|
Viết mỗi ngày
Adapted from Zha
Jianying’s introduction to Ji Xianlin’s ‘The Cowshed: Memories of the
Chinese Cultural Revolution,’ translated by Chenxin Jiang, which has just
been published by New York Review Books
After reading Ji Xianlin's The Cowshed: Memories
of the Chinese Cultural Revolution, a Chinese intellectual friend summed
it up to me: “This is our Auschwitz.” Indeed, though what happened in
the cowshed where the…
nybooks.com|By
Zha Jianying
“This is our Auschwitz.
Đây là Lò Thiêu của Tẫu.
Bắc Kít cũng có 1 Lò Thiêu như thế, nhưng chính chúng, vờ.
Chưa hề có 1 tên nào nhỏ nước mắt, vì nạn nhân CCRD, vì lũ Ngụy đi
tù mút mùa lệ thuỷ trong Trại Cải Tạo. Những trò hề như Đại Hội Đảng VC vừa
qua, cứ thế tiếp tục.
Chúng đâu biết nhục là gì, do chẳng hề biết dân chủ là gì
Đọc trọn vẹn bài
viết xin mời :
Lé, lác, trợn ngược cả mắt
lên, vì nền vhnt hải ngoại!
To be a litterateur is to live under the sign of mere intellect, just
as prostitution is to live under the sign of mere sex.
[W. Benjamin: Schriften II, 179]. Just as a prostitute betrays love,
a litterateur betrays the mind.
Hannah Arendt: Tựa, cho cuốn Illuminations của Walter Benjamin.
[Nhà văn sống với chữ, thì cũng giống như bướm sống với cái
số ta.
Và nếu như thế, bướm phản bội tình yêu, cũng như nhà văn phản
bội cái đầu của mình]
The destruction of someone's native
land is as one with that person's destruction. Séparation becomes
déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland. "Home
is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost
himself, even if he has learned not to stumble about in the foreign
country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses,
although he wants no more to do with that particular pays—in this connection
he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn
is, geht ma nimmer eini" ("When you've been thrown out of an inn you never
go back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms
of our yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement
du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un caractère
dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester
contre l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of
course in line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry:
Chống Bất Phản
Hồi: Against The Irreversible.
[Sự huỷ diệt quê nhà của ai
đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là
rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất
thời thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu
táng thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu
nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt
này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá đít ra
khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran
phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng ta, chỉ để
mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ
cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự
vượt thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó
vẫn có cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá
khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản
hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà của Améry, hiển nhiên, cùng
một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử].
L'homme a des endroits de son
pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre
afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng
chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.
W.G. Sebald trích dẫn, làm
đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác
trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and
Cruelty in the Works of Peter Weis, trong "Lịch sử tự nhiên về huỷ
diệt, On the natural history of destruction", nhà xb Vintage Canada,
Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.
-Ai di truoc, nguoi con lai se phai
lo trang TV. How?
-Gau chet la Tin Van chet. Amen.
Còn lại một việc nữa:
văn chương miền Nam đâu có dừng lại ở năm 1975. Đây mới là điều
huyền bí nhất. Tất nhiên là không thể như vậy được. Giờ, ta cần
xác định, đâu là những cột trụ quan trọng nhất để nói đến một
sự bảo toàn cho di sản văn chương miền Nam. Với tôi, hiển nhiên
không thể là Võ Phiến, nhưng hiển nhiên phải là các nhân vật từng
hết sức quan trọng ở giai đoạn văn chương miền Nam trước 1975. Họ
từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh chính yếu của họ lại nằm ở đoạn sau
1975, thế cho nên mới khó hiểu và khó nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người ra
đi ngay từ đầu, ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người
đã, ngược hẳn lại với Viên Linh, không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra
đi vào khoảng giữa. Đó chính là Nguyễn Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi đến
cái ngày, ngoài việc được viết về một số người khác, được
nói đến đối
thủ lâu năm của tôi, Mr Tin Văn Nguyễn Quốc Trụ.
Note:
“Tks NL, dear” [cái này thuổng của cô bạn,
của cả hai, CM].
Cách nhìn trên, theo GCC, có tính định
vị, liên quan tới thảm họa lớn.
Ra hải ngoại, đụng đầu với thế giới, GCC nghĩ về
nhà văn lớn: Phải đau cái đau Lò Thiêu, phải có cái
ám ảnh khủng khiếp này, khi nhìn về xứ Mít.
Đây cũng là ý nghĩ của nhà văn Do Thái,
David Grossman, khi tuyên bố, Kafka là sư phụ của tất cả chúng
ta [nhớ cái ý, không nhớ rõ câu tuyên bố, để check sau]. (1)
Trong cái định vị của NL, trên, khi chiếu về
thảm họa lớn, quá OK, nhưng thiếu chiều sâu.
Viên Linh ra hải ngoại từ đầu, tiếp tục làm
tờ Thời Tập, nhưng tờ này không nhập vào được
khí hậu văn học toàn
thế giới, theo cái nghĩa “Kafka” ở trên.
DNM ở lại nhưng kể như không viết nữa, in lại
sách thì lại bị cấm, mà nếu không cấm, thì cũng đã bị
kiểm duyệt.
Nếu có 1 nhà văn lớn của Việt Nam, thì chắc
sẽ là Linda Lê, lập lại nhận định của NL.
(1)
Ai, ngoài Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một
nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không
viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn
văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you
have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng,
hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into
life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi
ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.
Paris Review 4
David Grossman
Nghệ thuật giả tưởng
Năm 1987, để đánh dấu 20 năm
Israel chiếm đóng West Bank và Gaza Trip, mấy tay chủ bút,
chủ biên của tờ tuần báo Do Thái Koteret Rashit phái
tiểu thuyết gia trẻ David Grossman tới West Bank, 7 tuần, “đi thực
tế”.
Grossman, thông thạo tiếng Ả Rập, bèn làm
những chuyến tham quan dân Palestine ở trại tị nạn, thành
phố, vườn trẻ, đại học, cũng như đám định cư Do Thái ở trong những
pháo đài chung quanh có giây kẽm gai [chắc cũng giống những khu
định cư, kinh tế mới của đám Bắc Kít, sau 30 Tháng Tư 1975, Nam
Tiến, tới những vùng đất cao nguyên Trung Phần, nơi chúng phá rừng
trồng cà phê, hay trồng bất cứ cái khỉ gió gì miễn ra tiền và
vô phúc cho một người bản địa nghèo đói nào lén vô là chúng thả chó
ra, không chỉ cắn chết, mà còn xé xác ăn thịt!], và đám sĩ quan,
binh lính Do Thái tuần tra những khu vực dành cho người Palestine.
Thu hoạch của chuyến đi thực tế chiếm trọn một số báo, và gây chấn động
trong đám Bắc Kít, ấy chết xin lỗi, Do Thái.
Grossman rất rành mạch, rõ ràng, trong những
bài viết, về điều này:
"Dân Palestine hết còn chịu nổi rồi, hết còn
ngoan ngoãn như lũ cừu rồi" [nguyên văn: "Người Palestine,
ngày ngày đau đớn khổ sở vì những sự tàn ác dã man của đám chiếm
đóng hàng thế hệ, sẽ không còn hiền lành, dễ bảo nữa, would be
docile no more".]
“Đúng là một cú sốc”, Tom Segev, một trong
những tay biên tập nói. “Cho đến lúc đó chúng tôi không
hề biết họ thù ghét chúng tôi tới mức như vậy”
Năm tiếp theo năm đó, khi báo cáo
của Grossman được xb bằng tiếng Anh, với cái tít trận Hoàng Phong, the
Yelllow Wind, thì cuộc nổi dậy, intifada, của người Palestine đang tưng
bừng hoa lá. Những gì Grossman viết trở thành tiên tri, “sấm Trạng Trình”,
biến ông trở thành một tác giả tầm vóc thế giới.
*
Phỏng vấn viên:
Trong Nụ Cười của
Cừu Non, The Smile of the Lamb, Uri [nhân vật chính] nói,
“Nhà ở đâu, nói cho cùng?”, và Abner trả lời, nhà là khoảng
trống rỗng giữa đầu cây viết và tờ giấy, home is the empty space
between the tip of his pen and the paper. Đó là điều ông cảm nhận
ư?
Grossman:
Nhà là nơi mà những
người tôi yêu thương ở đó, home is where the people I love are.
Càng về già, thế giới đó càng lạ lẫm, alien, và hơn thế nữa, tỏ ra
thù nghịch đối với tôi. Câu chuyện mà tôi đang viết là một cái
nhà khác, cho dù phải mất từ hai cho đến ba năm nó mới trở thành nhà.
Tôi chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn, trơ cu lơ một mình, khi tôi có
câu chuyện của tôi, khi tôi biết giọng điệu, the tonus, của mọi nhân
vật và ngôn ngữ.
Giọng điệu?
Giọng điệu,
sức căng của bắp thịt, the tension of the muscles. Liền lập tức
tôi cảm thấy mình được nối kết, connected, với những xao động,
the emotional vibrations, của những con người ở Israel, điều mà tôi
không thể cảm thấy khi ra nước ngoài.
Tuy nhiên,
có vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà văn của thế hệ
Do Thái Lưu Vong [Jewish Diaspora]?
-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là một nhà
văn, mọi người sẽ nói cho bạn biết, văn của bạn giống, hay, thôi
thì nói đại, chôm của ai. Khi còn trẻ, tôi ngoan ngoãn lắm,
và đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo tôi. Một tay làm
việc cho đài truyền hình Do Thái, một người mới tới, a newcomer,
từ Ba Lan, một bữa gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn
The Smile of the Lamb của tôi hiển nhiên là chịu ảnh
hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể. Tôi chưa từng đọc Bruno Schulz,
và chẳng lẽ nói với tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz, tôi cảm
thấy như bị điện giật! Mỗi đoạn văn là một sự bùng nổ của những
thực tại khác nhau - mộng, mị, ác mộng, tưởng tượng, quái tưởng,
fantasy. Đọc ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống nữa, reading him
made me want to live more. Rồi tôi đọc những câu chuyện về cái chết
của ông. Ông ta được một sĩ quan Đức bảo bọc. Ông này đã từng giết
một nha sĩ Do Thái của một viên sĩ quan Đức khác. Viên sĩ quan này
bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta chết ngay trên đường phố. Bạn
giết tên Do Thái của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
[Trên TV có một ấn bản khác nữa, nhưng cả
hai đều xác nhận chuyện Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết,
và khi anh này nói với tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn ta xua tay,
nhằm nhò chi, để kiếm thằng Do Thái khác thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy quá đỗi thê
lương. Tôi chẳng còn muốn sống trong một thế giới, nơi một chuyện
như thế có thể xẩy ra, khi con người có thể thay thế, có sẵn đó,
tùy nghi sử dụng, replaceable, disposable. Tôi cảm thấy tôi phải
làm cái gì đó để cứu chuộc cái chết không cần thiết, và tàn nhẫn
của ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là tôi viết
See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn biết, trong hầu hết
ngôn ngữ cuốn sách của tôi được dịch – chừng 14 thứ tiếng- trong
vòng chừng 1 năm hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu chuyện
về Schulz.
Ui chao thật là ngọt ngào, thật là dễ thương
đối với tôi, khi biết rằng cuốn sách của mình đã làm được một
điều gì đó cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.
Ai, ngoài
Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một
nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không
viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn
văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you
have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng,
hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into
life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi
ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.
Trong Chết như là Cách
Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về
số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.
Grossman: Tôi không nghĩ,
người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi
Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân
loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính
mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
Source
Ta mang đứa trẻ Mít đã chết ở
trong ta, Linda Lê nói, trong tinh thần “Kafka”, của Grossman.
Chuông gọi hồn anh đó, cũng
ý này.
Hemingway’s Spanish
civil-war novel, “For Whom the Bell Tolls”, pits nature against
atrocity
The Guadarrama
mountains of Spain run from north-east to south-west across the central plains
of Castille. They are ancient mountains, formed of pale granite and gneiss,
their slopes densely wooded with pines of several species: black pines, maritime
pines, sentry pines, Scots pines. I once walked across the range from south
to north, sleeping in caves and forest clearings. Years on I still clearly
recall the scents of those days and nights: “the piney smell of…crushed needles”,
as Ernest Hemingway puts it in “For Whom The Bell Tolls”, “and the sharper
odour of…resinous sap”.
Hemingway’s novel is set in the Guadarrama during
the last May of the Spanish civil war. Its hero is Robert Jordan,
a young American fighting for the International Brigade. Jordan, an
explosives expert with a profound disinterest in his own fate, is tasked
by his Soviet commander with destroying a bridge in the Fascist-held
mountains. He joins forces with Republican partisans who have gone guerrilla.
Their base for the operation is a cave in the “rim-rock” at the “cup-shaped
upper end” of a “little valley”.
In the book’s second paragraph, Jordan unfolds a
photostatted map on the “pine-needle floor” of the forest. That
contrast between military perception and natural presence preoccupies
Hemingway throughout the novel. The landscapes of the Guadarrama
are interpreted chiefly in terms of tactics: open ground is read
for its lines of fire, “timber” for its cover. Those with close knowledge
of the range – like Jordan’s trusted guide Anselmo – are valuable
because they can move discreetly through this hostile territory.
Yet these tough men remain alert to the beauty of
the mountains. When a two-day blizzard blows in, Jordan relishes
its wildness, though he knows it will betray their position. Pilar,
a fellow partisan, agrees: “What rotten stuff is the snow and how
beautiful it looks.” The hurry-up-and-wait aspects of war mean there
is time to appreciate the “afternoon clouds…moving slowly in the
high Spanish sky”. Maria, Jordan’s lover, speaks of her passion for
the pine forest: “the feel of the needles under foot…the wind in the high
trees and the creaking they make against each other”. Even their target
is assessed both aesthetically and militarily – it is a “steel bridge
of a single span”, possessing a “solid-flung metal grace”, standing “dark
against the steep emptiness of the gorge”.
The upper pine forests aren’t the only landscape
of the novel, though. Hemingway splices in atrocious scenes from
earlier in the war: a dusty village square in which supposed fascists
are flailed, cudgelled and then hurled over a cliff, or an attack on
a guardia civil barracks, after which the wounded are dispatched with
pistol shots to the skull. The sky is a scape, too, through which pass
Franco’s glittering aeroplanes: Heinkel bombers of the Condor Legion,
moving “like no thing there has ever been…like mechanised doom”, or
Messerschmitts turning among the vultures.
The novel’s first and last sentences describe almost
the same situation: Jordan, flat on the forest floor, watching
the ground below. In the first, he is planning his assault on the
bridge; in the last, waiting for his death. The attack has gone wrong,
and a shell blast has broken his leg appallingly. Fascist troops are
approaching. Despite the circumstances, these closing paragraphs are
oddly uplifting. Jordan touches “the palm of his hand against the pine
needles where he lay”, and “the bark of the pine trunk that he lay behind”.
Such gestures are a means of reassuring himself of the existence of
matter, in advance of its annihilation. Dying, he has begun to meld with
the forest in which he has fought. The landscape shimmers into a mindscape:
“he was”, writes Hemingway, “completely integrated now”. Jordan has
fulfilled the novel’s title: he has become a piece of the continent,
a part of the main.
Trong số những bài
viết của mục “Phong cảnh của cái đầu”, GCC mê nhất, bài viết về Lolita.
Lạ nhất, là nó làm GCC nhớ đến những lần kêu 1 cái tắc xi
rồi đưa BHD, rời bỏ cõi đời thực, bước vô cõi thần tiên, cả hai tung
tăng trong Chợ Lớn, em kéo Gấu đi nhiều hơn là Gấu.... Ui chao, so với
cái tên già dâm đãng HH của Nabokov, thì cặp GCC & BHD hạnh phúc
hơn nhiều.
Đời của Nabokov, do không biết đến cái nghèo khổ nhục nhã của
dân Nga, nên không đọc được Dos, cũng không biết đến cái hạnh ngộ ở trên
đời, gặp được nhau, nhận ra nhau trong cõi thực 1 lần, là cũng quá đủ
rồi...
GCC được hưởng cả hai, từ xứ Bắc Kít.
BHD, Bắc Kít như GCC
LANDSCAPES
OF THE MIND
Robert Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”
Note:
Bài viết thần sầu trên, trên tờ Intel, về Lo, Gấu chôm về Tin Văn,
tính dịch hầu quí độc giả. Thú vị hơn nữa, trên số báo Intel, số mới nhất,
có 1 độc giả, gửi thư cho toàn soạn, v/v bài viết, và về điều mà vì độc
giả gọi là “Over-exposure”: Như bác sĩ, cớm, hầu hết những tên chủ khách
sạn, học rất nhanh, những hình thái của cái ác của con người. Gấu post
cái thư sau đây, rồi lèm bèm tiếp.
Overexposure
Re: A loathsome brilliance (Landscapes of the Mind, March/April)
Of the real nature of the relationship between Lolita and
Humbert, Robert Macfarlane ponders, "Why do the motel owners not see
what is going on'?" But no doubt they do. It is a product of exposure.
Like doctors and police officers, most motel owners, I suspect, do learn
- and learn fast - the forms of human evil. This is a fact clearly not
known to Humbert, who arrogantly prides himself on his canniness. Yet
Nabokov must have known it. Having fled Berlin in 1937 and Paris in 1940,
he was no doubt well aware of the frequency with which good persons choose
to look the other way, and of the black consequences of doing so. It is
something that, since late October of last year, we have been thinking a
good deal of here in Toronto, given the scandal of Jian Ghomeshi.
BOYD HOLMES, TORONTO
Landscapes of the Mind: Nabokov’s
“Lolita” unfolds in motel America. Robert Macfarlane travels along the
road to despair
Phong cảnh của tâm hồn: “Lolita” trải lòng
ra, qua những phòng ngủ ở thiên đàng
Humbert Humbert, nhân vật nổi tiếng số 1
sờ soạng con nít của văn chương, coi đó là “joy-ride”, cuộc đi chơi
của niềm vui. Ròng rã 1 năm trời, thằng chả chạy xe trên những những con
lộ hẻo lánh, hạng nhì ở miền quê nước Mẽo, với Lolita, lúc đó 12, như là
một bạn đường bị ép buộc, và cũng là nạn nhân thường lệ của hắn. Cả
hai trải qua, phủ lên, choàng lên… [“cover”, từ này, tưởng dễ mà thật
khó dịch!] hàng ngàn dặm đường trong chiếc sedan, lượn lờ trên những con
đường nhựa hào “nhoáng”, từ New England tới Rockies, qua những cánh
đồng bắp Midwestern. Cả hai trở thành những chuyên viên bậc thầy, connoisseurs,
về… nếm ngửi, thở hít, ăn ngủ sờ soạng, của “motel”, phòng ngủ bên đường,
của Mẽo – luôn luôn ghi vô sổ đăng ký khách sạn như là bố và con gái, và
không bao giờ ở quá lâu, chỉ vài đêm, phán chục phát, cỡ đó, là tếch.
