nqt
  

 


  TIN VĂN TRÊN ART2ALL


Album

 


*

*

Breakfast @ school with Richie
13.10.2010


Vương Duy

Image may contain: text


A Farewell
Off our horses, I offer you wine,
ask where you're going. You say

your work has come to nothing,
you'll settle at South Mountain.

Once you set out, questions end
and white cloud keeps on and on.

Note: Bài thơ trên, có trong Thơ Đường của Trần Trọng San, và Tin Văn cũng đã giới thiệu


Mourning Yin Yao
How long can a life last? And once
it's gone it's formless all over again.

I think of how you waited for death:
ten thousand ways a heart wounds.

Your gentle mother's still not buried,
your daughter's hardly turned ten,

but outside the city, cold silence wind-
scoured expanses, I listen to lament

on and on. Clouds drift boundless skies,
birds wing through without a sound,

and travelers travel deserted silence
through a midday sun's frozen clarity.

I remember you back then, still alive,
asking to study unborn life with me,

but my guidance came too late. Sad
how you never found understanding.

And those old friends here with gifts-
they never reached you either. So many

ways we failed you. All bitter lament, I
return to my brush-and-bramble gate.

Note: Trong tập thơ trên, có hai bài "Khóc Yin Yao"

Off-Hand Poem

I'm ancient, lazy about making poems.
There's no company here but old age.

I no doubt painted in some former life,
roamed the delusion of words in another,

and habits linger. Unable to get free,
I somehow became known in the world,

but my most fundamental name remains
this mind still here beyond all knowing.

Note: Bài thơ khép lại tập thơ

  *

Wang Wei chắc là Vương Duy. Czeslaw Milosz rất mê ông này. Trong cuốn sách giới thiệu thơ của ông, Cuốn sách của muôn điều thần sầu, A Book of Luminous Things, có mấy bài của Wang Wei


Sitting alone on an autumn night

I sit alone sad at my whitening hair
Waiting for ten o'clock in my empty house
In the rain the hill fruits fall
Under my lamp grasshoppers sound
White hairs will never be transformed
That elixir is beyond creation
To eliminate decrepitude
Study the absolute.



Ngồi một mình với đêm thu

Tôi ngồi buồn một mình với mớ tóc bạc trắng của mình
Đợi đồng hồ điểm 10 giờ
Trong căn nhà trống trơn

Trong mưa, trái đồi rớt
Dưới ánh đèn, châu chấu rầm rì

Tóc trắng ư, chịu thua
Làm gì có nước gội trở thành đen nhánh như ngày nào

Để “làm thịt” cái già cằn thiểu não
Để chiêm ngưỡng cái tuyệt đối

Bài thơ trên, trong cuốn thơ mới bệ về, cũng có. Cái tuyệt đối, the absolute, hóa ra là, đời chưa sinh ra, the unborn life:


Autumn Night, Sitting Alone
Lamenting this hair of mine, I sit alone
in empty rooms, the second watch close.

Mountain fruit falls out there in the rain,
and here in lamplight, field crickets sing.

No one's ever changed white hair back:
might as well try conjuring yellow gold.

If you want to elude the old-age disease,
there's only one way: study unborn life.


Good-bye

Dismount and we'll take a drink together
Where are you off to?
You say you've failed - retiring
To the foot of the Southern Mountains?
Well, go - and no more questions
For the white clouds there'll never be an end.

This poem, one of Wang Wei's most famous, is generally regarded by commentators as a kind of soliloquy, but there can be no certainty on this point.

Note: Bài thơ trên, có trong Thơ Đường của Trần Trọng San:

Tống Biệt

Hạ mã ẩm quân tửu
Vấn quân hà sở thi
Quân ngôn bất đắc ý,
Quy ngọa Nam sơn thuỷ
Đản khứ mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì

Nam sơn: núi Chung Nam, ở phía tây-nam thành Trường An




Trên Tin Văn, có loạt bài của Phạm Hải Anh, về Thơ Đường, tháng nào cũng Top Ten.
Vị nữ lưu này, GCC phát giác ra, khi chưa xuất hiện trên chốn giang hồ, còn ngồi 1 mình, trên một mái nhà đỉnh cao của Hà Nội, và viết, thanh thoát vô cùng.
Chính là cái tinh tuý của thơ
Đường đã thấm vào tác giả.
Vị này phán, về Vương Duy:

Lý Bạch tả cảnh ông đi chơi hồ Bình Thiên vào đêm trăng sáng, ánh trăng phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng khiến cả vùng hồ như tấm lụa trải rộng mênh mông. Có điều ông không tả hồ, cũng không tả trăng, chỉ phác một liên tưởng về tấm lụa cho thấy trăng nước hoà làm một, lại toát lên cái "thần" yên ả, thanh bình của cả một vùng trời nước. "Bình Thiên" là tên hồ, cũng có nghĩa "cõi trời yên bình". Câu thơ vừa nói được địa điểm thật của khung cảnh, song đồng thời lại nhấn thêm một tầng đồng nhất nữa : đất này là cõi trời (địa- tức-thiên). Trên cái nền trăng - nước, đất - trời tương hội đó, con người cũng lâng lâng giữa hai cảm giác tiên - tục. "Cưỡi vầng trăng sáng" - tưởng Lý Bạch đã thành tiên, song từ "nại hà" ("sao có thể") cho thấy ông chỉ là người thường mơ được thành tiên. Lên cõi trời không được, ông trở về "ngắm hoa trên thuyền rượu" - nhưng giữa trần gian, tao nhã với trăng - nước - rượu - hoa, ông lại xuất hiện như một vị tiên thoát tục. Đọc bài thơ, thấy ông tả tất cả, mà dường như cũng không tả gì. Không thể hình dung dáng hồ, cỏ cây hoa lá, biết là có người, nhưng cũng không rõ con người ấy cụ thể ra sao. Cái được miêu tả ở đây không phải là bản thân cảnh hay người mà chính là thần thái của nó. Toàn bài thơ toát lên ý tưởng về sự giao hòa thanh thản, thần tiên giữa trời - nước, cảnh - người.
Cùng sử dụng bút pháp chấm phá, nhưng cách miêu tả trong TTLB cũng không giống như ở tứ tuyệt của Vương Duy. Vương Duy không chỉ là nhà thơ mà còn là một họa sĩ kiệt xuất phái Nam tông, chuyên vẽ tranh thủy mặc. Dễ thấy ông vận dụng những thủ pháp miêu tả của hội họa vào trong thơ khiến thơ ông cũng như một bức tranh ("Thi trung hữu họa"). Tứ tuyệt tả cảnh của Vương Duy do vậy mà rất đặc sắc,kỹ thuật phối cảnh, tả hình quả đạt tới mức điêu luyện. Vương Duy thích sử dụng sự tương phản giữa những mảng màu tối - sáng, đậm - nhạt, nóng-lạnh, giữa hư và thực, giữa động và tĩnh..., lấy cái này làm nổi bật cái kia. Cảnh trong thơ ông có nhiều phát hiện tinh tế và rất có chiều sâu. Như bài "Lộc trại" :

Không sơn bất kiến nhân
Đả
n văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.

tạm dịch:

Núi vắng, người chẳng thấy,
Chỉ nghe vọng âm thanh,
Hồi quang vào rừng thẳm,
Phản chiếu lớp rêu xanh.

