(1)... that lonely halfway house which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm Tuyền
NQT
Preface
Though the two powers
assume many shapes and guises, all my poems take issue with love and
death. 'Sex and the dead', said Yeats, were the only two subjects worthy
of a serious man's conversation, and I'd go along with that. Sex, of course,
includes all creativity, and death includes its own vanquishing.
Looking back over the poetry of twenty years,
I can also see, very clearly, a primary and secondary emotional landscape:
Cornwall, the most westerly, Celtic outcrop of England, where I was
born and grew up; and Russia, which I have encountered only through its
language and literature. The atmospheric contrasts of the first-wild
sea-cliffs and moors, lush river-valleys-perhaps have a counterpart in
the second: Stalin and Pushkin ...
When I was invited to make a selection of my poems, I asked for,
and was generously given, the advice of friends and fellow-poets whose
judgement I respect. I wish to thank Wendy Cope, Jean Driver, Ketaki
K. Dyson, Diana Der Hovanessian, John Johnson, Sylvia Kantaris, and Peter
Redgrove. I am grateful for this opportunity to acknowledge my debt to
John Johnson: my literary agent for almost the whole of my writing life,
he encouraged me before I gave him any reason to do so, and now, though formally
retired, gladly consented to read and consider all of my published poetry.
However, in the end I couldn't evade the responsibility
of choosing. The final test had to be whether a poem still lived, for
me, however falteringly. I have also had to be conscious of the need
to represent the different phases and stages of my work, and to provide
as varied a selection as possible. Again, certain poems were still important
to me-even though they might not work too well as poems-simply because
they were crucial steps along the way. I have grouped the poems in three
sections. The first contains love poems or erotic poems; the second, poems
relating to my Cornish background. The third section treats of broader
themes, from history, culture, and myth. In the first two sections, the
poems are printed roughly in chronological order; I have mixed them up
rather more in the third.
The preference for some kind of narrative basis
is already apparent in my earliest poems (e.g., 'A Lesson in the Parts
of Speech' and 'Cygnus A'); and I suppose I might have foreseen (though
in fact I did not) that one day I would want to write prose fiction as
well as poems; or rather, poetry in the form of prose fiction. Some of the
most recent poems reflect themes in my novels. I dislike rigid classification.
I would like to turn back to the ancient simplicity in which any maker
with words was a poet.
D. M. Thomas
November, 1981
Chân Dung
Portraits
(To the memory of Akhmatova)
Nothing visits the silence,
No apparition of lilac,
But an inexplicable lightness
I sense when I breathe your name.
It's not All Souls'. The planet
Spins on without you, Anna.
You're now the Modigliani
Abstract. No candles flame
To amass shadows. Light elected
You. Annenkov's portrait ... erect head
That tilts with a swan's curve
Towards the Neva, towards the living
Surge of the iced river
That will not stop nor swerve
But plunge, if need be, within you ...
Till room and time started spinning,
I've gazed, I've tried to splinter
With love that smiles at stone
This photo of nineteen-twenty,
The only one where your tender
Pure and gamine face, grown
One with the page you've entered,
Blurs at the lips, half-surrenders
A smile ... And your lips open
To me, or familiar Chopin ...
It must have been a dream.
But dreams are something substantial,
The Blue Bird, the soft embalmer.
It doesn't smell of catacombs
There, and your black fringe is no nimbus.
A cathedral bell tolls dimly.
The unmoving stylus hums.
So deep has been this trance,
Surely its trace fell once,
Caught your eyes and startled you,
Between the legendary embankment
And your House on the Fontanka?
I, like the woman who
Had touched the healer's soul,
Find everything made whole
In your poetry's white night,
Envy the poor you kept watch
With, outside the prison; the touch
Of a carriage-driver, your slight
Hands bearing down with a spring, one
Moment in the tense of his fingers.
Poems outlive a Ming case,
But your ageing portraits bring me
The rights of a relative
To grieve. Tonight alone I could spare
All that is written here
To restore the chaos where
The Neva deranges your hair,
You laugh, weep, burn notes,
live
‘Và
vợ Lot ngoái nhìn lại
và trở thành tượng muối’
Và người công chính đi theo sứ giả của Thượng
Đế tới đây
Cái bóng rộng và sáng của anh bèn
xực luôn ngọn đồi đen
Nhưng một cú báo động, hay, 1 sự âu lo phủ
lên bà vợ Lot
Và nói lớn vô tai bà:
“Chưa trễ, muộn đâu, mi vẫn có thể ngoái
nhìn lại
Ở những tháp đỏ Sodom, nơi mi sinh ra
Ở quảng trường nơi mi hát, ngồi quay tơ
Ở nơi cửa sổ của những ngôi nhà cao, đìu
hiu, trống vắng
Nơi mi hạ sinh những đứa con hạnh phúc, với người chồng
thương yêu của mi”
Đôi mắt của bà vẫn đang nhìn ngoái
lại
Khi một cú đau quất toàn thân, và,
bèn mù
Và toàn thân biến thành tượng muối
Đôi chân thì cắm chặt, như đóng rễ,
vào đất.
Ai, tên “Mít” nào,
khóc thương con vợ “Ngụy này”, ở “Lò Cải Tạo”
[Hà, hà! THNM nặng quá rồi!]
Hẳn nhiên rồi, cái chết của Bà đâu
có ý nghĩa chi?
Nhưng trong trái tim của tên
Gấu Cà Chớn này
Bà sẽ chẳng bao giờ mất
Bà, Người đã từ bỏ đời mình
Chỉ để chôm 1 cú nhìn lại
Nơi phố đèn đỏ
Bỗng nghe một bướm đêm đi 1 đường Lệ Đá Xanh, phổ
từ thơ của chính mình!
Chàng xúc động
Như thể sao và đèn đổi chỗ cho nhau
Bài thơ, nỗi tủi nhục, nói cho cùng
Chúng cũng đổi chỗ cho nhau
Và chẳng ‘thuộc về” bất cứ 1 ai!
Khi em ngưng hát
Đời cứ thế tiếp tục, it went on
Cái chết phải là 1 điều tệ hại
Một điều tệ hại
Một căn nhà tốt, làm bằng gỗ tếch
Xung quanh là rừng.
Đằng sau cõi giá lạnh thẳm sâu
Một tay “bushmaster” có thể làm mi ngạc nhiên,
kinh ngạc.
Khách sạn trăng mật,
Được người còn sống, kẻ đã chết, thăm viếng
Họ chia sẻ cùng chiếc tắc xi,
Và tên khùng làm rối bét những
‘dành riêng, đặt chỗ trước’
Họ yêu mi
Họ có đó để được yêu
Chúa Giê Su thì ở trong máng cỏ.
Những người chăn cừu đã tới
Có điều gi đó, cái gì gì,
“hình như là tình yêu”,
Hay là, “yêu mọi người”
Và mi có thể ngạc nhiên
Rằng cái thiệp mời, vô tình đánh
rớt,
Đã được nhặt lên hai mươi năm sau
Trong một căn phòng -quầy rượu với những tấm màn
màu tím
Có 1 em da đen chơi cái cóc-xê đen
Chơi dương cầm
Có bóng rổ
Có TV
Và một căn phòng dành cho cô đơn
Nữ thi sĩ Sappho thì có ở đó, và
Jung, và Freud
Và cô gái cùng đi với mi trên
chuyến xe lửa.
Cô thò người ra khỏi cửa sổ,
Và phán:
Ta muốn mi đi cùng với ta.
Họ yêu mi, tên Gấu Cà Chớn của ta
Họ có đó, là để được yêu
Losa Montez thì đang khiêu vũ với nường mọi đen
----------------------------
The house of dreams
It is a good
house, and made of teak,
surrounded by a forest. Behind the deep-freeze
a bushmaster may surprise you, surprised.
It is a honeymoon hotel
visited by the dead and the living.
They share the same taxis, and a fool
has muddled all the reservations.
They love you. They are to be loved.
Jesus is in the manger. Shepherds have come.
It is something about loving everyone
and you may be surprised
that the casually dropped invitation
has been taken up, twenty years later.
In an ornate bar-room with purple drapes
there is a negress in a black corset
playing the piano. There is a croquet
and television, and a room for loneliness.
Sappho is there, and Jung, and Freud,
and the girl you shared a train journey with,
who leaned out the window and said,
«I wish you were coming with me».
They love you. They are to be loved.
Lola Montez is dancing to the negress
Tớ làm nhà ma bằng chỉ đen, dây kẽm đen
Nó lắc lư như cái lồng chim
Mái ấm của những kẻ bồn chồn, hiếu động, luôn thao
thức, chết rồi mà cũng chẳng chịu nằm yên
Và thực đúng là như thế, họ sau cùng
kiếm được sự nghi ngơi
Cả hai chúng ta tin rằng
Bất cứ cái gì ám ảnh phòng ngủ này
Với hơi thở của nó
Thì đều thở im ắng, đều hòa
Và ngưng đau buồn
Chúng ta nghĩ, đôi ta. Không phải như vậy
Có những khối vuông của hai, những hằng hà
của chết chóc
Bây giờ, khi chúng ta ngủ,
Những đứa trẻ không thể ngủ
Chúng cũng phải có, một.
Từ cái bóng của cây đèn của chúng,
Chỉ đen, dây kẽm đen, nó treo,
Đẹp và rối beng
Như là cái mà hai bàn tay của tớ
đã làm ra.
----------------------------
Ghost- House
I have made a ghost-house of black thread,
black wire. It swings like a birdcage,
a home to house the restless, perturbed dead.
And indeed they have found rest. We both believe
whatever haunts this bedroom with its breath
is breathing quietly and has ceased to grieve.
We think there are two. No, there are squares of two,
infinities of death.
Now while we sleep, the children cannot sleep,
they have to have one too. From their lamp-shade,
black thread and wire, it hangs, as beautiful
and intricate as the one my hands have made.
You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.
That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
1961-63
Mi sẽ nghe tiếng sấm
Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó đã
từng, vào lúc đó, sẽ cháy bừng bừng
Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ
trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng
đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.
A RIDE
My feather was brushing the top of the carriage
And I was looking in to his eyes.
There was a pining in my heart
I could not recognize.
The evening was windless, chained
Solidly under a cloud bank,
As if someone had drawn the Bois de Boulogne
In an old album in black indian ink.
A mingled smell of lilac and benzine,
A peaceful watchfulness.
His hand touched my knees
A second time almost without trembling.
ANNA AKHMATOVA
Translated by D.M Thomas
Russians Poets
Everyman’s Library
Một chuyến đi
Cái lông chim vũ của tôi thì
đang quét quét
Ở trên chỏm chiếc xe ngựa
Và tôi thì đang nhìn vô
mắt chàng
Có cú nhói ở tim tôi
Tôi không thể nhận ra
Buổi chiều không gió,
Bị xiềng thật chặt bên dưới một bức tường mây
Như thể 1 người nào đó đã vẽ
công viên Bois de Boulogne [Paris]
Trong 1 cuốn an bum cũ, bằng mực đen Ấn Độ
Một mùi tử đinh hương lẫn mùi xăng,
Một chăm chú theo rõi bình yên
Tay chàng bèn chạm khẽ vào đầu
gối tôi
Lần thứ nhì
Gần như không run run.
Ui chao, đọc thì lại nhớ lần đi với Seagull.
Khi từ giã, thấy tội quá, hẳn thế, em mới đưa tay ra...
IN DREAM
Black and enduring separation
I share equally with you.
Why weep? Give me your hand,
Promise me you will come again.
You and I are like high
Mountains and we can't move closer.
Just send me word
At midnight sometime through the stars.
1946
Trong mơ
Xa cách, đen thui và dai như đỉa
Ta chia đều với mi
Tại sao khóc? Già rồi mà còn
vãi lệ hoài, không sợ con nít nó
cười cho ư?
Đưa tay ra, ta cho phép mi cầm tay ta, như
lần từ giã chót, trên chiếc xe mà ta
mượn của 1 người bạn
Hãy hứa với ta, mi sẽ lại qua Cali, thăm ta.
Ta và mi là hai ngọn đỉnh trời,
Sừng sững, khó mà gần gũi nhau hơn.
Hãy mail cho ta, vậy là OK rồi
Vào lúc nửa đêm, cỡ đó,
Qua những vì sao.
Услышишь гром и вспомнишь обо мне,
Подумаешь: она грозы желала…
Полоска неба будет твердо-алой,
А сердце будет как тогда – в огне.