Đây có lẽ là 1 bài viết lạ
thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1 đứa con nít: Cái
sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra cánh
cửa địa ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel:
“Lolita” unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế
đó, 1 "phòng giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".
Quái làm sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên
viên kỹ thuật, và những chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy,
và phải ngủ khách sạn.
Nhớ nhất, là lần về Long Xuyên, như… Humbert Humbert, được
thưởng thức mùi vị của một cô Miên lai, da ngăm đen. Cô này, thực sự không
làm nghề này, cô làm nghề giữ con nít cho 1 gia đình cũng ở gần khách
sạn.
Gấu mê cô quá, hồi đó chưa lấy vợ, cứ lần lữa kéo dài chuyến
đi tới cả tháng, sau này viết lại, trong
Ba
Xuyên, lần viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời
gã chuyên viên kỹ thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng
Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa
chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu
cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng
đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết sử dụng máy móc, nhưng
không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục trặc, cần làm
gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi nghe
được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu,
không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế
cùng chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất
một hai ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên
dưới mười ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay
vô việc, cặm cụi lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng
thăm, làm quen thành phố.
Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ
lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm
nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng
đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ,
những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do
giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa,
hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường
là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói,
như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi
châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào
nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi
lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng
này
Hết hai năm tập sự, đổi qua làm việc tại một đài chuyên
duy trì những đường dây liên lạc quốc tế, về viễn ký, viễn ảnh, điện
thoại đường dài [điện thoại viễn liên], giữa Sài Gòn và một số thủ đô
trên thế giới, không còn dịp ra khỏi thành phố, quên dần những chuyến
đi, những cuộc phiêu lưu vặt, lâu lâu mơ hồ nhơ nhớ về một thành phố một
hai lần ghé qua, một vài ngày ở lại, những chi tiết vụn vặt không liên
quan, không ăn nhập vào đâu cả, nhưng không thể rũ bỏ, (hình như) kiến
trúc phảng phất nhau, khu trung tâm gồm Toà Hành Chánh, một chợ nhỏ vây
quanh bởi một vài khách sạn chệt, một vài quán nước, tiệm cà phê, hủ
tíu, quán bi da, banh bàn; những sáng thứ hai toàn thành phố phải đứng
nghiêm chào cờ theo lệnh một chiếc loa công cộng [thời còn ông Diệm], (thành
phố lúc đó có một bộ mặt trang nghiêm thật tức cười, những thực khách
đang dùng điểm tâm vội vã đứng dậy, miệng còn mẩu bánh chưa kịp nuốt, dáng
lúng túng của mấy bà già nghễnh ngãng chưa kịp hiểu chuyện gì đang
xẩy ra), tiếng hát vọng cổ khoảng chập tối, hay trong khi chập chờn ngủ,
được chiếc tây ban cầm họa theo, từ đám thanh niên tụ tập trong quán cà
phê phía trước khách sạn, theo gió lọt vào căn phòng, nghe như tiếng thở
than, hoặc tình tự, của linh hồn tỉnh nhỏ, thay cho lời từ biệt chẳng hề
nói của cô gái lúc nãy, vội vàng rời căn phòng, chân đi đất không gây một
tiếng động, như khi lén lút tới, phả hơi nóng thành phố vào tận sâu trong
cơ thể người khách lạ còn trẻ tuổi, rồi sau đó lén lút rời căn phòng, thay
vào đó, là một con mèo đen, không biết tới nằm trên thành cửa sổ từ lúc
nào, mắt xanh biếc trong bóng tối, tiếng nước nhỏ giọt từ buồng tắm phòng
kế bên, một người khách lơ đễnh không vặn chặt vòi nước, tiếng còi những
chiếc xe hàng đánh thức giấc ngủ khoảng ban mai, đánh thức luôn mùi ẩm
mốc hình như toát ra từ những bức tường loang lổ, từ chiếc nệm giường
mục nát, vẻ tiều tụy của căn phòng thường làm dậy một nỗi trắc ẩn vô duyên
cớ, một cảm giác bực bội, buồn bã không đâu...
Trở lại Ba Xuyên khi được tin đứa em trai chết.
Tử trận.
Fiction January 25, 2016 Issue
Aspic
By Tatyana Tolstaya
Truth be told, I’ve always been
afraid of it, since childhood. It’s prepared not casually,
or whenever the fancy strikes you, but most often for New Year’s
Eve, in the heart of winter, in the shortest and most brutal days
of December. Darkness comes early. There is a damp frost; you can
see spiky halos around the street lamps. You have to breathe through
your mittens. Your forehead aches from the cold, and your cheeks
are numb. But, wouldn’t you know it, you still have to boil and chill
the aspic—the name of the dish itself makes the temperature of your
soul drop, and no thick gray goat-hair shawl will save you. It’s a
special kind of religion, making the aspic. It’s a yearly sacrifice, though
we don’t know to whom or for what. And what would happen if you didn’t
make it is also a question mark.
But, for some reason, it must
be done.
You must walk in the cold to
the market—it’s always dim there, never warm there. Past the
tubs with pickled things, past the cream and the crème fraîche
redolent of girlish innocence, past the artillery depot of potatoes,
radishes, and cabbages, past the hills of fruit, past the signal
lights of clementines—to the farthest corner. That’s where the
chopping block is; that’s where the blood and the axe are. “Call
Russia to the Axe.” To this one right here, digging its blade into
a wooden stump. Russia is here, Russia is picking out a piece of meat.
“Igor, chop up the legs for the
lady.” Igor lifts his axe: hack! Lays out the white cow knees, cleaves
the shanks. Some buy pieces of the muzzle: lips and nostrils.
And those who like pork broth—they get little pig feet with baby
hooves. Holding one of those, touching its yellow skin, is creepy—what
if it suddenly shook your hand in return?
None of them are really dead:
that’s the conundrum. There is no death. They are hacked apart,
mutilated; they won’t be walking anywhere, or even crawling;
they’ve been killed but they are not dead. They know that you’ve
come for them.
Next it’s time to buy something
dry and clean: onions, garlic, roots, and herbs. And back home
through the snow you go: crunch, crunch. The frosty building
entryway. The light bulb has been stolen again. You fumble in
the dark for the elevator button; its red eye lights up. First the
intestines appear in the elevator’s wrought-iron cage, then the
cabin itself. Our ancient St. Petersburg lifts are slow; they click
as they pass each floor, testing our patience. The chopped-up legs
in the shopping bag are pulling your arm down, and it seems as if
at the very last moment they’ll refuse to get into the elevator. They’ll
twitch, break free, and run away, clacking across the ceramic tile:
clippity-clop, clippity-clop, clippity-clop. Maybe that would be for
the best? No. It’s too late.
At home, you wash them and throw
them into the pot. You set the burner on high.
Now it’s boiling, raging. Now
the surface is coated with gray, dirty ripples: all that’s bad,
all that’s weighty, all that’s fearful, all that suffered, darted,
and tried to break loose, oinked and mooed, couldn’t understand,
resisted, and gasped for breath—all of it turns to muck. All the
pain and all the death are gone, congealed into repugnant fluffy
felt. Finito. Placidity, forgiveness.
Then it’s time to dump this death
water, to thoroughly rinse the sedated pieces under a running faucet,
and to put them back into a clean pot filled with fresh water.
It’s simply meat, simply food; all that was fearsome is gone. A
calm blue flower of propane, just a little bit of heat. Let it simmer
quietly; this is a five-to-six-hour undertaking.
While it cooks, you can take
your time preparing the herbs and the onions. You’ll be adding
them to the pot in two batches. First, two hours before the broth
finishes cooking, and then, again, an hour later. Don’t forget
to stir in plenty of salt. And your labor is done. By the end of
the cooking cycle, there will have been a complete transfiguration
of flesh: the pot will be a lake of gold with fragrant meat, and nothing,
nothing will remind us of Igor.
The kids are here; they are looking
at the pot, unafraid. It’s safe to show them this soup—they won’t ask
any tough questions.
Strain the broth, pull the meat
apart, slice it with a sharp knife, as they did in the olden days,
in the age of the tsar, and the other tsar, and the third tsar, before
the advent of the meat grinder, before Vasily the Blind, and Ivan Kalita,
and the Cumans, and Rurik, and Sineus and Truvor, who, as it turns out,
never even existed.
Set up the bowls and the plates
and place some fresh-pressed garlic in each one. Add the chopped-up
meat. Use the ladle to pour over it some thick, golden, gelatinous
broth. And that’s that. Your job is done; the rest is up to the
frost. Carefully take the bowls and plates out to the balcony, cover
the coffins with lids, stretch some plastic wrap over them, and
wait.
Might as well stay out on the
balcony, bundled up in your shawl. Smoke a cigarette and look
up at the winter stars, unable to identify a single one. Think about
tomorrow’s guests, remind yourself that you need to iron the tablecloth,
to add sour cream to the horseradish, to warm the wine and chill
the vodka, to grate some cold butter, to place the sauerkraut in
a dish, to slice some bread. To wash your hair, to dress up, to do
your makeup—foundation, mascara, lipstick.
And if you feel like senselessly
crying do it now, while nobody can see you. Do it violently,
about nothing and for no reason, sobbing, wiping away your tears
with your sleeve, stubbing out your cigarette against the railing
of the balcony, not finding it there, and burning your fingers.
Because how to reach this there and where this there is—no one knows.
♦
(Translated, from the Russian,
by Anya Migdal.)
Burning bright
Indonesian literature
Brash, worldly and wickedly
funny, Eka Kurniawan may be South-East Asia’s most ambitious
writer in a generation
Đường sách Xề Gòn. Con phố ngắn này, có tên
là Nguyễn Hậu thì phải, là nơi Bưu Điện có 1 block sử dụng làm Hộp Thư,
Boite Postale.
Có thời gian, lúc sắp sửa đứt phim, khi Bưu Điện tách làm đôi, một
Bưu Chính, vẫn thuộc Bưu Điện, một Viễn Thông, thuộc… Mẽo, Gấu làm dưới quyền
1 ông sếp mới, nghe nói Xịa, và có 1 căn phòng của riêng Gấu, là cả một
tầng lầu phía bên trên mấy sạp sách.
Buồn buồn ngó đầu ra ngoài thở hơi me, phi xì ke, tuyệt cú... me.
Gấu nhớ có viết về vụ này, đâu đó trên Tin Văn (1)
Tính kiếm 1 cái hình của thời cũ, trên manhhai, nhưng không thấy.
(1)
Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết
ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được
quyết định. Tôi nhận lời, phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J.
Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà
phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư
Gia Long, khi bên kia quá ồn. Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành
Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ
biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào
những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn
cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh
có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..." tôi nghe tiếng người bạn bên
kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên.
Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy
ngày trước.
Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của
tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu:
chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người
ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi
có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng
ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình
tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi
chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh
là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở
Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt
quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên,
và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.
Huy Tưởng, thay mặt tôi tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm,
sau đó gửi ra vài dòng. Về câu hỏi, chị còn nhớ...?: Thời gian sau này,
bạn bè nhiều nhưng thật tình là tôi không được quen biết hết, chỉ có các
anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới nhớ thôi.
Thật đơn giản, nhưng...
LINH VẬT CỦA HỒ GƯƠM CHẾT NGAY TRƯỚC NGÀY ĐẠI HỘI 12...CÁC
ẤY LO SỐT VÓ NHA.
* Nhưng tớ tin đều có điềm trời báo trước...lo là phải thôi....ha
ha
Cụ Rùa linh thiêng vật cổ những kẻ hại Dân, hại Nước đi cụ
nhé. Xin cụ thanh thoát rời cõi trần mà chúng làm môi trường cụ sống
hơn địa ngục.
RỒI XEM LƯỚI TRỜI LỒNG LỘNG
NB Huỳnh Ngọc Chênh: Các bố lúc mô mở miệng ra cũng chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa khoa học, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
vô thần mà bố nào cũng lén lút m...
See
More
Ui chao, bèn
nhớ ra bài này, và câu chuyện Bác Hồ biếu Castro rùa.
(1)
Thảo Hảo
Cụ Rùa
thuộc biên chế bộ nào?
Trận đánh sau cùng của nhà độc tài Fidel
Castro
[Người Nữu Ước, July 31, 2006]
Hoá ra với ông thần này, cũng
có cả một núi chuyện tiếu lâm.
Trước đây, là về sự bất tử.
Một lần, ông được Bác Hồ biếu, một Cụ Rùa ở Hồ Gươm.
Đệ tử ghé tai thì thầm, tuổi thọ của rùa, cao lắm chừng vài
trăm năm.
Ông bèn lắc đầu nói:
-Nhận, đến lúc nó... đi, là mình buồn lắm, vì lỡ quấn quít với
nó rồi!
Bây giờ, là.... về
Người đi, ừ nhỉ,
Người đi thực!
Xác Người bầy ra, đệ tử sắp
hàng viếng thăm.
Đầu tiên là Ngài Bộ Trưởng
Ngoại Giao.
Ngài cúi đầu hơi bị lâu, ông đứng kế chờ hoài, khều nhẹ:
-Mi làm chi kỳ rứa? Hắn chết rồi mà?
-Thì tao biết rồi, nhưng làm sao biểu cho hắn ta biết?
Nhân
đọc bài viết của Sến: Ngoại Giao Tháp Rùa
Joseph Brodsky
and Mikhail Baryshnikov, New York City, 1985
http://www.nybooks.com/articles/2016/01/14/a-ghost-story/
A
Ghost Story
Joan Acocella
Brodsky/Baryshnikov
a theater piece written and directed
by Alvis Hermanis
New Riga Theatre, Riga, Latvia, October
15–November 7, 2015
Baryshnikov Arts Center, New York City, March 9–19, 2016
Many emotions are
entwined in the theater piece Brodsky/Baryshnikov, which had
its premiere at the New Riga Theater in October and will open at the
Baryshnikov Arts Center in New York in March. Its subject is Joseph Brodsky,
who was born in Leningrad in 1940 and died in Brooklyn in 1996. Other
Russians of Brodsky’s time—notably his great elders Anna Akhmatova, Osip
Mandelstam, Marina Tsvetaeva, and Boris Pasternak—were made to feel more
keenly than he their government’s scorn for artists, but his case too
is notorious. Soon after he began circulating verse in samizdat in his
late teens, he came under the eye of the authorities. He was denounced
in a Leningrad newspaper in 1963 as “pornographic and anti-Soviet.” In
1964, he was tried for “social parasitism” and sentenced to five years’
hard labor.
He landed in the
small village of Norenskaya, in the Arkhangelsk region of the Arctic.
By day he chopped wood and hauled manure. By night he taught himself
English, and read English and American poetry—above all, John Donne,
Robert Frost, and his idol, W.H. Auden—in his hut. He later said that
this was one of the happiest times of his life. Meanwhile, the transcript
of his trial had been smuggled to the West, and his case became an international
scandal. Embarrassed, the Brezhnev government released him after only
a year and a half.
This did not mean
that he was free, however. By then, because of the trial and because
of poems of his that were being published in the West, he was a famous
man. When literary dignitaries came to Russia, he was often the person
they wanted to meet. But he could not get a poem published in the Soviet
Union, not to speak of obtaining permission to attend literary conferences
outside the Soviet Union. This is the sort of tragicomedy in which the
USSR specialized. The authorities eventually tired of it, though, and
one day, in June 1972, he was simply taken to the airport and put on
a plane.
He did not know
whether the plane was going east or west. It went west, to Vienna, and
at the airport he was met by the American Slavist Carl Proffer, whom
he knew, and whose small press, Ardis, in Ann Arbor, Michigan, would
publish a number of his writings in Russian. Auden had a second home
outside Vienna, and the day after Brodsky’s arrival Proffer rented a car
and deposited Brodsky there, to what was apparently Auden’s surprise.
Brodsky stayed for four weeks. Auden got him some money and called various
people to say that he was coming.
Proffer arranged
for him to be given a job as poet in residence at the University of
Michigan, where he himself taught. In July 1972 Brodsky flew to the
United States, where he would live until his death twenty-three years
later. Almost always, he taught—after Michigan at other schools, above
all, Mt. Holyoke, where he became a chaired professor. Over the years
he received just about every important award a poet could want, culminating
in the Nobel Prize in 1987.
He later said that this was one of
the happiest times of his life.
Sau đó chàng phán,
đó là thời gian hạnh phúc nhất trong đời chàng!
Ôi chao, sao giống
GCC thế.
Quãng đời tù VC ở nông trường Đỗ Hòa
[Hình trên net]
Trong một bài tạp ghi, tản mạn - được gọi hứng từ một bài điểm
cuốn ‘Đọc Lolita tại Teheran’, trên phụ trang văn học của tờ Thời Báo Luân
Đôn, TLS - tôi có viết về hình ảnh của chính mình, khi đứng ngay trên
vỉa hè Sài Gòn, đọc cọp cuốn Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, được ông chủ
nhà xuất bản của nó, là Nguyễn Đình Vượng đem ra bán xon, lấy lại vốn,
chắc là vì chẳng có ma nào đọc. Tôi còn nhớ cuốn sách bìa mầu vàng (1).
Tôi nói đọc cọp, là vì hồi đó, nghèo quá, không thể nào có tiền
mua nhiều thứ, không cứ gì sách: một xa xỉ phẩm!
Hình như đó là lần đầu tôi biết đến cái tên Thanh Tâm Tuyền,
tác giả cuốn Bếp Lửa.
Lần thứ nhì, là biết đến tờ Sáng Tạo của nhóm bạn bè của ông.
Cũng là qua một anh bạn cùng lớp Nguyễn Hải Hà, học cùng với
nhau năm Đệ Nhị, tại trường Hồng Lạc, khi đó còn là một lớp học, trên
đường Sương Nguyệt Anh, ở gần vườn Bờ Rô, ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập
Tự.
Kỷ niệm lần đầu đọc Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn làm tôi liên
tưởng tới một mẩu chuyện của nhà soạn nhạc lừng danh, thuộc dòng nhạc Thời
Đại Mới, New Age, Yanni, người đã từng mang cả bộ sậu tới chơi tại Đền
Thiêng Ấn Độ, và Tử Cấm Thành Bắc Kinh.