Ông tả tiếng vọng để làm nổi cái tĩnh của rừng núi theo nguyên tắc "Không cốc truyền âm" (động vắng càng vang). Ông gợi thanh âm của người vẳng lại để nhấn mạnh ý người đã đi, cho thấy núi càng vắng. Ông tả ánh phản chiếu của nắng xuyên qua rừng sâu, soi lên lớp rêu xanh, lấy chút sáng le lói để thấy cả cái thâm u dày đặc của rừng. Bút pháp, "vẽ mây nẩy trăng" trong hội họa được ông khai thác tối đa, do đó đọc thơ ông cần vận dụng trí tưởng tượng, xét đoán để nối kết những mảng đối lập, hình dung ra trước mắt một "bức tranh bằng lời" toàn vẹn, giàu ý vị. Còn TT tả cảnh của Lý Bạch ngược lại, thiên về cảm nhận trực giác. Ông không tả cảnh trước mắt mà tả cảnh trong lòng. Khác với Vương Duy, ông không ngắm cảnh như một họa sĩ hoặc một triết nhân vui thú điền viên để di dưỡng tính tình. Ông có khả năng kỳ diệu "nhập thân" vào đối tượng miêu tả. Tứ tuyệt tả cảnh của ông do đó mà có ý vị của Trang Chu mộng điệp, không biết là cảnh có Lý Bạch hay chính Lý Bạch đã hóa thân vào cảnh nữa! Lĩnh hội cái tinh thần của cảnh mà tả, Lý Bạch đã lược bỏ mọi chi tiết rườm rà, chú tâm khắc họa ấn tượng hơn là hình khối. Như trong bài "Vọng Lư sơn bộc bố", ông tả thác nước núi Lư sơn như dòng sông bị treo ngược lên, như dải Ngân hà bị rơi tuột từ chín tầng trời. Người đọc có thể cảm nhận dòng chảy dào dạt, mãnh liệt của một thác nước từ độ cao tót vời tuôn nước xuống - rất cao, rất mạnh và rất đẹp. Nhưng sự tưởng tượng chỉ dừng ở một ấn tượng chung như thế, không đi xa hơn để dựng thành một bức tranh toàn cảnh tỉ mỉ. Có hề gì, vì Lý Bạch đâu phải thợ vẽ, và ông tả thác nước núi Lư sơn một phần, song cái chính là ông biểu hiện dòng thác cảm xúc trong lòng ông khi ngắm Lư sơn. Do đó mà cảnh trong thơ ông đầy màu sắc chủ quan, ông dùng rất nhiều ví von, so sánh, ẩn dụ bởi nó nói lên rõ nhất cảm nhận của ông về cảnh. Khác với lối miêu tả điềm đạm, trầm tĩnh của Vương Duy, TTLB tả cảnh luôn lồng vào đó những cảm xúc, mơ ước. Ông nhận xét, liên tưởng, cho sông, núi, mây, trời... những buồn vui của con người. Nhân hoá là một thủ pháp ưa thích của ông. Gió trong thơ ông cũng biết xót tình li biệt ("Lao Lao đình"), chim núi biết xấu hổ ("Thu Phố ca" bài 3), núi cũng biết nhìn người ("Độc tọa Kính Đình sơn"), trăng đau buồn trẫm mình ngoài Đông Hải ("Khốc Triều Khanh Hoành")... . Có lẽ vì vậy mà thơ tả cảnh của ông như có hồn, tình và cảnh thống nhất tuyệt vời.

Bài Lộc Trại này, theo như Gấu được biết, có hà
ng chục chục bản tiếng Anh, ấy là vì không bài nào đạt tới cái thần thái của bản gốc.
Kinh thế đấy!


Cái tay dịch Vương Duy tác giả cuốn thơ trên, trong lời giới thiệu, phán, cũng thật là tuyệt cú mèo. Trước thiên hạ chỉ biết có Lý Bạch và Đỗ Phủ, nhưng Vương Duy, càng ngày càng được biết nhiều hơn hai ông mãnh trên:

Introduction

Wang Wei (699-761) is one of the great poets. His distinction would no doubt be more widely recognized, outside China and Japan, had he not flourished during a period universally regarded as one in which Chinese poetry reached a zenith, dominated by the reputations of Li Po (701-62) and Tu Fu (712-70). Their passions were overt: Li Po's might be called a kind of romanticism, Tu Fu's, in modern parlance, 'involvement'. Their poetry may speak more directly to western people today than that of the inwardly passionate, contemplative Wang Wei. But this situation is perhaps even now changing.

Trước đây, Lý Bạch có thể coi là nhà thơ vãi lệ, Đổ Phủ, dấn thân, lũ mũi lõ dễ nhận ra, nhưng tình hình khác đi nhiều rồi...




VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 8, 2018 : A PARTIAL HISTORY OF MY STUPIDITY

Một phần của chuyện ngu si của Gấu

Nguyên tác: A Partial History of My Stupidity
Edward Hirsch: The Living Fire

 

 

Ngu như…. Gấu

Ra khỏi cây cầu
Chật cứng như nêm
Gấu quẹo phải, thay vì trái
Thế là mất mẹ buổi sáng!

Hầu như đêm nào Gấu cũng bỏ nhà đi lang thang
Quên cha lũ cây
Nhiều cây Gấu không biết tên
Hay lũ chim
Vô tư bay đầy trời

Gấu không thể nào... diệt dục,
Cũng không thể chấp nhận chúng
Thế là Gấu bèn lang thang
Như con hổ
Muốn nhảy 1 phát
Nhưng lại sợ cái hoang dã vây quanh

Những thanh chấn song
Hình như vô hình với kẻ khác
Gấu đeo mẹ cái chuồng sắt
Ở ngay tim Gấu!

Gấu âu lo, trăn trở quá nhiều, những gì kẻ khác nghĩ
Và đi 1 hay nhiều đường còm,
Đúng ra, phải vờ
Hay im như thóc
Khi đúng như, phải hót như sáo

Xin lỗi mấy Thầy Triết
Thầy Đạo, Thầy Quân...
Gấu đọc Lũ Vị Kỷ
Chẳng thể nào hiểu được họ

Gấu cảm thấy
Gấu sống 1 đời lầm
Nói theo nghĩa tâm linh
Trong khi một nửa đường đời
Loanh quanh thế giới
Triệu triệu con người
Bị làm thịt
Trong có rất nhiều, bởi Vẹm, “đồng bào” của Gấu!

Và thế là Gấu cứ tiếp tục tản bộ
Đầu óc để đâu đâu
Quên phải ghé thăm
Những người đau khổ
Xa thật xa
Hay, gần thật gần

Xin lỗi, niềm tin, Gấu đếch có, dù mảy may
Đau nhất, Gấu đau

Gấu đếch tin vào Chúa:
Ai cho phép
Mi,
Lẩn tránh GCC?

 

------------------

 

A Partial History Of My Stupidity
BY EDWARD HIRSCH


Traffic was heavy coming off the bridge,
and I took the road to the right, the wrong one,
and got stuck in the car for hours.

Most nights I rushed out into the evening
without paying attention to the trees,
whose names I didn't know,
or the birds, which flew heedlessly on.

I couldn't relinquish my desires
or accept them, and so I strolled along
like a tiger that wanted to spring
but was still afraid of the wildness within.

The iron bars seemed invisible to others,
but I carried a cage around inside me.

I cared too much what other people thought
and made remarks I shouldn't have made.
I was silent when I should have spoken.

Forgive me, philosophers,
I read the Stoics but never understood them.

I felt that I was living the wrong life,
spiritually speaking,
while halfway around the world
thousands of people were being slaughtered,
some of them by my countrymen.

So I walked on—distracted, lost in thought—
and forgot to attend to those who suffered
far away, nearby.

Forgive me, faith, for never having any.

I did not believe in God,
who eluded me.




VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 14, 2018 : NỖI BUỒN HOA PHƯỢNG


Nỗi Buồn Hoa Phượng

Nhà thơ TTT có lần ngồi Quán Chùa, nhân lèm bèm về nhạc sến, đúng hơn, nhạc có lời, ông phán, GCC nhớ đại khái, ở trong chúng, có cái gọi là nhịp của thời gian.

Bạn nghe 1 bản nhạc sến, là nhớ lại 1 cái thời nào đó liên quan đến nó.
Bản Tình Nhớ với Gấu là thời gian đi trình diện nhập ngũ tại Quang Trung, viết rồi.
"Ngày mai đi nhận xác chồng", là thời gian ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà, [đang loay hoay viết].
"La plus belle pour aller danser", là thời gian thằng em nghêu ngao, chờ đi xa.

Với Nỗi Buồn Hoa Phượng, của vị nhạc sĩ vừa mới ra đi, với GCC, cái thời của nó, là thời gian học Đệ Tứ, trường Thành Công, ở khu Hoà Hưng, của thầy Chu Tử, tức Chu Văn Bình, bạn của ông anh rể của GCC, là nhà văn Nguyễn Hoạt, và còn là nhà báo với cái nick Hiếu Chân.

Chu Tử là hiệu trưởng, và là giáo sư dạy Pháp Văn, lớp của GCC.
Trường có thể chỉ là cái vỏ để ông làm chính trị. Vốn thành lập trường có thể là của Cao Đài.
Ông bị Diệm bắt, và sau 1 thời gian giam giữ lâu quá, không có cớ để bắt, thành ra cũng không có cớ để tha, chúng ghép ông vào 1 băng ăn trộm xe hơi, để chụp hình đăng báo, cùng đồng bọn, và sau đó, thả.