Случится это в тот московский день,
Когда я город навсегда покину
И устремлюсь к желанному притину,
Свою меж вас еще оставив тень.
Cỏ ba lá Moskva
Anna Akhmatova
1. Gần như đề vào album
Anh nghe sấm, và sẽ nhớ tới em
Anh sẽ nghĩ: cô ấy mong giông tố…
Trên nền trời dọc ngang vạch đỏ,
Và trái tim sẽ bốc lửa như xưa.
Điều đó sẽ xảy ra vào một ngày kia
Khi em rời Moskva này mãi mãi.
Và hướng tới trời xanh bao mong đợi,
Để lại bóng mình ở giữa các người.
Tks. NQT
Ha LeMấy bài này nghe lạ quá.
Em tìm thử, thì hình như em có dịch vài
bài rồi. Anh xem xem có ... gần giống về nội dung không
nhé:
Nothing visits
the silence,
No apparition of lilac,
But an inexplicable lightness
I sense when I breathe your name.
It's not All Souls'. The planet
Spins on without you, Anna.
You're now the Modigliani
Abstract. No candles flame
To amass shadows. Light elected
You. Annenkov's portrait ... erect head
That tilts with a swan's curve
Towards the Neva, towards the living
Surge of the iced river
That will not stop nor swerve
But plunge, if need be, within you ...
Till room and time started spinning,
I've gazed, I've tried to splinter
With love that smiles at stone
This photo of nineteen-twenty,
The only one where your tender
Pure and gamine face, grown
One with the page you've entered,
Blurs at the lips, half-surrenders
A smile ... And your lips open
To me, or familiar Chopin ...
It must have been a dream.
But dreams are something substantial,
The Blue Bird, the soft embalmer.
It doesn't smell of catacombs
There, and your black fringe is no nimbus.
A cathedral bell tolls dimly.
The unmoving stylus hums.
So deep has been this trance,
Surely its trace fell once,
Caught your eyes and startled you,
Between the legendary embankment
And your House on the Fontanka?
I, like the
woman who
Had touched the healer's soul,
Find everything made whole
In your poetry's white night,
Envy the poor you kept watch
With, outside the prison; the touch
Of a carriage-driver, your slight
Hands bearing down with a spring, one
Moment in the tense of his fingers.
Poems outlive a Ming case,
But your ageing portraits bring me
The rights of a relative
To grieve. Tonight alone I could spare
All that is written here
To restore the chaos where
The Neva deranges your hair,
You laugh, weep, burn notes,
live.
Note: D.M. Thomas,
nhà văn, nhà thơ, dịch giả, tác giả cuốn tiểu
sử Solzhenitsyn. Chuyên gia về văn học Nga. Ông nhận
viết tiểu sử Solz, như 1 thách đố với chính ông.
Gần như chưa ai dám đụng vô tiểu sử
của Solz. Cuốn tiểu sử của Solz, cách viết, lập đi lập
lại những chương hồi, là theo cấu trúc những trại
tù, cứ thế lập đi lập lại, nhân thêm lên
mãi, cùng sự hoán đổi hai hình tượng,
Thiên Sứ và Quỉ Đỏ.
GCC chôm, làm trang Tin Văn, mở ra
là hình ảnh Thiên Sứ của Sến, khép
lại bằng Con Quỉ Chuồng Heo trong Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Cuốn này, là sách gối đầu giường
của GCC. Cô Út, nhân bố đi chơi với cháu
trong dịp hè, bèn chở cả kho sách, cho bịnh
viện, để họ bán xon lấy tiền cho bịnh nhân.
Bố đừng đọc sách nữa. Chơi với cháu,
không khoẻ hơn sao?
The Hut
I WAS BORN IN THE same year as
Charlie Chaplin, Tolstoy's Kreutzer Sonata, the Eiffel Tower, and, it
seems, T. S. Eliot.' That summer Paris celebrated the one-hundredth
anniversary of the fall of the Bastille-1889. The ancient festival of
St. John's Eve (Midsummer Night) was-and is still-celebrated on the
night of my birth, June 23rd. I was named Anna in honor of my grandmother,
Anna Yegorovna Motovilova.? Her mother, a descendant of
Genghis Khan, was the Tatar princess Akhmatova, whose name
I took for my literary name, not realizing that I was about
to become a Russian poet. I was born in Sara kina's dacha (Bolshoi
Fontan, the 11th railroad stop) near Odessa. This little dacha
(more like a hut) was situated at the bottom of a very narrow and
steep tract of land next to the post office. The seashore there is steep
and the railroad tracks went along the very brink. When I was fifteen
years old and we were living in the dacha at Lustdorf, we were traveling
through this area for some reason, and my mother suggested that we go
and see Sarakina's dacha, which I had never seen. At the hut's entrance
I said, "Some day they'll put up a memorial plaque here." I wasn't being
vain. It was just a silly joke. My mother was distressed. "My God," she
said, "how badly I've brought you up."
1957
Túp Lều
Tôi sinh cùng năm
với hề Charlot, “Kreutzer Sonata” của Tolstoy, Tháp Eiffel,
và có thể, T.S. Eliot.
Mùa Hè năm đó Paris kỷ niệm lần thứ 100
phá ngục Bastille – 1889.
Lễ hội cổ xưa St. John’s Eve
thì vào đêm tôi sinh ra đời, và
vẫn là như thế, 23 Tháng Sáu.
Tên tôi, là
để vinh danh bà ngoại tôi, Anna Yegorovna Motovilova.
Mẹ của bà, dòng dõi Hốt Tất Liệt, công
chúa Hung
Nô, Akhmatova. Tên của bà,
tôi lấy làm bút hiệu, không biết
rằng thì là mình sẽ trở thành thi
sĩ Nga [bà khiêm tốn, đúng ra, trở thành
nữ thần thi ca Nga, một nữ thần sầu muộn, như Brodsky vinh danh
bà.]
Tôi sinh ra tại dacha
Sarakina, gần Odessa. Cái dacha này thì
cũng chẳng khác chi một túp lều ở cuối 1 dải
đất hẹp chạm biển. Bãi biển có bực đi xuống.
Khi tôi 15 tuổi, có
lần dạo chơi, tới túp lều. Tới lối vô, tôi
nói bâng quơ, sau này người ta sẽ khắc
1 tấm biển, ghi lại cái ngày mà tôi tới
đây.
Mẹ tôi, nhìn
tôi, lắc đầu, không biết tao nuôi nấng
mi tệ hại ra sao, mà nên nông nỗi này! Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Earthly fame's like smoke, I guess-
It's not what I asked for from those above.
I brought so much luck and happiness
To all the men I blessed with love.
One's alive even at this date,
Mad for a girlfriend he met somewhere.
The other turned bronze and stands in wait
Covered with snow, in the village square.
1914
Anna Akhmatova
Danh vọng trần thế thì như khói,
tôi nghĩ thế -
Thứ đó, tôi không đòi,
từ những đấng ở bên trên kia
Tôi đem đến quá nhiều may mắn và
hạnh phúc
Cho tất cả những người đàn ông mà
tôi ban phước tình yêu
Một người thì còn sống, vào
thời điểm này,
Khùng, vì 1 cô bạn mà
anh ta gặp ở đâu đó
Còn người kia thì biến thành
đồng và đứng đợi,
tuyết phủ đầy người
ở quảng truờng làng
1914
Bài thơ mới nhất của Charles
Simic,
xuất hiện trên số báo NYRB mới
nhất, 16.8.2018: SN/GCC
Tks me-xừ Simic
Tầu Ma thì cũng mắm xốt Tầu Suốt!
Tầu Ma
Những khoảnh khắc thiêng liêng
Tính ở với chúng ta đời đời,
Loáng 1 phát, đi sạch
Không thèm bye bye cái con khỉ khô
gì hết!
Sao vội thế, hử, hử?
Gấu nghe Gấu lẩm bẩm
Mi có quyền nín thinh – nghe nói Vẹm
bi giờ cũng bầy đặt bịp thêm trò này –
Đêm biểu,
Khi Gấu ngồi trên giường
Loay hoay, hì hục
Làm thế nào “nắm bắt cú nắm bắt” tới,
ở trong đầu.
Gấu bỗng nhớ một cái cửa sổ mở tung ra,
Vào 1 ngày hạ
Lên 1 cái nền
Là cả 1 bầu trời lớn
Ở 1 bãi biển
Và 1 cụm mây – xanh xanh những mấy ngàn
mây –
Nhợt nhạt như con ngựa
Mà ông bạn thân của Gấu - là
Thần Chết -
Ưa cưỡi.
Luôn luôn hạnh phúc
khi bắn 1 phát vào cơn gió thoảng!
Cụm mây cô đơn
Đang thì thầm với Gấu, trong khi dạt mãi
ra biển
Tới 1 con tầu nào đó
Nơi chân trời
Ui chao, nó thì lên đường,
Nó thì ra khơi
Nó thì sẵn sàng biến mất
Ra khỏi tầm nhìn
Trên đường tới một bến cảng
Và một xứ sở mất mẹ nó tên,
Hay,
Chưa từng bao giờ có tên! (1)
Tầu Ma
Chắc chắn rồi
Hay, Tầu Ma của Gấu
Thì cũng rứa
[Cái gì gì, tôi gọi tên
tôi cho đỡ nhớ!]
Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng quá tới!
(1)
Ý này, thuổng của K:
Fri, 24 Mar 2006 01:14:44 -0800 (PST)
[…] xin chia buồn với anh về sự ra đi của
ông Thanh Tâm Tuyền, một người dường như đã mang
một phần đời của anh.
Hay, anh mang một phần đời của ông ấy?
You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.
That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
Mi sẽ nghe tiếng sấm
Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó đã từng,
vào lúc đó, sẽ cháy bừng bừng
Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ trở thành
hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng đời thừa thãi
còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.
A RIDE
My feather was brushing the top of the carriage
And I was looking in to his eyes.
There was a pining in my heart
I could not recognize.
The evening was windless, chained
Solidly under a cloud bank,
As if someone had drawn the Bois de Boulogne
In an old album in black indian ink.
A mingled smell of lilac and benzine,
A peaceful watchfulness.
His hand touched my knees
A second time almost without trembling.
ANNA AKHMATOVA
Translated by D.M Thomas
Russians Poets
Everyman’s Library
Một chuyến đi
Cái lông chim vũ của tôi thì đang
quét quét
Ở trên chỏm chiếc xe ngựa
Và tôi thì đang nhìn vô mắt chàng
Có cú nhói ở tim tôi
Tôi không thể nhận ra
Buổi chiều không gió,
Bị xiềng thật chặt bên dưới một bức tường mây
Như thể 1 người nào đó đã vẽ công viên
Bois de Boulogne [Paris]
Trong 1 cuốn an bum cũ, bằng mực đen Ấn Độ
Một mùi tử đinh hương lẫn mùi xăng,
Một chăm chú theo rõi bình yên
Tay chàng bèn chạm khẽ vào đầu gối tôi
Lần thứ nhì
Gần như không run run.
Ui chao, đọc thì lại nhớ lần đi với Seagull. Khi từ
giã, thấy tội quá, hẳn thế, em mới đưa tay ra...
IN DREAM
Black and enduring separation
I share equally with you.
Why weep? Give me your hand,
Promise me you will come again.
You and I are like high
Mountains and we can't move closer.
Just send me word
At midnight sometime through the stars.
1946
Trong mơ
Xa cách, đen thui và dai như đỉa
Ta chia đều với mi
Tại sao khóc? Già rồi mà còn vãi
lệ hoài, không sợ con nít nó cười cho ư?
Đưa tay ra, ta cho phép mi cầm tay ta, như lần từ giã
chót, trên chiếc xe mà ta mượn của 1 người bạn
Hãy hứa với ta, mi sẽ lại qua Cali, thăm ta.
Ta và mi là hai ngọn đỉnh trời,
Sừng sững, khó mà gần gũi nhau hơn.
Hãy mail cho ta, vậy là OK rồi
Vào lúc nửa đêm, cỡ đó,
Qua những vì sao.
Bài thơ mới nhất của Charles
Simic,
xuất hiện trên số báo NYRB mới nhất, 16.8.2018:
SN/GCC
Tks me-xừ Simic
Tầu Ma thì cũng mắm xốt Tầu Suốt!