Và cũng có thể ngược lại: chính câu chuyện của Yanni làm tôi
nhớ đến cái cảnh đứng như trời trồng, giữa vỉa hè Sài Gòn. ngấu nghiến
đọc Bếp Lửa, đọc xong len lén đặt nó trở lại vỉa hè, rồi len lén bỏ đi,
tránh cặp mắt chẳng có gì là hài lòng của người bán!
Ông Yanni này tâm sự với thính giả, qua một lần phỏng vấn trên
TV, hình như vậy, là ông rất biết ơn ông bố của ông. Vào năm ông chín
tuổi, biết ông con quá mê âm nhạc, và quá cần cây đàn piano, ông bố
bèn đem cầm cố căn nhà, tài sản độc nhất mà ông có được, để mua cây đàn
cho ông con.
Ông nói, mua chậm là hỏng. Năm đó, tôi rất cần cây đàn. Tất
cả những gì gọi là mầm nhạc ở trong tôi, chúng đòi hỏi cây đàn. Để chậm
một tí, là những mầm đó héo đi, sau đó có được cây đàn thì cũng cẩm như
không!
Kinh nghiệm của tôi đọc cuốn Bếp Lửa cũng như vậy. Phải đọc đúng
vào lúc đó [Lúc đó, là lúc nào, tôi sẽ xin nói rõ, sau này]. Từ nó,
mà ra những anh em bà con họ hàng của nó, thí dụ như Buồn Nôn, Bức Tường
của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, và nói rộng ra, cả thế giới văn chương.
Có lần, tui hùng dũng tuyên bố, tôi đọc những tác giả khác,
thí dụ Thanh Tâm Tuyền, thí dụ Sartre, thí dụ Camus, là để hiểu tôi,
cũng là theo ý nghĩa đó. Nói bạo hơn một chút: Những kỷ niệm của riêng
Gấu tui, chỉ Gấu tui biết, tôi nhờ đọc họ, mới thấy ra được. Mới biết là
mình có những kỷ niệm đó đó. Chúng thực sự ở trong tôi, nhưng tôi không thấy,
không hề biết đến chúng. Nếu không có họ, như những mầm âm nhạc mà Yanni nói
đó, chúng cứ thế mà khô héo đi, cùng với cuộc đời thường của mỗi con
người thường…
Tôi lấy thí dụ, một lần đọc Salman Rushdie, ông kể lần trở về
thành phố quê hương, Bombay, nhìn tấm hình căn nhà cũ, hình đen trắng,
vẻ lem luốc tiều tụy của nó làm bật ra ở nơi ông giấc mộng lớn văn chương:
Ta sẽ viết một cuốn sách thay thế cho tấm hình nghèo nàn dơ dáy kia. Cuốn
sách của ta sẽ là một bức hình mầu Technicolor về thành phố Bombay.
Đọc tới đây, đột nhiên Gấu nhớ ra kỷ niệm về cây viết chì xanh
đỏ lần đầu tiên có trong đời.
Cây viết chì đó thực sự không phải của Gấu, mà của một ông cậu,
em bà cụ thân sinh ra Gấu. Cậu Cầu. Con Bà Ba, tức vợ thứ ba của Ông Ngoại
Gấu.
Nhà Gấu nghèo, bố mất sớm vì tai họa đảng phái ngay năm 1945,
bà cụ phải đem mấy đứa con ăn chực nơi bà con, mỗi người è cổ chịu một
đứa. Gấu được Ông Ngoại, sau khi Bà Ba gật đầu, nuôi, một phần là để ba
cậu con của Bà Ba có người hầu.
Trong số ba cậu, Cậu Cầu là người thương Gấu nhiều nhất.
Lần đó, Bà Ba đi Hà Nội, khi về mua khá nhiều quà cho ba cậu
con, trong có cây viết chì đầu xanh đầu đỏ. Cậu Cầu đưa cho thằng cháu
chơi một tí. Thấy thằng cháu mê quá, không muốn trả, ông tặc lưỡi, thôi
cho mày, nhưng giấu thật kỹ nhé, thằng mắt lác!
Chả là Gấu vừa lùn lại vừa lé [lác].
Có thể nói, giống như Rushdie, Gấu viết văn bằng cây viết chì
xanh xanh đỏ đỏ mà ông cậu cho, vào lúc chín, hay muời tuổi…
NQT
(1) Cuốn Bếp Lửa sau đó, được tái bản mấy lần. Lần sau cùng
là vào năm 1974, nhà xuất bản Kẻ Sĩ do nhà thơ Tô Thuỳ Yên chủ trương.
Lạ một điều, hành động trên của Nguyễn Đình Vượng như tiên đoán
ra được số phận của cuốn Bếp Lửa, phải tái sinh từ những tro than của vỉa
hè Sài Gòn, cũng như số phận của cả một nền văn học trước miền nam, tái
sinh từ những tro than của cuộc phần thư 1975.
Ít người Vietnam tại hải ngoại và cả trong nước tin vào
Sự tàn ác vô nhân đạo của công an đối với người dân. Chỉ khi
họ thấy tận mắt như hình ảnh này, họ mới tin.
Dũng Mai
added 4
new photos.
Các bạn Fb thân mến.
Chính vì bức thư gửi ông chủ tịch thành phố Hà nội dưới đây
mà mà nick Fb Dũng Mai đã bị hack cách đây vài giờ. Tôi đã lập trangFb
mới và đ...
Gửi ông Nguyễn Đức Chung-Chủ tịch UBND thành phố Hà nội.
Thưa ông Chủ tịch.
Tôi không muốn gửi thư qua Bưu điện mà viết ngay trên Fb vì biết
chắc thông tin sẽ đến nhanh nhất tới bàn làm việc của ông.
Bà Hồ Thị Niên quê Nghệ An hiện nay đang là một Dân oan đang khiếu
kiện về việc đất đai tại Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng &
Chính phủ, địa chỉ số 1 Ngô Thì Nhậm Hà đông - Hà nội.
Tôi không tìm hiểu sâu việc khiếu kiện của bà (vì đã có cơ quan
chức năng nắm rõ) chỉ biết bà đang là một người quá đau khổ: què liệt,
sống vạ vật trên hè phố, ăn xin và nhờ gạo cứu trợ để không chết đói ngay
giữa thủ đô Hà nội.
Vậy mà đêm hôm qua, những người dân ở đây cho biết: "Chiếc xe
lăn của bà đã bị chính quyền sở tại lấy đi mất".
Tôi không muốn tin vào điều được nghe mà chỉ nghĩ: Chính quyền
đã không lo được cơm áo cho bà ấy thì lẽ nào làm cái việc như vậy.
Tôi đề nghị ông Chủ tịch chỉ đạo cho cơ quan công an điều tra vụ việc
để sớm trả lại cho bà Hồ Thị Niên chiếc xe lăn đó.
Cảm ơn và chúc ông sức khoẻ, hạnh phúc.
(Nói thêm: Chiếc xe lăn đó do chính tay tôi mua, thay mặt những
tấm lòng nhân ái gửi tặng bà ấy)
Hà nội 13/01/2016
Mai Xuân Dũng
tin này dành riêng cho Nguyễn Quang
Lập
có người gửi cho bọ chai Chivas, em gửi ở 209 hay ở đâu anh
kwan ?
- gửi ở 209 , tôi có thể nhận giùm và chuyển tận tay cho bọ
Lập cái ...vỏ chai không !
Không chỉ cái vỏ chai “Xì Và”, mà luôn cả mẩu tin trên, cú đúp,
gửi tặng BL
Sợ, cái cú nổi cộm ngày nào, cú “monté”, của Vẹm & BL?
A Woman Meets An Old Lover
Denise Levertov
1923-
Farewells to a body as it once was are like
farewells to life. There is a feeling of the abyss of passing time in
this poem:
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things
Vĩnh biệt 1 cái bo đi thì cũng "cẩm" như vĩnh biệt 1 cuộc
đời:
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những
ngày sắp tới!
'He with whom I ran hand in hand
kicking the leathery leaves down Oak Hill Path
thirty years ago
appeared before me with anxious face, pale,
almost unrecognized, hesitant,
lame.
He whom I cannot remember hearing laugh out loud
but see in mind's eye smiling, self-approving,
wept on my shoulder.
He who seemed always
to take and not give, who took me
so long to forget,
remembered everything I had so long forgotten.'
Chàng, ngày nào tui chạy vội tới ôm,
Rồi tay trong tay, hai đứa đuổi lá vàng
Ba mươi năm trước đây
Chàng mà tôi không thể nhớ tiếng cười ròn tan
Nhưng vẫn còn nguyên trong trí tưởng
Mắt chàng cười, cao lớn, đẹp trai, rất tự hào về mình
Đã từng khóc trên vai tôi
Chàng, vốn chỉ lấy, không cho...
Ui chao, coi kìa, già khòm, mặt mày xanh lét, lại chống
cái gậy nữa kìa!
Đâu phải thằng chả ngày nào của tôi?
Note: Thấy trên net chửi TT tơi bời, bèn post bài thơ
này.
TT cần tiền mua sữa cho con. Lý do đó quá đủ để bán những
cuộc tình cũ.
Ngay cả 1 người tình cũ, có chồng rồi, mà còn đến với
TT, liệu có tên đàn ông nào bảnh như thế chăng?
Hà, hà!
Migrant men and
European women
Theo tờ Người Kinh Tế, súng di dân không dám nhạy lắm:
Migrants are no more likely to commit crimes than natives.
When it comes to assimilating new arrivals, Europe could learn
a thing or two from America, which has a better record in this regard.
It is not “culturally imperialist” to teach migrants that they must
respect both the law and local norms such as tolerance and sexual
equality. And it is essential to make it as easy as possible for them
to work. This serves an economic purpose: young foreign workers more than
pay their way and can help solve the problem of an ageing Europe. It also
serves a cultural one: immigrants who work assimilate far more quickly
than those who are forced to sit around in ghettos. In the long run most
children of migrants will adopt core European values, but the short
run matters too.
The process of absorbing refugees will be neither quick nor
easy, but it is the right thing to do and will ultimately benefit
Europe. Ideally, all European countries would do their part. It is
scandalous that so few have agreed to take more than a handful of Syrians,
and that European governments have yet to agree on a beefed-up border
agency to police the EU’s external frontiers. Even in Germany, there
is a risk that Mrs Merkel will be forced to abandon her policy of compassion.
If she is to salvage it, she must take the lead again, spelling out how
Germans can make Willkommenskultur work—and how
the newcomers themselves must adapt to basic European values.
Nhìn ở góc độ văn hóa như thế này là phải chăng nhất.
Mấy hôm nay chuyên gia từ nhiều tổ chức nghiên cứu sắc tộc và tôn
giáo cũng đi tới gần chân lí, cắt nghĩa vụ việc bằng khác biệt văn
hóa. Nhưng dừng lại ở quan điểm về phụ nữ của những người tị nạn và
đi xa hơn tới các rối loạn của hoocmon. Thật ra thì hình như vô cớ
động vào đàn bà con gái nhà người dễ nhận đạn vào đầu ở xứ mà họ từ
bỏ lắm. Ngay cả ở nơi chốn họ tới.
Rất đồng ý với ý chỉ ra chính xác căn nguyên là khác
biệt văn hóa không phải là để biện
hộ mà là để kết tội của ông Đỗ Kh. Tới đâu thì ai cũng phải nhập
gia tùy tục. Các cụ nói đến là đúng.
Nhưng kết án đúng không lại là chuyện khác, và từ
vị thế nào nữa cũng phải nghĩ. Mình là cứ theo ông Khờ này. Chưa
thấy ai bắt chước được cái giọng văn xuôi của ông này, người hai mươi
năm trước đọc được, choáng xong phải công nhận hình như tới ông
ấy sau Nam Cao thì đối thoại độc thoại mới nhảy được một bước về phía
trước.
Nhiều đồng bào của mình ở tận quê hương đang bỉ báng
toàn bộ thế giới người theo Islam, đang định ghi danh vào giáo phái
Giao Động Việt Nam mà lại hãi vì khác thế nhỡ.
(NCTG) “Chúng ta chỉ nhớ đến những trải nghiệm
bản thân, những ngậm ngùi nước mắt hay nửa khóc nửa cười đó của
chính chúng ta. Khi những cộng đồng…
nhipcauthegioi.hu|By Nhịp Cầu Thế Giới Online
Chuyện sau đây, thì do 1 vị phu nhân của 1 họa sĩ,
kể lại cho GCC nghe, xẩy ra ở Tiểu Sài Gòn, giữa 1 nhà văn Mít nổi
tiếng, và một nữ độc giả. Ông nhà văn, không tiện nêu tên, nổi tiếng
lắm, không chỉ về văn chương, mà còn về tư cách, đạo đức, nhất là
thời gian đi tù VC. ... Bà độc giả quí lắm, mời về nhà, bày hình ảnh
đi du lịch, tắm biển... cho coi. Nhìn mấy tấm hình, nữ chủ nhân mặc bikini,
ông nhà văn tưởng.... bở, thế là nhẩy tới, bà chủ nhà tát cho vài
phát, may sao không kêu 911, nhưng đuổi ra khỏi nhà, sau đó, đi đâu
cũng kể, làm nhà văn khốn khổ khốn nạn…
Chuyện này dân Cali, nhiều ngưòi biết, nên tốt nhất,
đừng nêu tên, bất cứ ai, trong cuộc!
Hà, hà!
Thành
phố được suy tàn
Đây chính là cuốn sách biến Pamuk trở
thành nhà văn của thành phố Istanbul, đúng như cách thức đã từng làm
cho James Joyce là nhà văn của Dublin và Paul Auster thuộc về New
York. Trong một viễn tượng hội họa, Istanbul tỏa khói những con phà,
trầm lắng một nỗi buồn đế chế giữa ngổn ngang đổ nát thành quách cũ và
đọng mãi trong tâm tưởng người đọc hai màu đen trắng, màu của quá khứ, của
một ký ức hoang phế nhưng cũng đầy sức mạnh. Người ta chỉ có thể thực
sự hiểu năng lượng văn chương của Orhan Pamuk khi thấm đẫm từng dòng ông
viết về thành phố của ông, và khi ấy, sẽ không còn ai thấy kỳ lạ việc ông
dành cả đời sống ở đó, trong ngôi nhà tuổi thơ, ngồi viết tại cái bàn nhìn
ra mưa nắng trên mặt biển vịnh Bosphorus, điểm mốc phân chia ranh giới giữa
Đông và Tây.
tôi đã viết nhiều text, có những lúc tôi cũng viết
được rất không tệ, như cho Nghe mùi kết thúc (với tôi, tên của nó
vẫn cứ là Đoạn kết đã thấy), xem ở đây, nhưng bởi vì không nhìn ra
được sự thành thực khốc liệt ấy, nên tôi không sao làm ra nổi một
text bìa như cho Istanbul
Blog NL
Khi GCC dịch Istanbul, trong đầu đầy hình ảnh Sài
Gòn, ký ức Sài Gòn, và BHD, tất nhiên. Bản thảo có rất nhiều
trang rôi ra, nhà xb bỏ đi, vì không liên quan tới tác phẩm. Gấu giữ
lại hết, vì tiếc quá, tính để từ từ, kiếm cách in, song song với
bản đã được Nhã Nam in. Nhưng PC bị hư, bị virus, thế là mất hết.
Nhảm thế.
Đúng ra là phải save nó vô 1 cái USB
Ngu thế!
Có ba độc giả, cực mê Istanbul, bản Gấu dịch,
và đều thật thân với GCC.
K, CM, và Sad Seagull.
NL, thì… đực quá, không nói, vì 1 cách nào đó, ba
vị trên, đều liên quan mắc mớ tới 1 Sài Gòn, mà NL không có,
và tới 1 nữ nhân vật của Pamuk, La Rose.
Istanbul
Doc bai dich tren blog hay qua .
Anh Tru dich "mướt" lam roi .
K
Biet khi nao VN moi co mot tac pham nhu the.
Tks.
NQT
Crimson
Mai: chú ý, kiệt tác!
ăn cắp cái title của bạn Nhị Linh.
@NQT: chúc mừng anh.
@all: chúc mừng những người muốn tìm 1 quyển sách
hay và được dịch hay để đọc.
@Crimson Mai: lâu lắm mới có người sử dụng ngôn ngữ
đến mức làm Crimson á khẩu.
Bao Anh: Ngôn ngữ như thế nào có thể làm Crimson
á khẩu?
@BA: thêm 1 chữ thì thừa, bớt 1 chữ thì thiếu, dùng
lệch đi thì sai, dùng từ khác thì dở; duyên dáng mà ko đến mức làm
duyên làm dáng; chuẩn mực mà ko cứng nhắc; gần gũi ,địa phương mà
ko quê mùa. Tất nhiên là ở 1 số đoạn thôi, người đẹp, nhưng đủ làm
ta á khẩu.
Source
Đọc Istanbul,
á khẩu?
CM muốn nhắc tới giai thoại về bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.
Tương truyền thi hào Lý Bạch đến lầu Hoàng Hạc, thấy
bài thơ của Thôi Hiệu bảnh quá, bèn á khẩu, ú ớ phán:
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”
(Cảnh trước mặt không thể nói ra được,
Thôi Hiệu đề thi ở trên đầu)
Tks. NQT
Chúc mừng Mr.Tin Văn
From:
To:
Bác Trụ,
Cháu rất vui vì bản dịch Istanbul đã
in ở Hà Nội. Cháu ở Đức nên không có điều kiện mua cuốn này, nhưng
qua những phần đọc được trên trang của bác, cháu rất thích văn phong
dịch trong đó. Hi vọng đến lúc về Hà Nội chơi, cháu sẽ mua được một
bản.
Cháu mong sẽ được đọc thêm nhiều bản dịch, cũng như các
sáng tác khác, của bác.
Cháu kính chúc bác sức khỏe.
Một người đọc.
Tks. NQT
Mèo khen mèo dài đuôi.
Nói ra thì xấu hổ, nhưng Istanbul bản tiếng Mít
phải nói là thần sầu, hay "khiêm tốn" một chút, một "kiệt tác",
như NL giới thiệu.
Câu bảnh nhất để mà khen nó, chôm của Brodsky:
Cái phần đẹp nhất của Gấu thì đã ở đó, ở Hà Nội, rồi:
Istanbul
của Gấu! (1)
[Cái phần đẹp nhất của tôi,
thì đã ở đó. Rồi: Thơ Của Tôi. Brodsky]
Source
*
Tks all of U.