GCC có nhìn thấy tấm hình đó, trên 1 nhật báo ở Sài Gòn.
Thả, ông làm báo tiếp, tờ Sóng Thần, viết văn, và nổi tiếng với tác phẩm Yêu.
Lần đầu tiên GCC biết đến cái gọi là “lưu bút ngày xanh” là ở trường Thành Công.


Hết năm học, một em, còn nhớ, người Nam, đưa cho GCC 1 cuốn sổ nho nhỏ, GGC nhớ là, đẹp lắm, và nói, anh viết vài dòng lưu bút cho em!
Ui chao, thế là Gấu bèn viết. Không còn nhớ viết cái gì, nhưng chắc là cũng vãi linh hồn lắm!

Trong thời gian học trường Thành Công, GCC gặp lại cô gái ở Hà Nội, con 1 người bạn của bà cô, Cô Dung, của Gấu. Nhà cũng ở khu đường gần hồ Hallais, cô Gấu hay tới xoa mà chược, và Gấu tới, để lấy tiền đi mua bánh mì baguette, ở lò bánh mì Michaux, ở đường Trường Thi, gần Bờ Hồ.
Nhờ vậy, mà được nhìn thấy cô gái.
Gặp lại ở Thành Công.
Cô học ở 1 lớp ở bên dưới. Gấu học 1 lớp ở trên lầu. Gấu mò ra đúng chỗ cô ngồi, và 1 bữa, để cái thư của Gấu ở nơi ngăn bàn học.

Cũng chẳng nhớ 1 tí gì, về nội dung bức thư tình.
Cô gái đem thư trình ông giám hiệu.
Thời gian đó, Chu Tử đã bị bắt. GCC học trường Thành Công, tuy là trường tư, nhưng không phải đóng học phí, hay chỉ phải đóng 1 nửa, lâu quá chẳng nhớ, nhờ cái thư của ông anh rể đưa cho Thầy Chu Tử.
Tay giám hiệu trừng trị GCC bằng cách quyết định, mi từ nay phải đóng học phí.
Học không lo, lo tán gái!
GCC trở lại, không phải trường Thành Công, mà là trường Thánh Mẫu, đối diện với trường Thành Công, mãi sau đó, khi đã đậu Tú Tài I, vô Chu Văn An, quen bạn C, em nhà thơ TTT, và nhờ vậy, quen biết Bà T, bạn của bà cụ C.

Nhà văn Mít về mặt đạo hạnh, quá tệ, nhất là lũ viết dưới ánh sáng của Đảng. Cho đến giờ phút này, thì lịch sử Mít thời vừa qua, hiện ra thật rõ nét. Phải có 1 tên nào đó, có tí ti can đảm để lập lại câu của DTH, chúng ta đã bị lừa. Phải có 1 tên, nhỏ 1 giọt nước mắt cá sấu cho lũ Ngụy. Nước mắt cá sấu thôi, cũng được rồi.
Cái sự kiện, TTT không cho xb Ung Thư có thể là do, trong đó, có những dòng thật là tuyệt vời về những người bạn cũ của ông, ở lại Hà Nội, những nhân vật như thi sĩ Đồng chẳng hạn.

Bởi là vì có lần GCC hỏi ông, thời gian đi tù ở đất Bắc, có người nào đi thăm ông, ông bật cười, sặc ly cà phê buổi sáng, nói, sức mấy mà có chuyện đó!




Cái sự ồn ào về chuyện cho Tẫu thuê đất, theo GCC, nhảm. Vẹm chưa từng cho phép dân Mít có ý kiến về bất cứ 1 chuyện gì. Chúng, chính chúng, không hề biết, về bất cứ 1 điều gì liên quan đến dân chủ, và chân lý này trải dài suốt 4 ngàn năm lịch sử của xứ Bắc Kít, chứ không phải chỉ từ 1945.

Trong 1 bài viết của Somerset Maugham, về Huế, có post trên Tin Văn, kiếm không ra, ông nhận xét tụi Tẩy không phân biệt đối xử giữa chúng và lũ Mít Miền Nam, và ông tin rằng, đó là cái tính chất Tẩy nhất của Tẩy. Ông viết, nhớ đại khái, chúng mang nước Pháp của chúng, qua xứ Nam Kỳ.

Và nếu như thế, thì rõ ràng là với Tẩy, có hai xứ khác hẳn nhau, Bắc Kít và Nam Kít. Tẩy không hề đối xử với Bắc Kít như trên. Cái cách đối xử của Tẩy, với Bắc Kít, y chang, cách Bắc Kít sau này, khi lấy được Nam Kít, đối xử với lũ Ngụy: Chúng để cho lũ liếm đít chúng, tức đám tà lọt, trở cờ… đối xử với Ngụy, thay vì cán bộ, quản giáo. Ai đã từng đi tù VC thì đều hiểu rõ điều trên. Tù Ngụy không được tới gần cán bộ, phải đứng cách xa vài thước, phải bỏ nón xuống, phải…, phải… Hồi Pháp thuộc, dân Bắc ít người được gặp Tẩy, mà chỉ gặp bọn cường hào ác bá, y chang sau này, Ngụy sợ bọn ăng ten, bọn bám đít cán bộ, quản giáo.

Hồi nhỏ, sống với ngoại trong ngôi nhà thấp tè cũ kỹ bên sông. Buổi tối có rất nhiều ghe hàng bông neo đậu lại ngoài bến. Nhờ đám lá dừa nước dày mịt mùng mà ông ngoại tôi trồng mà khách thương hồ có chỗ tránh gió giông. Hình ảnh mà mình nhớ nhất, cảm động nhất, đem lại cho mình nhiều mơ mộng nhất là những ngọn đèn chong họ treo đầu ghe le lói mỗi đêm. Bà ngoại mình cũng đáp lại bằng một ngọn đèn chong ở chái nhà, cũng giống như vậy. Mỏng manh. Leo lét. Mà bền dai. Như thông điệp của sự sống : nơi ấy có người.
Nguyễn Ngọc Tư:
Đèn ảo tắt bóng tối là rất thật

Ui chao, đọc một cái, là bèn nhớ liền đến những ngọn đèn, hoặc đuốc, ở ven bờ sông, lạch..  như là tín hiệu, để chiếc ghe đón khách ghé vô, chở về thị xã, những ngày sau giải phóng, Gấu Cái đưa cả đám nhỏ về vườn, lập cái chòi trên miếng đất dòng họ bên ngoại chia cho, bên cạnh nhà ông Cậu Tư Long, xã Hưng Long, Cai Lậy. Gấu thì vẫn ở Sài Gòn, vẫn làm Bưu Điện, thời gian chưa bị tống ra bên ngoài, đang là chủ nhà, bèn biến thành thằng viết mướn, ở ven nhà, tức là ở vỉa hè Bưu Điện.

Nơi ấy có người đang chờ đò.
*
Bên ấy có người ngày mai ra trận,
Bên ấy có người ngày mai đi xa!
Merde!
Merde!

Gấu biết tới Miền Nam Sâu Thẳm, The Deep South, là nhờ… giải phóng. Những đau thương, và thú đau thương về Quê Ngoại, giả như không có giải phóng, là chẳng hề được hưởng, thành thử lúc nào cũng biết ơn giải phóng!
Chán thế!
Bên ấy có người ngày mai đi tù!
Đi Kinh Tế Mới!



Archaeology

The archaeologist's spade
delves into dwellings
vacancied long ago,

unearthing evidence
of life-ways no one
would dream of leading now,

concerning which he has not much
to say that he can prove:
the lucky man!

Knowledge may have its purposes,
but guessing is always
more fun than knowing.

We do know that Man,
from fear or affection,
has always graved His dead.

What disastered a city,
volcanic effusion,
fluvial outrage,

or a human horde,
agog for slaves and glory,
is visually patent,

and we're pretty sure that,
as soon as palaces were built,
their rulers,

though gluttoned on sex
and blanded by flattery,
must often have yawned.

But do grain-pits signify
a year of famine?
Where a coin-series

peters out, should we infer
some major catastrophe?
Maybe. Maybe.

From murals and statues
we get a glimpse of what
the Old Ones bowed down to,

but cannot conceit
in what situations they blushed
or shrugged their shoulders.

Poets have learned us their myths,
but just how did They take them?
That's a stumper.

When Norsemen heard thunder,
did they seriously believe
Thor was hammering?

No, I'd say: I'd swear
that men have always lounged in myths
as Tall Stories,

that their real earnest
has been to grant excuses
for ritual actions.

