Sài gòn, lần đầu
Lần
chạy trốn quê hương, rời bỏ Sài Gòn, ngồi trên xe, nhìn
ngoái lại, tôi có cảm tưởng, mọi nhà, mọi người đang tiễn tôi bằng câu
hát đứa
em trai vẫn thường nghêu ngao một mình, trước khi bỏ đi luôn.
Đồn anh
đóng bên rừng mai
Nếu mai không nở anh đâu biết xuân về hay chưa.
Tôi
không thể ngờ câu hát là dấu báo của tai ương, không chỉ
của đứa em trai, mà còn của biết bao con người.
Tôi
không biết, trên trái đất, ngoài quê hương, có nơi nào,
Mai nở mỗi khi Xuân về, và, tuy Mai vẫn nở trên quê hương, nhưng Xuân
vẫn tàn
trên những nấm mồ mà chúng ta đành bỏ lại.
Đó
là lần cuối nhìn lại Sài Gòn.
*
Lần
đầu chú bé di cư vừa mới mất Hà Nội, ngu ngơ, rụt rè làm
quen phố phường, con người Sài Gòn, qua tấm bản đồ cầm trên tay. Khi đó
lực
lượng Bình Xuyên còn đang làm chủ thành phố. Tin theo bản đồ, chú bé
băng qua
một con lộ, không ngờ khu đó là một đồn binh. Người lính gác bắt thằng
nhỏ đứng
suốt buổi, lâu lâu, buồn buồn, lên cò súng lách cách, tao bắn bỏ mày.
Lần
khác, là một buổi sáng lang thang trên con phố Bonard,
gần chợ Bến Thành, nhìn thấy một người đàn ông đánh đập thật dã man một
người
đàn bà, không quên bài học công dân giáo dục, hôm sau là ngày đi thi
Trung Học
Đệ Nhất Cấp, chú băng qua đường, chạy vô bót Lê Văn Ken, ngay kế bên
nhà thương
Đô Thành, níu áo một ông cảnh sát. Bị ăn bạt tai, bị sỉ vả, chú bé
khăng khăng
đọc cho hết bài học Công Dân giáo dục thuộc nằm lòng, ông cảnh sát điên
tiết,
xách tai thằng bé Bắc Kỳ di cư buớng bỉnh, kéo xềnh xệch, từ đường
Bonard qua
bùng bình Chợ Sài Gòn, tới nhà giam Quận Nhất, nằm phía sau rạp Đại
Nam, đường
Trần Hưng Đạo, khu Cầu Ông Lãnh. Khóc lóc, năn nỉ tới gần nửa đêm, ông
cai ngục
thương tình thả ra, cho kịp ngày mai đi thi!
*
Như
thế, lần đầu, là một đứa bé Bắc Kỳ mồ côi bố, mồ côi quê
hương, được thành phố miễn cưỡng chấp nhận.
Lần
cuối, một đứa con bị bà mẹ đứt ruột đuổi đi, vì không
muốn nó cùng cùng chết theo với mình.
*
Have
you ever seen the rain?
Gấu
quen Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, “Ba bù long,
Babulong,” và đám bạn Miền Nam, qua ông anh của Bông Hồng Đen, khi ông
học Văn
Khoa cùng với HPA.
Khi
đó, Gấu, tuy ghi danh, nhưng ít khi tới đại học, vì còn
bận làm công chức Bưu Điện.
Để
kỷ niệm buổi sơ ngộ, chúng tôi rủ nhau lên xóm. Khi cả
bọn lần lượt đi vô những căn phòng ở phía bên trong, bà chủ hỏi Gấu,
cậu có
‘đi’ không? Gấu ngớ người, lắc đầu, chẳng hiểu ‘đi’ nghĩa là gì.
*
Sau thì quá quen.
