*





Adieu & Bon Voyage, Nguyễn Quang Sáng!


**

*

*

Thơ Ở Đâu Xa

Lần đó, ông em kể lại, trong cuốn DVD đám tang ông anh, hai anh em còn ở chung trại. Cùng đi vác nứa, chỉ tiêu mỗi trại viên là 10 cây. Không ai lo nổi cho ai. Ai về trước thì được ăn bo bo trước.
Thường, cỡ năm giờ chiều là về đủ. Bữa đó, thiếu một mình ông anh. Phải đến chín giờ tối, ông anh mới về.

Cả trại lo, như ông em kể lại cho Gấu nghe, lần gặp ở San Jose, khi Gấu nghe tin ông anh mất, bèn bay vội qua Mẽo, và đó là lần đầu tiên gặp lại bạn Chất, sau cái lần gặp ở gần cầu Thị Nghè, bạn hình như vừa nhà thương ra, sau 1 ca mổ dạ dày thì phải, xanh lướt, và rút bóp đưa Gấu 1 tờ khá lớn. Bye bye bạn xong, là Gấu bèn quay trở lại hẻm 72 làm thêm cú nữa, hà hà!

Nhìn bức hình mấy đấng văn nghệ sĩ Ngụy ngồi hầu đàn, hầu rượu nhà văn Cách Mạng miệt vườn NQS - chắc cũng thời gian TTT vác nứa, có thể lắm, "một kỷ niệm xa xôi" - Gấu Cà Chớn bỗng nhớ tới bài tưởng niệm Nadezhda Mandelstam của Brodsky. Câu phán của ông, “Mỹ mới là Mẹ của Đạo Hạnh”, là cũng cùng cái ý "Chính Trị mới là Đỉnh Cao của Nghệ Thuật", như Coetzee giải thích:

“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].”
*

Có một điều gì trong ý thức của văn giới, nó không thể chịu nổi quan niệm về quyền uy tinh thần của một kẻ nào đó. Họ tự nén mình trước sự hiện hữu của một Đệ Nhất Bí Thư Đảng, hoặc một Lãnh Tụ, như trước một cái ác cần thiết, nhưng họ hăng say chất vấn một nhà tiên tri. Điều này như thế, chắc hẳn là vì, bị gọi là một kẻ nô lệ, là một thông tin ít làm ngã lòng hơn, so với bị gọi là một con số không, về mặt tinh thần. Nói cho cùng, một con chó bị suy sụp thì cũng chẳng nên đá nó làm gì. Tuy nhiên, nhà tiên tri đá con chó suy sụp không phải để kết liễu nó, mà để cho nó đứng thẳng chân trở lại. Sự đề kháng trước những cú đá đó, sự chất vấn về những tuyên xưng và cáo buộc của nhà văn, không tới từ ước muốn tìm sự thực, mà tới từ sự đắc chí về mặt khôn lanh, láu cá của kiếp nô lệ. Vậy thì, càng tệ lậu hơn, đối với giới văn học, khi quyền uy không chỉ riêng về tinh thần, mà còn về văn hóa - như là trong trường hợp của Nadezhda Mandelstam.

Mượn một câu của W.H. Auden, thơ ca lớn "xô đẩy" bà vào văn xuôi, [great poetry 'hurt' her into prose]. Đúng như vậy. Bởi vì gia tài của hai nhà thơ lớn này chỉ có thể phát triển và tỉ mỉ, chi li mãi ra, bằng con đường văn xuôi. Với thơ, họ chỉ có thể có đệ tử. Và điều này đã xẩy ra. Nói một cách khác, văn xuôi của Nadehda Mandelstam là môi trường độc nhất cho ngôn ngữ-chính nó, bởi vì chỉ có như vậy, ngôn ngữ mới thoát ra khỏi tình trạng ao tù, trì đọng. Tương tự như vậy, nó là môi trường độc nhất khả hữu, cho một cõi tâm linh được hai nhà thơ dựng lên, qua cách sử dụng ngôn ngữ của họ. Do đó, tuy hoàn tất thật là tuyệt vời hai chức năng - hồi ký và chỉ dẫn  về cuộc đời của hai nhà thơ - hai cuốn sách còn làm được điều lớn lao sau đây: Chúng thắp sáng ý thức dân tộc. Riêng phần này, ít ra, chúng thật đáng được lưu truyền, sao chép.

Tuy nhiên, vẫn còn chút ngạc nhiên nho nhỏ, rằng sự thắp sáng ý thức quốc gia dân tộc này, nó là hậu quả của việc tố cáo hệ thống, chế độ. Hai cuốn sách của Bà Mandelstam thực sự là đã nhắm tới Ngày Phán Xét trên thế gian, về thời của bà và văn chương của nó - một sự phán xét rất ư là chính đáng, bởi vì kể từ thời của bà, sự nghiệp vĩ đại có tên là xây dựng thiên đàng trên trái đất này được khởi công thực hiện. Chút ngạc nhiên nhỏ nhoi hơn, là, hai cuốn hồi ức này, đặc biệt là cuốn thứ nhì, đã không được ưa thích bởi phía bên kia Bức Tường Điện Cẩm Linh. Giới cầm quyền, tôi phải nói, họ tỏ ra thành thực [honest] hơn, so với đám trí thức, ấy là nói về mặt phản ứng do mấy cuốn sách gây ra. Họ chỉ nói, việc sở hữu những cuốn sách đó là phạm luật. Nhưng về phía đám trí thức, nhất là đám ở Moscow, họ nhao nhao lên, như là một cái chợ, trước những lời cáo buộc nhắm vào rất nhiều thành viên nổi tiếng, hoặc cũng nổi tiếng, nhưng in ít hơn, của nó, về chuyện thậm thụt với chế độ, và đám người vẫn xun xoe nơi xó bếp nhà bà nhờ vậy mà giảm đi rất nhiều.

Có những lá thư hở, hoặc nửa kín nửa hở, có những quyết định rất ư là tởm lợm, là sẽ không thèm bắt tay, có những tình bạn, những hôn nhân đổ vỡ, do chuyện, không hiểu bà đúng hay là sai, khi chỉ tay vào kẻ đó, và nói, đây là một tên chỉ điểm. Một tay ly khai nổi tiếng vừa tuyên bố vừa lắc lắc chòm râu: "Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta". Những kẻ khác bèn chạy vội về nhà, đóng kín cửa lại, và ngồi viết phản-hồi ký! Đúng thế đấy, những năm đầu của thập niên 1970 đã bắt đầu như vậy, và chừng sáu năm sau đó, cũng đám người đó, đã xào xáo, chia năm sẻ bẩy, trước thái độ của Solzhenitsyn đối với những người Do Thái.

*

It was late afternoon, and she sat, smoking, in the corner, in the deep shadow cast by the tall cupboard onto the wall. The shadow was so deep that the only things one could make out were the faint flicker of her cigarette and the two piercing eyes. The rest—her smallish shrunken body under the shawl, her hands, the oval of her ashen face, her gray, ashlike hair—all were consumed by the dark. She looked like a remnant of a huge fire, like a small ember that burns if you touch it.

Tôi [Brodsky] gặp bà lần chót vào bữa 30 tháng Năm, 1972, tại nhà bếp của bà, tại Moscow. Lúc đó cũng xế chiều, và bà ngồi, hút thuốc, tại một góc bếp, trong bóng tối của cái tủ đựng chén dĩa in đậm lên tường. Đậm đến nỗi, người ta chỉ nhìn thấy đốm đỏ của điếu thuốc, và hai con mắt sáng rực của bà. Cái còn lại - một thân hình mỏng manh, run rẩy dưới chiếc khăn choàng, đôi cánh tay, khuôn mặt bầu dục nhợt nhạt, mái tóc xám mầu tro, tất cả đều bị bóng tối nuốt sạch. Bà giống như chút còn lại của một đám lửa lớn, đốm than hồng làm bạn bỏng tay, nếu đụng vô.

Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980]
Về "Khổ Đau và Cà Rem"
Cà Rem của Cà Rem là cái gì? (1)

2.12.2004
Đoàn Tiểu Long

Thế nào là “kẻ không gặp may cuối cùng” trong bản dịch Brodsky?

Trong tiếng Nga, tính từ “cuối cùng” (poslednyi) khi đi với một danh từ (thường là có nghĩa tiêu cực) thì không mang nghĩa “cuối cùng”, mà có nghĩa “thậm, cực kỳ”. Ví dụ: “kẻ ngu ngốc cuối cùng” chính là “kẻ thậm ngu, không thể ngu hơn”.

Vì thế, “kẻ không gặp may cuối cùng” trong bản tiếng Nga được bản tiếng Anh dịch thành “total failure” là rất chính xác, nghĩa là kẻ xui tận mạng, số đen như mõm chó… Cả câu có thể dịch là “thà làm kẻ mạt hạng trong chế độ dân chủ, còn hơn làm vương làm tướng trong chế độ chuyên chế”. Câu này khá giống câu nói nổi tiếng của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”. Dịch như anh Nguyễn Quốc Trụ “làm một kẻ cà chớn… là số dách, nếu không được, thì làm…” e không đúng tinh thần lắm.
*
Thà làm 1 thằng....  ghiền xì ke sau 1975, còn hơn làm thằng nghệ sĩ ngồi hầu đàn nhà văn CM!

Hà, hà!

Lại nói chuyện xì ke.

Sau 1975. GCC có gặp NTK một lần, đúng lúc vã thuốc khủng khiếp. Anh mừng quá, kéo về nhà, khi đó, anh thuê 1 căn hộ, ở chung cư Bưu Điện Đinh Tiên Hoàng, gần nhà Mười Mưu, 1 ông thợ Bưu Điện Gấu quen.
Từ biệt, Gấu có chôm 1 món đồ trong nhà, hình như là 1 cái cờ lê sửa xe, và bèn ra ngay Chợ Cũ, đưa ngay cho tên bán xì ke, mày cho tao 1 phát!
Chắc là anh biết, sau đó.

Sorry - không phải cái cờ lê, mà là bài viết này - NQT

*

GCC có tới hai cuốn “Con Chim Được Sơn, The Painted Bird”, mỗi cuốn có 1 chút râu ria về tác giả, cùng cuốn tiểu sử của ông. “Loài chim dị chủng”, 1 cái tít như thế, về mặt ẩn ngữ, hợp với cuốn sách hơn, theo GCC.