Only in rites
can we renounce our oddities
and be truly entired.

Not that all rites
should be equally fonded:
some are abominable.

There's nothing the Crucified
would like less
than butchery to appease Him.

CODA

From Archaeology
one moral, at least, may be drawn,
to wit, that all

our school text-books lie.
What they call History
is nothing to vaunt of,

being made, as it is,
by the criminal in us:
goodness is timeless.

August 1973

Note: Cũng mới bệ về từ tiệm sách cũ mới mò ra được, ở gần gần mỏ phim cũ. 

Cái tay chủ cũ của cuốn thơ, mới cực bảnh: Hắn ta đọc bài giới thiệu, gạch đít những câu cực thần sầu về cõi thơ Auden.
Thí dụ, bài thơ Khảo Cổ trên, hắn ta - hẳn là hắn, Gấu thực tình không nghĩ phụ nữ mê thơ Auden, hà, hà, gạch đít câu này: Ở cuối bài thơ, ông ta – Auden - lèm bèm về quá khứ xa xưa – cái thời còn Sài Gòn, với GCC, như để sửa soạn rút dù vào 1 tương lai chưa biết, và rồi kết luận bằng 1 khẳng định:
Lịch sử được làm ra bởi 1 tên giết người ở trong chúng ta/Cái tốt thì vô thời:
At the end, in "Archaeology," his last completed poem, he delved into an unknowably remote past, yet -as he prepared for his own exit from the world of time into an unknowable future-he concluded with an affirmation.
History, he wrote, is made "by the criminal in us: / goodness is timeless."

http://www.tanvien.net/tgtp/tgtp18_brodsky.html

Brodsky, bị nhà nước lưu đày nội xứ tại 1 nông trường cải tạo nơi Biển Bắc, được 1 nữ độc giả chắc hẳn, gửi cho 1 tập thơ của Auden, vào 1 lúc nghỉ lao động, bèn lôi ra đọc, và ngộ ra cõi thơ của ông - của Brodsky - thế mới thần sầu:
Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ. Ông không nói giỡn. Buổi chiều ông có thời giờ ngồi làm những bài thơ "xấu xa", và tự cho mình bị quyến rũ bởi "chủ nghĩa hình thức trưởng giả" từ những thần tượng của ông. Hai đoạn thơ sau đây của Auden đã làm ông "ngộ" ra:

Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,
 

Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet.

Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp,

Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.

Auden

Quả là cả 1 cõi thơ của Brodsky, thoát thai từ hai đoạn thơ trên, như chính ông thú nhận:

Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."

Joseph Brodsky.
 

Image may contain: 1 person, text



"So they went walking in their peacoats - two old men, unlucky Russians".

Volkov, trong khi trò chuyện với nhà thơ Brodsky, đã nhắc tới một tiểu luận về Stravinsky, của Auden, qua đó, nhà thơ Anh này cho rằng, chính cái gọi là sự tiến hóa [evolution], phân biệt nghệ sĩ lớn với thứ nhỏ con. Nhìn hai bài thơ của ông nhỏ con, không làm sao biết bài nào làm trước.
Theo nghĩa đó, một khi đạt được một tí thành tựu nào đó, nhà thơ bé bèn ngưng lại, không chịu lớn thêm nữa. Anh ta hết chuyện nói [He has no more history]. Trong khi, nghệ sĩ lớn, chẳng bao giờ bằng lòng với thành tựu, cứ muốn lớn thêm tí nữa, tí nữa.
Và Auden phán: Chỉ nhìn vào những tác phẩm sau cùng của một đại nghệ sĩ, chúng ta mới có thể đánh giá những tác phẩm đầu tay của người đó.
Theo Gấu, phải lấy câu trên, làm chuẩn, khi đọc Thơ Ở Đâu Xa.
Bởi vì có hơn một người cho rằng Thơ Ở Đâu Xa thua nhiều, so với Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy. "Liên Đêm... " mới là đỉnh cao của thơ tự do, của Thanh Tâm Tuyền.
*
Và Brodsky, bèn la lớn, Trời hỡi Trời! Lẽ dĩ nhiên! Đúng ngay boong! [It's absolutely true!]. Bạn biết không, người Nhật quan niệm như thế đấy. Họ có một cái nhìn thật là khoẻ mạnh, đối với những nghệ phẩm, theo tiến trình sáng tạo, creative evolution. Khi một ông nghệ sĩ chín muồi, đạt được tiếng tăm, trong một văn phong nào đó, là ông ta bèn đổi văn phong khác, và cùng với nó, là cái tên của ông ta. Hokusai, theo tôi biết, có cỡ chừng không dưới ba chục thời kỳ.

Nhìn theo cách đó, có thể nói, có tới hai đỉnh cao của thơ Thanh Tâm Tuyền. Một, với thơ tự do, Đêm Liên. Và một, với thơ tù, Thơ Ở Đâu Xa.

Về sự tuyệt vời của Thơ Ở Đâu Xa, của "đề tài" thơ tù.

Brodsky cho rằng, thơ tù của Nga, nhức nhối nhất, the most stunning, là từ ngòi viết của Zabolosky. "Somewhere in the field, down Magadan way... ". Có một dòng, mà nó làm cho bạn, dù có tưởng tượng tới cỡ nào thì cũng không thể làm bật ra được, khi muốn mầy mò vào cõi thơ tù [in connection with this topic].

Đó là một câu rất ư là giản dị sau đây:

"So they went walking in their peacoats - two old men, unlucky Russians".

Ôi chao, đọc câu trên, rồi nhớ lại những dòng thơ tù của một nhà thơ, gốc Bắc Kỳ, bị đầy trở về quê cũ, vào một buổi chiều cuối năm, cùng bạn tù, vác bó cuốc nặng, đi qua một thôn nghèo, tránh sao cũng không khỏi lũ trẻ lem luốc, co ro đứng coi tù qua thôn, cảm khái cho chúng, cho cái thôn nghèo của chúng, cho một buổi chiều cuối năm xa gia đình, xa vợ con, ở mãi tít Miền Nam, nhưng cái lạnh lẽo không đèn lửa của nhà ai kia làm át nỗi nhớ nhà, làm ảm đạm lòng ta.

Chiều cuối năm qua xóm nghèo

Mưa bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn

Vác bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
78

Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm!

Đây có lẽ là dòng thơ tuyệt vời nhất của thơ tù, của mãi mãi, về sau này.




*
*

Mưa trên lối về, Thu đã tàn (1)

tan. thu  

lời thu. nào tàn. tạ
vàng. nhầu. úa. cuộc tình
lá. chia tay tháng. cũ
ấp. ủ. mùa chim. di
trời thấp. ngóng ai. đi
chân người. khua xao. xác
ký. ức nào. xác xơ
nhìn. thời gian. thoi thóp
tì. vết người. trong mơ
ta. thân vàng. đổ. lá

Ðài Sử

(1)

Câu trên, tự dưng bật ra, thật tuyệt.
Nhưng, làm gì có chuyện tự dưng!
GCC lục lọi trí nhớ, và sau cùng, vô Google.. 
Hoá ra là từ 1 câu:

Hoa Mai nở trên nấm mồ, Xuân càng già

Ðánh Thơ, trong Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân

Nguồn

Như vậy là có hai câu.
Còn thiếu hai, xin mời độc giả TV.

Sau đây là 1 bài tứ tuyệt, do GCC đề nghị:

Mưa trên lối về, Thu đã tàn
Hoa Mai nở trên nấm mồ, Xuân càng già
Trời mùa Ðông Paris suốt đời thèm chia ly
Tóc Em chưa úa nắng Hè

Vậy là đủ 4 câu, 4 mùa.
Câu chót, còn có bản tiếng Tây, như câu số 2, có bản tiếng Tầu:
Nàng khiêu vũ chỉ 1 mùa Hè.
Elle n'a dansé qu'un seul Été

Ðúng là thơ Kon Kóc của Thầy Kuốc!

Note: Mới bê về từ tiệm sách cũ. Thơ Vương Duy.
Đi ngay 1 bài

Adrift on the Lake 

Autumn sky illuminates itself all empty
distances away toward far human realms,
cranes off horizons of sand tracing that
clarity into mountains beyond clouds.
Crystalline waters grow quiet at nightfall.
Moonlight infusing idleness everywhere,
I trust myself to this isolate paddle, this
observance on and on, no return in sight.