Again
NQT
(1) Cái phần
đẹp nhất của Gấu, thì đã có ở đó, ở Sài Gòn, rồi: Những
Ngày Ở Sài Gòn
Vào giữa thập niên 1950, trong khi học tại Robert Academy, tôi dành
khá nhiều thì giờ, đứng giữa đám người đợi xe buýt buổi sáng tại Besiktas-Sariyer,
nhìn lên những ngọn đồi phía bờ biển Á Châu, trong lúc Bophorus chập chờn
như một biển cả bí mật, thay đổi mầu sắc cùng với mặt trời lên. Vào những
buổi chiều xuân sương mù, khi không một cọng lá nào ở trong thành phố
rì rào lao xao, vào những đêm hè không một cánh gió, không một tiếng động,
một người đàn ông lặng lẽ bước một mình sau nửa đêm dọc theo bờ biển Bophorus,
anh ta chỉ nghe tiếng bước chân của chính mình, và khi anh ta vòng vòng
ở khu Akinti Burnu, rồi đi quá Arnavukoy, hay khi anh ta đi tới ngọn hải
đăng ở chân nghĩa trang Asiyan Cemetery, đúng lúc đó, anh sẽ nghe thấy tiếng
gầm thật hạnh phúc, thật đáng sợ và thật sung mãn của con nước, và gật gà
gật gù, những đợt khói sóng, mớ bọt biển kia, chẳng biết đến từ nơi nao,
và tự hỏi, như Hisar đã từng, và tôi cũng đã từng tự hỏi, liệu chăng Bosphorus
có một linh hồn.
Những khoảnh khắc cảm động nhất trong cuộc tản bộ dài, mệt mỏi, bất
thình xẩy ra, khi Gautier bắt gặp những điêu tàn, cái còn lại của một thời
kỳ Byzantine, chạy dài thấu suốt một cõi phố xa xa: Ôi điêu tàn ư, đâu
chỉ có điêu tàn!
Gautier chuyển tải một cách thật là mãnh liệt, cái sự dầy, cái sự
chịu đựng dai dẳng với thời gian, của mấy bức tường có từ thời văn minh
Byzantine: ôi chúng mới cao ngạo làm sao, ôi thời gian sói mòn chúng mới
ghê gớm thế nào!Những vết nứt chạy dài trọn chiều dài của một cái tháp
(khi còn là một đứa bé, nhìn, là tôi thấy khiếp sợ, làm sao không?), những
mẩu vụn nằm lả tả, rải rác ở dưới đáy những bức tường, trên mặt đất (giữa
thời kỳ Gautier và của chúng ta, trận động đất lớn vào năm 1894 đã gây
tổn hại nặng nề cho những bức tường của thành phố). Ông mô tả đám cỏ,
ở trong những vết nứt, và những cây vả: những chiếc lá xanh, lớn, của chúng
làm dịu đi những đỉnh tháp, [làm dịu đi] nỗi u sầu đần độn của những khu
phố đìu hiu tiếp giáp với những bức tuờng, sự im lặng của những lối xóm
và những căn nhà xiêu vẹo của họ. “Thật khó mà tin rằng, có một thành phố
đang còn sống ở đằng sau những ngổn ngang thành quách như thế này”, Gautier
viết. “Tôi nghĩ, chẳng có một nơi nào trên thế gian, sỏi đá khô cằn, buồn
đến cháy da cháy thịt, như là con lộ này, nó chạy dài hơn ba dậm, giữa những
điêu tàn, ở một bên, và nghĩa địa, ở một bên”.
Thơ Mỗi Ngày
Một vị độc giả, GCC nghi là Thầy
Đạo, trả lời, theo kiểu ẩn danh:
Durcir en: cứng rắn thành, và thêm, mi dốt
tiếng Tây quá, mà cũng bày đặt!
NQT
Cái chuyện dốt tiếng Tây, thì tất nhiên,
đâu phải tiếng Mít. Trên talawas, 1 vị độc giả đã từng lôi
những chỗ thầy Đạo dịch sai, mà sai thật, Thầy đếch thèm trả lời.
Thầy thua… GCC ở chỗ đó. Trên TV, bất cứ trường
hợp nào dịch sai, được độc giả chỉ cho thấy, thì đều có phúc
đáp, có cám ơn. Trường hợp ở đây, cũng vậy. Thầy có thể thẳng
thắn trả lời, durcir đi với en, cứng rắn thành. Có sao đâu.
Theo GCC, "trong" hợp lý hơn "thành". Đây
là giới từ, khi chuyển qua tiếng Việt, sử dụng từ nào hợp lý
nhất, là tuỳ người dịch.
Lần gặp Thầy Đạo, lần đầu qua Cali, 1998, ở tiệm
sách VK, của DDT, ở Tiểu Sài Gòn, Thầy rất bực khi GCC không
nhớ ra Thầy. Người phán, mi không nhớ ta sao, ta đã từng
đi tới nhà mi, khi còn ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận, cùng với ông
anh của BHD. Ông nói thì Gấu nhớ mang máng đã từng gặp, như thế
thực.
Và nếu như thế, thì ông học sau GCC. Khi ở hẻm
Đội Có, là Gấu được Bà Trẻ đem về nuôi, đã xong hai cái bằng
Tú Tài, đang học Toán Đại Cương. Do không có tiền mua sách, ngoài
cái cours quay ronéo, cuối năm, đi thi, chẳng hiểu cái đầu bài
toán thi đó, nó là cái gì, GCC bỏ phòng thi ra về. Liền sau đó, thấy
báo loan tin Ty Cảnh Sát Gia Định tuyển biên tập viên, Gấu bèn nạp
liền, nhận liền, vì dễ có ai có cả hai cái bằng Tú Tài như Gấu. Về
khoe với Bà Trẻ, hết đói rồi, Bà mắng, mi đến lấy ngay cái đơn, xé
bỏ, gia đình nhà mi không có mả đánh người!
Truyện này kể rồi, nhưng quả là nó ám Gấu
cả đời.
Nếu như thế, thì đó cũng là lần đầu tiên,
Gấu biết đến ông anh của BHD. Ông vô thăm 1 người bạn ở trong
hẻm, không phải GCC.
Sau đó, đọc tin Trường Quốc Gia Bưu Điện mới thành
lập, mở kỳ thi lấy sinh viên, học hai năm, thay vì ba năm, điều
kiện phải có bằng Tú Tài Hai. Gấu thi, đậu, nhưng không đi học,
vì chê, ra trường, lương chỉ số 350, chỉ số lương Cán Sự, vẫn còn nhớ,
thua, nếu ra trường Đại Học Sư Phạm, lương kỹ sư!
Bỏ Toán Đại Cương, qua học Toán Lý Hóa, MPC,
cuối năm, thi rớt. Cái sự thi rớt này, cũng là do quá kiêu ngạo
mà ra. Hình như cũng đã kể ra rồi. Đến Bưu Điện, lấy lại cái hồ
sơ, trong có cái bản sao chứng chỉ Tú Tài Hai, vì tiền đâu mà lại
đi sao 1 bản khác nữa, ông thầy giám thị biểu Gấu, mi ngu quá, nghèo
như mi, thì sao không học Bưu Điện cho xong đi, rồi đi làm, rồi có
tiền, muốn học gì thì học. Gấu nghe bùi tai quá, bèn nói, nhưng
em bỏ mất 1 năm học rồi, làm sao học. Ông nói, để ta nói với Thầy
hiệu trưởng. Thầy Trần Văn Viễn. Ông gọi vô, hỏi, năm rồi, mi học
đâu, em - học sinh Miền Nam, thưa thầy, em, khác Bắc Kít, thưa thầy,
con - học MPC. Ông bèn lôi tới cái bảng đen, ra ngay 1 bài toán, Gấu
giải như máy - thực sự là thế - Thầy rất mừng, bèn gật đầu, cho vô học
năm thứ nhì.
Vẫn còn nhớ, khi học, Gấu có thói quen, gác
chân lên cái ghế trống phía trước, và bị 1 ông Thầy, kỹ sư Tuân,
cũng từ Pháp về cùng 1 đợt với Thầy Viễn, bực lắm, nhưng Thầy lại không
nói ra, nhưng Gấu biết, Thầy không ưa Gấu, nên khi ra trường, học
cours của Thầy thật là kỹ. Đến kỳ thi, bài thi của Thầy, Gấu không
làm được, vì nó thuộc phần học quá dễ, Gấu bỏ qua, vì nghĩ trong bụng,
ông Thầy này không ưa ta, chắc là ra bài thực khó.
Thế là ông đánh rớt.
Thầy Viễn biết, bèn hỏi, Thầy Tuân nói, tôi
hỏi nó 1 câu thật dễ, nó không trả lời được, Thầy Viễn cười,
anh hỏi nó 1 câu thật khó, mới đúng, vì nó, nhất trong mấy đứa
đó!
Ui chao, Thầy quá thương, quá hiểu trò!
Cái tính cực kỳ kiêu ngạo của Gấu Cà Chớn,
là do cái sự Gấu cực kỳ giỏi về Toán, mà ra!
Hà, hà!
Mấy đứa cháu, cháu ngoại, như Jennifer, thằng
Lùn Richie, cũng giỏi Toán. Jennifer đi thi toán, toàn liên
bang Canada, về nhì!
Cái sự thù hằn của Thầy Đạo với GCC, nếu có,
thì thực là quái dị, vì Gấu có bao giờ đọc ông đâu, và ông có
viết cái gì đâu mà đọc?
Thấy ông khoe, ông đã từng viết cho Sáng Tạo,
và nếu như thế, thì còn là đàn anh của Gấu.
Lần đầu tiên Gấu biết tới ông, là lần ông viết
trên talawas, tố Gấu với em Sến, Bắc Kít, là tên đó không phải dân
khoa bảng!
Cũng là lần ông tố Thầy của ông ta, là Nguyễn
Văn Trung, thuổng 1 bài viết cùa 1 tên Tây mũi lõ!
Những sự kiện này, trên talawas,chắc là vẫn còn.
Luôn cả bài viết của 1 độc giả chê Thầy Đạo dịch
sai tiếng Tẩy, khi đọc Linda Lê. (1)
(1)
Margaret Nguyen
Cộng đồng Pháp ngữ Việt Nam, lạc
quan hay bi quan?
Linda Lê viết:
«Mon père apparaît, disparaît entre les ruines.
Je suis sa trace»
Đào Trung Đạo dịch: «Cha tôi xuất hiện rồi biến
mất giữa những đống đổ nát. Tôi là dấu vết của ông».
Một câu ngây ngô!
Chỉ con nít đang học chia động từ «être» thì
mới nhắc lại như vẹt rằng «je suis - tôi là, tu es - anh là, il
est – nó là...».
«Suis» ở trong câu của Linda Lê phải được hiểu
là động từ «suivre» - «đi theo».
Tóm lại, câu trên phải dịch đơn giản như vầy: «…
Tôi đi theo dấu vết của ông».
Nhật ký
Tin Văn
Theo GCC, ngay khi đọc
được/được đọc, 1 độc giả, sửa cho mình 1 cái lỗi dịch sai như trên,
là phải đi 1 cái mail, gửi "em" Sến, xin cho đăng 1 lời cảm ơn
người sửa sai cho mình rồi.
Thầy Đạo, vờ.
Chính là từ cái sự vờ này, ra điều mà Brodsky
phán, mỹ là mẹ của đạo hạnh, và từ đó, ra câu của Dos, cái đẹp sẽ
cứu chuộc thế giới, [chứ không đạo hạnh], và ra câu của Roland Barthes,
khi ông hiểu ra được ý của Kafka, khi Kafka cho rằng, kỹ thuật là hữu
thể, être, being, của văn chương. Viết như thế nào, how, chứ không phải
tại sao, why, viết.
Không đơn giản đâu, cái sự vờ này!
Tếu nhất, thiếu “mỹ” nhất, là cái vụ Thầy điểm sách của 1 tên mũi
lõ, và ông này mail “phúc đáp”.
Thầy kể là ông này cũng triết gia, thế là hai bên nói chuyện tương
đắc lắm.
Hóa ra không phải vậy, vì bà chủ báo sau đó, cho công bố cái mail
của vị độc giả.
Ông ta cằn nhằn, viết về sách của tôi, mà để cái hình 1 tay dịch,
sách của tôi!
Cú này, ThảoTrường bị rồi. Ông được 1 website của 1 nhà văn Mít hải
ngoại, vì mục đích bảo tồn nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy, đưa lên trang của ông.
Cái trang này, lâu quá quên tên, bạn vô, có thể đọc, nhưng không thể
copy. Có điều, ông ta lầm hình Thảo Trường, với 1 ông khác, hình như là
Thế Uyên.
Thảo Trường biểu Gấu, ông rành ba cái web wiếc, ông làm ơn nói, sửa
giùm.
(1)
Một bữa Hai Lúa trong khi bay lượn trên không
gian ảo, tình cờ lạc vô trang VHNT, của Nguyễn Ý Thuần. Ông là một trong
những nhà văn đã từng được nhà phê bình lớn và còn là học giả ở trong nước,
là Hoàng Ngọc Hiến, nhắc tới, suýt soa, đây là thứ văn chương vượt lằn ranh
Quốc Cộng, tới cõi nhân bản...
[Xin xem bài của HNH viết về VHHN].
Thú thực, đó là lần đầu tiên, Hai Lúa biết tới tên ông NYT này.
Coi sơ sơ, tới mục giới thiệu những nhà văn tác phẩm của họ, HL thấy
tên nhà văn Thảo Trường. Ông này HL quá quen, nhưng ơ kìa, nhìn hình kìa,
không phải là ông Thảo Trường từ xưa tới giờ. Đọc tác phẩm thì đúng là
ổng, nhưng hình không phải ổng.
Thế rồi bận bịu, quên luôn, cho tới một bữa ông TT viết mail, này,
ông Gấu [xin lỗi bà Gấu phải lập lại từ này], tôi nghe nói, có ai đó post
tác phẩm, hình, tiểu sử của tôi, nhưng hình thì không phải. Tôi không
quen sử dụng net, phiền ông liên lạc giùm.
Hai Lúa bèn mail cho nhà văn lớn Nguyễn Ý Thuần, nói rõ câu chuyện,
lại còn đề nghị, nếu cần hình nhà văn mập TT, sẽ sẵn sàng mail tới.
Đếch thèm trả lời.
Nhưng coi lại, hình của nhà văn mập đã được hạ xuống!
Tribute to
Robert Walser
THE POET
I DREAM of morning and dream of evening;
light and night; moon and sun and stars. The rosy light of
day and the pale light of night. The hours and the minutes; the
weeks and the whole wonderful year. Many times I looked up at
the moon as though at the secret friend of my soul. The stars were
my dear comrades. When the sun shined its gold down into the
pale cold misty world, how happy it made me down here. Nature was
my garden, my passion, my dearest beloved. Everything I saw was mine:
the woods and the fields, the trees and the paths. When I looked
into the sky I was like a prince. But the most beautiful of all was
evening. Evenings were fairy tales for me, and night with its heavenly
darkness was for me like a magic castle full of sweet, impenetrable secrets.
Often the soulful sounds of a lyre played by some poor man or another
pierced the night. Then 1 could listen, listen. Then all was good, right,
and lovely, and the world was full of inexpressible grandeur and merriment.
But I was merry even without music. I felt ensnared by the hours.
I talked with them as though with loving creatures, and imagined that
they talked back to me too; I looked at them as though they had faces,
and had the feeling that they were silently observing me too, as though
with a strange kind of friendly eye. I oftentimes felt as though drowned
in the sea, so silently, noiselessly, soundlessly did my life unfold.
I cultivated familiar dealings with everything no one notices. About
whatever no one bothers to think about I thought for days on end. But
it was a sweet thinking, only rarely did sadness visit me. Now and then
it leapt up to me in my secluded room like a rollicking invisible dancer
and made me laugh. I did no harm to anyone, and no one did any harm to
me either. I was so nicely, wonderfully apart.
1914
Robert Walser: A
schoolboy‘s diary
Viết mỗi ngày
Top 10 failed romances in fiction
From Sittenfeld to Soucy, Tolstoy to DH Lawrence: the love
stories that end in disappointment or sadness can also be the most rewarding
and haunting
http://www.theguardian.com/books/2016/jan/13/top-10-failed-romances-in-fiction-anna-karenina-tolstoy-women-in-love-lawrence
7. Anna Karenina by Leo Tolstoy
The ultimate book of tragic love: a married woman falls for
a young officer and their troubled passion turns pages like the book’s
on fire. This classic has three or four main threads, and like the
DH, really captures life in a distant time and place. I admittedly skimmed
some of the passages on farming to get back to these helpless love
junkies, whose doomed relationship is startlingly well-written. At one
point, Tolstoy so perfectly describes a young woman feeling pretty, I
concluded he, too, was once a young woman.
Mười cuộc tình lỡ.
Tình lỡ cố quên đi, ai ngờ cứ bò về
Cứ nhìn hình cũ thấy tóc là tim nhói lên một cái
Lam
PhạmFollow
Tình yêu/ tình bạn sau chia tay nó như cái xác mía í, gặm
nhấm hoài cũng nhạt thếch, dai nhách chẳng còn mùi vị gì, chỉ toàn bã
và bã....
Không thể nuốt vào thì tại sao ko chịu nhả nó đi!??
1 Like1 Comment
At one point, Tolstoy so perfectly describes
a young woman feeling pretty, I concluded he, too, was once a young woman.
Tới 1 lúc, Tolstoy tả 1 em, cảm thấy mình đẹp ơi là đẹp, tả
tới quá, khiến tôi nghĩ, ông ta, đã có 1 thời, là 1 em.
Ui chao, đọc 1 phát, bị THNM, GCC bèn nghĩ ngay đến cô bạn,
thời kỳ mới gặp lại tại Xứ Lạnh. Cô đọc 1 đoạn Gấu viết về cô, than,
anh đâu phải là đàn bà, anh đâu phải là tôi, mà sao anh viết về tôi, thê
lương, như thế, đẹp như thế, đúng như thế, đáng yêu đến như thế… thế…
thế… thế…
Hà, hà!
Gấu Cái thì điên lên, đúng là đồ cải lương, văn chương cải
luơng! (1)
Nhưng, nhìn cái hình, đọc cái câu thán, đọc cái còm, thì lại
nhớ đến 1 vị thân hữu, có lần tả, khi còn trẻ tuổi, tất nhiên, 1 anh
bạn trong lúc cả đám bạn nằm tán gẫu, lấy mái tóc của vị này choàng kín
mặt.