Trong một tiểu sử trung thực,
thận trọng, quyền uy, Joseph Brodsky: Một đời văn, “Joseph Brodsky:
A Literary Life” (Yale; $35; Jane Ann Miller dịch từ tiếng Nga), tác
giả, Lev Loseff, bạn cũ của Brodsky đã nhấn mạnh tới cái
sự bỏ học “đi hoang” của nhà thơ, với lập luận là, chính
cái sự bỏ học này đã khiến nhà thơ không
lâm vào tình trạng tẩu hoả nhập ma, khi bị nhồi
nhét ba cái thứ, thí dụ, làm toán
thì hôm nay làm thịt được mấy tên Mỹ Ngụy,
làm thơ thì đường ra trận mùa này đẹp lắm,
nói tóm lại, nhờ bỏ học đi làm, Brodsky đã
thoát không bị tiêu ma, ruined, bởi sự “bội thực học”.
Brodsky cũng nghĩ như thế. “Sau đó, tôi
lấy làm tiếc cho cái sự bỏ học sớm, nhất là
khi thấy mấy đấng bạn quí leo cao trên những bậc thang
xã hội, lặn sâu vào trong chính quyền,”
ông viết, “Nhưng, tôi hiểu ra một điều mà họ không
hiểu được. Sự thực, tôi cũng đi tới, đi lên, nhưng ngược
chiều với họ, và có vẻ như, vừa đi ngược chiều, tôi
vừa đi xa hơn họ”.
Cái chiều ngược này có thể gọi bằng
nhiều tên: dưới hầm, chui, samizdat, hay tự do, hay Tây
Phương.
Loseff mô tả lần đầu anh
nghe Brodsky đọc thơ. Ðó là vào năm 1961.
Trước đó ít lâu, một người nào đó
đưa cho anh một xấp thơ của Brodsky, nhưng đánh máy thật
khó đọc [bản thảo thơ dưới hầm, thơ chui thường được đánh
máy hai ba tờ cùng 1 lượt], và Loseff không
khoái những dòng thơ lộn xộn như thế. Tôi tìm
cách chuồn, anh nhớ lại. Nhưng lần đó, cả đám chọn
ngay căn phòng của vợ chồng ở để mà đọc thơ, thế là
thua. Anh bắt dầu đọc bài ballad dài của anh, “Hills,” và
Loseff sững sờ: “Tôi nhận ra chúng là những bài
thơ mà tôi mơ tưởng mình sẽ viết ra được, ngay cả chưa
từng bao giờ biết đến chúng…. Như thể 1 cánh cửa được mở bung
ra một không gian mở rộng, một không gian chúng tôi
chưa từng biết, hay nghe nói đến. Chúng tôi chẳng hề
có 1 ý nghĩ, hay tư tưởng, về thơ Nga, ngôn ngữ Nga,
ý thức Nga lại có thể chứa đụng những không gian như
thế.”
Nhiều người cũng cảm thấy như vậy, khi đọc thơ Brodsky.
Một người bạn bị KGB tóm, nhớ lại là khi bị chúng
hỏi về Brodsky, đã thành khẩn cung khai, trong số tất
cả những nhà thơ mà anh ta biết, thì Brosky thể
nào cũng có ngày ẵm Nobel văn chương!
Ðó là 1 thời mà dân Nga
đẫm mình trong hào quang ngày mai tươi sáng,
chúng ta thể nào cũng xây dựng được cái
nhà Nga to bằng năm bằng mười khi đánh chết cha lũ Mỹ
Ngụy, hà hà, và một người nào đó
phải ôm lấy tất cả những nghị lực, những hy vọng lớn lao, và
một người nào đó, là… Brodsky!
[Ui chao, lại nghĩ đến cái
thời kỳ huy hoàng tương tự của cả Miền Nam ngay sau 30 Tháng
Tư 1975. GCC khi đó ở trong tù VC, nghe “Con Kinh Ta
Ðào” mà nước mắt dàn dụa vì hạnh phúc,
“thúi” đến như thế, ”sướng” đến như thế!]
Ðiều quan trọng là
thơ của Brodsky thì đương thời và địa phương [contemporary
and local]. Và cũng còn quan trọng, là, như món
nợ đối với chủ nghĩa hiện đại Anh - Mỹ, chúng [những bài
thơ của Brodsky] nối kết một nhóm nhỏ của những nhà
thơ Leningrad với thế giới lớn lao.
Nhưng trên tất cả, tối quan trọng, cực kỳ quan
trọng, là,trong cái
sự trung thành sáng tạo đối với truyền thống hình
thức cổ xưa, lỗi thời, chúng kết nối thế hệ của ông với
những nhà thơ lớn của quá khứ Nga. Nadezhda Mandelstam, bà vợ góa của
thi sĩ, tuyên bố Brodsky là một Mandelstam thứ nhì. Và rồi vào
Tháng Mười 1962, Khrushchev đối đầu với Tông Tông Mẽo
Kennedy về vụ hoả tiễn Nga ở Cuba, nhắm vô xứ Cờ Huê, và,
đụng tên cao bồi hung hãn quá, Khrushchev
ôm đầu máu bỏ chạy về Liên Xô cùng
với giàn hoả tiễn, Người nhè đám nghệ sĩ quạt
cho đỡ quê: Trong 1 cuộc trưng bày nghệ thuật của đám
nghệ sĩ trẻ ở Moscow, Người gọi họ là lũ “pê đê”.
Thời kỳ Băng Tan chấm dứt. Một năm sau, Brodsky bị bắt, bị buộc tội tên
ăn bám, ăn hại xã hội, nhà nước nhân dân
Nga.
*
Trong giới trí thức, sau
đó, nhiều người tin rằng, do niềm tin [a point of faith], nếu không
muốn nói, niềm tự hào, nhà nước Liên Xô
phát giát ra thiên tài Brodsky, “sớm” hơn tất
cả, khi bắt ông. Trong một bài viết về
Brodsky, ký giả Mẽo của tờ The New Yorker, David Remnick
[Gấu biết đến Brodsky là qua bài viết này, vừa
đọc xong là đi 1 đường giới thiệu liền trên tờ Văn Học
của NMG] viết, ngay cả bây giờ, một vài sử gia vẫn còn
tự hỏi tại sao chính quyền Cộng-sản bắt đầu cuộc thanh trừng
bằng cách bắt giữ một nhà thơ 23 tuổi chưa được nhiều
người biết tới. Nhưng đó chỉ là một bí mật đối
với người nào còn nghi ngờ bản năng của thú dữ
khi nhận ra đâu là nguy cơ lớn lao nhất đối với chế độ.
Và bắt lầm còn hơn bỏ sót.
Tuy nhiên, trong cuốn tiểu sử về bạn, Loseff đả
phá mọi luận cứ như thế. Thực sự, theo anh, sự khui ra và
đưa đến bắt giữ Brodsky, là từ tay trưởng khóm, hoặc
trưởng phố, hay công an khu vực [the head of a community-watch
group], tay này biết đến tiếng tăm của Brodsky ở trong khu vực
hắn, dưới quyền uy của hắn.
Chỉ có vậy!
Chỉ là 1 tai nạn mà chính quyền
Liên Xô đã tóm được 1 trong những thiên
tài thi ca lớn lao nhất của đất nước Nga, của ngôn ngữ
Nga!
Vụ án, ra toà của
Brodsky gồm hai đợt, cách nhau vài tuần lễ, vào Tháng
Hai và Tháng Ba 1964, và giữa hai lần, Brodsky nằm nhà
thương tâm thần, ở đó, ông được giới y sĩ nhà nước
chứng nhận, chẳng bịnh tật gì hết, dư sức ra tòa, nhận án.
Vụ án là trò hề, án tòa thì đã
có sẵn, trước khi có vụ án, và có cái
tên là “Vụ án tên ăn hại, ăn bám Brodsky”,
như cái biển gắn bên ngoài phòng luận tội.
Bên trong, tất cả đám nhà nước, ông
tòa, những người đại diện nhân dân Nga, chẳng
ai quan tâm, hoặc có tí hiểu biết, hay đã
từng đọc thơ của ông. Brodsky khi đó chưa in thơ, và
sống bằng việc dịch dọt, đám người buộc tội muốn biết, làm
sao ông có tiền, và liệu ông có lợi
dụng những người cộng sự của ông. Họ muốn biết dịch có phải
là1 nghề không, nếu nó
đem đến tí ti, hoặc chẳng 1 tí ti tiền:
Nhân dân buộc tội
số 1:
Chúng tôi đã kiểm tra, Brodsky nói,
hắn ta có được 150 rúp từ 1 công việc làm,
nhưng thực sự chỉ có 37 rúp.
Brodsky:
Ðó là tiền a-văng, tiền đưa trước,
tiền đặt cọc [hiểu chưa thằng ngu!]
Ông khi đó chưa
được 24 tuổi đầu, hà, hà!
Rein, bạn của Brodsky nhớ lại,
đợt ra tòa lần thứ nhì rơi đúng vào dịp
lễ Maslenitsa, hay Butter Week, lễ truyền
thống đợp bánh pancake, và hậu quả là, vào
đúng ngày tòa xử, Rein cùng đám
bạn rủ nhau tới khách sạn làm 1 chầu, và tới 4 giờ
cả bọn kéo tới tòa án. Chẳng đấng bạn nào
ngửi ra cái mùi trầm trọng của sự kiện.
Nhưng Brodsky thì lại ngửi ra. Suốt thời gian
của vụ án ngắn ngủi, ông tỏ ra nghiêm trọng,
serious, trầm lặng, kính nể, respectful, và chắc chắn,
vững như bàn thạch, về cái điều, ông được sinh
ra là để “deal” với 1 trường hợp như thế:
Ông Tòa: Hãy trả lời trước Tòa,
tại làm sao giữa những cái jobs, anh không làm
việc mà lại dông dài sống như 1 tên ăn
hại?
Brodsky: Tôi làm việc giữa những cái
jobs chứ. Tôi làm cái điều mà tôi
làm: Tôi làm thơ.
Anh viết “cái mà” anh gọi là thơ?
Thế thì anh có làm cái gì tỏ
ra có ích giữa những lần thay đổi liên tục những
cái jobs của anh?
Brodsky: Tôi bắt đầu làm việc khi 15 tuổi.
Cái gì thì cũng thích thú đối với
tôi, nghĩa là, tôi quan tâm đến mọi cái
gì. Tôi thay đổi việc làm là vì tôi
biết, muốn học nhiều về cuộc đời, về mọi người.
Anh làm cái gì cho Ðất Mẹ?
Tôi làm thơ. Ðó là công
việc của tôi. Tôi tin tưởng… Tôi tin rằng cái
mà tôi viết thì có ích cho mọi
người không chỉ bây giờ mà còn cho thế
hệ tương lai.
Như vậy là theo anh, cái mà anh
gọi là thơ đó thì có ích cho
mọi người?
Tại làm sao mà ông gọi thơ của tôi
là “cái gọi là”?
Tòa gọi như thế, vì Tòa đếch biết
cái mà anh làm đó là cái
chó gì!
Cái đoạn
David Remnick, ký giả Mẽo của tờ Người Nữu Ước viết về Brodsky ra tòa
mới thật là tuyệt vời, và nhìn ra được vai trò
của ông, sinh ra là để đóng cái vai của
mình, dù đếch có muốn.
Nên nhớ, Brodsky rất tởm đóng vai nhà
văn, nhà thơ, tuẫn nạn, tuẫn niếc, [Đối với ông, chỉ
là thi ca, không phải anh hùng ca. Remnick],
nhưng nếu Ông Giời khốn kiếp bắt ta đóng,
thì ta sẽ đóng, và đóng 1 cách tuyệt
hảo.
Bởi thế mà bài viết của Remick mới có
cái tít Ðỉnh Cao Tuyệt Hảo, Perfect
Pitch, và khi được in vô sách, cuốn sách
có tiểu tít là “vấn đề cái ác”
của thế kỷ. Ông viết:
Có nhiều
nhà thơ có tài, có thể ở vào chỗ
anh ta khi đó, Efim Etkind viết. Nhưng số phận đã chọn
đúng anh ta, và ngay lập tức anh hiểu trách nhiệm
về địa vị của anh - không còn là một con người riêng
tư, nhưng trở thành một biểu tượng, như Akhmatova đã trở
thành một biểu tượng quốc gia của người thi sĩ Nga, khi bà
bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà thơ, năm 1946. Thật
quá nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ,
một trái tim tệ. Nhưng ông đã đóng vai ông
tại tòa án một cách tuyệt vời.
Thế đấy. Theo nghĩa
thế đấy, cái vai tuyệt vời mà Ông Giời dành cho
thi sĩ mê gái HC, là, khi bị Tố Hữu bắt viết tự kiểm,
thì bèn phán, ông đếch viết, được không.