Lênh đênh trên hồ

Bầu trời mùa thu tự chiếu sáng tất cả những khoảng cách trống rỗng
Bằng cách đùa chúng về 1 vùng xa thật xa, xa khỏi cõi người...
Xua lũ sếu ra khỏi những đường chân trời trùng trùng cát cát, trùng trùng dâu bể
Vạch cái sự sáng sủa của mùa thu vào những ngọn núi, quá những đám mây
Nước trong vắt trở nên im ắng khi đêm xuống
Ánh trăng tẩm cái nỗi nhàn rỗi của nó vào tận nơi nơi
Gấu tin tưởng chính mình vào con giầm đơn độc
Vào cái sự quan sát và cứ thế cứ thế, đi hết đi hết
Chẳng có gì trở lại
Lọt vô tầm nhìn.

Bài sau đây, có trên Tin Văn, Gấu "mượn hoa tiến Phật", tưởng niệm Đinh Cường


Mourning Yin Yao

Returning you to Stone-Tower Mountain, we bid farewell
among ash-green pine and cypress, then return home. 

Of your bones now buried white cloud, this much remains
forever: streams cascading empty toward human realms.


Lament for Yin Yao

We followed you back for your burial
on Mount Shihlo
And then through the greens of oaks and pines
we rode away home
Your bones are there under the white clouds
until the end of time
And there is only the stream that flows
down to the world of men.


Chúng tớ đưa đám bạn DC rồi trở về nhà
Xanh xanh những mấy ngàn dâu, ngàn thông, ngàn sồi…
Xương của bạn DC bi giờ ở bên dưới những đám mây trắng kia
Cho đến tận cùng, của tận cùng, của thời gian
Chỉ có dòng suối là từ phía mây bạc
Chảy về trần gian của lũ chúng tớ

Note: B
ài này, cũng chôm, để tặng Seagull


You Will Hear Thunder by Anna Akhmatova
You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.

That day in Moscow, it will all come true,
when, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.

Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó đã từng, vào lúc đó, sẽ cháy bừng bừng

Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.


For Wet Mu

We're both travelers dark-eyed with love
and both possessed of white-cloud mind.
Why set out for East Mountain, when here
spring grasses grow deeper day by day?

Hai ta đều là lữ khách mắt tối u vì tình
Cả  hai đều bị mây trắng đợp mẹ mất cái đầu
Hà cớ làm sao mà mò xuống vùng Núi Đông
Trong khi ở đây, cỏ xuân mỗi ngày một dầy thêm lên?

VIẾT MỖI NGÀY / MAY 05, 2018 : LET'S TALK ABOUT TRAVEL / VƯƠNG DUY

 

It's May, let's talk abt Travel

Vương Duy
701-761

Và đây là 1 bài thơ thật duyên dáng đáng mến, về vẻ đẹp tuyệt vời của một thành phố, mà chúng ta tới, bằng thuỷ lộ, lần đầu tiên.

Tôi – Czeslaw Milosz - cũng đã từng trải qua 1 kỷ niệm tương tự, khi, hai chục tuổi, ba đứa chúng tôi cập bến thành phố Constance ở miền Nam nước Đức, bằng ca nô, A.D. 1931.

Tôi cũng nên viết thêm, giả như Vương Duy không phải là 1 tay thuỷ thủ tới chỉ, a very willing sailor, thì, ít nhất, ông ta là 1 người ưa tò mò. Ông bị đi du lịch, do bổn phận của mình, l nhân viên nhà nước, nhưng, cõi quan hoài của ông, cốt lõi của nó, là của 1 Phật Tử, và trong thơ của ông cõi Phật đó, luôn luôn được biểu tượng, bằng 1 xứ Đoài mây trắng lắm, như GCC, người đang dịch thơ của ông

Czeslaw Milosz: The Book of Luminous Things


Buổi sáng, dong thuyền tới Xinyang

Khi thuyền, xải buồm tới hồ Xingze Lake
Tôi sững sờ vì vẻ đẹp hiển hách của thành phố
Những đường quanh co, khúc khuỷu của con kênh,

do những cửa nẻo vườn tược, chật hẹp, bó bíu.
Lửa và khói bếp, như đám đông, bao trùm mặt nước.
Trong họ, tôi nhìn ra những tập tục xa lạ
Và thổ ngữ ở đây thì tối tăm
Mùa Thu, lúc này, muộn
Những cánh đồng, thả cửa, mặc sức.
Buổi sáng, sáng.
Tiếng động đánh thức những lòng giếng khơi
Thuyền chài lượn lờ trên mặt nước
Gà, chó.
Làng, bên này, bên kia sông.

Tôi rời xa cái xứ sở Mây Đoài Trắng Lắm của tôi
Và cánh buồm cô đơn của tôi
Ở cái tuổi trên tám bó này
Sẽ... tội nghiệp ra sao?

 

Image may contain: text



Đám thanh thiếu niên ồn ào, náo động là lũ chúng tôi đó dần dần rã ra cùng với mùa hè kết thúc, và rồi những cơn bão lodos chợt tới với thành phố, quất túi bụi lên những bến cảng vào mỗi tháng Chín, đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy chậm chân. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông Hồng Đen, lúc này đã mười bẩy tuổi, chẳng biết làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm căn phòng mà tôi thường ngồi vẽ, vào những giờ phút trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái tên thật xứng đáng với nàng: xưởng họa của tôi. Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh thoảng ghé, cũng bầy đặt thử tài hội họa, này, đưa tao cây bút chì, cho tao tờ giấy vẽ, trong khi nhìn với cặp mắt đầy nghi ngờ những cuốn sách của tôi, và chuyện này thì cũng chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng của Gấu. Như tất cả hầu hết đám chúng tôi sống ở Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ, Bông Hồng Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và đỡ buồn.

Tình Đầu

http://www.art2all.net/tho/tho_nqt/tinhdau.html

26.6.2010

Đọc "Istanbul" bỗng dưng thấy nhớ Việt Nam, nhớ những ngày xưa kinh khủng.

HÂ.

Tks. NQT







Mới mò ra 1 tiệm sách, phim cũ. Vớ được cuốn này, quá tuyệt. Giở ra đọc loáng thoáng, trên subway, trên đường trở về nhà mới, vớ đúng 1 bài thần sầu – hình như đã đọc rồi, của xừ lủy, và đã từng chôm, để viết về Nếu Đi Hết Biển, của Trần Văn Thuỷ, ngủ với kẻ thù: Bạn qua Cali, ổ Ngụy, được lũ trở cờ tiếp rước, không đi đến đâu đâu. Phải được em Ngụy nào đó rước bạn vô nhà, thì cuộc giao lưu hòa giải giữa hai miền mới hoàn tất.
Gấu đã từng trải qua kinh nghiệm này rồi, hà, hà!
Bài tuyệt lắm, viết về sư phụ của Gấu: Graham Greene. Post bản tiếng Anh, rồi dịch sau!

Sleeping with the Enemy 

One of the most revealing moments in Norman Sherry's massive, ongoing biography of Graham Greene (with the second volume just published, he has now devoted 1,352 pages to Greene's first fifty-one years) comes at the very beginning, when Greene charges Sherry with compiling a list of his, the novelist's, enemies. Every man has enemies, Sherry replies. By the time the night is over, Greene has composed, with the help of his brother Hugh, his own extensive list of his lifetime's opponents and handed it to his biographer.
That might be said to be the paradoxical trademark of Graham Greene: that he rarely gave himself the benefit of his unending doubt, and that he invariably gave the men he was supposed to hate his best lines. He saw the folly, and the frailty, of everyone around him. Thus adulterers come to feel compassion for the husbands they're cuckolding; victims see the human side of their criminal tormentors; Fowler in The Quiet American comes to mourn the death of his rival in love and opponent in politics (Schadenfreude in reverse, you could say). Even when he was writing wartime propaganda for the British government, Greene described an Englishman shooting a German lieutenant-and then finding in the dead man's pocket a picture of his baby.
That issue is one of the hardest dilemmas in every serious life, and one that faces us daily in the office, the bedroom, even the income tax form we sign: what to do with the person who opposes us? We know, more or less, how to deal with our friends, but what to do with those who tempt us to awaken the devil in ourselves (a far more pernicious temptation than any external devil affords)? Many religions counsel us to forgive those who trespass against us and to extend charity even to the Jeffrey Dahmers of the world; Buddhists actually argue that our enemies are our best friends because they challenge us to transcend ourselves. Yet still the debate between mercy and justice is as unending as the one between duty and love.
If all Greene's novels are essays on fallenness (and self-accusations), they are also, by the same token, arguments against the whole notion of enmity, or reminders, at least, that our enemies are no less vulnerable, and right in their own minds, than ourselves. With his famous taste for
[còn tiếp]

Image may contain: text


Theo GCC, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng được phát sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít này đi!

Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại, đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái gì hết. Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai 
    "Người Mẽo trầm lặng" của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
    Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ ràng là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác. Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
    Điều cuốn sách thọi tôi, sâu thẳm hơn, riêng tư hơn nhiều. Cuốn tiểu thuyết đòi hỏi mọi người trong chúng ta, muốn cái gì từ 1 nơi chốn hải ngoại, và toan tính gì với nó. Nó chỉ ra, cái ngây thơ và cái lý tưởng có thể làm thịt rất nhiều mạng người, như cái đối nghịch với nó, cái đểu cáng đáng sợ. Và nó nhắc nhở tôi rằng, thế giới thì rộng lớn nhiều so với những ý nghĩ tư tưởng của chúng ta về nó, và như thế nào, người thiếu phụ ở trong cuốn sách, cái cô Phượng, sẽ luôn luôn ở bên ngoài một vòng ôm của 1 tên mũi lõ. Nó còn ôm trọn những mảnh miểng hiểu biết - cái nền của tôi -  Á, Anh, Mẽo – vào trong cùng thai đố.
    Bạn phải đọc Người Mẽo trầm lặng, tôi biểu bạn bè của tôi, bởi là vì nó giải thích quá khứ của chúng ta, ở Đông Nam Á, chiếu sáng cái sự hiện diện của chúng ta ở nhiều nơi chốn, và có lẽ, báo trước tương lai của chúng ta nếu chúng ta không để ý.

Nhìn như thế, thì Diệm bị giết, phần nhiều là do thiện ý của Mẽo, hơn là do Cái Ác Bắc Kít: Nó chỉ ra, cái ngây thơ và cái lý tưởng có thể làm thịt rất nhiều mạng người, như cái đối nghịch với nó, cái đểu cáng đáng sợ.

*  *

Pico Iyer Commemorates the Centennial of Graham Greene's Birth Oct. 6, 2004
Pico Iyer tưởng niệm GG, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của sư phụ

Cuốn NMTL, viễn ảnh, vision, đầu tiên, là từ cái từ “lực lượng thứ ba”, mà GG nghe lóm được, từ 1 viên cố vấn Mẽo, như trên Tin Văn đã từng “báo cáo”, nhưng cái viễn ảnh thứ nhì, tiếp theo là Phượng, tên cô gái, và cũng là 1 huyền thoại về 1 loài chim, chỉ tái sinh, từ tro than.
Bạn đọc Tin Văn hẳn còn nhớ cuốn Bếp Lửa, lần đầu xb, đếch ai đọc, ông Nguyễn Đình Vượng bèn đổ ra hè đường Sài Gòn, và nó tái sinh, từ lớp tro than, bụi đường Sài Gòn, 1 lần, rồi tái sinh 1 lần nữa, từ cuộc phần thư 30 Tháng Tư, 1975.
Khủng khiếp thật.
Nhưng MCNK mà không khủng sao. Nếu Người Mỹ Trầm Lặng, và cái tam giác tình của nó, với 1 cô Phượng của nó, mở ra cuộc chiến Mít, mở ra cuộc xuất cảng bướm Mít đi cùng khắp thế giới - nên nhớ Thiên Sứ của Sến, nói cho cùng, thì cũng chỉ  là 1 bướm Mít xuất cảng qua xứ Đức, lấy chồng theo chồng -thì MNCK khép lại, bằng cái chết của Kiệt, chạy thoát rồi, còn vội trở về, để kịp chết. Và thay vì 1 cô Phượng, thì là 1 cô Hiền, của 1 cõi đảo xa, 1 lost domain….

Cái mà Pico Iyer gọi là tiên tri, với Gấu, là viễn ảnh, của 1 tác phẩm.
Của bất cứ 1 bài viết.
Sở dĩ lũ Mít viết chẳng tên nào ra hồn, vì không có thầy, mà còn vì đếch làm sao có được 1 viễn ảnh cho 1 bài viết, dù bình thường, thật bình thường… 
 

Lần đó, theo Joseph đi gặp Đỗ Long Vân, khi đó là anh lính truyền tin tại Đài Phát Tín Phú Lâm, xin bài viết Truyện Kiều ABC. Hình như Gấu đứng ngay đó, đọc loáng thoáng, vớ được câu này:
Cái mới nếu có chẳng qua là ở trong một cách đọc…
Và Gấu biết, bài viết kể như xong: Ta sẽ đọc Bếp Lửa ở mức không độ của nó, vứt mẹ tất cả vào xọt rác, nào ý thức lạc loài, nào thân phận nhược tiểu, nào Malraux...

Trong một lần đi cùng Nguyễn Tiến Văn lên Montreal, nhậu với một tay chuyên về điện ảnh, tay này cho biết, có một người bạn không hề bỏ một bài Tạp Ghi nào của Gấu [khi đó viết cho NMG, trên tờ Văn Học], nhưng Gấu đoán, ông bạn này là chính ông ta.
Trong lúc nhậu, chủ nhà hỏi Gấu, anh viết một bài viết như thế nào. Và Gấu trả lời, tất cả những bài viết của Gấu đều là cóp nhặt, đều là kết hợp của đủ thứ hầm bà làng, cho đến khi Gấu có được một cái "vision" choàng lên tất cả.
Với bài Biển, "vision" của nó, là chi tiết về cát.
Với bài Bếp Lửa, cái vision của Gấu chiếu về cuốn của Barthes: Độ không của cách viết.
Bài viết Bếp Lửa kết thúc bằng câu:

Người ta có thể đọc hoài một cuốn sách, nhưng không chỉ có một cách đọc cuốn sách đó.
Nếu người viết có một "viễn ảnh" về bài viết, khi viết, thì người đọc, cũng có một viễn ảnh, về bài viết, khi đọc.

Đọc một bài thơ, bài văn, như thế nào?
Hãy đọc nó, như là một viễn ảnh, của riêng bạn, về nó.
Và như thế, viễn ảnh còn là chìa khoá, password của riêng bạn, để mở ra bài viết
Có lẽ, chẳng ai có thể dậy bạn, đọc một  bản văn.
Có thể, có những gợi ý, nhưng đọc nó như thế nào, là tùy ở bạn.


*

  Ghi chú trong ngày
  
*

Literary Criticism

It must end in the inexplicable
GABRIEL JOSIPOVIC

June O. Leavitt
THE MYSTICAL LIFE OF FRANZ KAFKA
Theosophy, Cabala, and the modem spiritual revival 212pp. Oxford University Press. £40 (US $65). 

Stanley Corngold  and Ruth V. Gross, editors
KAFKA FOR THE TWENTY-FIRST CENTURY.
286pp. Camden House. $75.

Stanley Corngold and Benno Wagner
FRANZ KAFKA The ghosts in the machine
273pp. Northwestern University Press. $34.95.        

David Suchoff
KAFKA'S JEWISH LANGUAGES
The hidden openness of tradition 267pp. University of Pennsylvania Press. $65.    

Shachar M. Pinsker
LITERARY PASSPORTS
The making of modernist Hebrew fiction in Europe
487pp. Stanford University Press. $60.         

On September 23 it will be 100 years exactly since Franz Kafka wrote his breakthrough story, "The Judgement". We are probably no nearer to understanding that or any other of his works today than his first readers were, nor should we expect to be. These books help to show us why.

Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm sao giải thích được!

Trên TLS, số 7 Sept 2012, GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì kể như là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là khủng, “Sự Xét Xử”. Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của ông, và có lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch làm sao hiểu được Kafka!

Ở đây, cũng phải đi 1 đường ghi chú ngoài lề!

1. Cuốn Bếp Lửa của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi, đếch thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải là ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con quái vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ, vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.

Điều này giải thích, sự kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ đi được!

2. Cuốn Sinh Nhật của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm 1 cái mũ đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài điểm trên như đoạn sau đây cho thấy:

Truyện ngắn mà Brod gọi là "Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka, đã được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát Lầy], nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]

Nói rõ hơn, nhân loại không làm sao đọc được Kafka, vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó", nẫng mẹ mất cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!

(1)

Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm

Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956

Đọc cái thư thấy sến ơi là sến.
Nhưng phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội dung của 1 cuốn sách, viết về anh Bắc Kít, Hà Lội, chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong Bếp Lửa.