"Perhaps the book which has impressed me the most. More than realism, this book is a trip into the world of nightmare and anxiety, through a world of injustice which is our own."

-Luis Bufiuel

"To me, the Nazi experience is the key one of this century-they merely carried to the final extreme what otherwise lies within so-called normal social existence and normal man. You have made the normality of it all apparent, and this is a very important and difficult thing to have done."

-Arthur Miller

(in a letter to the author)

"One of the grimmest and yet most beautiful books ... One which will rank with The Diary of Anne Frank as a testament not only to the atrocities of the war, but to the failings of human nature. A book of striking intensity, written with a luminous apprehension .of the natural and supernatural worlds."

-Chicago Dally News

"Of all the remarkable fiction that emerged from World War II, nothing stands higher than Jerzy

Kosinski's “The Painted Bird”. A magnificent work of art, and a celebration of the individual will. No one who reads it will forget it; no one who reads it will be unmoved by it. “The Painted Bird” enriches our literature and our lives."

-Jonathan Yardley,

Miami Herald

Câu giới thiệu của Luis Bunuel, đúng nhất, tuyệt nhất: Có lẽ đây là cuốn sách gây ấn tượng khủng nhất lên tôi. Hơn cả hiện thực chủ nghĩa, cuốn sách là 1 chuyến đi vô cõi ác mộng, sao xuyến, âu lo, qua cái thế giới của bất công, chính là thế giới của riêng chúng ta.

Còn mấy câu sau, theo Gấu, đều nhảm cả. Khen "Loài Chim Dị Chủng" là 1 cuốn sách đẹp thì bằng chửi bố nỗi đau của nhân loại, hà hà!
Cũng cái kiểu khen này, 1 đấng khen Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, là trác tuyệt.
Đâu phải tự nhiên mà đấng con trai của Akhmatova chửi mẹ, bà "làm văn chương, làm thơ", trên nỗi đau của gia đình!

Hà, hà!

Trong những lời biện hộ cho Akhamatova, bảnh nhất, và đúng nhất, là của Brodsky, khi chỉ ra, có 1 cái gì đó, phân biệt nhà văn nhà thơ, với 1 người bình thường: Ở vào những giờ phút mấp mé điên khùng, nhà văn nhà thơ vẫn cố tìm cách tách ra khỏi số phận, hoàn cảnh, để nhìn nó, với  con mắt khách quan, như thể nỗi đau không thuộc về mình. (1)

(1)

Brodsky: Với tôi, tính kinh điển, thực tại thực, the main thing, của Kinh Cầu [thơ Akhmatova], là đề tài về sự xẻ đôi, về sự bất lực của nhà thơ không có được một phản ứng toàn vẹn [trước thực tại]. Akhmatova mô tả những kinh hồn thất đảm, những ghê rợn của Đại Khủng Bố của Stalin. Nhưng cùng một lúc, bà nói hoài hoài về cái tâm trạng mấp mé biến thành khùng của mình....

Brodsky. No, the text of Requiem is anything but straightforward.

Volkov. Sure, there are two levels here: real biography—Akhmatova and the fate of her arrested son; and the symbolic—Mary and her son Jesus.

Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly talking about how close she is to madness. Do you remember?

   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine

   Luring me to the valley dark.

   I realize that to this madness
   The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.

Khổ thơ sau có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng chót nói sự thực lớn lao nhất. Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên, Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan trọng như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Anh là thằng điên khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mới gì tới mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky

Tưởng niệm TTT

&

“Dieu partage avec l'homme la faute de la Création, car Dieu s'est absenté du monde, ce qui fut la cause de la Chute commune de Dieu et des hommes"
[Thượng Đế chia sẻ với con người lầm lẫn Sáng Tạo, bởi vì Thượng Đế tự ý chuồn, thành thử mới xẩy ra Sa Đọa chung, của Xừ Luỷ và con người].

LES LIVRES DU MOIS
HISTOIRE LITTÉRAIRE
retour aux classiques
par Linda Lê
UN MONDE SANS DIEU
La Célestine, un classique vieux de cinq siècles

Italo Calvino disait qu'un classique est un livre qui n'a jamais fini de dire ce qu'il a à dire. La Célestine de Fernando de Rojas, dans la belle traduction d'Aline Schulman, est de ces œuvres-là. Elle se présente comme une tragi-comédie en vingt et un actes. Mais elle relève aussi bien du théâtre que de l'art romanesque. Par sa forme même, elle est unique. Publiée pour la première fois à Burgos en 1499, elle sera réimprimée dès 1500 à Tolède et à Salamanque. Dans une lettre qui introduit le livre, l'auteur confie à un ami sa découverte du manuscrit du premier acte: pour se distraire de ses études de droit, il a eu l'idée d'en écrire la suite, ce qu'il fait en quinze jours. Le résultat est un joyau noir de la littérature universelle, car le divertissement que s'est proposé Fernando de Rojas, jeune homme de 23 ans, est à la fois satirique et poignant, touchant au mythe de l'amour tragique. En attribuant la paternité du premier acte à un anonyme qui a lancé le filet grâce auquel il a rapporté sa pêche miraculeuse, Fernando de Rojas, note Juan Goytisolo dans sa préface, cherche à dissimuler la charge subversive de son texte. Juif converti, il a vu son père, accusé de pratiques judaïsantes, brûlé vif sur le bûcher en 1488. Cette blessure reste dissi mulée dans la pièce, mais la vision du monde de son auteur s'en trouve altérée: La Célestine témoigne d'un pessimisme et d'une lucidité amère qui, même dans les moments de coméédie, laissent le lecteur confondu devant une si grande connaissance du cœur humain. « À travers le vaste palimpseste hispano-hébraïque qu'est La Tragi-comédie de Calixte et Mélibée (donc La Célestine), on lit les paroles du Zohar juif: Dieu partage avec l'homme la faute de la Création, car Dieu s'est absenté du monde, ce qui fut la cause de la Chute commune de Dieu et des hommes", dit Carlos Fuentes dans une conférence sur le livre de Fernando de Rojas.
Calixte et Mélibée sont, comme Pyrame et Thisbé, deux jeunes gens qui se sont épris l'un de l'autre et doivent franchir des obstacles. La pièce commence par leur première rencontre. Calixte déclare sa flamme à Mélibée, mais celle-ci le repousse. Plongé dans le désespoir, l'amoureux transi s'en va s'épancher auprès de son valet, qui le presse de demander l'aide d'une vieille entremetteuse, Célestine, capable, dit-on, de « provoquer les pierres à la luxure ». Célestine, pour son malheur, parviendra à ses fins et sa tâche est facilitée car Mélibée, en vérité, brûle d'amour pour le jeune noble rencontré. La comédie, où l'amour idéalisé ne s'acquiert pas sans les artifices d'une femme qui a la réputation de refaire leur virginité à celles qu'elle mène à la débauche, et dont Juan Goytisolo note qu'elle est un véritable personnage goyesque, s'achève en tragédie. Dans un monde sans Dieu, c'est l'argent qui fait tourner la roue des destinées .•

Note: Bài này, cũng tình cờ thấy lại được. Quên chưa dịch. Bạn thấy chưa, ở 1 bậc thầy, khi viết về ai, là bèn đi 1 đường trích dẫn, câu trích dẫn, rất quan trọng, và 1 phần nào đó, nó là viễn ảnh của bài viết.

“Italo Calvino phán, 1 cuốn cổ điển là 1 cuốn đếch bao giờ chấm dứt điều mà nó nói/viết/tưởng tượng....”.

Nhớ, 1 đấng bạn quí, hồi mới viết, chê GCC, bài của mày viết, thì thường là cũng thường thôi, chỉ được có mỗi câu trích dẫn.

Có lần kể lại cho NTV nghe, anh vỗ đùi, một câu khen tuyệt vời, bởi là vì khó nhất là kiếm ra được câu trích dẫn.

Bài này cũng quá tuyệt.