Của ông Nobel Toán, là cầm cái
bửu bối dí vào Lăng Bác, hô, biến!
Cái gì gì, "Thiên
sinh hào kiệt bất ưng hư", Cao Bá Quát
phán, là cũng theo nghĩa đó: Trời sinh ra hào
kiệt không phải để thối nát ra, như ông HC, như
ông NBC.
Trời sinh ra GCC
là để mê… BHD, nhưng khi rảnh rang
thì lèm bèm về Cái Ác Bắc Kít!
Việc nào ra việc đó!
Hà, hà!
Chúc Mừng Sinh Nhật
Aug 9 at 2:21 PM
Gấu Nhà Văn kính mến,
Người đọc sơ cơ còn ở trình độ sơ khai
về văn học - với cái nickname nghe cũng quá là
sến Hải Âu - xin được cảm ơn Gấu Nhà Văn thật nhiều.
Dẫu lọ mọ chỉ muốn đứng mấp mé bên hàng rào
cuả nhà văn, nhà phê bình, không
chịu, không muốn hoặc không dám tiến vào
sự đọc vì một vài lý do, nhưng Hải Âu cũng
đã học được rất nhiều từ hai vị. Thật sự ngưỡng mộ và quí
mến.
Xin kính chúc Gấu Nhà Văn một
muà sinh nhật đầm ấm bên người thân và
an lạc với riêng mình. Những người với tâm hồn
nhân hậu và đầy sự cảm động thì không có
một chỗ nào cả trong nhân gian, giưã một thế giới
cuả bạo lực, tranh tố, sát phạt, loại trừ không thương
tiếc. Họ biết đứng ở nơi đâu, ở bên nào, dòng
giống nào, hệ thống nào, khi lòng họ tràn
đầy lòng thương, sự hiểu biết về cái tốt lẫn cái
xấu, muốn tất cả luôn được tôn trọng, tha thứ, nâng
đỡ và thông cảm? Hải Âu thấy cây cỏ, chim chóc,
ong bướm tuy thật "vô tổ chức", nhởn nhơ quá, nhưng chúng
có vẻ "hạnh phúc" hơn con người.
Thôi Hải Âu không dám "triết
lý quèn bậy bạ" nưã, chỉ mong Gấu Nhà
Văn luôn vui vẻ, yêu đời yêu người. Many Happy
Returns and many many more...
Thân kính,
Seagull.
Tks
Take Care
NQT & TT & Family
NO TIME TO STOP AND THINK
The only hope is the next drink.
If you like, you take a walk.
No time to stop and think,
The only hope is the next drink.
Useless trembling on the brink,
Worse than useless all this talk.
The only hope is the next drink.
If you like, you take a walk.
Không có thì
giờ để ngưng 1 phát và nghĩ, cũng 1 phát!
Hy vọng độc nhất là cú “dzô”
tới
Nếu mi thích, thì đi 1 đường tản
bộ
Không có thì giờ để ngưng
và nghĩ
Hy vọng độc nhất là cú nốc tới
Thật là vô ích, vô dụng,
cái chuyện run rẩy ở mép bờ - địa ngục, tận thế
Mít, thí dụ-
Nó còn tệ hại hơn cả ba cái
chuyện lải nhải- như thế này -
Hy vọng độc nhất là cái lần nốc
tới
Và nếu mi thích, thì đi 1
đường tản bộ
What kind of man I was to be you’ve known since the
beginning,
since the beginning of every creature.
It must be horrible to be aware, simultaneously,
of what is, what was,
and what will be.
I began my life confident and happy,
certain that the Sun rose every day for me
and that flowers opened for me every morning.
I ran all day in an enchanted garden.
Not suspecting that you had picked me from the Book
of Genes
for another experiment altogether.
As if there were not proof enough
that free will is useless against destiny.
Under your amused glance I suffered
like a caterpillar impaled on the spike of
a blackthorn.
The terror of the world opened itself to me.
Could I have avoided escape into illusion?
Into a liquor which stopped the chattering
of teeth
and melted the burning ball in my breast
and made me think I could live like others?
I realized I was wandering from hope to hope
and I asked you, All Knowing, why you torture
me.
Is it a trial like Job’s, so that I call faith
a phantom
and say: You are not, nor do your verdicts
exist,
and the earth is ruled by accident?
Who can contemplate
simultaneous, a-billion-times-multiplied pain?
It seems to me that people who cannot believe in you
deserve our praise.
But perhaps because you were overwhelmed by pity,
you descended to the earth
to experience the condition of mortal creatures.
Bore the pain of crucifixion for a sin, but committed
by whom?
I pray to you, for I do not know how not to pray.
Because my heart desires you,
though I do not believe you would cure me.
And so it must be, that those who suffer will continue
to suffer,
praising your name.
~ Czeslaw Milosz, This, 2000
Một tên ghiền lừ khừ đi vô
thiên đường
Ta là thứ người gì, theo Mi, kể từ khởi
thuỷ
Kể từ khởi thuỷ của mọi sinh vật
Phải thật là khủng khiếp khi “đau đáu suy tư,
trải lòng, trải mề” - toàn chôm của Vẹm –
Cùng lúc,
Cái gì, cái đã gì,
và cái sẽ gì
Ta bắt đầu đời ta, một cách tin tưởng và
hạnh phúc
Chắc chắn Mặt Trời sẽ mọc mỗi ngày, hàng
ngày cho ta
Hoa sẽ nở cho ta mỗi sáng, mọi sáng
Ta chạy vô khu vườn thần tiên suốt ngày
Chẳng nghi ngờ chi, rằng Mi nhặt ta ra, từ cuốn Sinh Vật
Học
Cùng với một kinh nghiệm khác
Như thể, chứng liệu thì chưa đủ
Và tự nguyện thì vô ích,
Nhằm chống lại số phần.
Dưới cái nhìn tủm tỉm của Mi, ta đau khổ
Như loài ấu trùng bị gai nhọn xuyên
qua
Nỗi khiếp sợ, sự kinh hoàng của thế giới, tự nó,
chính nó, mở ra cho ta
Hay là ta trốn vào ảo tưởng?
Vào cơm đen, rượu đỏ, nó làm ngưng
ba thứ huyên thuyên, ba xạo, bá láp của
hai hàm răng
Và nung chảy trái banh nóng bỏng
ở trong ngực ta
Làm ta nghĩ, hay là ta cũng thử sống “bửn”,
như cả nhà Mít!
[Hà, hà, nhảm quá!]
Ta nhận ra, ta đang lang thang, từ hy vọng tới hy vọng
Và ta bèn hỏi Mi, Kẻ Biết Đủ Thứ,
Tại làm sao mà mi tra tấn ta – GCC - khủng
khiếp đến như thế?
Đúng là một cú án tòa,
giống như của Job
Và ta có thể coi, niềm tin, thì cũng
cẩm, ảo tưởng, ma mị
Và, dõng dạc phán:
Mi là cái chó gì, và
những bản án của mi thì cũng đếch hiện hữu
Và trái đất thì được cai trị bởi
ngẫu nhiên, tình cờ?
Ai có thể chiêm ngưỡng, cùng lúc,
đồng thời - một cú đau, được nhân lên cả tỉ lần?
Có vẻ như đối với ta, kẻ nào đếch tin có
Mi thì lại được chúc phúc, xứng đáng được
Mi… xoa đầu?
Nhưng có lẽ là do Mi bị xặc xụa, quá
tải, sự thương hại
Mi bèn bò xuống trần gian
Để kinh nghiệm phận người, cái gì gì
sinh bịnh lão tử, của bè lũ sinh vật
Vác thánh giá vì 1 tội lỗi,
nhưng do kẻ khác, kẻ nào, phạm?
Ta cầu nguyện cho Mi, bởi là vì ta không
làm sao biết, cái gọi là “không cầu nguyện”
Bởi là vì trong tận cùng trái
tim của ta, ta ước muốn Mi.
Tuy biết rõ muời mươi, Mi làm sao kíu
ta nổi?
Ta cũng không tin Mi muốn làm cái
việc chữa lành bịnh cho ta
Và chuyện phải tới, thì phải tới
Rằng, những kẻ đau khổ vưỡn sẽ tiếp tục đau khổ, cầu nguyện
Nhân danh Chúa Ở Trên Cao!
A TASK
In fear and trembling, I think I would fulfill my life
Only if I brought myself to make a public confession
Revealing a sham, my own and of my epoch:
We were permitted to shriek in the tongue of dwarfs and
demons
But pure and generous words were forbidden
Under so stiff a penalty that whoever dared to pronounce
one
Considered himself as a lost man.
Czeslaw Milosz: Selected Poems [revised]
Một nhiệm vụ
Trong run rẩy sợ
hãi Gấu nghĩ, Gấu sẽ chu tất đời mình
Chỉ 1 khi Gấu dám trình Gấu ra trước công
luận của loài Mít
Và đi 1 đường thú tội trước nhân zân
[thuổng lối viết của Bác Hồ]
Vén lộ ra, phơi bày, một giả mạo, của chính
Gấu và thời của Gấu:
Chúng ta được phép la ó, rít
róng... bằng tiếng của những thằng lùn và ma
quỉ
Nhưng những từ trong trắng, rộng lượng thì bị cấm
đoán
Bằng 1 án lệnh cực kỳ dữ dằn, đến nỗi
Bất cứ kẻ nào dám thốt ra
Thì bèn biến thành, bèn tự coi
chính hắn - 1 tên Ngụy - một tên lầm lạc, bồi Mẽo,
phản động, đồi trụy…. a lost man!
Hàng mới về:
Cuốn này, Gấu order. Đọc song song với Dưới Hoả Diệm
Sơn, Under the Volcano. Post liền 1 bài, làm quà
SN/GCC. Bạn đọc bài thơ này song với bài thơ Milosz
kể, về ông, như 1 tên ghiền rượu vô Thiên Đàng
- đã post trên FB/TV mới sướng lịm người!
NO TIME TO STOP AND THINK
The only hope is the next drink.
If you like, you take a walk.
No time to stop and think,
The only hope is the next drink.
Useless trembling on the brink,
Worse than useless all this talk.
The only hope is the next drink.
If you like, you take a walk.
What kind of man I was to be you’ve known since the beginning,
since the beginning of every creature.
It must be horrible to be aware, simultaneously,
of what is, what was,
and what will be.
I began my life confident and happy,
certain that the Sun rose every day for me
and that flowers opened for me every morning.
I ran all day in an enchanted garden.
Not suspecting that you had picked me from the Book of Genes
for another experiment altogether.
As if there were not proof enough
that free will is useless against destiny.
Under your amused glance I suffered
like a caterpillar impaled on the spike of a blackthorn.
The terror of the world opened itself to me.
Could I have avoided escape into illusion?
Into a liquor which stopped the chattering of teeth
and melted the burning ball in my breast
and made me think I could live like others?
I realized I was wandering from hope to hope
and I asked you, All Knowing, why you torture me.
Is it a trial like Job’s, so that I call faith a phantom
and say: You are not, nor do your verdicts exist,
and the earth is ruled by accident?
Who can contemplate
simultaneous, a-billion-times-multiplied pain?
It seems to me that people who cannot believe in you
deserve our praise.
But perhaps because you were overwhelmed by pity,
you descended to the earth
to experience the condition of mortal creatures.
Bore the pain of crucifixion for a sin, but committed by whom?
I pray to you, for I do not know how not to pray.
Because my heart desires you,
though I do not believe you would cure me.
And so it must be, that those who suffer will continue to
suffer,
praising your name.
~ Czeslaw Milosz, This, 2000
Gấu đậu Tú Tài II rất sớm, 1958.
Sau đó, thi vô Sư Phạm 3 năm. Rớt. Đói quá,
xin làm Biên Tập Viên Cảnh Sát, khi Nha Cảnh Sát
Gia Định tuyển nhân viên, nhưng Bà Trẻ, người nuôi
Gấu lắc đầu, mi không làm được cái nghề đánh
người. [Bà nói, nhà mi không có mả đánh
người, Gấu nhớ hoài].
Bèn thi vô Bưu Điện, khi nhà trường vừa
mới thành lập, khóa đặc biệt, và cũng là
khóa I, điều kiện Tú Tài II, học hai năm, thay
vì 3 năm, những khóa sau đó, chỉ cần bằng Trung
Học, sau đó, lại có Tú Tài II mới được
nạp đơn xin thi!
Gấu học, chỉ nửa khóa I.