Nhà
Gấu lúc đó ở một con hẻm thuộc đường Nguyễn Huỳnh Đức,
phiá sau Hội Đồng Xã Phú Nhuận. Buổi chiều đi làm về, đạp xe đạp, từ số
11 Phan
Đình Phùng, qua khu Tân Định, qua cây cầu Phú Nhuận, qua đường NHĐ,
không quẹo
vô, cứ thế đạp thẳng lên ngã tư, tới xóm, gần nhà thương Cộng Hòa.
Có
khi, đi, xong, là về, có khi ngủ luôn tại xóm. Sáng hôm
sau, tạt về nhà, đánh răng, rửa mặt, thay quần áo, rồi vội vã đi làm.
Những
buổi chiều, tan sở, tới xóm, mấy đứa trẻ vừa thấy
bóng, là tranh nhau ra dắt xe. “Ba dzề, Ba dzề!”
*
Anh
cu Gấu Bắc Kỳ di cư chẳng hề nhìn thấy cảnh tượng con
người ta yêu nhau như thế nào, cho đến khi được một em bướm dậy cho.
Cái
lần đầu tiên, nhìn ông bếp già, làm cho ông Tây Trẻ,
“đi” một em bên ngoài hành lang, nơi căn nhà villa ở đường Nguyễn Du,
trời tối
đen, Gấu chẳng nhìn thấy gì, mà còn bị bà cô tát mấy cái nổ đom đóm mắt.
Gấu
đã kể chuyện này, trong Hà Nội Của Gấu.
*
Mới
đây, đọc blog của một em bướm người Anh, mở ra bằng cái
câu, tôi mở hai cánh đùi ra, và rồi khép nó lại, nghề của tôi giản dị
chỉ có
thế, Gấu bồi hồi nhớ lại lần đầu được em bướm mắng bảo, sao ngu thế,
phải làm
như thế này này, và cùng lúc nhớ lại, hai nghi lễ thiêng liêng, một của
dân da
đỏ Mỹ Châu, và một của Khổng Học.
Nghi
lễ thứ nhất, khi một đứa con trai da đỏ tới tuổi, bộ
lạc đem nó đến giao cho một em bướm, dậy cách làm người lớn.
Với
Khổng Học, là nghi lễ đội mũ.
Gấu
này thiển nghĩ, hai nghi lễ đó đều quan trọng như nhau,
và bổ túc cho nhau.
*
Đoạn
mở ra Ba Người Khác, nói về bệnh tim la của thằng địa,
cộng kỷ niệm những ngày ở Hà Nội, khiến Gấu viết ra được những dòng
liên tưởng
này: Cái thằng địa, anh bần cố, và có thể, cả nhà văn Tô Hoài, đều
chẳng hề
được chỉ cho biết, hai nghi lễ thiêng liêng trên.
Riêng
về nhà văn Tô Hoài, chính cái câu đóng lại đoạn trên,
khiến Gấu nhận ra sự thực.
"Thế
nào mà anh ấy bị lây cái máu dê của thằng địa đến
tận giờ. Cơm hội nghị có thịt bò thịt lợn, lại chắm chép, đâm rửng mỡ,
lúc nào
cũng cuồng lên, đâm hủ hoá lung tung. Ngồi trước mặt cô nào cũng hau
háu mắt
nhìn cái đũng quần. Anh ấy phải kiểm điểm mấy trận tơi bời đau đớn. Rồi
bị thải
hồi trả về cơ quan huyện. Cả mấy chị cũng phải đuổi về xã. Tôi không
quan tâm
đến họ, mà chỉ nghĩ: thì ra cái máu chó của thằng chó kia truyền sang
mày, gớm
cái giống chó má chết tiệt"
Như
thể, Tô Hoài đã tiên tri ra được cái sự biến thành bọ,
sau khi rửng mỡ, vì hàng họ Miền Nam, nhưng ông đổ tội cho tên địa làm
lây bệnh
!
Đúng
là cái giống chó má khốn kiếp, chết tiệt..
*
Cao Thoại
Châu
Nhà ngươi
đi bỏ lại ngọn đèn đường
kẻ nào đó vô tình không
tắt.