Nỗi mất và quên
Nguyễn Ngọc Tư

Mười năm trước, bạn không bao giờ gặp một nỗi mất mát mang tên “hư ổ cứng”.
Những năm đó, thỉnh thoảng bạn cũng buồn, mớ ảnh gia đình bị ố vàng đã làm lem luốc vài gương mặt người thân mà bạn không bao giờ còn gặp lại họ nữa, cuộn phim chụp ảnh đám cưới bạn bị cái nóng ẩm nhiệt đới làm cho mốc meo, quyển nhật ký bị chuột gặm nham nhở, hay những bài hát, bộ phim bạn yêu thích chảy nhão, trầy xước theo mớ băng dĩa cũ.
Hồi đó bạn biết trước sau gì chúng cũng mất, dù chậm hay nhanh, bằng cách này hay cách khác. Giống như bạn biết rồi mình sẽ già đi, nên thêm một tuổi bạn có buồn một tí hay nhiều tí nhưng cũng chấp nhận nó. Còn “thằng ổ cứng” (bạn xấu tính lắm, nghĩ cái gì liên quan tới cứng thì thuộc về… thằng), bạn tin rằng nó sẽ cất giữ kỷ niệm của bạn, hồi ức của bạn, phần đời của bạn, vài thứ bạn yêu thích… bền vững, lâu dài. Máy tính nhiều lần không thể khởi động, hệ điều hành nhiều lần bị lỗi phải cài đặt lại, nhưng ổ cứng có hề gì đâu.
Bỗng một ngày nó chết ngắt, cái chết như nụ cười mỉa vào những lời xưng tụng muôn năm muôn năm. Muôn năm là bao lâu, mãi mãi là bao lâu? Cái chết của nó mang theo bao nhiêu là hình ảnh, bài hát, ghi chép… Những tuồng cải lương hương xưa. Những bài thơ với giọng ngâm ngọt ngào, nức nở của Hoàng Oanh, Hồ Điệp… Bạn te tái xách ổ cứng đi tìm những anh chàng được mệnh danh là phù thủy phục hồi, khắc khoải giống như người yêu ôm người yêu đi tìm thầy thuốc. Và khi mấy phù thủy trong thành phố thở hắt lắc đầu, bạn mới tràn ngập cảm giác mất mát.
Những chuyến đi không còn dấu vết, khi không còn gương mặt người đã từng gặp, cảnh vật đã từng qua. Bạn nhận ra lâu nay, bạn nhờ máy ảnh nhìn, nhờ máy tính nhớ. Đi đến đâu lăng xăng chụp ảnh đến đó, về tuôn vào máy tính, lâu lâu giở ra coi lại, ờ bạn đã tới chỗ này chỗ này. Nó đẹp như vầy như vầy. Người ta lem luốc hồn nhiên vậy đó vậy đó. Chúng tồn tại để sẵn sàng khơi gợi lại cho bạn một ký ức. Bạn tưởng thời gian đã ngưng đọng trong những tấm ảnh đó, và bạn muốn quay lại những khoảnh khắc đã qua lúc nào cũng được. Không vội vàng, thiết tha chi cho lắm. Nhưng giờ bạn không còn manh mối, chỉ còn nhớ mơ hồ, ví dụ cỏ trên những ngọn đồi, nhưng bạn không biết chúng mượt và xanh như thế nào; những đứa trẻ chơi trên cát, bạn không nhớ nụ cười chúng ra sao, có bao nhiêu cái răng bị sún…
Hôm đó, bạn gọi mấy đứa nhỏ đó chỉ để chúng cười cho bạn chụp ảnh. Bạn không trực tiếp nhận nụ cười của chúng. Nếu bạn đừng bận bịu, chỉ chạy chơi với bầy trẻ thôi bạn được sống lại buổi chiều thiên đường ấy, bất cứ khi nào gió cũng lại thổi trên những triền cát nóng.
Giống như cách bạn nhớ chuyến đi Đà Lạt năm bạn mười hai tuổi. Hồi ấy bạn nghĩ, quá xa xôi để tới đây, và sau này không biết có thêm lần nữa. Bạn tận hưởng Đà Lạt bằng tất cả giác quan trẻ nít của mình, hít thở và ôm ngấu cảnh vật trong lòng. Hai mươi năm sau, bạn vẫn còn nhớ mùi nước đái ngựa trên cỏ, khói sóng vương vất dưới chân thác nước, tiếng những trái thông khô rơi, cái lạnh buốt của bàn tay người đàn ông lạ mà bạn nắm lấy giữa chợ vì tưởng tay bà bạn.
Không có tấm ảnh nào còn lại sau chuyến đi đó, bạn toàn tự nhớ thôi. Cả bài hát trên xe. Giọng nói của người tài xế. Chúng rồi cũng phai trước khi mất đi, lúc bạn đã già, nhưng nó kịp làm bạn rung cảm và xao xuyến cả một thời gian dài nên  không gây hụt hẫng và tiếc nuối.
Nó không đột ngột biến mất như ‘thằng” ổ cứng vừa mang theo một vùng ký ức ra đi. Những bài hát bạn sẽ tìm lại ở tiệm bán băng đĩa, hay trên mạng, nhưng sẽ mất một thời gian để bạn nhớ ra, mình đã từng thích bài hát nào, giọng hát nào, tại sao. Đôi lúc bài hát cũng gợi nhớ một người nào đó, một đoạn đời nào đó. Chúng ít nhiều miêu tả cuộc đời bạn. Tại sao những bài ca ngô nghê, ngớ ngẩn đó năm mười lăm tuổi bạn lại thích mê mẩn? Tại sao có những bản nhạc hồi hai mươi bạn không thể nghe nổi, thì năm năm sau, bạn không dứt ra được những “một ngày như mọi ngày / em trả lại tình tôi / một ngày như mọi ngày / ta nhận lời tình cuối / một ngày như mọi ngày/đời nhẹ như mây khói…”? Tại sao một bài sến chảy nước “Đừng nói xa nhau, cho tâm hồn đau khổ…” bạn lại giữ gìn cẩn thận, không phải vì một người dưng nào đó rưng rưng hát hôm hội tan bạn ra về? Giờ người đã xa, chuyến đi quá vãng, bài hát bị mất. Giờ ngang qua quán cà phê, hay xe kẹo kéo, bạn chắt chiu nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự làm biếng.
Làm biếng cảm thụ cuộc sống, làm biếng thương, thậm chí làm biếng nhớ. Nên cứ bắt máy móc nhắc nhớ giùm. Nên máy móc một hôm trăn trối, sẽ không giữ được gì nếu bạn không tha thiết.
Tình yêu cũng vậy. Cuộc sống cũng vậy. Bạn sực nhớ tới những thứ lớn lao này…
[Cùng nguồn trên].
*
Đọc cái câu gạch đít ở trên, là Gấu rùng mình vì lạnh, và bèn nhớ ra cái cảnh Gấu nắm tay BHD, giữa những bạt ngàn rừng thông một cõi Lost Domain Đà Lạt, và cái cảm giác lạnh đó, theo về tận Sài Gòn, sau đó:

Khi đứng dậy sửa soạn đi ra, đột nhiên chàng nói, "Tay em đến bây giờ vẫn còn lạnh". Lạnh, lạnh, chợt tôi rùng mình, có phải chàng định nói... Chàng nói đùa như để tôi quên, khỏi nghĩ ngợi, "Cô giáo chắc sẽ bắt em chép phạt một ngàn lần câu: "Em yêu anh, và cố gắng đi học đúng giờ". Đối với chàng, tôi vẫn chỉ là một cô bé con, chàng vẫn muốn sự vật đừng thay đổi, đời sống đừng thay đổi, chàng muốn tất cả vẫn như xưa, như cũ... "Em biết không, Ngọc chỉ chê anh một điều là anh hay cười." Ngọc là em trai một người bạn gái của tôi. Ngọc khoảng tuổi tôi, nghĩa là kém chàng khoảng chín, mười tuổi.... "Không hiểu Ngọc có nhìn thấy như anh không? Không hiểu Ngọc định tìm gì ở nơi em?"; tìm gì, tìm gì, tôi chỉ là một món đồ kỳ lạ, khác thường, nên mọi người muốn tìm tòi, khám phá, một món đồ làm gợi lại trí nhớ, làm sống lại tuổi thơ của chàng, hay là tôi là một cái cớ để giải thích tại sao chàng sống, tại sao chàng sẽ chết, anh, Ngọc, Quang, và cả Tuấn nữa, tại sao nhiều người yêu tôi vậy?... "Không phải đâu, em mang dáng điệu của một người đàn bà ngay khi còn bé con, và suốt đời em sẽ phải tập làm một đứa trẻ...".
Tứ Tấu Khúc

Nhưng tuyệt nhất, là cái cảm giác sến, của những bản nhạc sến, cái hồn của văn chương Miền Nam, được NNT lôi ra, "chắt chiu nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự làm biếng."

Adieu & Bon Voyage, Nguyễn Quang Sáng!

*

James Mason trong vai Oedipus, và Eleanor Stuart/Jocasta, trong bi kịch Oedipus, được dàn dựng năm 1954

Oedipus

Origin: Greek myths and the 429 B.C.

play Oedipus the King, by Sophocles

The story of Oedipus is one of the most memorable of Greek myths, and it was a frequent subject for playwrights. Aeschylus' trilogy on the subject has been lost, but Sophocles' play is one of the great works of Western literature, a lofty meditation on human nature and the inflexible laws of destiny- as well as a rousing detective story that leads audiences to a thrilling catharsis, the outpouring of pity and terror that tragedy is designed to inspire.
    The tale is riveting: at his birth, it is prophesied that Oedipus will kill his father and marry his mother. To avoid this destiny, his father, King Laius, abandons him on a mountainside, but Oedipus is found by a shepherd and is raised by King Polybus and Queen Merope of Corinth. Learning from the oracle at Delphi of his prophesied fate, the young Oedipus heads to Thebes, so he will not kill Polybus. On the way, he meets Laius at a crossroads; they argue, and Oedipus kills him, fulfilling the first part of his destiny. Reaching Thebes, he marries his birth mother, Queen Jocasta, fulfilling the prediction.
    When a plague strikes the land, due to the incest of its rulers, Oedipus vows to find the cause of the gods' wrath. Theater holds few more thrilling moments than the scenes in which a series of messengers reveal the truth to Oedipus: in seeking to escape his destiny, he has only fulfilled it. As Sophocles has him say, "Was I not born evil? / Am I not utterly unclean?"
    He is unclean, for all of us are unclean, deeply flawed creatures, powerless to reverse the stem fates that shape our lives-or so the Greeks believed. And so did Sigmund Freud, who claimed that, like Oedipus, each of us is fated to want to murder one parent and marry the other.

And so did Sigmund Freud, who claimed that, like Oedipus, each of us is fated to want to murder one parent and marry the other.

Như Freud phán, mỗi chúng ta đều bị số phận nguyền rủa, mi phải làm thịt ông bố/hay bà mẹ, và lấy người kia, làm chồng/hay vợ!

Bài viết trên Time, về Oedipus, ngắn, gọn, nên vờ đi giai thoại thực là thú vị, về nhân vật huyền hoặc này.
Do trả lời được câu đố của con nhân sư mà ông bị lời nguyền của con vật này: Con vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa hai, và buổi chiều, ba.

Con người!

Chính là vì quá thông minh, mà Oedipus vướng lời nguyền. Thành ra Sophocles mới đặt vào miệng của nhân vật của mình, "liệu ta sinh ra quỉ ma như thế ư? “Bửn”, unclean, đến như thế ư?"
*

Cái sự cực kỳ thông minh của Bắc Kít, xem ra cũng có gì mắc mớ với huyền thoại Ơ Đíp. Mi khôn quá, nên mi “bửn” quá. Óc của mi bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có “cái gọi là”, lương tri của con người!

Ui chao, Gấu Cà Chớn, thảm thương thay, cũng bị kẹt với 1 ông bố Bắc Kít cực kỳ thông minh, cực kỳ tàn nhẫn: Ta bỏ mi vì không ta không muốn mi phải gọi ông ta là bố, dù là bố vợ!


Adieu & Bon Voyage, Nguyễn Quang Sáng!

*

GCC @ Lý Kiến Cắn [Trúc]'s Van Hoa Magazine, Little Saigon.

Trên TV có kể chuyện sinh thời, Sáu Dân Hồ Tôn Hiến, mỗi lần rảnh việc triều đình, thường cho vời họ Trịnh tới hầu đờn. Và có lần họ Trịnh kéo theo một bạn thơ. Lần sau, kêu bạn thơ cùng đi, ông lắc đầu, than, thấy mi gân cổ hạc gầy, hát lấy ly rượu, thảm quá, tao thà ở nhà còn hơn nhìn thấy bạn mình bị “Cách Mạng” làm nhục!