Do tiếc cái bằng Tú Tài II. Nếu học
Sư Phạm 3 năm, ra trường, lương bằng Kỹ Sư, trong khi học Bưu Điện,
ra trường lương Cán Sự. Thế là, đậu, nhưng không
đi học.
Năm sau, lại tính thi vô Sư Phạm, đến văn phòng
trường Bưu Điện, xin lại cái hồ sơ dự thi, trong có bản
sao bằng Tú Tài. Thầy Tổng Giám Thị biểu Gấu, mi
ngu quá, và, nghèo quá – không có
tiền phô tô cái bằng – sao không học Bưu Điện,
ra trường, đi làm có tiền, muốn học gì mà
chả được.
Nghe bùi tai quá, thế là Gấu bèn
hỏi lại, nhưng thưa Thầy Giám Thị, em không học năm đầu…
Ông nói, để ta xin với Thầy Hiệu Trưởng.
Hiệu trưởng, là Thầy Trần Văn Viễn, Kỹ Sư Viễn Thông,
mới ở Pháp về.
Ông phán, biểu nó vô đây.
Ông ban cho Gấu cục phấn, sau khi ghi 1 bài toán
lên bảng.
Gấu giải như máy!
Sự tình đúng như thế.
Thầy Viễn im lặng, chăm chú theo rõi, đến 1
lúc, ông biểu Gấu ngưng, và hỏi, mi giải kiểu gì
vậy?
Số là, Gấu giải bài toán, theo kiểu
Đại Học, qua 1 năm học MPC ở Đại Học Khoa Học.
Bạn học toán, chắc là còn nhớ bài
toán “giả thử” của lớp Nhất, gà chó 36 con, bó
lại cho cho tròn, đếm đủ 100 chân, hỏi mấy gà, mấy
chó. Phải giả thử, tất cả là chó, hay là
gà, thì số chân sẽ khác…
Nếu dùng phương trình, với 2 ẩn số x, y, dễ
ợt.
Cách giải bài toán của Gấu, do học 1
năm Đại Học, khác cách giải của chương trình Cán
Sự Bưu Điện!
Ui chao, khi giải xong bài Toán, Thầy Viễn
mặt mày sáng rỡ, phán, cho mi vô học, khỏi
cần học năm đầu!
Tks Thầy!
NQT
THE LAST EVENING
NIGHT and the distant rumbling; for the train
of the whole army passed by the estate.
But still he raised his eyes and played again
the clavichord and gazed at her ... and waited,
almost like a man looking in a mirror
which was completely filled with his young face,
knowing how his features bore his sorrow,
more beautifully seductive with the grace
of music. The scene faded out. Instead,
wearily at the window, in her trouble,
she held the violent thumping of her heart.
He finished. The dawn wind was blowing hard.
And strangely alien on the mirror table
stood the black shako with the white death's-head.
Note: Sách
xon, và Gấu thì đang mầy mò đọc Rilke.
SOLEMN HOUR
WHO weeps now anywhere in the world,
without cause weeps in the world,
weeps over me.
Who laughs now anywhere in the night,
without cause laughs in the night,
laughs at me.
Who goes now anywhere in the world,
without cause goes in the world,
goes to me.
Who dies now anywhere in the world,
without cause dies in the world,
looks at me.
THE ROSE INTERIOR
Where is there an outside
for this inside? On what pain
is linen like this placed?
What skies find themselves reflected
in the inland lake
of these open roses,
these blissfully unworried ones:
see how neglectfully in all this looseness
they relax, as if no trembling hand
could ever spill them.
They scarcely can contain
themselves; many let themselves
fill up with inner space
until they overflow and stream
into the days, which keep on
closing more and more completely,
until all of summer becomes
a room, a room within a dream.
[in The Poetry of Rilke, translated & edited
by Edward Snow, with introduction by Adam Zagajewski]
Bài Intro của AZ mới tuyệt, và
cho thấy ông thật rành về Rilke. Trên Tin Văn
có post bài này, và cái kinh nghiệm
của AZ khi lần đầu đọc Rilke, thì chẳng khác gì
lần đầu Gấu khám phá ra TTT, khi đọc Bếp Lửa trên
lề đường Sài Gòn, khi Nguyễn Đình Vượng cho bán
xon, có lẽ vì chẳng ma nào mua, và nhờ
thế, như con phượng hoàng, TTT tái sinh từ bụi đường,
từ tro than [phần thư 30 Tháng Tư 1975].
Giả như NDV không cho bán xon, liệu có
GCC?
Trong bài Intro, AZ kể, Rilke đã
chờ đợi, bền bỉ như thế nào, sắt đá như thế nào,
để viết ra Bi khúc Duino [Elegies], nhất
là Bi Khúc Cuối, và ông
nghĩ rằng, có lẽ, đây là 1 trường hợp độc nhất vô
nhị trong lịch sử văn chương thế giới.
Một cách THNM, bạn đọc Tin Văn có thể
mơ hồ cảm nhận ra điều AZ nói, khi áp dụng vào
TTT, khi ông, ở trong tù VC, nhận được thư nhà, chị
Mai Hoa cho biết Mai Thảo đã đi thoát, và ông
bừng tỉnh giấc mơ độc đoán [dogmatique-
từ này của Kant, hình như thế] (2) kéo dài
suốt từ 1954 khi rời xứ Bắc Kỳ cho tới khi trờ về, như người tù.
TTT bừng tỉnh giấc hôn
thụy, khi , ở tù VC, lần đầu tiên nhận thư nhà từ
Miền Nam, biết bạn mình là Mai Thảo đã thoát.
Văn Cao, chấp nhận ở lại... Thiên
Thai, sáng tác Buồn Tàn Thu, tặng Phạm Duy, biết bạn
mình sẽ dinh tê, sẽ vào Nam, và sẽ gieo nhạc buồn
của ông đi khắp chốn?
Gấu bừng tỉnh giấc mơ Cô
Tiên, khi thấy mình ở trong trại tị nạn Thái Lan,
biết, đã chuyển sang một kiếp khác...
(1)
Texte
Kant fut «réveillé
de son sommeil dogmatique» le jour où il lut Hume, notamment
la subtile et pénétrante critique de la connaissance
de la causalité, développée dans la septième
section de l'Essai sur l'entendement
humain de I748.
Cette critique
lui révéla que le jugement de causalité n'est point,
comme on le croyait, un jugement analytique tirant de la cause l'effet
qui s'y trouverait précontenu; mais un jugement synthétique
affirmant une «connexion nécessaire» entre une cause
et un effet radicalement hétérogènes l'un à
l'autre. La critique de Hume montrait qu'une telle connexion n'est connaissable
ni a priori par déduction (l'effet n'étant point analytiquement
précontenu dans ]a cause) ni a posteriori par expérience
(l'expérience ne pouvant donner à connaître que des
conjonctions empiriques entre des événements «entièrement
lâches et séparés», mais jamais des connexions
nécessaires). Cette critique induisait au scepticisme et compromettait
gravement les «lumières», non seulement celles de la
métaphysique prétendant connaître des réalités
transcendantes, mais celles mêmes de la physique prétendant
connaître des nécessités phénoménales.
Seules subsistait, scientifiquement valable, la mathématique, parce
que, les jugements mathématiques étant, aux yeux de Hume,
des jugements analytiques, leur nécessité pouvait être
connue a priori.
Kant bừng tỉnh "giấc ngủ
độc đoán" bữa đọc Hume, đặc biệt cái đoạn ông ta
phê bình thật là tính tế, thật là tới
chỉ, ý niệm nhân quả, được khai triển ở phần thứ bẩy của
Essai sur l'entendement humain de I748...
*
*
Tôi chẳng thế nào mà tỏ ra
khiêm tốn được. Có quá nhiều điều cháy bỏng ở
trong tôi; những lời giải cũ tán loạn ra, rời rụng ra, những
cái mới thì chẳng ra làm sao, chẳng ra đầu ra đuôi. Thế
là tôi bắt đầu, mọi chuyện, một điều, liền tù tì,
cùng một lúc. Như
thể tôi có cả một thế kỷ ở phía trước tôi.
Canetti, 1943.
Susan Sontag trích dẫn, trong Under the Sign of Saturn [đây là
tên bài viết về Walter Benjamin, sử dụng cho toàn tập],chương Mind as Passion: Cái đầu như là
đam mê.
Ông này nhà văn Đức, Nobel văn chương.
Phán bảnh thực.
Nhưng ông ta cảm thấy có cả một thế kỷ ở phiá
trước ông.
Giả như ông ta chỉ còn có tí ti
thời gian, như Gấu chẳng hạn, chắc là ông phán
còn hách hơn nhiều!
*
Bữa trước, đọc Evăn ở trong nước, hình như dịch một
bài của một tay nào đó, viết về những nhà
văn không xứng đáng mà đoạt Nobel, trong có
tên Canetti, Gấu bật cười, nghĩ thầm, Canetti mà không
đáng, thì ai đáng bi giờ? (1)
Và Gấu chợt hiểu, lý do Sartre từ chối Nobel:
Ông ta sợ, không phải cho ông ta, mà
cho những đệ tử của ông, thí dụ như... Nguyễn Văn Trung
chẳng hạn!
Những đấng con hoang được thừa nhận của Sartre!
Hà, hà!
(1) Bạn nghĩ sao khi Elias Canetti cũng
đoạt Nobel? Ông là một nhà văn hấp dẫn, dù
bạn có đo bằng thứ tiêu chí nào. Nhưng cuốn
tiểu thuyết The Blinding của ông là một sự thất
bại hoàn toàn. Danh tiếng của Canetti được tạo dựng từ
3 hay 4 tập hồi ký mà dù chúng có xuất
sắc đến cỡ nào cũng không thể giúp ông có
được một chỗ ngồi bên cạnh những Rousseau hay St Augustine.
EVăn
Cũng trong bài viết, ngay cả Heinrich Boll cũng bị coi
là không xứng đáng!
Cả hai Canetti và Boll đều được coi là những
tiếng hót của loài phượng hoàng, thò cái
mỏ của chúng ra khỏi Lò Thiêu.
Một bài viết cà chớn như thế mà cũng mất
công dịch, tiếu lâm thật! NQT
Cái tay Wilson viết bài này, lấy tiêu
chí vượt thời gian, để đánh giá tác phẩm.
Ông ta không hề biết một điều là, có những
tác phẩm, được viết ra cho chính cái thời của nó,
và cái chuyện nó vượt thời gian hay không,
là chuyện hậu xét. Có những tác phẩm, bị
lãng quên ngay khi được ra lò, nhưng hàng
ngàn năm sau, lại lừng lững tái sinh. (1)
Sartre và bồ là Simone de Beauvoir chẳng đã
cười ngất khi Kafka được coi là nhà văn của thế kỷ: Thằng
cha nào vậy? Nếu hắn ta hách xì xằng như thế, hai
đứa này đã phải biết!
Chính ông Wilson, trong bài viết, cũng
nghĩ là mình đánh giá sai về Boll.
(1): Mỗi thế hệ có chọn lựa của nó. Có
thi ca trường tồn, vĩnh cửu nhưng thật khó mà có
phê bình mãi mãi "vũ như cẩn". Tennyson sẽ
có "ngày của ông ta", và Donne, "buổi nhật
thực". Hay là, để đưa ra một thí dụ chẳng liên quan
gì tới thói ham mốt này mốt nọ: trước chiến tranh,
tại những trường Pháp nơi tôi theo học, nói chung là
ai cũng coi Virgil như là một kẻ bắt chước Homer một cách
ngây ngô, bắng nhắng. Tất cả học sinh đều khẳng định với bạn
bằng một thái độ rất ư là tự tin như thế. Cùng với
thảm họa, chuyện thường ngày về "cuộc tháo chạy tán
loạn", và lưu vong, cách nhìn trên đã
thay đổi một cách triệt để. Bây giờ, Virgil trở nên
một chứng nhân thật chín mùi, thật cần thiết. Simone
Weil và cách đọc ngang bướng sử thi "Iliad", hay "Death of
Virgil" ("Cái Chết của Virgil") của Hermann Broch, cả hai đều góp
phần trong việc tái thẩm định... Nhân Văn
Đầu năm 78 ở Lào Kay lần đầu
tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi
viết: "Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại sống,
không còn ở Sài Gòn nữa"), tôi
như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩviết vào lúc ấy
đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc
khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày
gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả
lời thơ anh.
Thanh Tâm Tuyền: Trong Đất Trời Nhau
[Tưởng niệm Mai Thảo, tạp chí Thơ, số Mùa
Xuân 1998].