Nhớ đời thật.
Gấu chẳng nhìn thấy, mà cũng nhớ!
Hà, hà!
Tếu nhất, là, sau đó, gặp 1 vị, cũng viết văn, giống thật giống
cô bạn, Gấu bèn mang cái đoạn đó post trên TV, vị này đọc, bực quá, mail,
than, chú viết như thế không được kín đáo....
(1)
Tôi cứ tưởng tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận
với chồng với con, với cuộc đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho
người thân yên giấc, lặng lẽ thả từng cánh hoa xuống lòng giếng sâu là
hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ tiếng vọng của một thời nào đã xưa,
đã cũ….
Tôi dậy một khóa học về Dos, và đã
được hỏi nhiều lần là tại sao không viết một cuốn về Dos. Tôi luôn trả
lời, cả một thư viện, với đủ thứ ngôn ngữ, về ông ta, đã có rồi, tôi lại
chẳng phải là học giả. Tuy nhiên, còn một lý do khác.
Czeslaw Milosz
Note: Mới ghé Blog NL. Vớ được 1 câu, chê Dos quá chời:
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/01/uong-trieu-va-tuong-tuong-dau-vet.html#more
Dostoievski chính là thử thách đấy. Phải biết học
cách khinh bỉ ông ấy, nghi ngờ ông ấy, không để cho bất kỳ tầm vóc lớn
lao nào che mờ mắt. Phải đọc đi đọc lại ông ấy, phải căm phẫn một cách thành
thực, phải biết nhìn nhận ông ấy là một kẻ lừa đảo, một tâm hồn đê tiện.
Cứ như thế, liền khoảng hai mươi năm, thì có thể. Ông ấy tồn tại ở đó chính
là để cho những việc như vậy mà.
Nabokov thì khỏi nói. Chê Dos cũng thấy giời.
Khi viết về Tuổi Bụi [Tuổi 20 yêu dấu] của NHT, GCC coi đây là
1 cuốn tiểu thuyết “ông con làm thịt ông bố Bắc Kít”. Nhưng trong số báo
về Dos, trên, có 1 bài thần sầu, đặt ngược hẳn vấn đề. Phải đọc “Anh em
nhà Karamazov” như là “bố làm thịt con” mới đúng.
Đúng như thế. Ông bố Bắc Kít, làm thịt 3 triệu đứa con Mít, và
bây giờ, tiếp tục làm thịt thêm nữa, không chỉ với Cái Ác Bắc Kít, mà
còn thêm, Cái Ác Bắc Kinh!
Dos không dễ đọc. Và đúng là 1 tác giả Mít cần đọc, như Pamuk
đã đọc, dưới con mắt Thổ Kít của ông. Trên TV đã từng giới thiệu bài viết
này.
'Xuân khúc kinh điển'
http://www.bbc.com/vietnamese/culture_social/2016/01/160108_ly_ruou_mung
Về thời điểm sáng tác của Ly rượu mừng, có tài liệu
ghi là 1952, có nơi ghi là 1955.
Khi liên hệ với gia đình nhạc sĩ Phạm Đình Chương,
Phương Nam Film được gia đình xác nhận thời điểm viết bài năm
1952, dựa theo quyển sách nhạc in tại Mỹ.
Có ý kiến lý giải sở dĩ 'Ly Rượu Mừng' trở thành
ca khúc bất hủ là vì ca từ không chỉ chuyển tải lời chúc đầu năm
mà còn thể hiện ước vọng “ngày mai sáng trời tự do” cho quê hương “máu
xương thôi tuôn rơi”.
Trên website cá nhân, nhà thơ Du Tử Lê từng viết:
“Tôi muốn gọi 'Ly Rượu Mừng' là xuân khúc kinh điển nhất của nền
tân nhạc Việt Nam. Tính chất 'kinh điển' hiểu theo nghĩa không một
thành phần nào của xã hội bị bỏ quên. Và, một cách ý thức, tác
giả, đã sắp lại bậc thang giá trị của các thành phần xã hội, với lòng
trân trọng, biết ơn của mình.
Mỗi khi cùng nhau nâng 'Ly Rượu Mừng' dù ở thời điểm
nào của vòng quay trái đất, cũng chính là lúc chúng ta cùng với
tác giả, hân hoan cầu chúc “Nước non thanh bình. Muôn người hạnh
phúc chan hòa…”.
Tôi nghĩ, đó là một cầu nguyện đời kiếp của dân
tộc ta. Như sự hiện diện bất biến của tác giả ca khúc vậy.”
Note:
Kinh điển là… kinh điển.
Từ này dùng để dịch từ académique của Tẩy mũi lõ. Như
thế, nghĩa của nó là, có tính hàn lâm, ngược nghĩa với từ "phổ thông",
populaire.
Làm sao nó lại có nghĩa là, “không thành phần nào của
xã hội bị bỏ quên”?
Và giả như có nghĩa này, thì phải là phổ thông, chứ
sao lại kinh điển?
Viết lách thế này, thì cho mẹ nó, cái nghĩa "kinh...
nghiệm”, gì gì đó, cho được việc nhà nước VC!
Ở Miền Nam trước 1975, nó hay được hát, cùng 1 số bài
hát Xuân, như “Xuân và tuổi trẻ”, “Xuân này con không về”.
Cùng với cường độ của cuộc chiến “neo thang”, nó… bặt
tiếng, nhường chỗ cho “Xuân này con không về”.
Hay, "Tết này con chắc không về được", như 1 bài thơ
của ... Gấu Cái, tức của đám Mít lưu vong!
Sở dĩ bị cấm, vì nó dính chặt vào những năm tháng thanh
bình của Miền Nam, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, khi Bắc Kít còn lo củng cố
hậu phương, chờ làm thịt Miền Nam. Chính là nhờ vào những năm tháng
thanh bình này, mà có cái gọi là văn học Ngụy, trong có bài Ly Rượu Mừng.
Chữ nghĩa của bạn Cà "khủng" lắm.
Gặp cả 1 đám “ít học”, chưa từng biết đến xã hội Miền
Nam trước 1975, chưa từng biết đến thế giới bên ngoài luỹ tre làng,
là… thua!
Sách &
Báo
Trong số báo này, có bài của
Isaiah Berlin mà TV đang giới thiệu: Thông
điệp gửi thế kỷ 21
Ariel Levy, guest editor, là
staff writer của tờ The New Yorker từ 2008.
Như Wiki giới thiệu, cái ý nghĩ về 1 người đàn bà,
bây giờ, tham dự 1 cuộc thi nhan sắc, mặc áo thun T shirt ướt sũng,
hay cảm thấy dễ chịu, khi coi phim con heo, trở thành biểu tượng của
sức mạnh, chiến thắng của phong trào phụ nữ, nhưng với Levy, chỉ làm
bà buồn nôn.
Với họ, tục tĩu, dâm ô là giải phóng.
Levy criticized the pornographic video
series Girls Gone Wild after she followed its camera crew for three
days, interviewed both the makers of the series and the women who
appeared on the videos, and commented on the series' concept and the
debauchery she was witnessing. Many of the young women Levy spoke
with believed that bawdy and liberated were synonymous.
Levy's experiences amid Girls Gone Wild appear again
in Female Chauvinist Pigs, in which she attempts to explain "why
young women today are embracing raunchy aspects of our culture that
would likely have caused their feminist foremothers to vomit." In
today's culture, Levy writes, the idea of a woman participating in
a wet T-shirt contest or being comfortable watching explicit pornography
has become a symbol of strength; she says that she was surprised at
how many people, both men and women, working for programs such as Girls
Gone Wild told her that this new "raunch" culture marked not the downfall
of feminism but its triumph, but Levy was unconvinced.
Tờ này, GCC cũng hay đọc, nhưng mỗi
số, cao lắm, 1 bài.
Bài intro của guest editor,
Ariel Levy, OK lắm. Em phán, viết essay thì giống như
tóm 1 con sóng. Bạn cần cái tài, skill, cái cân não,
nerve, không chỉ dòng nước chuyển động.
Nhân tiện lèm bèm về essay,
thấy trên Da Màu, có bài tuỳ bút của Thầy Phúc,
được độc giả khen um lên, trong có 1 đấng khen, bảnh hơn nhiều,
so với những bài phê bình trước đó:
Một bài tùy bút tuyệt vời,
hơn hết cả những bài phê bình của tác giả!
Một nhận xét tuyệt vời, và thật đúng với
Thầy Phúc.
Nói rõ hơn, Thầy không viết được essay,
mỗi lần viết… essay, phê bình, điểm sách... khi thầy lên
đồng, là nó biến thành tùy bút, với cái giọng nặc mùi cải luơng.
Bài tuỳ bút này, sở dĩ được khen tới chỉ, là cũng do dậy mùi
cải lương. Không lẽ độc giả Mít chỉ đọc đươc thứ tùy bút như vậy?
Chứng cớ, Thầy viết về…. Cô Tú:
Có sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của
cuộc đời hằn xé với những mộng tưởng thanh xuân. Có nắng
mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động của cuộc đời. Nhưng
cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những khoảng thinh lặng
cần thiết và ấm áp của tình người.
Bùi Vĩnh Phúc
Qua bài tuỳ bút của Thầy Phúc, GCC biết
tin, Tạ Chí Đại Trường đã mất. Hình như chẳng có báo nào
loan tin, hay đấng nhà văn nào tưởng niệm. Trước đó, có vụ, 1
đấng ở trong nước, loan tin ông mất, trong khi, vào thời điểm đó,
chưa.
Ngay cả Thầy Phúc, cũng rất thân quen với
băng Văn Học.
Trong khi đấng nào cũng có bài về Phùng
Nguyễn. Khen tới chỉ, thương tới chỉ.
Thì cũng được đi.
Nhưng hơi kỳ.
Cái kiểu viết tuỳ bút của Thầy Phúc, và cái sự yêu thích
tuỳ bút của ông, ở 1 số độc giả, cho thấy, nó rất giống Mít chúng ta
mê cái gì ướt át, sầu mộng, tức tính cải lương của 1 bài… tuỳ bút.
Với Thầy Phúc, thì còn thêm cái trò màu mè, nhắc tới, trích
dẫn, 1 tên mũi lõ nào đó.
Tùy bút, hay quá nó, tiểu luận, essay, không phải như vậy.
GCC làm quen với tờ báo trên, những ngày mới ra hải ngoại,
và có lần, đã viện dẫn nó, để viết về tuỳ bút Nguyễn Tuân:
Trong Nhà Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất hiện, Vũ
Ngọc Phan đã tiên đoán, văn tài của ông sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới
lớp sau. Có thể mượn nhận định của Sartre, về chủ nghĩa Mác-xít: tùy
bút của Nguyễn Tuân quả đã "không thể vượt được", nhất là chất khinh
bạc của nó, đã "di truyền" mãi mãi về sau này. Như nhìn ra "phần số khắc
nghiệt", để bù lại, trong truyện ngắn, Nguyễn Tuân thường viết về những
người đã chết. Ở đó, chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu
của ông đẩy tới tột cùng, biến thành lòng nhân hậu.
Cảnh Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình
rồi quay sang nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác mà nuôi
thân, (con người như ông, những chữ như thế này phải tìm đất khác để
mà tụ lại): chẳng đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông
đã nhập vào những chữ chưa khô mực. Khó mà thấy cõi lòng nhân hậu đó,
của Nguyễn Tuân, ở trong những trang tùy bút tuyệt vời như Chiếc Lư Đồng
Mắt Cua, Nguyễn... kể cả sau này, trong những bài ký thời chống Mỹ cứu
nước, như thể ông càng đi nhiều, càng gặp người (sống) nhiều, tài hoa,
lòng nhân hậu của ông càng hao mòn dần...
Chữ người tử tù: lý tưởng một đời người, ý nghĩa của chữ.
Trên đỉnh non Tản: hiện thực huyền ảo. Non Tản: Cái nôi, chốn hành
hương, cội rễ nhà trời, nơi trời Việt, đất Việt gặp gỡ...
Cá nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải
nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn
ông, ở những bậc cha chú trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc
với một người bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng
trời trở về trần, vô tình để mãi những viên ngọc trong trí tưởng của đứa
cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh dấu những
trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng. Đánh dấu những trang
sách của một chuyện tình (chúng làm cho những lần chia ly bớt thê thảm đi
một chút); của cuộc chiến: như những viên đất ném theo, ném theo mãi, xuống
lòng huyệt...
Nhận xét của họ Vũ về thể văn tuỳ bút, ở Nguyễn Tuân, không
ngờ đầy chất tiên tri. Những bài viết của ông sau này, là ký, không còn
là tuỳ bút.
Với tuỳ bút, cái "tôi" rất quan trọng. Cá nhân người viết,
khi đọc "Những essays hay nhất trong năm của Mỹ", The Best American
Essays, thấy chúng rất giống thể văn tuỳ bút, ở tính tự thuật, ở chất
hồi tưởng, và nhất là ở tấm lòng của người viết, khi chuyện trò với
những hồn ma. Tuyển tập Những bài essay hay nhất (hàng năm) của Mỹ,
có một đặc biệt: mười hai năm hiện diện cho tới nay, mỗi năm mời một
tác giả làm "guest editor", thường là những khuôn mặt "đang lên": Joyce
Carol Oates (1991), Susan Sontag... Gần đây nhất là Jamica Kincaid (1995),
Geoffrey C. Ward (1996). (1)
Ân
Sủng và Trọng Lực.
Thú thực, GCC không làm sao nắm được ý nghĩa của
hai từ này, một khi để chúng kế bên nhau, như trong tư tưởng của
Simone Weil. Tính để ra 1 “quĩ” thời gian thực bự để nghiên cứu nó,
và có thể, nếu muốn hiểu nó, phải có tí vốn liếng về Ky Tô giáo.
Ôi chao, căng thật.
Có vẻ như vấn đề này, còn liên quan tới Eisntein,
và thuyết tương đối của ông, và nếu thế, thì còn khổ nữa, vì cho
tới giờ, nhân loại vẫn chưa hoàn toàn đồng ý với ông, khi đụng
vào hố đen, vào định mệnh thuyết…
Trên NYRB có bài viết về chuyện này:
Einstein: Right and Wrong
Jeremy Bernstein
Nature, and Nature’s Laws lay hid in
Night.
God said, Let Newton be! and All was Light.
It did not last: the Devil howling “Ho!
Let Einstein be!” restored the status quo.
—J.C. Squire, “In continuation of Pope on Newton”
http://www.nybooks.com/daily/2016/01/09/einstein-right-and-wrong/
V/v Weil, tình cờ lượm được,
trên Tin Văn:' (1)
Thư tín
Monday, October 22, 2012 9:27
PM
Chào bác, là một độc giả
của Tin văn tôi muốn góp ý về một cách dịch trong bài này
http://www.tanvien.net/Tribute_1/women.html
Câu sau:
She believed that contradiction "experienced right to
the depths of one's being means spiritual laceration, it means the
Cross."
Bác dịch là:
Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm những khoảng
sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một cõi xé lòng,
và, đây là Thập Giá”.
Theo tôi nên dịch:
Bà tin rằng, mâu thuẫn "được nghiệm ra ở tận những
khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, chính là cõi xé lòng, là
Thập Giá”.
Phúc đáp:
Câu của TV không sát nguyên tác, so với câu của
bạn.
Tks, many Tks
NQT
Tuyệt.
Đọc kỹ đến như thế thì quả là đại vạn hạnh cho TV!
Note:
To QTT: Bài
này, tôi dịch, lâu rồi. Khi bạn hỏi, đọc lại, nhớ ra liền, là,
ngay khi dịch xong câu văn, tôi đã nhìn ra độ lệch, so với nguyên
tác, nhưng thú thực, câu văn dịch đọc nhịp nhàng hơn, và tôi muốn
giữ, không dịch lại.
Nhưng bạn, đọc, mà nhận ra độ lệch, cũng thật là thú
vị.
Tks again.
Take care
NQT
Chữ
‘grace’ bao giờ cũng giết tôi, vì tôi không tìm thấy chữ thật sự thích hợp
để dịch chữ này.
Blog Hải Hà
Muốn
thấu hiểu từ này, phải là dân Ky tô! Nghĩa của nó là ân sủng, nhưng
để hiểu thế nào là ân sủng, dân ngoại đạo, thua!
Coetzee khi viết về cuốn Brighton
Rock của Greene, đã đưa ra một lời giải thích:
What holds Pinkie and Rose together is the
fact that they are both 'Romans', children of the True Church, of whose teachings they
have the merest smattering but which gives them nevertheless an unshakable
sense of inner superiority. The teaching on which they rely most heavily
is the doctrine of grace, summed up in an anonymous poem that has impressed
itself on the memories of both:
My friend
judge not me,
Thou seest I judge not thee:
Betwixt the stirrup. and the ground,
Mercy I asked, mercy I found.
God's grace, in Catholic teaching, is
unknowable, unpredictable, mysterious; to rely on it for salvation -
to postpone repentance until the moment between the stirrup and the ground
- is a deep sin, a sin of pride and presumption. One of Greene's
achievements in Brighton Rock
is to raise his unlikely lovers, teenage hoodlum and anxious child bride,
to moments of comical yet awful Luciferian pride.
Từ đó, ra từ ‘disgrace’, mất ân sủng: ô nhục!
(1)
Shakespeare's
plays and wisdom are “not of an age, but for all time”.
Obama
as Literary Critic
Ô
Bá Mà, Tông Tông Mẽo, phê bình gia!
May
quá, điều kiện làm Trùm Bắc Bộ Phủ, chỉ cần biết ní nuận,
là OK!
Rõ ràng là chơi anh y tá dạo!
Mi chỉ biết chích heo, đâu biết ní nuận!
CULI
"Ngàu...ngàu... ngàu", con
Culi vẫn kêu giật lên từng cơn. Hôm nay là ngày thứ ba nó giở chứng.
Bát cơm của nó vẫn đầy nguyên dù chị đã mua hẳn một con cá mè rán
vàng lên dầm cho nó ăn. Chị thở dài đứng lên.
Bà cụ vẫn ngồi ở vị trí cố định, đầu gục xuống ngáy
khe khẽ. Chị đập tay vào vai mẹ:
-Mẹ ngủ gật à?
Bà già ngơ ngác ngẩng lên, cặp mắt mờ đục hướng về
phía màn hình tivi:
-Ngủ đâu, mày bật tivi to tiếng lên một tí, chả nghe
thấy gì sất.
-Phim hết từ lâu rồi mẹ ạ.
-Sao tao vẫn nghe thấy tiếng nói?