Ông Võ Văn Kiệt Đã Về Đến Nhà

Sài Gòn bỗng nhiên mưa, tầm tã. Chiếc máy bay Learjet-45 của hãng Thai Flying đáp xuống Tân Sân Nhất lúc 11:40 ngày 11 tháng 6 năm 2008. Ông, Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đã trở về trên một chiếc băng ca nhỏ. Hai hôm trước, từ Singapore, một người đi cùng chăm sóc ông, gửi thư về, cho biết: “Chú bị tổn thương phổi khá nặng. May mà sang đây điều trị tích cực hơn nên tình hình không xấu thêm. Tuy nhiên, tác nhân gây bệnh thì vẫn chỉ dự đoán chứ chưa tìm ra. Để có thể có kết quả khả quan chắc phải chờ thêm thời gian. Điều đáng lo ngại là do tổn thương phổi quá nặng, nên những cơ quan khác như tim, thận đều bị ảnh hưởng, hiện vẫn thở máy và dùng máy lọc thận. Anh yên tâm, thời điểm đáng lo ngại nhất đã qua rồi”. Tôi đã cố yên tâm.

Hơn hai tuần trước, ngày 23-5-2008, ngay sau khi vừa từ Hà Nội trở về, ông cho gọi tôi đến. Chiều ấy cũng mưa tầm tã. Ông giữ tôi ngồi lại rất lâu, phần để chờ cơn mưa dứt, phần để ông có thêm thời gian trò chuyện. Biết bao dự định, biết bao tâm sự… Hôm ấy, sau hai ngày bị cảm, ông có vẻ mệt. Nhưng rất minh mẫn và giọng vẫn đầy nhiệt huyết. Hôm sau ông vào viện, ông hẹn sẽ trở về. Tôi không bao giờ nghĩ, ông sẽ trở về trên chiếc “chuyên cơ” cấp cứu ấy. Mưa dịu lại một chút, hình như trời cũng trầm xuống để các bác sỹ chuyển ông từ máy bay sang xe. Chưa bao giờ có một cuộc đón tiếp ông ở sân bay với đông các nhà lãnh đạo, bạn bè và người thân như vậy. Đứng sát bên tôi là hai người nấu bếp lâu nay của ông. Các chị sụt sịt, rồi nấc lên, khi thấy mái đầu bạc của ông dần hiện ra ở cửa máy bay. Ông đã về. [Blog Osin]
*
Mừng cho ông, đã về. NQT
*
Một độc giả Tin Văn, vặc Gấu, tại sao lại gọi Víp Va Ka là Hồ Tôn Hiến.
Hồ Tôn Hiến là ai, thì mọi người đều rõ. Ông này được lệnh Bắc Bộ Phủ chiêu hàng giặc Ngụy ở tít Miền Nam, và bèn chơi cái đòn "tiếng địch Ô giang", [cùng lúc với đòn PXA],
nghĩa là bằng những bài ca phản chiến của nàng Kiều họ Trịnh.

Thành công rồi, những lúc rảnh việc triều đình, ông nhậu nhẹt lai rai, và cho vời nàng Kiều đến gẩy đàn, ban cho vài ly, vì biết nàng Kiều ghiền rượu, sau khi bị ông Víp… lừa!
Cái vụ này Gấu biết qua một nhà thơ. Ông này là bạn của họ Trịnh, chắc có lần cũng đã được họ Trịnh kéo đi uống ké. Nhưng lần sau, kêu đi uống ké tiếp, nhà thơ lắc đầu, than, nhìn cái cảnh mày gân cái cổ gầy lên mà hát, để lấy ly rượu sao thảm quá, tao đếch có đi, vì quá thương mày!

Note: Nhân đọc bài này, lòi ra bài viết
Sài Gòn Lần Đầu!

*

Gốc cây mận (nhà Nguyễn Quang Sáng) - một kỷ niệm xa xôi
NgTrKhoi, Nguyễn Quang Sáng, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn.
Bài hát trình bày: Đêm thấy ta là thác đổ

Nhìn bức hình, thì bèn tin là quả thế thực, và chàng nhạc sĩ hát rong hầu đàn không chỉ một anh Sáu!

Một khi bạn bắt đầu biên tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này nên, cái này không nên, bạn đang tán tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according to what is or isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky
. Solomon Volkov.

Một tên như Trần Văn Thuỷ, khi viết Nếu Đi Hết Biển, nếu “tử tế”, thì hắn phải "dám" chấp nhận những người nói ngược lại với hắn ta chứ?
Thay vì vậy, thì là 1 lũ cò mồi.
Có thể nói, tất cả những bản văn của đám VC này, khi được Mẽo mời qua WJC, để viết về Mít lưu vong, thì đều giống nhau ở cái mức “vô lại”, vô trách nhiệm, “miễn xong 1 sô” - chữ của nhà thơ PNH.
Chúng đâu có biết, viết như thế, là tự làm nhục chúng?

Một khi bạn ngồi hầu đàn 1 tên như NQS, trong khi cả Miền Nam đang đói, khổ, nhục nhã, tù tội....  không lẽ bạn không biết, tớ đang tán tỉnh thảm họa?
Lũ Chống Cộng Điên Cuồng, ở chúng, dân Miền Nam có điều gì thông cảm, thay vì kết án, tại làm sao không... quên hết thù hận!

V/v Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với đồng loại để chau chuốt bộ da của mình.

GCC sợ rằng ngược lại.

Chính cái sự coi loài vật thua con người là cội nguồn của những dã man của con người.

*

*

Note: Mấy bài về Coetzee thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của con người, là, khi nó nghĩ nó bảnh hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án, Kafka cho K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K nhìn hai ông cớm VC [l'accusé regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi dao vô tim, như thể nỗi tủi hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ "Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie d'un jeune garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự thuật, Coeztee đã nhận ra, tủi hổ là vấn đề trung tâm, la question centrale, của Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có thể làm cho nó sống động.

Chỉ 1 khi lũ Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền Nam, và đẩy xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng. (1)

Cái bìa cuốn “Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố”, là của NTK. Cuốn sách, Gấu chưa từng đọc, cho đến khi ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, đưa. Cái tít cũng của ông.
Chỉ đến khi đọc Kundera, đọc ông vinh danh Malaparte, thì Gấu mới nhìn lại nó, và khám phá ra, người dạy Malaparte đạo đức làm người, là 1 con chó!

Kundera đã dành những trang đẹp nhất của Gặp Gỡ để vinh danh Malaparte, và làm sao không, vinh danh con chó của ông.

*

*

Gấu & NTK
Thời gian dịch La Peau

*

*

Khi dịch “The Skin”, Gấu chẳng nhớ gì hết, đâu ngờ câu văn kết thúc ăn sâu vào tiềm thức, sau bật ra, lại nghĩ, là của mình!

THẮNG TRẬN NHỤC NHÃ LẮM!

Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố

Intro

Thượng Đế Đã Chết, khủng khiếp thực.

Nó nói về Mẽo giải phóng Ý, và nó tiên tri ra hai cuộc giải phóng khác, tại Việt Nam. Gấu lập lại, hai cuộc giải phóng.
1. Quân đội Mẽo tới Miền Nam, nhằm giải phóng miền đất này, thoát cuộc xâm lăng của VC Miền Bắc.
2. VC Miền Bắc giải phóng Miền Nam. Và xoá sổ nó.

*

“LA PEAU” : UN ARCH-ROMAN

"La Peau [Làn Da]": Đại Gia - Tiểu Thuyết

10. Memory Turned into a Battlefield

ON THE GREAT STAIRCASE OF A NEWLY LIBERATED FLOREN-tine church, a group of Communist partisans is executing some young (even very young) Fascists, one by one. A scene that announces a radical turn in the history of European life: the victor having drawn definitive and untouchable frontiers, there will be no more slaughters between European nations; "war was dying now, and massacres among Italians were beginning"; hatreds withdraw to the interior of nations; but even there the struggle changes its nature: the goal of the fight is no longer the future, the next political system (the victor has already decided what the future would look like), but the past; the new European war will play out only on the battlefield of memory.
    In The Skin, when the American army is already occupying northern Italy, partisans execute a local informer in total security. They bury him in a meadow and, as a monument, they leave his foot, still in its shoe, sticking up from the earth. Malaparte sees this and he protests, but in vain; the partisans are delighted at leaving the collaborator as a ridiculous laughingstock in a warning for the future. And today we know: the further Europe moved away from the end of the war, the more it proclaimed it a moral duty to keep past crimes unforgotten. And as time went on the courts were punishing older and older people, whole regiments of denouncers were beating the bushes of the forgotten, and the battlefield stretched into the cemeteries.
    In The Skin, Malaparte describes Hamburg after the Americans dropped phosphorus bombs. To quench the fire devouring them, the inhabitants were flinging themselves into the canals that crisscross the city. But the fires drowned by the water immediately flared up again in the air, so people had to keep plunging their heads under again and again; this situation went on for days, during which "thousands of heads would emerge from the water, blink their eyes, open their mouths, speak."
    Another scene where the reality of war surpassed the plausible. And I ask myself why the managers of memory have not made that horror (that dark poetry of horror) into a sacred memory? The memory war rages on only among the defeated.

11. As Background, Eternity, Animals, Time, the Dead

"I NEVER LOVED A WOMAN, A BROTHER, A FRIEND AS I loved Febo." Amid so much human suffering, the story of this dog is far from being a mere episode, an interlude in the midst of a drama. The American army's entry into Naples is only a brief second in history, whereas animals have accompanied human life since time immemorial. Facing his neighbor, man is never free to be himself; the power of the one limits the freedom of the other. Facing an animal, man is who he is. His cruelty is free. The relation between man and animal constitutes an eternal background to human life, a mirror (a dreadful mirror) that will never leave it.
    The time span of the action in The Skin is short, but man's infinitely long history is always present in it. It is through the antique city of Naples that the American army, the most modern army of all, enters Europe. The cruelty of a super-modern war plays out before the background of the most ancient, archaic cruelties. The world that has changed so radically makes clear, at the same time, what remains sadly unchangeable, unchangeably human.
    And the dead. In peaceful times they only modestly interrupt our tranquil lives. But in the period described in The Skin, they are not modest; they are active; they are everywhere; undertakers haven't enough vehicles to carry them away, the dead stay on in the apartments, on the beds, they decompose, stink, they are in the way; they invade conversations, memory, sleep: "I hated these corpses. They were the foreigners, the only, the real foreigners in the common homeland of all the living."
    The war's closing moments bring out a truth that is both fundamental and banal, both eternal and disregarded: compared with the living, the dead have an overwhelming numerical superiority, not just the dead of this war's end but all the dead of all times, the dead of the past, the dead of the future; confident in their superiority, they mock us, they mock this little island of time we live in, this tiny time of the new Europe, they force us to grasp all its insignificance, all its transience ....