So much guilt behind them and such beauty!
These landscapes, in the quiet splendor
Of early summer, toward evening, these coves
Of lakes amid lush green, when, for welcome,
Messengers come running, in saffron robes,
And bring gifts, huge balls made of light.
Or his portraits. Is not tenderness
Needed to drive a brush with such attention
Along the eyelids of a sorrowing eye
Through the furrow at lips closed by grief?
And how could he do it? Knowing what we know
About his life, every day aware
Of harm he did to others. I think he was aware.
Just not concerned, he promised his soul to Hell,
Provided that his work remained clear and pure.
Czeslaw Milosz: New and Selected Poems
Tiểu Sử/Chân Dung GCC
Hầm bà làng tội lỗi đằng sau chúng,
và đẹp đến thế!
Những phong cảnh,
Trong cái huy hoàng lộng lẫy yên ắng
đầu mùa hạ, về chiều tối,
Những vũng hồ giữa màu xanh xum xuê, khi,
Để chào mừng,
Những thiên sứ chạy tới, trong những chiếc áo
dài màu vàng nghệ
Và mang những quà tặng, những trái
banh lớn, làm bằng ánh sáng
Hay những chân dung của hắn ta
Cần dịu dàng chăng, để đi 1 đường cọ, với sự chú
tâm như thế đó,
Dọc theo những hàng lông mi của đôi
mắt u sầu
Qua những nếp nhăn của đôi môi mím
lại vì đau khổ?
Mà làm sao hắn ta có thể làm
được như thế?
Cứ coi như những gì chúng ta biết về cuộc
đời của hắn,
Ngày ngày, mọi ngày, đau đáu
- thuổng VC - về những điều tệ hại mà hắn ta gây ra cho
đồng loại,
Những tên Mít khác, nào bạn
quí, nào văn hữu, nào những giáo sư,
khoa bảng cái con mẹ gì đó!
Tớ [Milosz] biết hắn ta rất là ưu tư về điều này.
Không chỉ ưu tư, hắn hứa, hắn biếu linh hồn của
hắn cho Địa Ngục!
Với điều kiện,
Trang Tin Văn của hắn thì cứ luôn luôn
trong sáng, sáng sủa và trong trắng
Bằng sự nhân hậu và cảm động!
Loving True, Flying Blind
How often have I said before
That no soft 'if', no 'either-or',
Can keep my obdurate male mind
From loving true and flying blind?
–
Which, though deranged beyond
all cure
Of temporal reasons, know for
sure
That timeless magic first began
When woman bared her soul to man.
Be bird, be blossom, comet, star,
Be paradisal gates ajar,
But still, as woman, bear you
must
With who alone endures your trust.
Robert Graves
Yêu Thực, Bay Mù
Gấu đã từng lèm lèm nhiều
lần rồi,
Chẳng có cái dịu dàng “nếu”
, “hoặc là thế này, hay là thế kia”
Có thể khiến tên khùng điên
ba trợn này
Đừng yêu thực, và bay mù
Quá mọi rằng buộc cứu rỗi, hay, chữa lành
mọi bịnh
Của những lý lẽ nhất thời,
Hắn khăng khăng tin rằng
Phép lạ thần kỳ, thời gian không
làm sao trói buộc được
Bắt đầu,
Khi người đàn bà lột trần cái
linh hồn của ẻn ra, dâng hiến cho hắn
Hãy là chim
Mùa màng nở, chín rộ
Sao chổi, sao
Cửa thiên đàng - địa ngục càng
tốt –
Nhưng, vưỡn đàn bà
Hãy vững tin vào niềm tin này
Cái gì gì
Làm thân con gái
Suốt đời cưu mang
Suốt đời tận tụy
"Strange, is it not? that of the myriads who
Before us pass'd the door of Darkness
through,
Not one returns to tell us of
the Road,
Which we discover we must travel
too"
- Edward Fitzgerald, The Rubaiyat of Omar Khayyam
In Praise of Worms
I only have faith in you, Mr. Worm.
You are efficient and dependable
As you go about your grim business
There's a carcass of a dead cat
Waiting for you in a roadside ditch
And cries from an outdoor birthday party
As one young girl spins and falls
With a blindfold over her eyes
Underneath some trees festooned
With pennants and Chinese lanterns.
A stroke of lightning and a few raindrops
Is all it took to make them 'run indoors
And restore the peace in their yard,
So you could take cover under a leaf
And go over your appointment book,
Cross out a name here and there,
Ponder an address or two and set out
In your slow way to pay someone a visit
Among the rich scents of summer night
And the sky brimming with stars.
Charles Simic: New and selected poems
Bài ngợi ca Giun
Tớ chỉ có niềm tin ở nơi mi, Mr. Tin
Văn, ấy chết xin lỗi, Mr. Giun
Mi thì hữu hiệu, và tin cậy được
Khi chăm lo cái bi-zi-nét chẳng
thích thú chi của mi
Có xác con mèo chết
Đang đợi mi ở cái rãnh bên
con lộ
Và những tiếng than khóc từ một
bữa tiệc sinh nhật ngoài trời
Một cô gái trẻ lảo đảo và
té
Với miếng vải bịt mẹ cặp mắt của cổ
Ở bên dưới đám cây kết thành
tràng hoa
Với những cái dây có móc,
như thòng lọng, và những cái đèn
lồng của Tẫu
Một cú sấm sét và vài
giọt mưa
Tất cả ba cái lẩm cẩm đó khiến
tớ bỏ vô trong
Và trả lại hòa bường cho khu
vườn của họ
Mi có thể núp dưới cái
lá
Và đi 1 đường kiểm tra cuốn sổ hẹn của
mi
Gạch bỏ một cái tên, chỗ này,
chỗ nọ
Cân nhắc 1, hay 2, cái địa chỉ,
và lên đường
Thì vưỡn theo cái cách
nhẩn nha của mi
Làm 1 cú viếng thăm ai đó
Giữa những mùi đậm đặc, giầu có
của một đêm hè
Và bầu trời đầy sao.
Someone is harshly coughing on the next floor,
Sudden excitement catching the flesh of his throat:
Who is the sick one?
Who will knock at
the door,
Ask what is wrong and sweetly pay attention,
The shy withdrawal of the sensitive face
Embarrassing both, but double shame is tender
-We will mind our ignorant business, keep our place.
But it is God, who has caught cold again,
Wandering helplessly in the world once more,
N ow he is phthisic, and he is, poor Keats
(Pardon, 0 Father, unknowable Dear, this word,
Only the cartoon is lucid, only the curse is heard),
Longing for Eden, afraid of the coming war.
The past, a giant shadow like the twilight,
The moving street on which the autos slide,
The buildings' heights, like broken teeth,
Repeat necessity on every side,
The age requires death and is not denied,
He has come as a young man to be hanged once more!
Another mystery must be crucified,
Another exile bare his complex care,
Another spent head spill its wine, before
(When smoke in silence curves
from every fallen side)
Pity and Peace return, padding the broken floor
With heavy feet.
Their linen hands will
hide
In the stupid opiate the exhausted war.
Delmore Schwartz
Note: Anh già ho dữ quá, sợ không
qua khỏi con đông lạnh giá này!
Một tên nào đó
ho dã man như trước đây
Môt tên nào đó ho tàn
nhẫn ở tầng kế
Một cú sảng khoái bất thần cào
cổ họng hắn ta
Tên bịnh nào thế?
Ai gõ cửa thế?
Có gì trục trặc, một giọng dịu dàng
cất lên
Cái nhìn bẽn lẽn rút lui cùng
bộ mặt khả ái
Có tí bối rối kèm theo
-Không có chi đâu…
Nhưng đó là Thằng Chả,
Thượng Đế
Còn ai trồng khoai ở chốn này này?
Hắn lại ho
Lang thang thế giới, vô vọng, một lần nữa
Bây giờ, hắn lao phổi, và hắn ta là
Keats tội nghiệp
(Tha lỗi cho con, Cha, Kẻ Đáng Yêu
chẳng ai biết, từ này,
Chỉ sáng suốt, trong hí họa, chỉ nghe
được, khi trù eỏ)
Hoài vọng Nước Chúa, sợ hãi
cuộc chiến sắp tới
Quá khứ, cái bóng khổng lồ như
hoàng hôn, chạng vạng
Con phố chuyển động với xe cộ trơn trượt
Những tòa nhà cao, khấp khểnh như
hàm răng gẫy bể
Lập lại sự cần thiết, từ mọi phiá
Tuổi đời đòi hỏi cái chết và
chẳng bao giờ bị từ chối
Hắn ta tới, như 1 tên trai trẻ, để được treo
cổ một lần nữa
Một bí mật nữa phải được đóng đinh thập
tự
Một lưu vong khác bóc trần sự âu
lo chăm sóc phức tạp của nó
Một cái đầu kiệt quệ làm tràn
ly rượu của nó, trước đó
(Khi khói trong im lặng lượn lờ theo mọi
phía sa đọa)
Thương Hại và Bình An trở lại, với
bước chân nặng nề trên sàn nhà
Những bàn tay sô gai sẽ giấu
Trong xì ke ngu đần, cuộc chiến mệt nhoài.
Note: Bài thơ này, và tác
giả của nó, làm GCC nhớ tới Hoàng Trúc Ly
của Mít. Cũng 1 thiên tài thi ca, cũng chết trẻ,
vì ghiền.
Và tất nhiên, còn làm
nhớ cuộc chiến mệt nhoài!
Từ văn phòng
hãng thông tấn UPI, 19 Ngô Đức Kế, nhảy mấy bước là
tới khách sạn Majestic. Một bữa xuống sở, gặp nhiếp ảnh viên
người Nhật, Sawada Kyoichi. Tôi bảo anh, tuần trước mới cưới
vợ. Anh tròn xoe mắt, nói sao không cho biết. Đám
cưới mãi tít Cai Lậy, "many VC there!" Anh bật cười,
kéo tôi băng qua đường, lên terrace khách sạn,
làm một....
RAINER MARIA RILKE was thirty-one years old and living
in Paris when he wrote his searching, off-balance sonnet "Self-Portrait
in the Year 1906." My favorite translation, if that is the right
word, is Robert Lowell's version in Imitations, a book that can be
reread in Frank Bidart and David Gewanter's definitive edition of
Lowell's Collected Poems.
Lowell took his idea of "imitation"
from Dryden, who in turn borrowed the term from Crowley. "I take
imitation of an author ... to be an endeavor of a later poet to write
like one who has written before him, on the same subject," Dryden declared
in Ovid and the Art of Translation
(1680); "that is, not to translate his words, or be confined
to his sense, but only to set him as a pattern, and to write as he supposes
the author would have done, had he lived in our age, and in our country."
Lowell could be so free with his
texts that they become virtually unrecognizable-"I have been reckless
with literal meaning," he confessed-but I find his rhyming version
of Rilke's self-portrait utterly convincing. Here, Rilke's seriousness
finds a formal American idiom that also feels natural:
SELF-PORTRAIT
The bone-build of the eyebrows has a mule's
or Pole's noble and narrow steadfastness.
A scared blue child is peering through the eyes,
and there's a kind of weakness, not a fool's,
yet womanish-the gaze of one who serves.
The mouth is just a mouth ... untidy curves,
quite unpersuasive, yet it says its yes,
when forced to act. The forehead cannot frown
and likes the shade of dumbly looking down.
A still life, nature morte-hardly a whole!
It has done nothing worked through or alive,
in spite of pain, in spite of comforting ...
Out of this distant and disordered thing
something in earnest labors to unroll.
Lowell captures Rilke's playful and
anguished tone, the self-critical gaze of a young artist who feels
unfinished, incomplete haunted by his own weakness. Rilke used the
occasion not only to recognize but also to declare his own inner conviction,
his deep sense artistic mission. He had already apprenticed himself
to Rodin he wrote this poem, and he had taken from the master an unshakable
sense of "the great work."
Lowell's version of Rilke's sonnet
stands behind Frank Bidart's poem "Self-Portrait, 1969," which appeared
in his breakthrough first book, Golden State (1973). Bidart
adds something more open and hesitant, something more radically self-questioning
to the form. His complex, original mode of punctuation gives the sense
of a man brooding, of consciousness at work. It nails down the way
the poet hears phrases coming to him. He stares at himself in the mirror;
he responds intensely to what he has just written. Bidart brings to the
self-portrait a Yeatsian sense of lyric as a form of arguing with oneself.