-Đấy là chương trình tiếng Pháp. Thôi khuya rồi, mẹ
đi ngủ đi.
Bà cụ thở dài có vẻ phật ý, rờ rẫm đi về giường mình.
Chị đi một vòng khóa cửa, khép chặt các cửa sổ. Trời vẫn oi, giá mở
cửa sổ ra thì thoáng hơn nhưng chị không dám, sợ Culi xổng ra ngoài
đi mất... Bà cụ vẫn lục sục ở giường mình, làu bàu gì đó một lúc
thì im hẳn. Chỉ có tiếng Culi vẫn gào, giận dữ, tuyệt vọng. Chị cố gắng
nhắm mắt lại dỗ giấc ngủ. Nhưng vô ích. Con Culi cào vào màn chị nức
nở. Chị luồn tay, vạch màn bế nó vào, vỗ nhẹ lên lung nó. Culi rên rỉ khe
khẽ. Chị ép cái cơ thể oằn oại của nó vào ngực mình, vuốt vuốt. Nhưng
con Culi bất chợt giãy ra. Móng nó cào toạc một đường đau nhói đúng chỗ
hõm giữa khe vú chị. Quá quắt lắm! Chị vứt con mèo ra khỏi màn, hai tay
ôm lấy vết xước trên ngực. Và nước mắt cứ thế tuôn ra trên chiếc giường
trống trải...
Chính anh ta đã đem con mèo đến cho chị. Tính chị
xưa nay sạch sẽ, ghét mèo, nhất là mèo cái. Nhưng anh ta bảo nếu
em không nuôi thì vứt nó đi, anh không còn chỗ nào để mang nó đến
nữa. Nó đã phiêu bạt qua tay mấy chủ. Mới hơn ba tuần đã bị tách mẹ,
đưa đi. Nó nhớ mẹ , gào cả đêm làm người chủ mới không chịu được, trả
về. Người thứ hai chê nó là mèo cái, sợ bẩn. Người thứ ba lại có một
con chó dữ. Nó suýt bị chó nhai sống, may mà trốn được vào gầm tủ, run
như cầy sấy. Đến nhà chị nó vẫn còn run, chỉ kêu khe khẽ như khản cổ và
chúi đầu vào bóng tối trốn người. Chị bảo nó nhát thế nên đặt tên là
Culi. Chị tìm một cái hộp các tông, lót tấm áo cũ, đặt nó vào. Lúc ấy,
anh ta đặt tay lên lưng chị, bảo: "Anh biết là em sẽ làm thế!" Giọng anh
ta thật ấm, bàn tay cũng ấm làm cả người chị nóng ran lên.
Anh ta hay đến thăm Culi. Lần nào cũng mang quà. Khi
thì là một túi nilông đầy đầu cá biển, khi thì mớ cá dầu. Những
con cá bé bằng đầu ngón tay, trắng nhợt. Nhưng Culi lại thích. Nó
dụi cả người vào chân anh ta, ngoeo ngoeo nũng nịu. Anh ta thường ngồi
ở ghế kia, tự tin oai vệ. Culi tin cậy khoanh tròn trên đùi. Chị hí
húi nấu mớ cá mèo trên bếp điện. Mùi cá bốc lên nồng nặc tanh tưởi nhưng
chị chỉ thấy ấm cúng dễ chịu. Mẹ chị gọi anh ta là "thằng-cá-mèo". Bà
cụ vốn thực tiễn, hơi thất vọng trước những món quà tanh lòm của anh
ta. Nhưng Culi quí anh ta lắm. Còn chị, trong đêm thường vuốt ve bộ lông
mềm mại của Culi, mỉm cười nhớ tới túi đầu cá biển và những con cá dầu.
Anh ta thật chu đáo, ngộ nghĩnh và độc đáo, rất độc đáo!... Cho đến một
hôm, chị đờ dại nhìn anh ta gạt Culi ra khỏi bụng mình , nồng nhiệt thế
chỗ nó. Bàn tay anh ta mềm như nhung , bám miết vào những miền da thịt chị,
chầm chậm lần xuống. Chị oằn người, rên rỉ, không để ý đến con Culi bị mất
chỗ hoảng hốt phóng đi sau một tiếng "ngoeo" giận dữ.
Sau lần ấy không thấy anh ta mang cá tới. Culi phải ăn
thịt suốt một tuần liền, chán bỏ cơm. Chị lầm lũi ra chợ mua cá mè
về nấu cho nó ăn. Thế cũng xong. Đêm đêm chị vẫn ngủ với Culi. Không
có ai làm phiền. Culi nằm vắt ở bụng dưới của chị, âm ấm, nằng nặng.
Thỉnh thoảng chị lại mê thấy bàn tay ấy ve vuốt, Culi rên gừ gừ, dưới
đất rải rác những cái đầu cá biển rữa nát, giương cặp mắt trắng đục
trân trân nhìn chị. Nhưng những giấc mơ như thế rồi cũng thưa dần, nhạt
nhòa đi. Chị đã từng đi qua những cơn mê còn khó chịu hơn nhiều.
Culi vẫn lớn từng ngày. Nó là vật sinh động duy nhất
trong nhà, là đề tài không bao giờ cạn để chị và mẹ trò chuyện. Hôm
qua nó bắt được một lúc hai con gián. Sáng nay nó bị nôn. Còn bây giờ
nó nằm khoanh tròn ngay trên cái áo của bà cụ mà ngủ, cái mũi đỏ chót
hếch lên trông thật đáng yêu. Mỗi người đàn ông đến chơi lại phát
hiện ra một tướng quí của Culi. Đuôi nó rất dài. Bốn chân nó trắng như
đi bít tất. Lông nó đặc biệt hơn tất cả các con mèo khác. Nó không hề
có rận...vv...Tối tối, chị chăm chỉ pha trà, ngồi khép chân nhìn
Culi trắng bông, ngoan ngoãn khoanh tròn trên những cặp đùi đàn ông
khác nhau. Ngoài kia, trong bóng đên, những con mèo ráo riết rượt
đuổi nhau trên mái ngói, gầm gừ, rên rỉ.
Gần nhà chị mọc lên quán "Tiểu hổ", đặc sản thịt mèo.
Khách đến ăn hầu hết là đàn ông. Mỗi lần đi qua, chị cắm đầu rảo
bước thật nhanh. Hơi bia, khói chả nướng, thuốc lá, mồ hôi quyện lại
thành thứ mùi đàn ông đậm đặc đuổi theo chị, luồn vào tóc, vào quần
áo... Khuya, chị trằn trọc trên chiếc giường rộng thênh. Đêm dạo này
yên tĩnh hơn. Những con mèo lảng vảng đi đêm bị bẫy lấy thịt phục vụ
quán "Tiểu hổ". Các nhà quanh vùng dần dần mất hết mèo. Chị sắm một dây
xích dài, cột Culi lại. Chỉ đến đêm chị mới dám tháo xích cho nó, nhưng
cẩn thận đóng hết các cửa. Culi bị nhốt quanh quẩn trong nhà. Tính nó
trở nên khó chịu. Nó bỏ cơm gào suốt ngày, suốt đêm, thảm thiết như
tiếng trẻ con hờn. Không có ai đến chơi. Chị kinh hoàng nghe tiếng mèo
gào trong căn nhà vắng tanh, bên cạnh bà mẹ nghễnh ngãng, lòa dở đang
ngồi ngủ gật trước tivi. Mẹ chị đã gần 80, còn chị năm nay 39 tuổi.
Bà hàng xóm mách chị lấy rau răm, giã vắt nước cho
Culi uống. "Nó đến kì phát dục, uống cái ấy vào thì đỡ", bà ta giải
thích , cười ranh mãnh. Bà quả phụ đạo đức ấy biết đủ trò quỉ quái,
có lần đã bầy cho chị mua nước hoa loại hai nghìn đồng một lọ, rảy vào
đũng quần lót. Nhưng lần này, món rau răm của bà ta không hiệu nghiệm.
Cay quá, Culi không chịu uống, đổ vào bao nhiêu lại phun ra bấy nhiêu,
nước rau răm nhuộm xanh lè cả bộ lông nó. Bà hàng xóm lại xui chị
lấy thuốc ngủ nghiền cho nó uống. Culi say thuốc lừ đừ, chệnh choạng
đi lại giữa nhà, chốc chốc lại ngã giúi dụi như sắp lên cơn động kinh.
Kho kinh nghiệm diệt dục của bà quả phụ không giúp gì được Culi. Hôm
sau, bà ta giới thiệu với chị một ông giáo người còm nhom. Ông này đã
từng thiến hộ tất cả mèo đực trong khu tập thể gần nhà chị. "May ra anh
ấy giúp được con mèo nhà em...", bà ta cười, nháy mắt đầy ý nghĩa. Ông
giáo già nhiệt tình khám cho Culi. Giá là mèo đực, ông rạch phăng đi một
nhát là xong chuyện. Nhưng mèo cái thì khó, khó lắm! Ông gợi ý chị mua
hoóc-môn nam về tiêm cho Culi. "Thôi thì anh cứ hết cách giúp em!",
chị khẩn khoản gửi gắm. Ông giáo già hăng hái ra hiệu thuốc tây. Cô bán
thuốc ngọt ngào hỏi ông cần loại hoóc-môn nam của Pháp hay của Mỹ. Loại
của Pháp hai trăm nghìn, loại của Mỹ cực mạnh ba trăm nghìn, tiêm vào
công hiệu liền. Ông đỏ mặt bảo tôi chỉ cần loại rẻ nhất. Cô bán thuốc
tủm tỉm cười nhìn thân hình hom hem, cái đầu uyên bác chỉ còn lơ thơ
mấy sợi tóc đáng kính của ông. Cô thẽ thọt thưa bác loại rẻ nhất cũng
phải trăm nghìn, mà em sợ nó chẳng giúp bác được mấy. Ông vùng vằng bỏ
đi. Chị và Culi cứ chờ mãi, nhưng ông giáo già đầy tự trọng đã không
quay trở lại...
Đêm ấy, chị ngồi một mình vỗ lưng cho Culi. Con vật khốn
khổ oằn oại, lết lết trên sàn, đuôi cong lên, rền rĩ. Nó rúc đầu
vào tay chị, tuyệt vọng cầu xin sự giúp đỡ. Nhưng chị chẳng thể nào
cho nó cái điều đơn giản nhất nó cần. Chị hoàn toàn bất lực!
"Ngàu...ngàu...", tiếng Culi vẫn xói vào tai chị nhức
nhối, ai oán. Nó cứ quanh quẩn bên giường chị, bứt rứt vừa cào,
vừa cắn màn. Nó chỉ có chị để mà cầu cứu, để mà trách cứ. Chị nhỏm
dậy đi ra phiá cửa, mở chốt. Culi chỉ chờ có thế. Nó lách mình
qua hàng chấn song, phóng vút đi. Nó lao theo tiếng gọi bí ẩn từ
ngàn xưa vẫn rạo rực chảy trong máu nó. Nó không biết những con mèo
đực đã bị tàn sát. Nó cũng không biết những cái bẫy của quán "Tiểu
hổ" đang giăng ra khắp nơi. Chỉ cầu mong một phép màu nhiệm nào che
chở cho nó được yên lành.
... Chị áp mặt vào song sắt. Gió đêm lành lạnh mơn
man khuôn mặt ướt nước mắt của chị. Những gương mặt đàn ông tưởng
đã quên đi lại âm thầm trồi lên từ kí ức, nhắc chị rằng một mùa thu
nữa sắp vèo qua. Ngoài cửa sổ, trăng sáng trắng, suông tình./.
Phạm Hải Anh
GCC đọc PHA rất sớm. Ngay từ khi có 1 cái blog, hình
như vậy, và ngồi viết, từ trên 1 cái gác xép, trên 1 mái nhà ở phố
cổ Hà Nội - đọc văn, thì tưởng tượng ra vậy.
Rất tinh khiết.
Sau đó, mail làm quen, cũng chẳng nhớ có phải như vậy,
và được cô chuyển cho những bài viết về thơ Tầu, 1 cái thèse của cô,
về Lý Bạch để lấy bằng gì đó, và những bài viết này luôn Top Ten,
của Tin Văn
Như thế, cái sạch, tinh khiết của văn của cô, là cái
tinh tuý của thơ Tầu.
Sau, xb mấy cuốn. Vẫn bảnh, cực bảnh, nhưng Gấu đọc, không
thấy hay như hồi đầu.
Trường hợp của cô có gì giống Minh Ngọc của thời Trăng
Huyết, Trái Khổ Qua.
Mê làm phim quá, văn nhạt dần.
Nhạt
dần?
Có lẽ không phải như vậy.
Mất đi cái tinh khiết, và độc dần, như bị THNM [tẩu hỏa
nhập ma], bởi CABK [Cái Ác Bắc Kít]?
"Être amoureux,
c'est se créer une religion dont le dieu est faillible."
-Paul Valéry
"Yêu có nghĩa
là tạo ra một đạo giáo mà vị chúa tể của nó cũng có thể thua trận"
- Paul Valéry, André Maurois trích dẫn, trong
bài Tựa cho cuốn Mê Cung của Borges
If you find
Jay Gatsby sort of dismissibly nuts, as in “Why the hell should I care about
a gangster who cares about nothing except stealing somebody’s
wife and remaining deludedly faithful to an irretrievable past?”
— well then you’re probably missing that American romantic gene.
If, on the other hand, you fairly swoon at Gatsby’s “extraordinary
gift for hope,” his desire for bliss unending, then you might possess
a romantic readiness that’s akin to your hero.
https://lareviewofbooks.org/…/bliss-unending-why-luhrmanns-…
Note: Cái câu tiếng Anh, nếu
là GCC, sẽ dịch, một bản “tình ca” về 1 tay găng tơ cố thay đổi cách
sống của mình, để “có lại” tình yêu của cô bạn gái của mình
Regain không có nghĩa, tìm lại, mà là, có lại.
Time lost and regained, Eliot, theo GCC, là theo
nghĩa này
Regards
NQT
Tẩy, perdu & retrouvé; Hồng Mao, lost & regained,
có tí khác.
Ngoài ra, còn lost & found.
FLYER'S FALL
This man escaped the dirty fates,
Knowing that he did nobly, as he died.
Darkness, nothingness of human after-death,
Receive and keep him in the deepnesses of space-
Profundum, physical thunder, dimension in which
We believe without belief, beyond belief.
DEBRIS OF LIFE AND MIND
There is so little that is close and warm.
It is as if we were never children.
Sit in the room. It is true in the moonlight
That it is as if we had never been young.
We ought not to be awake. It is from this
That a bright red woman will be rising
And, standing in violent golds, will brush her hair.
She will speak thoughtfully the words of a line.
She will think about them not quite able to sing.
Besides, when the sky is so blue, things sing themselves.
Even for her, already for her. She will listen
And feel that her color is a meditation,
The most gay and yet not so gay as it was.
Stay here. Speak of familiar things a while.
Wallace Stevens The Collected Poems
Strong words
I had forgotten
I had forgotten in my heart
How to weep, how to suffer pain,
How, through poetry, to impart
In all its rapture, love, again!
But then-in the wine-dark sea
Of ecstasy, I revive ...
Tormented, tearful, I thrive,
Words rhyme, come alive in me.
Pushkin
WISLAWA SZYMBORSKA
1923-
We were taught that only man has
an immortal soul. If today we speak differently of a line separating
us from the rest of living beings, does it mean that this line,
for us, doesn't exist? We feel it exists, and, using an old-fashioned
expression, it is due to the consciousness and free will of man. In
other words, only we know guilt, amidst the universal innocence of
nature. And this is the subject of Wislawa Szymborska's poem.
IN PRAISE OF SELF-DEPRECATION
Ngợi Ca Cái Chuyện Coi Thường Chính Mình
The buzzard has nothing to fault himself with.
Scruples are alien to the black panther.
Piranhas do not doubt the rightness of their actions.
The rattlesnake approves of himself without reservations.
The self-critical jackal does not exist.
The locust, alligator, trichina, horsefly
live as they live and are glad of it.
The killer-whale's heart weighs one hundred kilos
but in other respects it is light.
There is nothing more animal-like
than a clear conscience
on the third planet of the Sun:
Translated from the Polish by Magnus
J. Krynski and Robert A. Maguire
A similar theme is treated in this
poem: the self-torment afflicting us in the early morning.
FOUR IN THE MORNING
The hour from night to day.
The hour from side to side.
The hour for those past thirty.
The hour swept clean to the crowing of cocks.
The hour when earth betrays us.
The hour when wind blows from extinguished stars.
The hour of and-what-if-nothing-remains-after-us.
The hollow hour.
Blank, empty.
The very pit of all other hours.
No one feels good at four in the morning.
If ants feel good at four in the morning
-three cheers for the ants. And let five o'clock
come
if we're to go on living.
Translated from the Polish by Magnus
J. Krynski and Robert A. Maguire
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things
Wislawa Szymborska (2 July 1923 – 1 February 2012)
-Anh coi
thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình.
TTT: MCNK
https://www.washingtonpost.com/entertainment/books/wislawa-szymborska-a-nobel-prize-winning-polish-poet-dies-at-88/2012/02/02/gIQAlAfnnQ_story.html
Wislawa Szymborska, a Nobel Prize-winning poet
who used the imagery of everyday objects and a mordant style
to explore dramatic themes of human experience including love,
war and death, died Feb. 1 at her home in Krakow, Poland. She was 88.
(Janek Skarzynski/AFP/Getty Images)
Ms. Szymborska shunned the idea of being a political
poet, though she recognized the personal could bleed into the
political while living under a communist regime.
“When I was young, I had a moment of believing
in the communist doctrine,” she told Hirsch in 1996. “I wanted
to save the world through communism. Quite soon, I understood that
it doesn’t work, but I’ve never pretended it didn’t happen to me.
“At the very beginning of my creative life, I loved
humanity,” she continued. “I wanted to do something good for mankind.
Soon, I understood that it isn’t possible to save mankind. There’s
no need to love humanity, but there is a need to like people. Not
love, just like. This is the lesson I draw from the difficult experiences
of my youth.”
Lướt Tin Văn
Mít vs Lò
Thiêu
Sách &
Báo
Sách xôn.