Tiễn
bạn
Tôi viết
dưới ánh sáng của một ngọn nến: Sài-gòn.
Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn đang
âm
ỉ cháy.
Tôi đốt lên ngọn nến của
tôi để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Lần
Cuối Sài Gòn
Thơ Cao Thoại
Châu
1 2
của
những ngày mưa
mọc lên từ đất
có ai buồn bỏ Huế
ra
đi
nghe
dòng sông thở
giữa đêm hè
nghe
đá nổi rùa kêu
trong từng khúc ruột.
Gấu
đã từng kể là, trong lúc xơi mìn VC, nằm Đồn Đất, tức
nhà thương Grall, vừa tỉnh, vừa bớt đau, ông anh vợ hụt, tức anh BHĐ vô
thăm,
đưa cho tờ Nghệ Thuật, trong có bài thơ của Cao Thoại Châu, thế là Gấu
hết cả
đau, bèn lôi mớ bản thảo truyện ngắn đầu tay Những Ngày Ở Sài Gòn ra
sửa. Sau
đó, nhờ Trần Công Quốc, một trong Thất Hiền, khi vô thăm, đưa xuống cho
ông anh
nhà thơ, khi đó đang coi tờ Nghệ Thuật cùng với Thanh Nam, Mai Thảo.
Báo
của Vũ Khắc Khoan. Học trò cho tiền làm. Năm trăm ngàn.
Sau
học trò, Tướng Râu Kẽm, xì ra, mọi người mới biết.
*
Phải
tìm một cách viết mới và từ đó, văn chương sẽ đổi khác.
Chỉ mãi sau này, vào năm 1965, khi tôi bị tai nạn phải nằm trong nhà
thương
Grall, đúng lúc đó tôi đọc một bài thơ của một người bạn, Cao Thoại
Châu, trên
tuần báo Nghệ Thuật. Bài thơ như tạo hứng cho tôi, thế là tôi lôi mớ
bản thảo
cũ, sửa lại, gửi đi. Đó là truyện "Những ngày ở Sài-gòn" đăng trên
Nghệ Thuật số 9, cùng với truyện ngắn cũng đầu tay, chắc vậy, của Cung
Tích
Biền: Ngoại ô Dĩ An Và Linh Hồn tôi. Lần đó tôi nhờ Quốc, khi anh tới
thăm tôi
tại nhà thương, đưa cho anh T. Tên truyện lòng thòng: "Những ngày JL và
SR
ở Sài-gòn". JL và SR là tên tắt, dùng trong nghề nghiệp khi phải liên
lạc
trên mạch viễn ký, của hai chuyên viên Phi Luật Tân, Limchoc và
Soriano, tới
Sài-gòn giúp Bưu Điện thành lập mạch viễn ký dành cho báo chí, thông
tấn ngoại
quốc, sau chết tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh. Anh T. rút ngắn tên truyện và
sửa giùm
tôi một lỗi nặng: khi đọc Faulkner, tôi đã lầm lẫn hai từ
"climatique" (khí hậu) và "climatérique" (khổ đau).
Truyện ngắn kết thúc bằng những dòng chữ: "Tôi mơ ước
khi đứng trước cổng nhà thương Grall nhìn ra ngoài đời và lúc đó chiến
tranh đã
hết." Khi viết câu đó, trí tưởng tôi hoàn toàn bị chế ngự bởi hai câu
thơ
của Cao Đình Vưu, tức Cao Thoại Châu: "Xin lấy máu làm dầu thắp sáng.
Cho
con cháu mình soi tỏ mặt nhau".
Một
Người Anh
Nhưng
đấy chỉ là... văn chương.
Kỷ
niệm đời sống, mới "khủng khiếp".
Cao
Đình Vưu, NTV, và Gấu, có thể nói, gặp nhau ở xóm, nhiều
hơn ở... ngoài xóm.
Nói
một cách khiêm tốn, hễ gặp nhau là hất hàm,
"đi" chứ?
Trong
Thất Hiền, thì là Phạm Năng Cẩn.