SELF-PORTRAIT, 1969
He's still young-; thirty, but looks younger-
or does he? ... In the eyes and cheeks, tonight,
turning in the mirror, he saw his mother,-
puffy; angry; bewildered ... Many nights
now, when he stares there, he gets angry:-
something unfulfilled there, something dead
to what he once thought he surely could be-
Now, just the glamour of habits. . .
.
Once, instead,
he thought insight would remake him, he'd reach
-what? The thrill, the exhilaration
unraveling disaster, that seemed to teach
necessary knowledge ... became just jargon.
Sick of being decent, he craves another
crash. What reaches him except disaster?
Edward Hirsch: Poet's Choice
Note: Đầu tháng, đi gặp bác sĩ gia đình,
đo máu, lấy thuốc, ghé tiệm sách cũ, vớ được
ba cuốn của Malcolm Lowry. Kể như quà của ông anh, từ
bên kia nấm mồ.
Gấu đã lỡ order cuốn này rồi, cùng1
tập thơ của Lowry.
Nói đến thư trễ, anh nhớ anh vừa đọc xong
trong tuần trước một quyển tiểu thuyết thật tuyệt, Under the
volcano của Malcolm Lowry. Một truyện tình của một anh
chàng say. Có những bức thư tình xếp xó
không gửi, những bức thư gửi đến được cất ở quán rượu không
được trả lời và một cái carte postale đến trễ cả hai năm
trời, đến vào lúc hai người đã gặp nhau vào
cái ngày của quyển tiểu thuyết. Thật tuyệt. Thật thơ.
Lowry được so sánh với Joyce với Eliot. Em tìm trong các
thư viện, đọc thử xem.
Một "thiên đường" khác
cũng biến mất, và cũng bị cháy: Malcolm Lowry cho
in Under the Volcano năm 1947: Popocatepetl
trong cuốn tiểu thuyết vĩ đại là hình ảnh của địa ngục.
Lowry sẽ sống mười lăm năm trong rừng, ở nơi hẻo lánh, tại
"British Colombia", chính xác hơn là Dollarton,
từ 1940 đến 1954. Năm 1944, cái lán nơi Lowry sống bị
cháy, và cháy luôn trong đó bản thảo
cuốn tiểu thuyết đã viết đến cả nghìn trang, In Ballast
to the White Sea, "thiên đường" mà Malcolm Lowry
muốn tạo ra, theo "mẫu" Kịch Thần của Dante: ta thấy Montesquieu
đã đúng như thế nào.
Kiều cũng hoàn toàn có
thể coi là theo đúng mô hình của Kịch
Thần. Điều này thậm chí còn quá
mức đương nhiên.
Malcolm Lowry luôn luôn gặp vấn đề với
các bản thảo: bản thảo cuốn tiểu thuyết đầu tay Ultramarine bị
mất cắp (khi nó được để trong một cái va li -
lại thêm một cái va li nữa - và cái
va li ấy để trên ghế chiếc xe mui trần của editor của Lowry)
nhưng rất may người bạn đánh máy chữ bản thảo tìm
lại được bản giấy than và khôi phục lại. Ngay bản
thảo Under the Volcano lẽ ra cũng đã
mất: Lowry để quên nó, may mà người vợ tìm
thấy.
Nhưng, lại thêm một lần nữa, dường như các
thiên đường không được phép tồn tại. Hoặc
cũng có thể, những cuốn sách không có
đủ chỗ để chứa thiên đường, chúng cũng không
có chức năng nói đến thiên đường. Có
lẽ không nên cố.
Câu chuyện còn lại trong cuốn sách
của Giorgio Van Straten liên quan đến Bruno Schulz, tất
nhiên (xem thêm ở kia
và ở kia).
Có cả một folklore xung quanh cuốn tiểu thuyết đã
bị mất bản thảo của Schulz: nó mang nhan đề Messiah.
Dường như đã quá rõ ràng, những cuốn
sách bị mất như thể muốn nói rằng, đừng có quan
tâm đến thiên đường, cũng đừng chú ý đến
các "Messiah".
Kể cả trong trường hợp của Dante: địa ngục thì
hấp dẫn vô song, nhưng phần thiên đường của Kịch
Thần thì liên tục làm người ta ngáp
ngủ.
Nhận xét của Borges, chỉ những nhà thơ hạng
nhì thì mới làm toàn những câu thơ
hay, áp dụng vào Bùi Giáng thật quá
tuyệt. Nhưng Giàng Búi
làm phê bình gia, thì sao?
Cũng tuyệt cú mèo.
Sau đây, là khúc ông viết về Huy
Cận, trong Đười Ươi Chân Kinh
Huy Cận
A thân thể! một cái bình tội lỗi
Đất sơ sinh đã hoá lại bùn lầy.
Một ý tưởng chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu
thơ của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời.
Và cổ đứng như mình cây vững chãi
Và vai ngang như mặt nước xuôi dài
Viết câu thơ lai rai như thế mới đích thực là
thiên tài. (Còn như bài “Tràng Giang”
của ông chính ông cũng lấy làm ưng ý lắm,
thật ra còn vướng vướng, không có chi huyền ảo cả.)
Và cái câu:
Tôi đội tang đen và mũ trắng
Ra đi không hẹn ở trên đường
Ông viết hai câu kỳ tuyệt như thế, thì
thử hỏi: còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô
ùa Đường Thi chạy mất hút. Toàn khối thi ca Trung
Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu như bị nổ bung
long lốc, vì trái lựu đạn đó của ông tung
ra.
Và đôi mắt ấy biết nhìn xa
Khi ngoảnh gần bên biết đậm đà
Nhưng cũng biết gieo buồn khía cạnh
Lạnh đồng tê giá nét thu ba
Tại hạ mấy năm nay đọc cũng nhiều thi ca ngoại quốc, mà
tuyệt nhiên chẳng thấy vần nào dám ngang nhiên
đứng vững trước mấy vần thất ngôn của Việt Nam nọ.
Ấy là bởi vì? Bởi vì thơ Huy Cận vốn
là sầu, nhưng đó là sầu thượng đẳng Như Lai,
nên chi trong cái nỗi sầu có pha chất gay cấn chịu
chơi. Thơ Homer, Sophocles, Shakespeare Nietzsche cũng thường có
chất đó. Trái lại, thơ hoằng viễn như không của Nerval,
Holderlin, Eluard, lại dường như không có (Ấy là vì
họ chịu chơi theo lối từ bi khác).
Dù sao ta cũng có thể nói rằng thơ Huy
Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất
của tinh thể Đông Phương.
Note: Nhận xét, về chỉ hai câu thơ của Huy Cận,
cái gì gì tang đen, mũ trắng quá tuyệt.
Làm Gấu nhớ đến 1 câu mà 1 vị bằng hữu
nhận xét, về cái chuyện 'về nhà" (người xa vắng
biết đâu nấm nhà buồn), khi nhắc tới giai thoại, có
người hỏi Hemingway về nhà để làm gì, ông
trả lời, để treo cái mũ.
Về nỗi sầu của thơ Huy Cận cũng quá thần sầu. Làm
nhớ hai câu:
Đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ buồn tựa ngàn xưa thổi về
Câu phán của Borges, chỉ những nhà thơ
hạng nhì thì mới làm toàn thơ hay, quá
thần sầu, và áp dụng vào trường hợp Bùi
Giáng, thì lại càng quá thần sầu, bởi
là vì như thể, ông biết trước là lũ phê
bình gia ngu ngốc của xứ Mít, sẽ nhận xét về thơ
BG, đúng như thế.
Tuy nhiên, theo GCC, Borges tự khen ông qua câu
đó. Ông cũng bị thiên hạ chê, làm thơ dở,
và chính ông cũng nhận xét về ông như thế.
I do not set up to be a poet. Only an all-round literary
man: a man who talks, not one who sings. . . . Excuse this little
apology for my muse; but I don't like to come before people who have
a note of song, and let it be supposed I do not know the difference.
The Works of Robert Louis Stevenson
Vailima Edition, XXII, 42 (London, 1923)
Mùa Hè Miền
Nam
… ngay sau một kỳ Le Grand Meaulnes
bản dịch Mặc Đỗ
Tks. Take Care.
NQT
Cái truyện ngắn này, khi viết nó,
là Gấu rắp tâm chơi 1 cuốn truyện dài, và
quả đúng như thế, nó quá bảnh để mở ra cuốn truyện.
Sau đó, bỏ luôn.
Phải đến giờ này, thì Gấu mới
nghĩ là, mình phải viết tiếp nó, sau khi
vớ được cuốn Đi Tìm Một Nhân Vật của Graham Greene,
đúng theo ý của Kafka, khi phán, đời sống
có 1 cái ý nghĩa, là, nó ngưng!
The meaning of life is that it stops.
Waiting for SN
To: You, GCC
Czeslaw Milosz
FOR MY EIGHTY-EIGHTH BIRTHDAY
A city dense
with covered passageways, narrow
little squares,
arcades,
terraces descending
to a bay.
And I, taken
by youthful beauty,
bodily, not
durable,
its dancing
movement among ancient stones.
The colors
of summer dresses,
the tap of
a slipper's heel in centuries-old lanes
give the pleasure
of a sense of eternal recurrence.
Long ago I
left behind
the visiting
of cathedrals and fortified towers.
I am like someone
who just sees and doesn't pass away,
a lofty spirit
despite his gray head and the afflictions of age.
Saved by his
amazement, eternal and divine.
Genoa, 30 June
1999
Cho 88th Birthday của GCC
Thành
phố đậm đặc với những lối đi có mái che dành
cho khách bộ hành
Những quảng
trường nhỏ hẹp, những vòm cung.
Những terraces
dẫn xuống bãi biển
Và Gấu
bị mê hoặc bởi cái vẻ đẹp của 1 thân
thể trẻ trung, không thể kéo dài
Cái
duyên dáng nhảy múa của nó
giữa những viên đá cổ xưa
Màu
áo dài mùa hè
Tiếng guốc
rộn ràng giữa những hè phố hàng
hàng thế kỷ của khu Phố Cổ
Chúng
đem tới cái lạc thú của một cảm quan
về 1 quy hồi vĩnh cửu
Đã lâu
lắm rồi
Gấu không
còn có cái thú thăm viếng
thành quách, lâu đài, tháp
cổ….
Gấu như 1 ai
đó, chỉ nhìn, và đứng ỳ ra, đếch
chịu đi xa, lên chuyến tàu suốt!
Một thứ tinh
anh, cái gì gì “nhân hậu
và cảm động”, như Seagull đã từng nhìn
ra
Mặc dù
chẳng còn cái răng nào, tóc
bạc phếch, và cái đau tuổi già
Được cứu vớt
nhờ cái sự ngỡ ngàng, hoài hoài,
thiêng liêng, thần thánh
Hai bài
sau đây, có thể gửi theo TTT.
AGAINST THE POETRY OF PHILIP LARKIN
I learned to
live with my despair,
And suddenly
Philip Larkin's there,
Explaining
why all life is hateful.
I don't see
why I should be grateful.
It's hard enough
to draw a breath
Without his
hectoring about nothingness.
My dear Larkin,
I understand
That death
will not miss anyone.
But this is
not a decent theme
For either
an elegy or an ode.
My dear Larkin
Chết chẳng
tha 1 ai
Nhưng đâu
phải đề tài sạch sẽ
Cho 1 bi khúc,
hay 1 ode!
ON THE DEATH OF A POET
The gates of
grammar closed behind him.
Search for
him now in the groves and wild forests of the dictionary.
Cái
cánh cổng văn phạm - rằng, sáng mai
"khua" thức, hay, "khuya" thức, đưa em vào "quán
trọ", hay, "quán rượu" - đã đóng
lại sau lưng ông.
Kiếm ông
ta bây giờ, là ở trong rừng thông
Đà Lạt, hay, ở mùa này, gió
biển thổi điên lên lục địa!
Thơ Milosz cực
kỳ trí tuệ, lũ Mít không làm
sao làm được, hiểu được, chấp nhận được – Võ
Phiến chẳng đã có lần vặc ông em
(?) của ông, là Thầy Kuốc, có thứ thơ nhảm
nhí đó ư? – Ở nền thơ của ông là
Ky Tô Giáo, cái này Mít,
không phải thi sĩ, mà nhân dân,
cũng ít có. Bắc Kít lại càng thù
Ky Tô, khi buộc tội họ đem Bạch Quỉ tới xứ Mít.