Milan Kundera. Encounter. The Skin: Malaparte’s Arch-Novel

TV sẽ dịch chương Kundera vinh danh Malaparte, và cuốn “The Skin”.
Cũng là 1 cách Tưởng Niệm ngày 30 Tháng Tư sắp tới.

Adieu & Bon Voyage, Nguyễn Quang Sáng!

Note: Thì lâu lâu cũng phải cho GCC khóc đồng nghiệp Đỏ 1 phát chứ!

“Để không bị lộ bí mật nơi đóng quân trong rừng, cấp trên đã ra lệnh may yết hầu con gà trống vì sợ nó gáy. Nhà văn cho rằng, làm gà trống mà không được gáy thì thà chết còn hơn”.

Nhà thơ Cách Mạng 30 Tháng Tư, tác giả bài thơ "Quê Hương Mỗi Người Có Một", cuối đời, cố gáy được 1 lần, khi xì ra, trên Đài của Đế Quốc Mẽo, VOA, “vế tiếp theo, đếch phải của tớ”!

Cái này là giai thoại, Gấu nghe qua bạn quí của Gấu.
Khi nộp đơn xin vô Hội Nhà... Thổ, anh cho biết, phải có nhà văn VC thứ thiệt đỡ đầu, và, với anh, đó là NQS.
Và khi có tiếng xì xào giữa đám "Khỉ Ở Rừng U Minh", NQS bèn "đứng về phe Ngụy", và phán, nếu nó mà không được vô Hội, thì thằng nào xứng đáng vô?

Nếu đúng như thế, thì đây là tiếng gáy của NQS!

Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi, mà mô phỏng Gulag của Xì. Đúng hơn, của Nga Hoàng. Tống tù đi Miền Đông Hoang Dã, lập những trại tù, thành 1 quần đảo, không chỉ đưa sĩ quan Ngụy, mà là tất cả vợ con họ hàng của chúng.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.

Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình tàn độc này.

**

@ Cali, 2003

Hãy cẩn thận, về điều này: Anh chiến đấu vì cái gì - và có thể nhờ vậy, anh sẽ có được nó.
Châm ngôn Nga.
D.M Thomas trích dẫn, sđd

Tribute to Solz

Câu châm ngôn Nga, 1 cách nào đó, là 1 ẩn dụ tuyệt vời về cuộc chiến Mít.

Anh chiến đấu vì cái gì:
Vì lý tưởng nước Mít là Một [C'est un UN, như Bác H phán]

Anh sẽ có được:
Lò Cải Tạo.
Một nước Mít băng hoại, của một lũ ác nhân

Hãy cẩn thận!

Cẩn thận cái gì nữa!


Đọc truyện này, bạn cũng có cảm tưởng tương lai đã chiến thắng.

Note: Đăng trên báo Nhân Dân, chắc cũng từ hồi mới phỏng dái, dùng font chữ thời tiền sử, Gấu mới vớ được trong hồ sơ cũ, đánh vật với nó một tua, mới chuyển qua đuợc Unicode.
Gửi “bạn ta”, cùng những ngày ở Hà Nội. Nhớ, lần đó, đó, bạn ta gọi “anh Gấu”, xưng “em” thật chân tình.

Cảm động thật!

Nhớ mua một cuốn Istanbul, đọc song song với cái truyện này.

Thú thực, khi dịch nó, Gấu chỉ nhớ Sài Gòn, như Sài Gòn trong truyện này.

Khi bạn ta nằm dưới cơn mưa Da Cam thì cũng lúc đó, Gấu đang gửi những bức hình ghi cảnh máy bay thả mưa Da Cam.
Đẹp vô cùng.
Như giấc mơ hậu chiến, ở trong truyện này.

Thân. NQT

Thảo Trường Giỗ Ðầu

Không biết đám quản giáo VC, khi cần chùi tay, có chùi vô áo tên sĩ quan tù VNCH không, nhỉ?

*

*

GCC @ Lý Kiến Cắn [Trúc]'s Van Hoa Magazine, Little Saigon.

Lần bịnh nặng, đến phát khùng, khùng tới đâu chửi VC tới đó, chắc chắn đi, may làm sao, TT được chuyển về ‘quê nhà’ Miền Nam, trại tù Suối Máu, hình như vậy. Gấu nghe anh kể lần đầu gặp lại, khi cả hai ngồi nơi Car Wash, một cơ sở rửa xe của một trong những đứa con. Đúng cái lần nổ ra vụ Trần Trường. Nhờ vậy, người nhà biết tin kịp, mang thuốc thang lên kịp, cứu mạng kịp. Anh cười nói, lần đó, đám quản giáo còn chọc quê, mi giả đò khùng, để chửi tụi tao.
Về lại Canada, khi thấy cái hình Gấu ngồi nơi tòa soạn báo Văn Hóa, với một rừng cờ VNCH ở phía sau, bức hình nổi tiếng của ký giả ‘Lý Kiến Cắn’, [Lý Kiến Trúc] anh mail, khen, ông hay thật, tôi ở Cali mà chẳng mò đi tới đâu!

TT quả là vậy. Anh rất ít la cà, khác hẳn Gấu.

'Góc TT', lúc đầu có tên 'Quán TT'. Ông mail, hỏi, tôi có bán gì đâu, mà ông để... Quán?

30. 4. 2013

“Rõ ràng là họ coi chính quyền này như một chiến lợi phẩm mà - tiếc thay - họ chỉ là kẻ thừa hưởng"
Đào Hiếu (2)

Đúng giọng tranh ăn, cay cú.
Thú thực, Gấu chưa từng gặp 1 tên VC nằm vùng nào có "bộ mặt người" cả!

*

Những nhà trí thức Mác Xít luôn lèm bèm [insister] về sự kiện, là, chủ nghĩa xã hội, mặc dù những phóng thể, vong thân của nó [aliénations], luôn thừa sức để mà tự điều chỉnh, từ phía bên trong. Kiểu mẫu Tiệp Khắc về một chủ nghĩa xã hội cộng hòa cho thấy một thứ hình thức lý tưởng về sự điều chỉnh này.
Về sự phát triển độc hại của Liên Xô, và chư hầu - không kể đến - theo bà, liệu có cơ may, về một toan tính mới, thực hiện một chủ nghĩa xã hội cộng hòa, trong những xứ sở Đông Phương, mặc khải từ những kiểu mẫu Tiệp hay Nam Tư?

H. Arendt: Một từ ông dùng làm tôi bực mình [scandalisé].
Gọi, qualifier, phóng thể, aliénation, một chế độ như là chế độ Xì Ta Lin, theo tôi, nhảm, cực nhảm [euphemism: nói trại đi].
Gọi như thế là cố tình vờ đi, không chỉ thực tại, mà còn những tội ác ghê tởm nhất. Tôi nhắc ông, ấy là vì, một cách gọi “lệch pha” [jargon: nói lóng] thường bóp mép sự vật; tội ác là tội ác, phóng thể, vong thân, khác hẳn.

Bà có tính ban cho chủ nghĩa xã hội, vào giờ này, à l’heure actuelle, một quan điểm trấn ngự nào, conception dominante, về tương lai của xã hội, một cơ may nào đó, để mà thực hiện?

Câu hỏi của ông đưa đến vấn đề, chủ nghĩa xã hội thực sự nghĩa là gì. Marx, chính ông ta cũng đếch trả lời nổi câu này, một cách cụ thể, theo tôi.

Cho phép tôi ngắt lời bà. Điều mà chúng ta đang tính nói tới, là một chủ nghĩa xã hội hướng [orienté] tới những kiểu mẫu như là ở Tiệp hoặc Nam Tư.

Ông lại tính nói về thứ “chủ nghĩa xã hội với bộ mặt người”…



Nghệ Thuật Bịp


Mấy chục năm rồi sau cuộc chiến, hẳn là đã có rất nhiều người ở “bên  thắng cuộc”, tỏ ra ân hận, không phải vì giải phóng Miền Nam, mà là, những tội ác sau đó.

Giá mà đừng gây ra những tội ác nhỉ, đẹp biết mấy!

Gấu cũng đã từng nghĩ như thế - đúng hơn, mong mỏi như thế.
Bà DTH hẳn cũng đã mong mỏi như thế, khi phán, cuộc chiến ngu đần nhất, trong lịch sử Mít.

Nhưng phải đến 30 Tháng Tư 2013, sắp đi xa, thì Gấu Cà Chớn - thằng bé mắt lác Bắc Kít ngày nào - mới ngộ ra: Chiến thắng đỉnh cao chói lọi đó, không phải là chiến thắng, nếu thiếu những tội ác sau 30 Tháng Tư, 1975!

Trong bài vinh danh Thượng Đế Đã Ngỏm Tại Xề Gòn, La Peau, của Malaparte, Kundera viết:

9. Một Âu Châu Mới “In statu nascendi”.
[trong cái dạng uyên nguyên của nó, in its original form]

Âu Châu Mới, thoát ra từ Đệ Nhị Chiến, bị Thượng Đế Đã Ngỏm tóm lấy, trong tất cả cái chân thực của nó [The New Europe as it emerged from World War II is caught by The Skin in complete authenticity], nói như vậy có nghĩa, nó được tóm bắt bằng 1 cái nhìn chưa bị sửa sai, hay kiểm duyệt, [những “giá mà đừng có tội ác Lò Cải Tạo”, thí dụ], và như thế, nó lộ sự tươi rói của khoảnh khắc mới sinh, and that therefore shows it gleaming with the newness of its birth instant.
Tôi nghĩ tới Nietzsche ở đây: cái yếu tính của 1 hiện tượng được vén lộ ở cái khoảnh khắc khải huyền của nó, I’m reminded of Nietzsche’s idea: The essence of a phenomenon is revealed in the instant of its genesis.