Cuốn đầu tay, nhưng có lẽ là cuốn hay nhất của Kadaré
"Như một con chim kiêu ngạo và cô độc, bạn sẽ bay trên đỉnh
những ngọn núi thầm lặng và bi thiết kia, kéo những con người trẻ tuổi
đáng thương của chúng ta, ra khỏi chốn bấu víu hiểm nguy, lởm chởm đá
nhọn kia." Đó là viễn tượnng của viên tướng Ý, trên đường đi cùng một vị
tu sĩ buồn bã, cả hai có nhiệm vụ tới Albania nhặt nhạnh xương cốt của những
binh sĩ của ông ta, đã ngã xuống hai mươi năm trước. Ông ta bắt đầu thực
hiện những bổn phận, theo một nghĩa rất ư là lớn lao, rất ư là hiển hách,
và cho rằng, chỉ những trách nhiệm cao cả như thế đó mới xứng đáng với
cương vị một viên tướng. "Trách nhiệm mà ông đang thực hiện, thì có đâu
thua gì sự cao cả của những người Hy Lạp, những cư dân thành Troy, sự trang
nghiêm của những nghi lễ cúng tế, an táng thời Homer." Vị tướng thấy mình
ở trong một xứ sở u ám, mưa liên miên, dân chúng thì u sầu ủ rột, như lúc
nào cũng ăn năn, sám hối một điều gì, và trong một không khí như thế, ông
ta bắt đầu thực hiện cái trách nhiệm cao cả của mình, là thu gom những tro
than, những xương tàn của một đội quân đã nằm xuống trong tan hoang rã rời.
Dần dà, và không thể tránh được, ông thấy mình đối đầu với những thực tại
điêu đứng của quá khứ, và bị ám ảnh bởi tính phù phiếm, vô vị, chẳng ra
cái thống chế gì, chính là nhiệm vụ cao cả của mình. Bao nhiêu dự tính,
bao nhiêu mộng đẹp, cao cả mà ông vẽ ra từ những thuở nào, nay trở thành
cơn ác mộng cá nhân, của riêng ông, khi, mớ xương cốt của viên đại tá ghê
tởm, Colonel Z, được một bà già điên khùng ném, ngay dưới chân ông…
Kadare
trả lời tờ ML
Kadare Man Booker
2005
Nguyễn Huy Thiệp lọt vô chung kết Man
Booker!
TLS số đề ngày 1 Tháng Bẩy, mục Sổ
Tay, bàn về giải Man Booker Quốc Tế, khác với Booker Prize, dành cho nhà
văn Hồng Mao, cho biết một "tin động trời", đối với đám viết lách người Mít:
Có tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách những tác giả thượng hảo hạng, fisrt
rate, được ban giám khảo lọc ra để lấy người đoạt giải.
TLS trích lời một ông giám khảo [Alberto Manguel], trên tờ
Spectator tháng vừa
qua [Tháng Sáu], "trong danh sách những tác giả thượng hạng... chúng
tôi đã phải gạt bỏ Peter Handke, Antonio Lobo Antunes.... Nguyen Huy
Thiep, Pascal Quignard, và Christa Wolf, tất cả những người này đều,
hoặc chưa được dịch sang tiếng Anh, hoặc đã dịch nhưng nay tuyệt bản".
Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi
PUSHKIN AND CHILDREN
ALTHOUGH PUSHKIN THOUGHT OF himself least
of all as a "children's writer," the term that is now commonly
accepted (when Pushkin was asked to write something for children,
he flew into a rage ...) although his fairy tales were certainly
not intended for children and the famous introduction to Ruslan
was not addressed to a child's imagination either, the fates
have decreed that his works be destined to serve as a bridge between
Russia's great genius and children.
We have all heard innumerable times three-year-old
performers recite "the learned cat" and "the weaver and the
cook'? and have seen how the child's little pink finger points
to the portrait in the child's book-and he is called "Uncle Pushkin."
Everyone knows and loves Yershov's The
Little Humpback Horst', too.' However, I've never heard "Uncle
Yershov."
There is not and has never been a single
Russian-speaking family in which the children could remember
when they first heard that name and saw that portrait. Pushkin's
poetry bestows to children the Russian language in all its splendor,
a language they perhaps will never hear again and will never speak,
but which, nevertheless, will be with them like an eternal treasure.
During the anniversary days of 1937,
the appropriate commission resolved to remove the Pushkin monument,
which had been erected in a darkish square in a part of the
city that did not even exist in Pushkin's time, and place it on
Leningrad' Pushkin Street. They dispatched a freight crane -in
general everything required in such situations. But something unprecedented
took place: the children who were playing by the monument in the
square raised such a howl that they were forced to telephone the
commission to ask what should be done. The answer: "Let them have
their monument"-and the truck left empty.
One can say with absolute certainty that
at that difficult time a good half of those children had lost their
fathers (and many their mothers as well), but they considered it
their sacred duty to protect Pushkin.
Mặc dù Pushkin ít nghĩ về mình
như “nhà văn của ‘tủi’ thơ”, nhưng cái “nick” này thường
được gán cho ông, (khi, lỡ có ai “order” ông, cho tui 1 cái vé
đi “tủi thơ” đi, ông gần như phát khùng); mặc dù những câu chuyện
cổ tích của ông thực tình không nhắm tới độc giả con nít, và cái
bài giới thiệu nổi tiếng cho "Ruslan" thì cũng không mắc mớ gì tới
trí tưởng tượng của 1 đứa trẻ, nhưng, những số mệnh bèn ra lệnh, tác
phẩm của mi [Pushkin] là cái cầu giữa thiên tài lớn lao của Nga, và
những đứa trẻ.
The City
THE WORLD OF ART artists had a sense of Petersburg's
"beauty" and it was they, incidentally, who discovered mahogany
furniture." I remember Petersburg from very early on-beginning
with the 1890s. It was essentially Dostoevsky's Petersburg. It was
Petersburg before streetcars, rumbling and clanking horse-drawn
trams, boats, signs plastered from top to bottom, unmercifully hiding
the buildings' lines. I took it in particularly freshly and keenly
after the quiet and fragrance of Tsarskoe Selo. Inside the arcade there
were clouds of pigeons and large icons in golden frames with lamps that
were never extinguished in the corner recesses of the passageways. The
Neva was covered with boats. A lot of foreign conversation on the street.
Many of the houses were painted red (like
the Winter Palace), crimson, and rose. There weren't any of these
beige and gray colors that now run together so depressingly with
the frosty steam or the Leningrad twilight.
There were still a lot of magnificent
wooden buildings then (the houses of the nobility) on Kamennoostrovsky
Prospect and around Tsarskoe Selo Station. They were torn down
for firewood in 1919. Even better were the eighteenth-century two-story
houses, some of which had been designed by great architects. "They
met a cruel fate"-they were renovated in the 1920s. On the other hand,
there was almost no greenery in Petersburg of the 1890s. When my mother
came to visit me for the last time in 1927, she, along with her reminiscences
of the People's Will, unconsciously recalled Petersburg not of the
1890s, but of the 1870s (her youth), and she couldn't get over the
amount of greenery. And that was only the beginning! In the nineteenth
century there was nothing but granite and water.
Một bài viết hay,
nên đọc.
BI KỊCH TRỊNH CÔNG
SƠN.
Tôi
gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế; lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và
tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn t...
See More
Note: Cái này, để sang năm, ngày rộng tháng dài, tính, nhưng
tinh thần của nó, là ở trong mấy câu bà Szymborska phán, ở trên:
Ms. Szymborska shunned the idea of being a political
poet, though she recognized the personal could bleed into the
political while living under a communist regime.
“When I was young, I had a moment of believing
in the communist doctrine,” she told Hirsch in 1996. “I wanted
to save the world through communism. Quite soon, I understood that
it doesn’t work, but I’ve never pretended it didn’t happen to me.
“At the very beginning of my creative life, I loved
humanity,” she continued. “I wanted to do something good for mankind.
Soon, I understood that it isn’t possible to save mankind. There’s
no need to love humanity, but there is a need to like people. Not
love, just like. This is the lesson I draw from the difficult experiences
of my youth.”
Notes on a Voice
Virginia Woolf
A knitter with a knack for words
Imogen
West-Knights | January/February 2016
“I enjoyed talking to her, but thought nothing of her writing.
I considered her a beautiful little knitter.” So wrote Edith Sitwell
of an afternoon she spent with Virginia Woolf. Not much of Woolf’s
knitting survives, but nine novels and dozens of short stories, essays
and diaries do.
Woolf is now upheld as one of the founding figures of modernism.
Born in 1882 into an artistic household in Kensington, she grew up
surrounded by writers, which gave her a sense that she had as much right
to put pen to paper as any of the literati who passed through her family
drawing room.
She is often placed in the same funereal category as Sylvia
Plath: brilliant but tortured female writers who killed themselves,
in Woolf’s case by weighing down her pockets with stones and walking
into a river. Yet despite depressions she had a tremendous sense
of fun: she and five friends once secured a royal tour of the HMS
Dreadnought by disguising themselves as the Prince of Abyssinia and
his entourage. Flippant and sombre, lyrical and curt: Woolf’s voice is
mercurial, and she delights in pulling the rug from under her readers’
feet.
Key Decision Founding the Hogarth Press
with her husband, Leonard. This freed her to produce work without
having to bend to the whims of publishers. In a marginal note in an
early draft of “Mrs Dalloway”, she declares: “I will write anything
I want to write.”
Strong points 1) Teasing. Woolf gives
with one hand and takes with the other, offering tempting glimpses
of her characters’ inner lives. “As for following him back to his rooms,
no – that we won’t do,” reads a passage in “Jacob’s Room”. 2) Suspicion
of words. Language was a fickle friend to Woolf, and her characters struggle
to say what they mean. The eponymous hero(ine) of Woolf’s gender-bending
novel “Orlando” suffers particularly: “ransack the language as he might,
words failed him”. 3) Ignoring the clock. Woolf thought that chronological
storytelling was not only boring but false. Instead, she flits between
present and past, building up her characters as composites of memories and
experiences.
Golden rule Fight back. “Lock up your
libraries if you like,” she writes in “A Room of One’s Own”, “but
there is no gate, no lock, no bolt that you can set upon the freedom
of my mind.” Virginia Woolf’s pen is a battering ram against the doors
closed to women. She loathed “any dominion of one over another”.
Role Model Painters. They populate her
novels and her personal life. As a result her descriptions are often
chromatically vivid, such as this from “Jacob’s Room”: “the Scilly
Isles were turning bluish; and suddenly blue, purple, and green flushed
the sea; left it grey; struck a stripe which vanished.” She admired the
painter’s ability to stand back and take in their work as a whole, and
even took to writing standing up at a desk-cum-easel so that she could
do the same.
Favourite trick Ventriloquism. Woolf
was an exponent of the “free indirect style”, whereby the narrator
inhabits the voice of the character. In “Mrs Dalloway”, for instance,
the following lines are attributed to the narrator, but they are unmistakably
Clarissa’s thoughts: “Hugh’s socks were without exception the most beautiful
she had ever seen — and now his evening dress. Perfect!” As J. Hillis Miller
put it, the narrator is a function of the character’s thoughts in Woolf’s
writing, not the other way around – “they think therefore I am.”
Typical sentence “All the same, that
one day should follow another; Wednesday, Thursday, Friday, Saturday;
that one should wake up in the morning; see the sky; walk in the park;
meet Hugh Whitbread; then suddenly in came Peter; then these roses;
it was enough.”
GCC khám phá ra Woolf, khi tình cờ cầm lên cuốn
Mrs Dalloway, bản tiếng Pháp, Sách Bỏ Túi, thời
kỳ sách Tẩy đổ bộ vô Saigon, qua chương trình IC, Information &
Culture.
Mê quá. Ra La Pagode, khoe với ông anh. Ông cũng
lim rim cùng với thằng em, và biểu, Gấu vẫn còn nhớ như in, cậu phải
đọc đi đọc lại vài lần, nhớ nhé.
Một
đời chẳng đủ. Phải vài đời mới đã
La
vie ne suffit pas: Đời sống không đủ.
Câu dịch của GCC, bị lệch pha, theo ý của Kundera.
Lướt Tin Văn
1 YEAR AGO TODAY
Fri, Dec 19, 2014
"Lẫm liệt một thời mà bây giờ thì… tội nghiệp quá."
Câu văn trên, trích từ "Một Thời Gió Bụi", tập truyện
ngắn của Nguyễn Khải (nhà xuất bản Lao Động Hà Nội 1993). Tác
giả không định nói về một miền đất, mà là một khí hậu văn chương,
khi so sánh anh nhà văn hiện nay với người dân làm cói ở xã
N.
"Một Thời Gió Bụi" mở ra bằng câu chuyện
một làng làm cói. Thuở lẫm liệt, "vào thập niên 1970 có
năm họ thu được 9 triệu tiền hàng. Tiền thu đã nhiều mà làm
cói lại dễ hơn trồng lúa. ...
Continue Reading
Mít
vs Lò
Thiêu
Cu Bao
added 2 new photos
from December 20, 2013 at 3:00am — with Khiem Do and
18 others.
Giới thiệu
HÀNH TRÌNH CUỐI ĐÔNG
Bút ký về chuyến đi xuyên Việt năm 1988
đòi tự do sáng tác, tự do báo chí, tự do, dân chủ và đổi
mới thực sự.
Nhà xuất bản Văn ...
Đọc tên này, thì lại nhớ đến Jane Fonda,
và câu than của bà, tôi mang nỗi ân hận của tôi xuống mồ.
Qua thế giới bên kia, tiếp tục ân hận
Không có lũ khốn này, có thể tình hình
Miền Nam đổi khác.
Có vẻ như tên khốn này không biết ân
hận là gì.
Viết văn, du Mỹ, làm đủ thứ chuyện nhơ bửn.
Phải 1 tên như tên già NN, cởi trần, bò
ra nghĩa trang Ngụy, quỳ, lạy, nói lời xin lỗi, tay tôi đầy máu…
Mít, có thể tình hình nước Mít sẽ khác.
Đòi tự do sáng tác? Viết như kít, viết
làm khỉ gì?
Mà tại sao lại đòi? Thử hỏi, Vẹm đã từng
“cho” cái gì chưa?
Cuộc chiến Mít, bây giờ rõ như ban ngày.
Một bên là “thiện ý” của Mẽo, một bên là Cái Ác Ngàn Đời
của Bắc Kít.
Đầu óc ngu dốt như tên này làm sao mà
hiểu nổi những chuyện như vậy.
Phải có 1 tên làm điều này, mà phải 1 tên, tay đầy
máu Ngụy, cha đẻ anh hùng Núp, thí dụ.
Lũ khốn này, phịa ra không biết bao nhiêu tội ác
cho Ngụy, không chỉ trong văn chương, mà còn ở trong sách giáo
khoa dạy con nít.
Ways of Escape
Kevin Ruane, The Hidden History of Graham
Greene’s Vietnam War: Fact, Fiction and The Quiet American, History,
The Journal of the Historical Association, ấn hành bởi Blackwell
Publishing Ltd., tại Oxford, UK và Malden, MA., USA, 2012, các trang
431-452.
LỊCH SỬ ẨN TÀNG CỦA CHIẾN
TRANH VIỆT NAM CỦA GRAHAM GREENE:
SỰ KIỆN, HƯ CẤU VÀ QUYỂN THE QUIET AMERICAN (NGƯỜI
MỸ TRẦM LẶNG)
Ngô Bắc dịch
ĐẠI Ý:
Nơi trang
có minh họa đằng trước trang nhan đề của quyển tiểu thuyết đặt khung
cảnh tại Việt Nam của mình, quyển The Quiet American, xuất
bản năm 1955, Graham Greene đã nhấn mạnh rằng ông viết “một truyện
chứ không phải một mảnh lịch sử”, song vô số các độc giả trong các thập
niên kế tiếp đã không đếm xỉa đến các lời cảnh giác này và đã khoác
cho tác phẩm sự chân thực của lịch sử. Bởi viết ở ngôi thứ nhất, và
bởi việc gồm cả sự tường thuật trực tiếp (được rút ra từ nhiều cuộc thăm
viếng của ông tại Đông Dương trong thập niên 1950) nhiều hơn những gì
có thể được tìm thấy trong bất kỳ tiểu thuyết nào khác của ông, Greene
đã ước lượng thấp tầm mức theo đó giới độc giả của ông sẽ lẫn lộn giữa
sự thực và hư cấu. Greene đã không chủ định để quyển tiểu thuyết của
ông có chức năng như sử ký, nhưng đây là điều đã xảy ra. Khi đó, làm
sao mà nó đã được ngắm nhìn như lịch sử? Để trả lời câu hỏi này, phần
lớn các nhà bình luận quan tâm đến việc xác định nguồn khởi hứng trong
đời sống thực tế cho nhân vật Alden Pyle, người Mỹ trầm lặng trong nhan
đề của quyển truyện, kẻ đã một cách bí mật (và tai họa) phát triển một
Lực Lượng Thứ Ba tại Việt Nam, vừa cách biệt với phe thực dân Pháp và
phe Việt Minh do cộng sản cầm đầu. Trong bài viết này, tiêu điểm ít
nhắm vào các nhân vật cho bằng việc liệu người Mỹ có thực sự bí mật tài
trợ và trang bị vũ khí cho một Lực Lượng Thứ Ba hay không. Ngoài ra,
sử dụng các thư tín và nhật ký không được ấn hành của Greene cũng như
các tài liệu của Bộ Ngoại Vụ [Anh Quốc] mới được giải mật gần đây chiếu
theo Đạo Luật Tự Do Thông Tin Của Vương Quốc Thống Nhất (UK Freedom of
Information Act), điều sẽ được nhìn thấy rằng người Anh cũng thế, đã có
can dự vào mưu đồ Lực Lượng Thứ Ba sau lưng người Pháp và rằng bản thân
Greene đã là một thành phần của loại dính líu chằng chịt thường được tìm
thấy quá nhiều trong các tình tiết của các tiểu thuyết của ông.
Source
Note: Nguồn
của bài viết này, đa số lấy từ “Ways of Escape” của Graham
Greene.
Và cái sự lầm lẫn giữa giả
tưởng và lịch sử, ở đây, là do GG cố tình, như chính ông viết:
Như vậy là đề tài Người Mỹ Trầm
Lặng đến với tôi, trong cuộc “chat”, về “lực lượng thứ ba” trên con
đường đồng bằng [Nam Bộ] và những nhân vật của tôi bèn lẵng nhẵng đi theo,
tất cả, trừ 1 trong số họ, là từ tiềm thức. Ngoại lệ, là Granger, tay ký
giả Mẽo. Cuộc họp báo ở Hà Nội, có anh ta, được ghi lại, gần như từng lời,
từ nhật ký của tôi, vào thời kỳ đó.