Richie @ Quebec with Friends, 29.5.2018
Image may contain: 3 people, people smiling, people standing and child


Image may contain: 5 people, people smiling, people standing, tree and outdoor







                                           What the Last Evening Will Be Like

                                     
You're sitting at a small bay window
in an empty café by the sea.
It's nightfall, and the owner is locking up,
though you're still hunched over the radiator,
which is slowly losing warmth.

Now you're walking down to the shore
to watch the last blues fading on the waves.
You've lived in small houses, tight spaces—
the walls around you kept closing in—
but the sea and the sky were also yours.

No one else is around to drink with you
from the watery fog, shadowy depths.
You're alone with the whirling cosmos.
Goodbye, love, far away, in a warm place.
Night is endless here, silence infinite.

Hirsch has written this Poem in a very simple and elegant way. It has a deep meaning if one try to understand. In the starting of the poem we will find that how a person’s life is. They are with everyone but still they are alone. The poet has described the same thing over here that even though it’s a last evening what a person expects and feels. “The poet describes what peace of mind we want even though it’s a last evening of our life”. This poem can be felt by everyone who will read it deeply.

The poem is about that we expect in our life. He is sitting on the window in an empty cafe near by the sea and the owner wants to close it as its nightfall. Now he is walking down to the shore where he can watch the last blues fading on the waves. He has lived on the small house but when he is seeing the sea and the sky it’s totally ours. He is not feeling the loneliness although no one is there with him even to have a drink. He is happy to spend his last evening of his life in such a nice place. He knows that even no one is there with him but the sea and the sky were always going to be there with him. Seeing the sea he is totally calm and even he has no regret in his life being alone in the last evening. Hirsch has amazingly written this poem giving a lovely message to everyone. I came up with different feelings the more times I read it. The last line of the poem which will touch your heart is... "Goodbye, love, far away, in a warm place.
Night is endless here, silence infinite. ”

Note: Bài thơ này, đã có bản tiếng Mít trên Tin Văn, kiếm không ra, thủng thẳng tính.


Forebodings

These ravens gathering on the beach
in the battered blue light of dusk
are a sudden unkindness

The path heading up to the house
strays off into a vague straggle
like a thought that has gone too far

That sliver peering through the clouds
looks like a bell that can no longer ring
in an abandoned church steeple

I don't mind the mindless fog
but my room at the top of the stairs
tilts like a broken boat at sea
All night I feel the homesick waves
and hear ravens scavenging in my sleep

Edward Hirsch: The Living Fire
Điềm

Bầy quạ túm tụm nơi bãi biển
Trong cái ánh sáng màu xanh vụn nát của buổi hoàng hôn
Chúng mới bất thần tàn nhẫn làm sao!

Lối đi dẫn lên nhà
Lạc vào chốn lạ lẫm mơ hồ
Như 1 ý nghĩ bỏ đi quá xa

Cái mảnh, miểng nhú ra, qua đám mây
Thì giống như 1 cái chuông hết còn chuông
Ở gác chuông 1 nhà thờ bỏ hoang

Tớ đếch thèm để ý đến đám sương mù “vô tri”
Nhưng căn phòng của tớ thì lại ở trên đỉnh của cầu thang
Nó tròng trành như 1 lóng thuyền bể vỡ, ở nơi biển cả

Suốt đêm tớ cảm thấy những con sóng nhớ nhà [đến phát điên lên như tớ]
Và nghe lũ quạ lục lọi trong giấc ngủ của mình

 

BORGES AT EIGH'IY
ENDYMION ON LATMOS


I was sleeping on the summit and my body
Was beautiful, now worn out by years.
High in the Hellenic night, the centaur
Slowed his fourfold race
To spy into my dream. I liked
To sleep in order to dream and for the other
Lustrous dream eluding memory
That purifies us from the burden
Of being what we are on earth.
Diana, goddess who is also the moon,
Saw me sleeping on the mountain
And slowly came down into my arms
Gold and love in the flaming night.
I held her mortal eyelids,
I wanted to see her lovely face
Which my lips of dust profaned.
I tasted the moon's perfume
And her unending voice called my name.
O pure faces seeking each other,
O rivers of love and of night,
O human kiss and the bow's tension.
How long has my wandering lasted?
There are things unmeasured by grapes
Or flower or slender snow.
People run from me, are threatened
By the man loved by the moon.
Years have gone by. One worry
Horrifies my vigil. I wonder
If that uproar of gold in the mountain
Was true or merely a dream.
Why fool myself that a memory
Of yesterday and a dream are the same?
My loneliness drifts along the ordinary
Roads of the earth, but in the ancient night
Of the Numens, T always seek
The indifferent moon, daughter of Zeus.

[Trans. Willis Barnstone]

"Endymion on Latmos” is a mythological poem. And perhaps the one personal poem I have ever written. Because Endymion, like all myths, is not a figment or mere reason. Endyrnion stands for all men. So you say when a man has been loved, then he has been loved by divinity, he has been loved by a goddess, he has been loved by the moon. So I think I have the right to compose this poem, since like all men I have been, at least once or twice, or thrice in my life, Endymion. I have been loved by a goddess. Afterwards I felt unworthy of it, at the same time, grateful. For why should good things last? As Keats had it, "A thing of beauty is a joy forever." The fact of having loved or having been loved, that may be represented by the story of Endymion and the moon, and I have done my best to make this poem alive and not to make you feel that it is based on Lempriere's Classical Dictionary, but upon my personal fate and the personal fate of all men, all over the world, all over time.

"Endymion on Latmos” là 1 bài thơ hoang đường, và có lẽ bài thơ cá nhân độc nhất mà tôi đã từng viết ra. Bởi là vì, Endymion, như tất cả những người đàn ông, thì không phải là 1 điều tưởng tượng, hay lý lẽ cái con mẹ gì. Endymion đứng thế cho tất cả những người đàn ông. Và như thế, khi bạn phán, khi 1 người đàn ông “được iêu", thì hắn ta được yêu bởi 1 thánh nữ - như nhà thơ "Lu Tử Dê" thường phán – hay bình thường, dung tục hơn, hàng ngày hơn, "được yêu bởi 1 mặt trăng".
Và như thế, tôi nghĩ tôi có quyền làm bài thơ này, kể từ khi, như tất cả những người đàn ông, tôi đã được, ít lắm một, hoặc hai, hay ba lần, là Endymion.

Tôi đã từng được 1 thánh nữ yêu – thì BHD, rồi cô bạn, rồi Cô T, mi làm phiền ta quá, kiếp trước mi đúng là con đỉa… - Sau đó tôi cảm thấy mình không xứng đáng, hà, hà, và cùng lúc cảm thấy biết ơn.
Nếu không thế, làm sao có trang Tin Văn?
Như Keats phán: Một cái điều nhan sắc thì là một niềm vui vĩnh kỉu, hoài hoài….

[To... San Diego, with Love]


SOME JOY FOR MORNING


Now the connection with spring has dissolved.
Now that hysteria is blooming.
Says every day I want to fly my kite.
Says what's a grammar when you is no longer you.
My world is hydrogen burning in space and in the fullness of etc.
I have read the news and learned nothing.
I try to understand the whooshing overhead.
But for a little light now.
I didn't realize the tree was weeping.
How was I to know I am not alone.
Wild light.

-Peter Gizzi

NYRB May 24

Vui buổi sáng


Bây giờ mối nối với mùa xuân đã rã ra
Bây giờ cơn kích động đang nở rộ
Bèn phán,
Ngày nào tớ cũng muốn thả một cánh diều
Văn phạm là gì khi mi không còn là mi
Thế giới của tớ là khinh khí cháy bừng trên bầu trời
Và đầy tràn một cái vv… và vv..
Tớ đọc tin và chẳng học được 1 điều gì
Tớ cố hiểu tiếng rú ở trên đầu
Nhưng với 1 tí ánh sáng vào lúc này
Tớ không nhận ra là cây đang nức nở
Làm sao tớ biết tớ đang cô đơn.
Ánh sáng hoang dại.



Farewell, My Life;
I Love You


1

Your letter has touched me with its simple meaningless phrases,
its strokes as clear as stars in this summer sky,
as pointless and serene, my love, my fate.
Beneath the absolute beauty of your surfaces
there is nothing, nothing, Natalia. That is why
I love you. To love you is to learn to skate.

The deepest thing abou t you is your pearls,
those creatures of the sea who rest between
the marble, soft, exquisite, lifeless mountains
-my hermitages, after the soulful girls
whose kisses were quicker than lizards in green
gardens of fig-trees and eternal fountains.