TTT phải đến
khi tù VC mới tới được cõi thiền, mới
có cái gọi là "ẩn mật". Có
thể nói nhà tù cứu TTT, cứu cả
thơ Mít. Ta Về, Giải oan cuộc biển dâu này,
nghĩa của nó là thế.
Kái này, là do chính
Thầy Kuốc kể, lần đầu Người gặp Mai Thảo. Ông Trùm
Sáng Tạo kười kuời phán, Hưng Cuốc đó ư,
chẻ quá nhỉ!
Bị cái bóng của Mai Thảo chiếu tướng,
chắc thế, nhà phê bình tuổi trẻ tài
cao ấp úng, thưa Bác, Chú… MT gạt phắt, anh/em
được rồi.
Sau đó, gặp Võ Phiến, NHQ, áp
dụng anh/tui vào nhà tiên chỉ, Người bực ra
mặt…
Vưỡn chuyện xưng hô. Trong đám Sáng
Tạo, Gấu thưa anh, xưng em, với TTT, và Ngọc Dũng, vì
coi, trong gia đình, không mắc mớ tới “vuông chiếu
văn nghệ”. Những đấng khác, anh/tôi. Lần ngồi Quán
Chùa, có ba tên, MT, Gấu và Nguyễn Đình
Toàn. Hai đấng “mày tao” lia chia, Gấu kính cẩn
ngồi nghe, không dám góp chuyện.
Nhớ, lần điểm cuốn “Mười khuôn mặt văn nghệ” của
Tạ Tỵ, trên trang VHNT của tờ Tiền Tuyến. Chê.
Sau được nghe, Tạ Tỵ phán, tao chơi với ông
anh của nó [Nguyễn Hoạt]; Nó “chửi” tao là
nó chửi anh nó!
The Hakawati
by Rabih Alameddine
Anchor, 513 pp., $16.00 (paper) Cockroach
by Rawi Hage
Norton, 305 pp., $23.95
"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann
Gấu ở đâu Mít ở đó!
And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.
But the hills are still the same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.
Derek Mahon
Giận dữ lưu vong
Và tôi bước xuống bến
tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn
màng
Về với thành phố quá
đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao
nhận ra
Những nơi chốn mà tôi
đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích
Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì
vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc
cuối cùng xuống dòng sông thì
cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn
thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi,
và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng
trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành
phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng
thành
Và biết ‘nhà’ nghĩa là
cái quái gì
One met former cabinet ministers,
University professors, defrocked priests
and officers,
Feeding pigeons from a park bench,
Squinting into foreign newspapers
And telling anyone who happened to
ask
Not to bother their heads about the
truth
On the use of murder to improve
the world
They had many vivid memories
As they huddled in their dim kitchens,
Clipping supermarket coupons,
Shifting the loose dentures in their
mouths
While waiting for the teakettle to
boil.
They ate in restaurants with
waiters older than themselves,
Musicians whose fingers bled
As they picked at their instruments
Making some tipsy widow burst into
sobs
On hearing a tune her husband the general
loved,
The one who sent thousands to their
deaths.
Giữa đám Lưu Vong
Người ta gặp những cựu bộ trưởng
Giáo sư đại học, tu sĩ mất áo
tu, sĩ quan mất quân phục,
Cho bồ câu ăn ở băng ghế công
viên,
Liếc tờ báo chợ
Và biểu người nào tính
hỏi,
Này, đừng có bực mình,
lúc lắc cái đầu, khi biết sự thực
Về cái việc sử dụng sát
nhân để cải thiện thế giới
Họ có nhiều kỷ niệm sống động
Khi quay mòng mòng trong
căn bếp tối thui
Cắt cắt mấy cái phiếu siêu
thị
Xốc xốc bộ răng giả trong miệng
Trong khi chờ ấm nước pha trà
sôi
Họ ăn trong những tiệm bồi bàn
già hơn họ
Nhạc sĩ bấm đàn bằng những ngón
tay rướm máu (1)
Làm một bà góa
ngà ngà say, khóc nức nở
Khi chơi một điệu nhạc mà ông
chồng đại tướng ngày nào của bà thích
nghe
Ông tướng này đã
từng ra lệnh làm thịt hàng ngàn người
Charles Simic: Master of Disguises
(1)
Charles Simic chắc là có
đọc Kiều rồi, nên
thuổng, như đám mũi lõ thuổng nhạc Trịnh,
“nghi án” đang gây chấn động trong giới giang
hồ Mít ở trong nước: "bốn dây nhỏ máu
năm đầu ngón tay" !!!
Ui chao, Gấu lại nhớ đến cảnh nàng
Kiều họ Trịnh hầu đàn Sáu Dân, Hồ Tôn
Hiến, những ngày sau 30 Tháng Tư 1975
PAINTINGS
FOR ZBYLUT GRZYWACZ
Countless paintings hung on the
walls
of the apartment on Krakow Street.
(Why
Krakow Street in Krakow? The city
didn't know how to get home?)
None of it matters now-
the names of streets, your patriotic
passion
for Kazimierz, your loyal photos
of old houses, dilapidated gates.
Even that apartment is gone now.
On canvases: human faces, women's bodies,
gray and pink, the world's yellow stains.
Drawings and sketches of acts, studies
of aging,
natures mortes, some dust-covered
and doubly dead, others fresh
as fruit at market stands, gleaming
in June's remembered light.
In summer light strikes objects
directly, while in winter it hides
lazily in wardrobes, sleeps on the
stove,
like minerals on museum shelves.
A champion talker, a fan of Caravaggio
you vanished after a few months of
illness
of suffering and strength in dying.
Paintings and friendship remain,
canvases, which don't understand
their loneliness, their dusk,
and friendship, which of course
lives on-but as a widow now.
Adam Zagajewski: Unseen Hand
Họa phẩm
Hằng hà trên tường
trong căn phòng
Ở Phố Sài Gòn
[Tại sao Phố Sài Gòn
trong Sài Gòn?
Thành phố quên mẹ nó
tên, hay quên mẹ đường về nhà?]
Mà bây giờ để ý
làm chó gì -
Những tên đường, lòng
đam mê ái quốc của bạn dành cho Kazimierz,
Những bức hình trung thành
của bạn về những căn nhà cổ,
Những cái cổng xiêu vẹo.
Ngay cả căn phòng thì
bây giờ cũng đâu còn
Trên những tấm vải bố: những
mặt người, những cơ thể đàn bà,
Xám và hồng, những vết
màu vàng của thế giới.
Những vạch, những phác của những
hành động,
Những nghiên cứu về già
lão,
Tĩnh vật, một số bụi phủ
Và chết hai lần, những bức khác
tươi mát,
Như trái cây ở chợ, long
lanh trong ánh sáng tưởng nhớ của Tháng
Sáu.
Mùa hạ ánh sáng
đập thẳng thừng lên những đồ vật,
Trong khi mùa đông, nó
ẩn náu một cách lười biếng ở trong tủ áo,
Ngủ ở trong lò,
Như khoáng vật trên những
giá ở viện bảo tàng
Vua đấu láo, đệ tử của
Caravaggio
Bạn biến mất sau vài tháng
bịnh
Chiến đấu kiên cường trong khi
chờ đi xa
Tranh và bạn bè thì
còn ở lại
Những tấm vải bố, chúng
không hiểu nỗi cô đơn của chúng,
Buổi chạng vạng của chúng
Và tình bạn, lẽ tất nhiên
Tiếp tục sống – nhưng như là
một góa phụ.
Tác
phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970)
có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung
Thư là chấp nhận giữa vô thường và
chút hơi ấm của nỗi chết.
Cuốn sách chẳng bao giờ được
in ra.
Note: Thấy mấy dòng này, trên Blog
NL, tò mò gõ Bác Gúc, ra bài
thơ thần sầu:
Since man's life is nothing but a bit of action at a distance, A bit of foam shining inside a glass; Since trees are nothing but moving trees; Nothing but chairs and tables in perpetual motion; Since we ourselves are nothing but beings (As the godhead itself is nothing but God); Now that we do not speak solely to be heard But so that others may speak And the echo precede the voice that produces it; Since we do not even have the consolation of a chaos In the garden that yawns and fills with air, A puzzle that we must solve before our death So that we may nonchalantly resuscitate later on When we have led woman to excess; Since there is also a heaven in hell, Permit me to propose a few things
I wish to make a noise with my feet I want my soul to find its proper body.
Tiểu thuyết Ung thư của Thanh Tâm Tuyền
được đăng nhiều kỳ (feuilleton) trên tạp
chí Văn, trên rất nhiều số của tạp chí
Văn. Giờ là lúc (rất) nên
đọc nó.
ON POETRY, UPON
THE OCCASION
OF MANY TELEPHONE CALLS AFTER
ZBIGNIEW HERBERT'S DEATH
It should not exist,
considering conception,
gestation and delivery,
quick growth,
decay and death.
What is all that to it?
It cannot inhabit
the chambers of the heart,
the meanness of the liver,
the sententiousness of the kidneys,
or the brain, with its dependence on
the grace of oxygen.
It cannot exist, and yet it exists.
He, who served it,
is changed into a thing,
delivered to decomposition
into salts and phosphates,
sinks
into the home of chaos.
In the morning telephones ring.
Straw hats, sleek nylon, linens
tried in front of mirrors
before a day at the beach.
Vanity and lust
as always,
self-centered.
Liberated from the phantoms of psychosis,
from the screams of perishing tissue
from the agony of the impaled one,
It wanders through the world,
Forever, clear.
Czeslaw Milosz: New and Selected Poems
1931-2001
DEDICATION
You
whom I could not save
Listen
to me.
Try
to understand this simple speech as I would be ashamed
of another.
I swear,
there is in me no wizardry of words.
I speak
to you with silence like a cloud or a tree.
What strengthened me, for you
was lethal.
You
mixed up farewell to an epoch with the beginning of
a new one,
Inspiration
of hatred with lyrical beauty,
Blind
force with accomplished shape.
Here is a valley of shallow Polish
rivers.
And
an immense bridge Going into white fog.
Here
is a broken city,
And
the wind throws the screams of gulls on your grave
When
I am talking with you.
What is poetry which does not
save
Nations
or people?
A connivance
with official lies,
A song
of drunkards whose throats will be cut in a moment,
Readings
for sophomore girls.
That I wanted good poetry without
knowing it,
That
I discovered, late, its salutary aim,
In
this and only this I find salvation.
They used to pour millet on graves
or poppy seeds
To
feed the dead who would come disguised as birds.
I put
this book here for you, who once lived
So
that you should visit us no more.
Warsaw, 1945
Czeslaw
Milosz: Selected Poems, 1931-2004
Dâng Tặng
Bạn người mà tôi
không thể cứu
Hãy
lắng nghe tôi
Hãy
cố hiểu bài nói này, như tôi
xấu hổ vì bài nói khác.
Tôi
thề, trong tôi không có sự ma
quỉ của những con chữ
Tôi
nói với bạn với sự im lặng của đám
mây, hay của cái cây.
Điều làm tôi mạnh
mẽ, với bạn, chết người.
Bạn
trộn lời giã biệt vào một thời đại, với
sự khởi đầu của một thời đại khác,
Hứng
khởi của hận thù với cái đẹp trữ tình
Sức
mạnh mù lòa với hình dạng đã
hoàn tất.
Đây là
một thung lũng của những con sông
Ba Lan nông, cạn
Và
một cây cầu bao la
Đưa
tới một vùng sương mù trắng. Đây
là một thành phố vỡ nát
Và
gió thổi những tiếng la thét của chim
hải âu lên mộ bạn
Khi
tôi nói với bạn
Thơ ca là gì nếu
không thể cứu
Quốc
gia hay dân tộc?
Một
sự đồng lõa của những lời dối trá chính
thức,
Một
bài ca được hát bởi những tên say,
cổ của họ sẽ bị cắt một lát sau đó
Đọc
cho mấy cô gái đại học
Tôi muốn 1 thứ thơ ca tốt,
đẹp mà không biết điều này
Tôi
muốn một thứ thơ ca thật muộn màng tôi
mới ngộ ra cái mục đích đáng ca
ngợi của nó
Trong
đó, và chỉ trong đó, tôi
tìm thấy sự cứu chuộc
Họ thường đổ hạt kê, hay
hạt anh túc lên những ngôi
mộ
Để
người chết trở về, hóa trang như là
những con chim
Tôi
để cuốn sách của tôi ở đây cho
bạn, người có lần đã từng sống
Để
bạn đừng viếng thăm chúng tôi nữa.