Có lẽ cái chất phóng sự của Người
Mỹ Trầm Lặng nặng “đô” hơn, so với bất cứ cuốn tiểu thuyết nào
mà tôi đã viết. Tôi chơi lại cách đã dùng, trong Kết Thúc một Chuyện
Tình, khi sử dụng ngôi thứ nhất, và cách chuyển thời [time-shift],
để bảo đảm chất phóng sự. Cuộc họp báo ở Hà Nội không phải là thí dụ
độc nhất của cái gọi là phóng sự trực tiếp. Tôi ở trong 1 chiến đấu
cơ (tay phi công đếch thèm để ý đến lệnh của Tướng de Lattre, khi
cho tôi tháp tùng), khi nó tấn công những điểm có Vẹm, ở trong toán tuần
tra của lực lượng Lê Dương, bên ngoài Phát Diệm. Tôi vẫn còn giữ nguyên
hình ảnh, 1 đứa bé chết, bên cạnh bà mẹ, dưới 1 con mương. Những vết đạn
cực nét làm cho cái chết của hai mẹ con nhức nhối hơn nhiều, so với cuộc
tàn sát làm nghẹt những con kinh bên ngoài nhà thờ Phát Diệm.
Tôi trở lại Đông Dương lần thứ tư và là lần cuối
cùng vào năm 1955, sau cú thất trận của Tẩy ở Bắc Việt, và với tí
khó khăn, tôi tới được Hà Nội, một thành phố buồn, bị tụi Tẩy bỏ rơi,
tôi ngồi chơi chai bia cuối cùng [may quá, cũng bị tụi Tẩy] bỏ lại,
trong 1 quán cà phê, nơi tôi thường tới với me-xừ Dupont. Tôi cảm
thấy rất bịnh, mệt mỏi, tinh thần sa sút. Tôi có cảm tình với tụi thắng
trận nhưng cũng có cảm tình với tụi Tẩy [làm sao không!] Những cuốn sách
của những tác giả cổ điển Tẩy, thì vưỡn thấy được bày ở trong 1 tiệm
sách nhỏ, chuyên bán sách cũ, nơi tôi và ông bạn nói trên cùng lục
lọi, mấy năm về trước, nhưng 100 năm văn hóa thằng Tây mũi lõ thì đã
theo tín hữu Ky Tô, nhà quê, Bắc Kít, bỏ chạy vô Miền Nam. Khách sạn
Metropole, nơi tôi thường ở, thì nằm trong tay Phái Đoàn Quốc Tế [lo vụ
Đình Chiến. NQT]. Mấy anh VC đứng gác bên ngoài tòa nhà, nơi Tướng De
Lattre đã từng huênh hoang hứa nhảm, ‘tớ để bà xã ở lại, như là 1 bằng
chứng nước Tẩy sẽ không bao giờ, không bao giờ….’
Ngày lại qua ngày, trong khi tôi cố
tìm cách gặp Bác Hát….
Graham Greene:
Ways of Escape
GCC đang hăm he/hăm hở
dịch tiếp đoạn, Greene làm “chantage” - Day after day passed while I tried
to bully my way into the presence of Ho Chi Minh, I don't know why
my blackmail succeeded, but I was summoned suddenly to take tea with Ho
Chi Minh meetin -, để Bác hoảng, phải cho gặp mặt.
Trong thế giới văn chương, có lẽ không có cuốn nào
khủng như “Người Mỹ Trầm Lặng” [NMTL].
Viết về cuộc chiến Mít, ngay khi nó chưa kết thúc mà
đã tiên tri ra được số phận của xứ Mít, cuộc lưu vong sau đó, không
phải chỉ của Ngụy, mà Bắc Kít sau đó ăn theo, mà còn của những cô
Phượng, như là tài nguyên giàu có của 1 đất nước bị Vẹm biến thành
địa ngục.
Vậy mà cái tên khốn kiếp nằm vùng này không cảm thấy
1 chút ân hận, thay vì vậy, viết văn, đi Mỹ du hí, tự hào, suốt đời
đối kháng quyền lực!
Không chỉ thế, mà NMTL còn tiên tri ra được những cuộc
chiến sau đó, như ở Iraq, hay bây giờ, với Nhà Nước Hồi Giáo.
AFTERWORD
Monica Ali
The Disquieting Resonance of 'The Quiet
American'
by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET
An American comes into a foreign place
full of ideas of democracy and how he will teach an ancient culture
a better — in fact, an American — way of doing things. An Englishman
awaits him there, protecting himself against such foolishness by claiming
to care about nothing at all. And between them shimmers a young local
woman who seems ready to listen to either suitor, and certain to get
the better of both.
The Quiet American, by Graham Greene, was written in
1955 and set in Vietnam, then the site of a rising local insurgency
against French colonial rule. In its brilliant braiding together of
a political and a romantic tangle, its characters serve as emblems
of the American, European and Asian way, and yet ache and tremble as
ordinary human beings do. It also is a typically Greenian prophecy of
what would happen 10 years later when U.S. troops would arrive, determined
to teach a rich and complex place the latest theories of Harvard Square.
Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous opium dens
and even slightly sinister Buddhist political groups are a lantered backdrop
to a tale of irony and betrayal.
But that's not why I keep reading and rereading The
Quiet American, like many of Greene's books, and have it always
with me in my carry-on, a private bible. Certainly it's true that
if you walk through modern Saigon, as I have done, you can see Greene's
romantic triangle playing out in every other hotel. And if you think
about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline of the same
story.
Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải
ngoại, đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta
sẽ dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn
- thì cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo.
Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ
khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái
gì hết.
Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe
hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai
Người Mẽo trầm lặng của GG, được viết năm 1955, và
đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực
lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng
vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và
Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng, những con người bình thường
bị lôi cuốn vào đó với những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính
tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
But that's not why I keep reading and rereading The
Quiet American, like many of Greene's books, and have it always
with me in my carry-on, a private bible. Certainly it's true that
if you walk through modern Saigon, as I have done, you can see Greene's
romantic triangle playing out in every other hotel. And if you think
about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline of the same
story.
Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người
Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với
tôi, như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ rang là, nếu bạn lang thang
trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi đã làm, bạn có thể thấy
cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác.
Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó,
elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
Sách &
Báo
Trên Người Kinh Tế, có bài thần sầu
về Albert Einstein, (1) và về những khám phá mới mẻ từ luật
tương đối.
Bài này, cũng thực thú vị.
Bạn đọc TV chắc là đã đọc.... "Sóng
Từ Trường" [Sóng Từ, đúng hơn] của nữ phê bình gia số
1 hải ngoại, Thụy Khê.
Nay biết thêm Sóng Hấp Dẫn của Einstein,
há chẳng thú sao!
Cả 1 thế kỷ trước đây, Einstein đã tiên
đoán ra được sự hiện hữu của Sóng Hấp Dẫn. Bây giờ, nó
trở thành hiện thực.
Einstein vẫn bị coi là nhân vật của "nửa"
đầu thế kỷ, vì ông tin vào định mệnh thuyết, nghĩa là
có 1 ông Trời, nói nôm na.
Big Bang, và thuyết cơ may, cho thấy,
làm gì có ông Trời.
Bây giờ, có lẽ phải đặt lại vấn đề. TV
sẽ đi bài này.
(1)
2015 Nobel
prize in literature
Viết mỗi ngày
"...Người ta thường cắt nghĩa sai câu của Nguyễn Du,
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Câu này phải được hiểu
là, cái tâm chính là cái tài, nhưng được nhân lên gấp ba.
Phải hiểu như vậy mới hiểu được câu châm ngôn, vỉa hè địa ngục
làm bằng thiện ý của những thằng cha bất tài mà cứ muốn làm trời.
Cái tâm [của một nhà văn], bằng ba lần cái tài là vậy. Mấy ông nho
nhoe có được tí tên, trong số tí độc giả, thường là thân quen
bằng hữu, tưởng rằng mình có tài, bèn quẳng mẹ cái tâm, là ô
hô ai tai!
Bởi vì, chỉ một khi bạn luyện
cho cái tài làm sao tăng lên gấp ba để được gọi là
cái tâm, thì tới lúc đó, văn của bạn mới ngửi được".
Quoc Tru Nguyen
Note: Cái câu phán “nhảm” của
GCC, được 1 bạn văn, đưa lên FB, gây 1 trường tranh luận.
Tks all.
Đây là 1 nhận xét, chỉ liên quan
tới vấn nạn, “viết như thế nào”. Nó giống như 1 thai đố, có
tính ngược ngạo, và chỉ những ai quan tâm đến văn chương,
quan tâm.
Xin kể vài câu, trong số đó.
Kỹ thuật là linh hồn (être: hữu thể)
của văn chương. (Kafka)
Mỹ là mẹ của đạo hạnh (Brodsky, trong
“Diễn văn văn chương”)
Kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ (Borges)...
Từ từ, GCC lèm lèm thêm ra, về từng
trường hợp….
Khủng nhất, là câu phán của Kafka.
Nó vứt mẹ cái thứ văn chương hiện thực Xạo Hết Chỗ Nói vô
thùng rác, luôn cả 1 lô những vấn nạn mà Sartre nêu ra,
tại sao viết, viết cho ai, viết để làm gì…
Và, khai sinh ra 1 tên nhà văn cà
chớn, là… Gấu, khi ngộ ra được nó, khi đọc Roland Barthes,
khi ông giải ra được câu của Kafka.
... but we make no mistake: Kafka
is not Kafka-ism... For the [sterile] old question: why
write? Marthe Robert's Kafka substitutes a new question:
how write? And this how exhausts the why: all at once the impasse
is cleared, a truth appears. This is Kafka's truth, this is Kafka's
answer [to all those who want to write]: the being
of literature is nothing but its technique. (1)
(1) Tạm dịch:... Nhưng chớ có
lầm: Kafka không phải là chủ nghĩa Kafka.... Đối với câu
hỏi cũ kỹ, kiệt mọi đường sinh đẻ, "tại sao viết"?, [tác phẩm]
"Kafka" của Marthe Robert thay bằng câu hỏi mới,"viết thế nào"?
Và chính cái "thế nào" quật cho cái "tại sao" một trận
mê tơi, đến kiệt thở. Và thế là cùng tắc thông, sự thật xuất
hiện. Sự thật của Kafka, câu trả lời của Kafka [cho tất cả những
ai muốn viết]:
Hữu thể [Linh hồn] của văn chương,
chẳng là gì mà chính là kỹ thuật của nó.
Roland Barthes: Kafka's Answer.
Câu văn trên, Hai Lúa đọc, bằng
nguyên bản tiếng Tây, ngay vào lúc chập choạng bước vào
cõi văn, quả là một câu văn mặc khải.
Về già, Hai Lúa hiểu thêm ra là,
cái mà Kafka gọi là kỹ thuật đó, chính là đạo, đạo
ở đời.
Viết, đối với mấy tên nhà văn nhà
thơ, là một đạo ở đời.
Theo nghĩa đó, Nguyễn Du viết,
chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
"Chữ tâm kia", chính là kỹ thuật
của nhà văn, vậy.
Một vị bằng hữu, GCC chẳng hề biết
là ai, trên 1 tờ báo chợ ở Los Angeles, cũng đã ưu ái
chỉ ra điều này:
Roland Barthes, ngộ ra câu của Kafka,
và cùng lúc, ngộ ra lẽ sống ở đời, khi lấy 1 câu của Kafka,
làm tiêu đề cho bài viết của ông:
In the duel between you and the
world, back the world.
Kafka
Trong cuộc “duel” [đấu sinh tử,
tay đôi], giữa bạn và thế giới, hãy hỗ trợ thế giới.
TTT, hiểu câu này, theo nghĩa, tớ
viết ra sự thực, và nếu bạn không tin, thì tớ chỉ có
cái mạng chó của tớ, đem trình ra, để bảo đảm, đó là sự thực!
Berlin có 1 thời là
người yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova,
thi sĩ, nhà tiên tri", có nhắc tới
mối tình của họ.
Berlin là nguyên mẫu của “Người khách
từ tương lai”, "Guest from the future", trong “Bài
thơ không nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ của cả hai, được báo cáo
cho Xì, và Xì phán, như vậy là nữ tu
của chúng ta đã gặp gián điệp ngoại quốc, “This
mean our nun is now receiving visits from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ của họ đậm mùi chiến tranh
lạnh. Và thật là tuyệt vời.
Vào ngày Jan 5,
1946, trước khi về lại Anh [Berlin khi đó
là Thư ký thứ nhất của Tòa ĐS Anh ở Moscow],
Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là chùm thơ “Cinque”, làm
giữa Nov 26, 1945 và Jan 11, 1946. Những bài
thơ tình đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn
ngữ Nga.
Bài dưới đây, viết ngày 20 Tháng
Chạp, Akhmatova ví cuộc lèm bèm giữa đôi
ta như là những cầu vồng đan vô nhau:
Sounds die away in the ether,
And darkness overtakes the dusk.
In a world become mute for all time,
There are only two voices: yours and mine.
And to the almost bell-like sound
Of the wind from invisible Lake Ladoga,
That late-night dialogue turned into
The delicate shimmer of interlaced rainbows.
(II, p. 237)
Tiếng buồn nhạt nhòa
vào hư vô
Và bóng tối lướt lên
cõi chạng vạng
Trong một thế giới
trở thành câm nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai
giọng, của anh và của em
Và cái âm thanh giống
như tiếng chuông
Của gió, từ con hồ
Ladoga vô hình
Cuộc lèm bèm muộn
trong đêm – hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái
cầu vồng
Lù tà mù, mờ mờ ảo
ảo, lung la lung linh
Quấn quít – hay, cuống
quít - cuộn vào nhau.
The last poem of the cycle, written
on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:
We hadn't breathed the poppies'
somnolence,
And we ourselves don't know our sin.
What was in our stars
That destined us for sorrow?
And what kind of hellish brew
Did the January darkness bring us?
And what kind of invisible glow
Drove us out of our minds before dawn?
Bài thơ chót
trong chuỗi thơ, hoá ra còn tiên tri hơn nhiều, so với
dự đoán của Anna Akhmatova:
Chúng ta
không thở cái mơ mơ màng của 1 tên phi xì ke
Và chúng ta, chính chúng
ta, chẳng biết tội lỗi của mình
Điềm triệu nào, ở những
vì sao của chúng ta
Phán, đây là nỗi u sầu
phiền muộn của tụi mi?
Thứ men bia quỉ quái nào
Bóng tối tháng giêng
mang tới cho chúng ta?
Nhiệt tình vô hình nào
Kéo chúng ta ra khỏi thần
trí, trước rạng đông?
(II, p. 239)
In 1956, something unexpected
happened: the man who was to become
"Guest from the Future" in her great
work Poem Without a Hero-Isaiah suddenly returned
to Russia. This was the famous "meeting that never
took place”. In her poem, "A Dream" (August 14, 1956),
Akhmatova writes:
This dream was prophetic or not
prophetic . . .
Mars shone among the heavenly stars,
Becoming crimson, sparkling, sinister-
And that same night I dreamed of your arrival.
It was in everything ... in the Bach Chaconne,
And in the roses, which bloomed in vain,
And in the ringing of the village bells
Over the blackness of ploughed fields.
And in the autumn, which came close
And suddenly, reconsidering, concealed
itself.
Oh my August, how could you give me such
news
As a terrible anniversary?
(II, p. 247)
Vào năm 1956, một điều
không đợi chờ, xẩy ra. “Người Khách từ Tương Lai” bất thình lình trở
lại. Đây là cuộc “gặp gỡ chẳng hề xẩy ra” nổi tiếng.
Trong bài thơ “Một giấc mơ” (Tháng Tám 14, 1956),
Anna Akhmatova viết:
Giấc mơ này,
tiên tri hay không tiên tri…
Hỏa Tinh chiếu sáng giữa những vì sao trên trời,
Trở thành đỏ rực, lấp lánh, xấu xa –
Và trong đêm đó, tôi mơ thấy bạn tới
Nó thì ở trong
mọi thứ, mọi điều… ở Bach Chacome.
Và ở trong những bông hồng, vô ích nở rộ
Và ở trong tiếng chuông làng
Trên màu đen của những cánh đồng đã cày
Và trong mùa thu, tới cận kề
Và bất thình lình, suy tính lại, bèn tự giấu,
chính nó.
Ôi Tháng Tám của ta ơi, làm sao mà mi lại đem
đến cho ta những tin như thế đó
Như là 1 sinh nhật khủng khiếp?
Another poem, "In a Broken Mirror"
(1956), has the poet compare Petersburg
to Troy at the moment when Berlin came
before, because the gift of companionship that he
brought her turned out to poison her subsequent fate:
The gift you gave me
Was not brought from altar.
It seemed to you idle diversion
On that fiery night
And it became slow poison
In my enigmatic fate.
And it was the forerunner of all my misfortunes-
Let’s not remember it! ...
Still sobbing around the corner is
The meeting that never took place.
(II, p. 251)
Một bài thơ khác, “Trong cái gương bể” (1956), thi
sĩ so sánh St. Petersburg với Troy, vào lúc mà Berlin tới, trước
đó, bởi là vì món quà bạn bè mà chàng mang đến cho nàng hóa ra
là thuốc độc đối với số phận của nàng sau đó.
Món quà anh đem cho tôi
Không phải từ bàn thờ.
Mà có vẻ như từ cơn đãng trí uể oải của anh
Vào cái đêm lửa cháy đó
Và nó trở thành thuốc độc chậm
Trong cái phần số bí ẩn của tôi
Và nó là điềm báo cho tất cả những bất hạnh của
tôi-
Đừng thèm nhớ nó!...
Vẫn xụt xùi ở nơi góc nhà, là,
Cuộc gặp gỡ chẳng hề xẩy ra
Vargas Llosa, trong "Wellsprings", vinh danh I. Berlin,
gọi ông là “vì anh hùng của thời chúng ta, a hero of our time”.
Bài viết này, thật quan trọng đối với Mít chúng ta, do cách Berlin
diễn giải chủ nghĩa Marx, cách ông ôm lấy, embrace, những tư tưởng
thật đối nghịch... TV tính đi bài này, lâu rồi, nhưng quên hoài.
Trong "Nửa Thế Kỷ Của
Tôi", tuyển tập văn xuôi của Anna Akhmatova, có trích mấy đoạn,
trong Nhật Ký, bà viết
về thành phố của bà.
Post lên
đây như “chim mồi”, lấy hứng, viết về Sài Gòn
Của Gấu ngày nào.
Và Hà Nội ngày nào, vì Saigon
không có mùa đông!
Rạp Cao Đồng Hưng, gần hẻm Đỗ Thành
Nhân, nhà Bạn Chất
|