Đúng là điều Gấu lèm bèm hoài, về chiến thắng 30 Tháng Tư của Bắc Kít, nó có từ khi chưa có giống Mít, hay nói 1 cách khiêm tốn hơn, nó vừa sinh ra là có rồi, ở cái khoảnh khắc khải huyền của giống Mít!
Hà, hà!

Âu Châu Mới được sinh từ một cuộc thất trận khủng, chưa từng có trong lịch sử của nó [The New Europe is born of an enormous defeat unparalleled in its history]; lần đầu tiên, Âu Châu bị đánh bại, vanquished, Âu Châu như là Âu Châu, trọn Âu Châu. Trước hết, bị đánh bại bởi cơn khùng điên của con quỉ của chính nó, nhập thân vào 1 nước Đức Nazi, first vanquished by the madness of its own evil incarnated in Nazi Germany, và rồi thì được giải phóng, bởi Mẽo một bên, và bởi Hồng Quân một bên.
Được giải  phóng và bị đô hộ, Liberated and occupied.
Tôi nói mà không tiếu lâm, I say this without irony. Cả hai từ đều đúng, accurate. Ở mối nối của nó là cái bản chất độc nhất của hoàn cảnh, And in their juncture lies the unique nature of the situation.
Kundera: Encounter

Giải phóng và bị đô hộ, ở giữa hai từ đó, là hoàn cảnh độc nhất, tiếu lâm nhất, cà chớn nhất, và nhục nhã nhất, của Miền Nam xứ Mít!

Hà, hà!

Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Quang Sáng: Người kể chuyện với nhiều chi tiết đắt giá

Note: Thì lâu lâu cũng phải cho GCC khóc đồng nghiệp Đỏ 1 phát chứ!

“Để không bị lộ bí mật nơi đóng quân trong rừng, cấp trên đã ra lệnh may yết hầu con gà trống vì sợ nó gáy. Nhà văn cho rằng, làm gà trống mà không được gáy thì thà chết còn hơn”.

Nhà thơ Cách Mạng 30 Tháng Tư, tác giả bài thơ "Quê Hương Mỗi Người Có Một", cuối đời, cố gáy được 1 lần, khi xì ra, trên Đài của Đế Quốc Mẽo, VOA, “vế tiếp theo, đếch phải của tớ”!

Tay Nguyễn Quang Sáng này, suốt đời chỉ mong "tối" 1 lần, mà cũng đếch được.

Chán thế!

Cái này là giai thoại, Gấu nghe qua bạn quí của Gấu.
Khi nộp đơn xin vô Hội Nhà... Thổ, anh cho biết, phải có nhà văn VC thứ thiệt đỡ đầu, và, với anh, đó là NQS.
Và khi có tiếng xì xào giữa đám "Khỉ Ở Rừng U Minh", NQS bèn "đứng về phe Ngụy", và phán, nếu nó mà không được vô Hội, thì thằng nào xứng đáng vô?

Nếu đúng như thế, thì đây là tiếng gáy của NQS!

Hà, hà!

Note:

Câu văn thật đắt của NQS, cũng chính là câu của Milosz, dưới đây:

“Đó là một nhóm người, như hòn đảo nhỏ trong một đám đông, và đám đông này thiếu một điều chi rất ư riêng biệt để cho nó trở thành một cuộc sống của con người khiêm tốn, và bình dị."

Cả 1 Hội Nhà Thổ VC hiện nay, thì đúng là 1 con gà trống, bị thiến mẹ mất tiếng gáy!

V/v GCC khóc đồng nghiệp Đỏ, nhà văn cách mạng Nguyễn Quang Sáng.

Thật là tình cờ, Gấu cùng lúc, đọc 1 bài viết của Zbigniew Herbert, 1 nhà thơ trong "Đồng Nai Tam Kiệt" của xứ Ba Lan - gồm Milosz, Szymborska, và ông – trong tuyển tập văn xuôi, The Collected Prose 1948-1998.
Bài viết đúng là vinh danh...  Gấu Cà Chớn, tếu thế, và Hertbert gọi đó là, "Lòng khoan dung của tên đao phủ thủ", "The Mercy of the Executioner"!

Chả là Gấu đang đọc cuốn này. Đi giang hồ vặt, về nhà Lào thăm mấy đứa con, thèm đọc quá, về lại Canada, bèn vớ lấy cuốn đó.
Thần sầu. Gấu sẽ đi vài bài ngắn ngắn trong đó, trong những kỳ tới.

*

Zbigniew Herbert, “Ba Lan Tam Kiệt” [hai “kiệt” còn lại là, Milosz, Szymborska đều đợp Nobel văn chương], như "Đồng Nai Tam Kiệt" của xứ Mít Nam: Bùi Giáng, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, như NTV đã từng gọi.
Gấu biết tới Herbert, là qua 1 bài viết của Coetzee, "Thế nào là cổ điển?" (1)
Nhưng để đọc được ông, thì cũng mới đây thôi, một phần vì cuốn nào của ông thì cũng dày cộm, và vì ông là thi sĩ, mà cái món thi sĩ, thì Gấu cũng mới đọc được, mới đây thôi!
Đọc 1 phát, là dịch ào ào, điếc không sợ súng!

VĨNH BIỆT NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG SÁNG

*

Gốc cây mận (nhà Nguyễn Quang Sáng) - một kỷ niệm xa xôi
NgTrKhoi, Nguyễn Quang Sáng, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn.
Bài hát trình bày: Đêm thấy ta là thác đổ

Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi, mà mô phỏng Gulag của Xì. Đúng hơn, của Nga Hoàng. Tống tù đi Miền Đông Hoang Dã, lập những trại tù, thành 1 quần đảo, không chỉ đưa sĩ quan Ngụy, mà là tất cả vợ con họ hàng của chúng.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.

Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình tàn độc này.

*

NQT & Quyên  @ Cali, 2003

Hãy cẩn thận, về điều này: Anh chiến đấu vì cái gì - và có thể nhờ vậy, anh sẽ có được nó.
Châm ngôn Nga.
D.M Thomas trích dẫn, sđd

Tribute to Solz

Câu châm ngôn Nga, 1 cách nào đó, là 1 ẩn dụ tuyệt vời về cuộc chiến Mít.

Anh chiến đấu vì cái gì:
Vì lý tưởng nước Mít là Một [C'est un UN, như Bác H phán]

Anh sẽ có được:
Lò Cải Tạo.
Một nước Mít băng hoại, của một lũ ác nhân

Hãy cẩn thận!

Cẩn thận cái gì nữa!


Đọc truyện này, bạn cũng có cảm tưởng tương lai đã chiến thắng.

Note: Đăng trên báo Nhân Dân, chắc cũng từ hồi mới phỏng dái, dùng font chữ thời tiền sử, Gấu mới vớ được trong hồ sơ cũ, đánh vật với nó một tua, mới chuyển qua đuợc Unicode.
Gửi “bạn ta”, cùng những ngày ở Hà Nội. Nhớ, lần đó, đó, bạn ta gọi “anh Gấu”, xưng “em” thật chân tình.

Cảm động thật!

Nhớ mua một cuốn Istanbul, đọc song song với cái truyện này.

Thú thực, khi dịch nó, Gấu chỉ nhớ Sài Gòn, như Sài Gòn trong truyện này.

Khi bạn ta nằm dưới cơn mưa Da Cam thì cũng lúc đó, Gấu đang gửi những bức hình ghi cảnh máy bay thả mưa Da Cam.
Đẹp vô cùng.
Như giấc mơ hậu chiến, ở trong truyện này.

Thân. NQT

Thảo Trường Giỗ Ðầu

Không biết đám quản giáo VC, khi cần chùi tay, có chùi vô áo tên sĩ quan tù VNCH không, nhỉ?

*

Lần bịnh nặng, đến phát khùng, khùng tới đâu chửi VC tới đó, chắc chắn đi, may làm sao, TT được chuyển về ‘quê nhà’ Miền Nam, trại tù Suối Máu, hình như vậy. Gấu nghe anh kể lần đầu gặp lại, khi cả hai ngồi nơi Car Wash, một cơ sở rửa xe của một trong những đứa con. Đúng cái lần nổ ra vụ Trần Trường. Nhờ vậy, người nhà biết tin kịp, mang thuốc thang lên kịp, cứu mạng kịp. Anh cười nói, lần đó, đám quản giáo còn chọc quê, mi giả đò khùng, để chửi tụi tao.
Về lại Canada, khi thấy cái hình Gấu ngồi nơi tòa soạn báo Văn Hóa, với một rừng cờ VNCH ở phía sau, bức hình nổi tiếng của ký giả ‘Lý Kiến Cắn’, [Lý Kiến Trúc] anh mail, khen, ông hay thật, tôi ở Cali mà chẳng mò đi tới đâu!

TT quả là vậy. Anh rất ít la cà, khác hẳn Gấu.

'Góc TT', lúc đầu có tên 'Quán TT'. Ông mail, hỏi, tôi có bán gì đâu, mà ông để... Quán?

30. 4. 2013

Nghệ Thuật Bịp

Mấy chục năm rồi sau cuộc chiến, hẳn là đã có rất nhiều người ở “bên  thắng cuộc”, tỏ ra ân hận, không phải vì giải phóng Miền Nam, mà là, những tội ác sau đó.

Giá mà đừng gây ra những tội ác nhỉ, đẹp biết mấy!

Gấu cũng đã từng nghĩ như thế - đúng hơn, mong mỏi như thế.
Bà DTH hẳn cũng đã mong mỏi như thế, khi phán, cuộc chiến ngu đần nhất, trong lịch sử Mít.

Nhưng phải đến 30 Tháng Tư 2013, sắp đi xa, thì Gấu Cà Chớn - thằng bé mắt lác Bắc Kít ngày nào - mới ngộ ra: Chiến thắng đỉnh cao chói lọi đó, không phải là chiến thắng, nếu thiếu những tội ác sau 30 Tháng Tư, 1975!

Trong bài vinh danh Thượng Đế Đã Ngỏm Tại Xề Gòn, La Peau, của Malaparte, Kundera viết:

9. Một Âu Châu Mới “In statu nascendi”.
[trong cái dạng uyên nguyên của nó, in its original form]

Âu Châu Mới, thoát ra từ Đệ Nhị Chiến, bị Thượng Đế Đã Ngỏm tóm lấy, trong tất cả cái chân thực của nó [The New Europe as it emerged from World War II is caught by The Skin in complete authenticity], nói như vậy có nghĩa, nó được tóm bắt bằng 1 cái nhìn chưa bị sửa sai, hay kiểm duyệt, [những “giá mà đừng có tội ác Lò Cải Tạo”, thí dụ], và như thế, nó lộ sự tươi rói của khoảnh khắc mới sinh, and that therefore shows it gleaming with the newness of its birth instant.
Tôi nghĩ tới Nietzsche ở đây: cái yếu tính của 1 hiện tượng được vén lộ ở cái khoảnh khắc khải huyền của nó, I’m reminded of Nietzsche’s idea: The essence of a phenomenon is revealed in the instant of its genesis.

Đúng là điều Gấu lèm bèm hoài, về chiến thắng 30 Tháng Tư của Bắc Kít, nó có từ khi chưa có giống Mít, hay nói 1 cách khiêm tốn hơn, nó vừa sinh ra là có rồi, ở cái khoảnh khắc khải huyền của giống Mít!
Hà, hà!

Âu Châu Mới được sinh từ một cuộc thất trận khủng, chưa từng có trong lịch sử của nó [The New Europe is born of an enormous defeat unparalleled in its history]; lần đầu tiên, Âu Châu bị đánh bại, vanquished, Âu Châu như là Âu Châu, trọn Âu Châu. Trước hết, bị đánh bại bởi cơn khùng điên của con quỉ của chính nó, nhập thân vào 1 nước Đức Nazi, first vanquished by the madness of its own evil incarnated in Nazi Germany, và rồi thì được giải phóng, bởi Mẽo một bên, và bởi Hồng Quân một bên.
Được giải  phóng và bị độ hộ, Liberated and occupied.
Tôi nói mà không tiếu lâm, I say this without irony. Cả hai từ đều đúng, accurate. Ở mối nối của nó là cái bản chất độc nhất của hoàn cảnh, And in their juncture lies the unique nature of the situation.
Kundera: Encounter

Giải phóng và bị đô hộ, ở giữa hai từ đó, là hoàn cảnh độc nhất, tiếu lâm nhất, cà chớn nhất, và nhục nhã nhất, của Miền Nam xứ Mít!

Hà, hà!

*

Nguyen Trong Khoi

VĨNH BIỆT NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG SÁNG
Gốc cây mận (nhà Nguyễn Quang Sáng) - một kỷ niệm xa xôi
NgTrKhoi, Nguyễn Quang Sáng, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn.
Bài hát trình bày: Đêm thấy ta là thác đổ

Khi Cao Bồi sắp sửa đi, chàng sợ quá, nắm tay vợ khóc quá trời, kíu anh với. Một vị độc giả TV cảnh cáo Gấu, mi hiền đi là vừa rồi, để mà ra đi thanh thản!
Ui chao Gấu mà là cái thá gì so với Cao Bồi.
Bạn quí của Gấu rất rành về cái tội bán thiên đường Miền Nam cho con quỉ chuồng lợn Bắc Kít.
Ta cho mi cặp ngựa, mi cho ta con Rose: Câu này dùng làm "avatar" cái con mẹ gì cho Năm Ngựa mà không tuyệt sao, hà hà!

Đến 1 thằng chăn trâu, học lớp 1, nhờ thời thế lên làm thủ tướng Mít VC, trước khi chết mà còn than được 1 câu, 1 triệu người vui, 1 triệu người buồn, một tên nhà văn, dù miệt vườn như Nguyễn Quang Sáng, không lẽ không có, dù chỉ 1 giây, 1 phút, sám hối cái tội thờ giặc Phương Bắc?
Nếu đúng là thống nhất, đất nước Mít đâu như ngày nay? NQT

Địa ngục chật cứng lũ VC choi choi, đếch có chỗ cho Cao Bồi, như ta, 1 thằng, bán đồng nghiệp cho VC, rồi, thà rằng ngửa tay xin đồng nghiệp tiền cho con du học Mẽo, đếch thèm hất hàm ra hiệu cho lũ Bắc Kít Bắc Bộ Phủ, ta cho mi cả một Miền Nam, mi trả ơn ta bao nhiêu cho đủ, lũ khốn kiếp!

Chỉ có tội tinh thần. Tội xác thân, xác thân tự nó ôm lấy những hình phạt. Zbigniew Herbert phán. [There are only spiritual sins. The sins of the flesh carry their own punishment…]. PXA biết rất rõ, tội tinh thần của ông, và ông tin rằng, ông sẽ phải vô Lò Luyện Ngục, Purgatoire, tệ lắm là 20 năm, và chỉ đến khi ra khỏi nơi đó, thì người đời mới có thể lèm bèm về công tội của ông.
Với tên nhà văn miệt vườn như NQS, GCC bèn đóng vai đao phủ thủ, và đi 1 đường gươm bao dung cho hắn ta, như Zbigniew Herbert, kể, sau đây, hay như GCC tóm gọn:

“NQS mi sẽ có ánh mặt trời trên mặt”!

[When they brought in the condemned man, the crowd fell silent. Barneveldt was hurrying toward death: "What you must do, do it fast," he urged the executors of the verdict. Then something happened that went far beyond the ritual of the execution, beyond the procedure of any known execution. The executioner led the condemned man to a spot where sunlight was falling and said, Your Honor, you will have sun on your face."]

*

TVT & NDT @ Cà-phê Factoty, Little Saigon
Cũng 1 thứ cực kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít, nghĩa là, não bị thiến mất 1 mẩu!

Bất hạnh là tài sản

Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng Nobel Toán!
Thú vị quá, với riêng Gấu, Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!

“Tôi nói với Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”. Đức Dalai Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong lần lèm bèm giữa chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012

Evil Axis

TẤM LÒNG…???

Đi thăm bạn bị bệnh trong ngày đông giá rét, mới thấy ấm áp khi ngồi với nhau. Bỏ qua mọi quan điểm hẹp hòi, chính kiến hèn mọn…Những ly rượu trở nên quý giá trong tình bạn bè, ngồi nói với nhau đủ thứ linh tinh, trên trời , dư...ới đất… cuối cùng đều nhận ra rằng - con người có rất nhiều tính xấu, nhưng cái xấu nhất vẫn là : tấm lòng súc vật.

Rồi cùng nhau xem lại hai phim tài liệu của Trần Văn Thủy: "Chuyện Tử Tế" và "Hà Nội Trong Mắt Ai". Hình ảnh ấn tượng nhất là một người bạn sắp chết đã nói với các bạn đang đứng quanh giuờng bệnh: các cậu ráng sống sao cho tử tế - trong CHUYỆN TỬ TẾ và một câu trích dẫn tuyệt vời trong HÀ NỘI TRONG MẮT AI : Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với đồng loại để chau chuốt bộ da của mình.

Chia tay nhau vào đêm khuya khoắt lạnh lẽo, trong lòng lại bừng lên một niềm vui, hạnh phúc.

NTK’s FB

GCC đã từng gặp TVT, đã từng ngồi chung bàn, lần anh ta ghé Tiểu Sài Gòn. Nhưng chẳng ai lên tiếng, để bắt chuyện, ngoài cái hất hất cái đầu, ra vẻ có nhận ra nhau!

Cảm tưởng của GCC về TVT, đây cũng là 1 thứ cực kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít, nghĩa là, khôn tổ cha.

Chứng cớ thì cũng dễ: Cả 1 cuốn "Nếu Đi Hết Biển" của xừ lủy, đếch có 1 thằng nào như GCC, ở trong cái dúm người được TVT phỏng vấn, khi lãnh tiền WJC, vẽ khuôn mặt Mít lưu vong.

Lạ, là loạt bài GCC viết về cuốn này, tháng này, được vô “top ten”, theo server!
Tò mò, GCC “đọc lại”, và hết sức ngạc nhiên về cái giọng điệu tử tế của chính mình, khi viết!

Hà, hà!

IX

Nhưng làm sao, có cách nào đi...  hết biển?
Có theo dõi những bài viết của anh về Nếu đi hết biển...
Anh viết quá nhẹ nhàng với tác giả [của nó]...

Một độc giả

Một bữa ở Luân đôn, sương mù dầy đặc, đến nỗi, bạn xòe tay ra ngay trước mặt mà cũng chẳng nhìn thấy nó, có một người đàn ông nhận được một cú điện thoại, nói ông ta phải tới liền một bệnh viện ở mép bờ phiá bên kia của thành phố, vì đứa con của ông, bị bệnh nặng và đã được chở vô đó. Người đàn ông mở cửa, chạy ra đường, và trước mặt ông là một khối đen kịt. Ông kêu cứu, nhưng chẳng xe cộ, mà cũng chẳng bộ hành.
Bất thình lình, một bàn tay từ đâu đặt lên vai ông, và một giọng nói vang lên: "Tôi sẽ dẫn anh tới đó."
Và thế là người lạ kia dẫn người cha xốn xang lo lắng xuyên qua thành phố Luân đôn sương mù đen kịt, thỉnh thoảng nhắc nhở, này coi chừng chỗ này, coi chừng chỗ kia, này quẹo trái, này quẹo phải...
Khi tới được bệnh viện, người cha hỏi, làm sao mà ông lại có thể đi xuyên qua biển sương mù dầy đặc như thế, con người tốt bụng kia trả lời:
"Đêm tối, sương mù chẳng thể nào làm phiền nổi tôi. Vì tôi là một người mù."

Amos Oz: Dưới Ánh Sáng Chói Chang.

-Tôi hỏi thật ông, ông có ngại khi chứa VC trong nước qua không?
-Nếu ngại, đã chẳng mời. Tôi không thích theo đuổi cuộc chiến nhãn hiệu. Tôi chơi hoặc không chơi với con người cụ thể.
Trần Văn Thuỷ phỏng vấn Hoàng Khởi Phong.

Câu hỏi, tôi đã nghe hơn một lần, và tôi nhận ra, cuộc chiến vừa qua nó làm cho con người ngu đi nhiều, nhất là trong phép xã giao, trong cách đối xử giữa con người với con người.
Trên một diễn đàn nọ, tôi đọc được một câu cảm thán, nhân một ngày 30 tháng Tư: Liệu có một gia đình nào ở Tiểu Sài Gòn dám mời một ông nón cối vô nhà không?
Cụ thể hay không cụ thể, nón cối hay không nón cối, khi bạn mời một người nào vô nhà bạn, bạn tin rằng, người đó là bạn mình.
Nhưng qua gợi ý của một bạn văn, câu hỏi trên không phải của TVT, mà là của HKP.
Bởi vì, ai đời, mình đã mời nó vô nhà mình, mà nó còn thọt lét mình một cú đau hơn hoạn như thế, thì thật không phải phép xã giao một chút nào hết!
Hay là ở nơi đó, người ta quên mất phép xã giao?
Tôi không tin.

Để ý, những người được Trần Văn Thuỷ phỏng vấn, đều là người đã 'chứa chấp' ông. Đây là thất bại lớn của cuốn sách.
Thất bại của nó, còn là những nhận định được lập đi lập lại quá nhiều lần, ở những người được phỏng vấn.

V/v Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với đồng loại để chau chuốt bộ da của mình.

Con người, thì cũng là con vật, vậy.
Không “chỉ” là con vật, mà còn là thứ cực độc, tối độc.

Người là 1 con vật độc nhất có thể cư xử “như là bạn quí” với những nạn nhân, mà anh ta tính làm thịt, cho đến khi làm thịt họ.
Man is the only animal that can remain on friendly terms with the victims he intends to eat until he eats them.

Samuel Butler, c. 1890
 

Một vị độc giả, còn là thân hữu, gửi mail cám ơn vì đã khui ra câu trên.

GCC s rằng cái cực kỳ thông minh của những người như TVT, có gì liên quan đến nhận xét trên.
Thì cứ nhìn cách Bắc Kít đối xử với lũ Ngụy sau 1975 là đủ rõ.

NQT

Một con chó ngoan, thưa ngài, xứng đáng 1 khúc xương hoành tráng!
A good dog, sir, deserves a good bone.
Ben Jonson, 1633

Brodsky phán:
Khi bạn bắt đầu biên tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, bạn đang tán tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according to what is or isn't allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky
. Solomon Volkov (1)

Nếu không có cuộc chiến giữa VC và Tẫu, đám sĩ quan Ngụy chết sạch. Thảo Trường cho biết, nhờ được chuyển về Miền Nam, trong lần bịnh phát điên, người thân từ Sài Gòn mang thuốc lên kịp, khi nhận được tín hiệu cấp cứu từ thân nhân bạn tù trong Trại. Anh cho biết, trong những cơn mê sảng, anh chửi VC bằng thích, nhưng đâu có nhớ, khi hết bịnh. Bọn quản giáo nói, mi giả đò điên để chửi tụi tao.

… một kỷ niệm xa xôi: GCC không dám tưởng tượng, trong khi ba đấng Ngụy hầu đàn nhà văn Cách Mạng miệt vườn, TTT có thể đang vác nứa, và té ở núi Việt Hồng, hay Thảo Trường đang chăn lợn, và “lầm” quả trứng bồi dưỡng cho con heo nọc, là của tên tù cải tạo, và bị ẻn quản giáo chửi cho một trận!

Đành bắt chước ông anh nhà thơ, văng tục, Merde!

V/v Chính kiến hèn mọn.

* 

Chính trị mới là đỉnh cao của văn học, mọi nghệ thuật thứ thiệt, là chính trị, tout art véritable est politique, như Toni Morrison, nhà văn Nobel da đen, Mẽo, phán.
Và đó cũng là ý nghĩa của câu đầy dè bỉu, cái còn lại là văn chương, tout le reste est littérature, của tụi Tẩy.
Chính lũ VC làm cho chúng ta tởm chính trị, khi chúng lợi dụng nó vào những mục tiêu khốn nạn.
Đường ra trận mùa này đẹp lắm!

Nguyễn Huy Thiệp vs Kurtz

Liệu có thể coi NHT, một hình tượng nổi tiếng, một Kurtz của Conrad, trong Trái Tim của Bóng Đen?

Bài viết này, trên số báo đặc biệt về sự độc ác, Le Magazine Littéraire, Tháng Bẩy & Tám 2009, làm nhớ tới một lời tự thú của một nhà văn ra đi từ Miền Bắc: Tôi lụy NHT!
Câu nói đó, phải đọc Trái Tim của Bóng Đen thì mới ngộ ra được: Tôi luỵ Cái Ác Bắc Kít, mà nhân vật của NHT làm bật ra.
Liệu có thể gọi những truyện ngắn của NHT, như là bài tập về cái ác, l'exercice du mal?
Le «cœur des ténèbres», Heart of Darkness, n'est donc pas seulement le fin fond du continent africain. C'est en Kurtz lui-même qu'il y a des ténèbres. L'expression anglaise est d'ailleurs ambiguë: on peut y comprendre aussi « cœur ténébreux », « cœur de ténèbres », comme on dit« un cœur de pierre ». Kurtz prétendait apporter la lumière de la civilisation dans des contrées obscures, et c'est lui qui se révèle profondément noir et sauvage.
Kurtz a aboli la différence entre haut et bas, noble et vil, bien et mal. Marlow, en face de lui, en ressent l'effet: il ne parvient pas à formuler un jugement à son sujet. Seul Kurtz peut prononcer un verdict sur sa propre existence. Il semble en être ainsi dans ses ultimes paroles: «L'horreur! l'horreur! »
Kurtz a percé le mystère de la vie, il a soulevé le voile, et il a vu l'horreur. Marlow, sans aller aussi loin, entrevoit ce qu'il expérimente: l'état inouï que l'on atteint dans l'effacement des limites, c'est dire dans l'exercice du mal, apparaît à ses yeux comme l'objet d'une connaissance nouvelle, qui contribue à la méditation bouddhique que son visage exprime. Il est difficile, par conséquent, d'appliquer aux rapports de Marlow et de Kurtz le schème narratif qui oppose un « bon» à un « méchant ».
Trái Tim của Bóng Đen, sau cùng là... Hà Nội, qua NHT!

Gấu đã ngộ ra điều này, khi đọc Conrad, nhưng bài viết chỉ ra một điều tuyệt vời:

Phải là Conrad, một anh thuỷ thủ, người của biển cả, mới nhìn ra một cõi thối rữa, là đất liền, là nh
ững đại lục, nhất là Cựu Đại Lục!
« Les affaires terrestres sont un pot-pourri d'événements, de désirs contradictoires, de motifs inavouables, d'idées fausses, et de croyances illusoires. La mer représente un domaine réglé par des devoirs simples, une hiérarchie de valeurs clairement définies, la camaraderie et le goût du travail bien fait.” »
*
«L'horreur! l'horreur! »
Ghê rợn! Ghê rợn!
Ta là hiện thân của Cái Ác Bắc Kít!
Ta là... Kít!

  *

Cầu Việt Trì, trên sông Hồng, nơi ông cụ Gấu, vào năm 1946, được một đấng học trò làm thịt, xong, thẩy xuống sông, kèm cục đá tổ bố, để cho khỏi nổi lên.

Về, chụp  hình cái lô cốt trên đê làng, đến bãi sông đốt cây nhang cho ông cụ, rồi đi, khỏi cần về nữa cũng được, Thảo Trường biểu GCC.

"Bien qu'il n'ait jamais disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici ». (1)

Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.

Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.

Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và những đấng Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là biến nhà người, đất người thành bãi đánh hàng:

Từ thuở mang gươm đi dựng nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long 

Kurtz, như thế, họ hàng với Colonel Sutpen, trong Absalom, Absalom!

Cũng dòng Yankee mũi tẹt, gốc gác Hải Dương [cùng quê PXA], hay Sơn Tây [cùng quê Tướng Râu Kẽm]?

Gấu bảnh hơn cả PXA & Râu Kẽm: Sinh Hải Dương, nhưng gốc dân Sơn Tây!

Gấu về Bắc lần đầu, năm 2000, là để tìm hỏi coi ông bố mình mất ngày nào, và đến chỗ ông mất, trên, ngày xưa chỉ là một bãi sông, thắp nén hương cho bố, rồi đi.

Mấy ông bạn văn VC nói, đi làm cái quái gì nữa, anh mua cái nhà, khu Thanh Xuân chẳng hạn, vừa gần Tướng Về Hưu vừa gần tụi này!

Đi rất xa, chỉ để ở lại đây!
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm!

V/v chính kiến hèn mọn.

NTK, hình như có lần kể cho GCC nghe, ngày 30 tháng 4, 1975, anh đưa vợ con ra bến tầu Xề Gòn, và, thay vì cùng lên, thì lại vòng xe trở lại, làm 1 tua “Sài Gòn Lần Cuối”, và thế là kẹt luôn. Ở lại, thì đành phải đóng vai Cách Mạng 30 Tháng Tư, đứng về phe 30 năm mới có ngày hôm nay, chứ làm sao bi giờ, hà, hà!
Bạn quí của Gấu thì cũng rứa, cũng viết văn, viết kịch, cái gì gì, "những tháng ngày êm ả" cái con mẹ gì đó!
Bạn NTK, bảnh trai, bèn vô vai tài tử xi nê ma.  
Thành ra khi ra hải ngoại, theo diện đoàn tụ, anh bị đám Chống Cộng Điên Cuồng hỏi thăm sức khoẻ, cũng căng lắm, đến phải bỏ Quận Cam (GCC đi trễ quá, chỉ nghe nói lại).
Đám VC trong nước mỗi lần đi công tác, ghé nhà NTK và được tiếp đãi thật nồng hậu, là do vậy.

V/v Sĩ quan Ngụy chết hết. Đúng như thế, mà còn hơn thế, nếu không xẩy ra cú chiến tranh biên giới giữa VC Bắc Kít và Tẫu.

*

Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi, mà mô phỏng Gulag của Xì. Đúng hơn, của Nga Hoàng. Tống tù đi Miền Đông Hoang Dã, lập những trại tù, thành 1 quần đảo, không chỉ đưa sĩ quan Ngụy, mà là tất cả vợ con họ hàng của chúng.

Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để mà trở về.

Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.

Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình tàn độc này.