I love the emptiness of your smile, your slow
wit, your foolish chatter. A child, I play
in your suburban street, before carriages
and crowds have smutched it, after the first snow;
you dazzle me, and that is how you'll stay
after many childbearings and miscarriages.
I shall come to you without fail, in autumn, soon.
Do you understand? I shall come at the year's fall.
My name is the only word I need to hear-
without turning to me your face, the vapid moon.
It is miracle enough that you speak at all
or comb at all your magnificent black hair.
I hunger for you to touch me absently;
your tolerant indifference does not hurt
any more. I will hover above you
 
hoping for a sign of life in your perfectly
still face, but happy to feel your beating heart.
Farewell, my life; I love you.

2

Dizzily the pines fly past;
sorrowful, the confused soul
is half determined to turn back
along the already buried track,
but fearfully out of control
she is borne on by the sleigh's
joyful momentum and the hollow
ache in her throat she cannot swallow.

It's silent. Round the only rays,
maddened, helpless in the circle
of its unrest, the blizzard swarms;
her eyes are hot as candleflames;
the sky is heavy with the weight
of whiteness deepening the night;
she thinks the way ahead is home,
the girl is in delirium;
now she is losing consciousness;
but the sleigh sings on cracking ice,
knowing the water to be crossed,
knowing her longing to be lost
in love tonight and sacrificed.

p. 122 Farewell, My Life; I Love You. The title occurs, as a valediction, in a letter from Pushkin to his wife, Natalia.
D.M.T

The Child of Civilization

For some odd reason, the expression "death of a poet" always sounds somewhat more concrete than "life of a poet." Perhaps this is because both "life" and "poet," as words, are almost synonymous in their positive vagueness. Whereas "death"-even as a word-is about as definite as a poet's own production, i.e., a poem, the main feature which is its last line. Whatever a work of art consists of, it runs to the finale which makes for its form and denies resurrection. After the last line of a poem nothing follows except literary criticism. So when we read a poet, we participate in his or his works' death. In the case of Mandelstam, we participate in both.
    A work of art is always meant to outlast its maker. Paraphrasing the philosopher, one could say that writing poetry is an exercise in dying. But apart from pure linguistic necessity, what makes one write is not so much a concern for one’s perishable flesh as the urge to spare certain things of one’s world-of one's personal civilization-one's own non-semantic continuum. Art is not a better, but an alternative existence; it is not an attempt to escape reality but the opposite, an attempt to animate it. It is a spirit seeking flesh, but finding words. In the case of Mandelstam, the words happened to be those of the Russian language.

Joseph Brodsky: Less than one. Selected essays

[còn tiếp]

Note: Bài này, tuyệt lắm. Gấu tậu lại cuốn essays của Brodsky, vì thực sự mà nói, vào lúc này, mới đọc được nó, nhất là những bài về thơ. Một cách nào đó, Brodsky giải thích, tại làm sao Tây Phương – Âu Châu, Mẽo, thí dụ - không đọc được Mandelstam. Có 1 cái gì đó, cực lạnh lẽo trong thơ của ông, và "cực lạnh lẽo" này, là 1 cách để gọi cái gọi là “vô nhân tính”, hoặc quá nữa, như GCC, thường gọi và tất nhiên, bị chửi, Cái Ác Á Châu, trong có Cái Ác Bắc Kít 
Bài về Dante cũng cực tuyệt: "Trong cái bóng của Dante".
Bài “Để hài lòng 1 cái bóng”, vinh danh Auden mà không hách sao. Brodsky, thay vì viết bằng tiếng Anh, nào những dịch thơ, những tiếng tiểu luận... để được như Conrad, hay Nabokov, hay Beckett... thì chỉ để được thân cận với ông anh của mình – thì sư phụ thì cũng ông anh vậy – là Auden.
Ông đang được nhà nước cho đi cải tạo ở nông trường Phạm Văn Cội, Củ Chi, có 1 vị độc giả gửi cho cuốn thơ của Auden, và khi nghỉ mệt, bên đống phân trâu, phân bò, bèn lôi ra đọc, và ngộ ra cõi thơ của chính ông, đâu có khác gì….  Gấu, chính là ở tù Vẹm, ở Củ Chi, ở Nhà Bè mà hiểu ra cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong mấy bản nhạc sến của nó!
Nhưng phải về già, đọc Milosz, khi, trong bài diễn văn Nobel, vinh danh Simone Weil, thì mới thấu đáo nguồn vui, không chỉ nguồn vui mà là luôn cả cõi già, ở nơi xứ người: “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”.

*

Czeslaw Milosz

The Nobel Prize in Literature 1980 was awarded to Czeslaw Milosz "who with uncompromising clear-sightedness voices man's exposed condition in a world of severe conflicts".

Giải Nobel văn chương 1980 được trao cho Czeslaw Milosz “người mà, bằng cái nhìn rạch ròi, cương quyết, không khoan nhượng, gióng lên phận người bày ra đấy, trong một thế giới với những mâu thuẫn gay go, khốc liệt”.
Diễn văn Nobel

Một trong những người được Nobel mà tôi đọc khi còn là 1 đứa con nít đã ảnh hưởng đậm lên tôi, tới cả những quan niệm về thơ ca. Ðó là Selma Lagerlöf. Cuốn sách thần kỳ của bà, Cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng mà tôi thật mê, đã đặt anh cu Nils vào một vai kép. Anh cu Nils bay trên lưng ngỗng nhìn Trái Ðất như từ bên trên, và cùng lúc, trong mọi chi tiết. Cái nhìn kép này có thể là 1 ẩn dụ về thiên hướng của nhà thơ. Tôi tìm thấy 1 ẩn dụ tương tự ở trong một ode La Tinh, của nhà thơ thế kỷ 17, Maciej Sarbiewski, người được cả Âu Châu biết dưới bút hiệu Casimire. Ông dạy thơ ở đại học của tôi. Trong 1 bài ode, ông miêu tả cuộc du lịch của mình - ở trên lưng Pegasus, từ Vilno tới Antwerp, thăm bạn thơ của ông. Như Nils Holgersson, ông ôm bên dưới ông, sông, hồ, rừng, nghĩa là 1 cái bản đồ, vừa xa nhưng lại vừa cụ thể.
Như thế, thì đây là hai bí kíp của nhà thơ: đói nhìn và đói, ham muốn miêu tả cái nhìn thấy. Tuy nhiên, kẻ nào coi thơ ca là “nhìn và miêu tả”, thì phải coi chừng, vì thể nào cũng có lần cãi lộn với... Thầy Kuốc, người vỗ ngực xưng tên là “Hiện Ðại”, “Cái Mới”, và thể nào cũng mụ người, trở thành cù lần vì muôn vàn lý thuyết về 1 ngôn ngữ thi ca đặc dị.

Simone Weil mà tôi mang nợ rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả. Tôi là Ðứa bé của Âu châu, như cái tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa nhận, nhưng đó là 1 thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn sách tự thuật mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một Âu châu khác. Không nghi ngờ chi, có tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một Âu châu thứ nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng đen của Thế Kỷ 20”. Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát. Tôi phải nói về thơ ca và cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của nó, với một số hoàn cảnh kỳ cục, quái dị, về thời gian và nơi chốn…

Czeslaw Milosz

Chính là nhờ đọc đoạn trên đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng đời đẹp nhất, và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của những bản nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.

Cái câu phán hãnh diện của Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở trong những bản nhạc sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!

Trại Tù VC: Hoàn cảnh kỳ cục, quái dị về thời gian và nơi chốn,
ở nơi đó,
nhạc sến được cất lên:
sao không hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua?
và, đâu cần một dạng hoàn hảo nào cho thơ.
Milosz

Image may contain: 1 person
Comments
Tuyet Nguyen Ai có thể đan cử một dạng thơ hoàn hảo, thưa bác .
Manage
Reply4d
Tuyet Nguyen replied2 Replies


Có 1 dạng hoàn hảo cho thơ, vào những thời điểm chết người của nó.
Ý này, là của Brodsky, khi ông cho rằng thơ là 1 dạng ngôn ngữ được tiết kiệm hóa tới mức tối đa, khi nó bị đẩy tới mức tối hậu của nó, như khi ông viết về thơ của Anna Akhmatova, mà Gấu đã áp dụng vào lũ Ngụy đi tù VC, hành lý mang theo chỉ có mấy bản nhạc sến:
At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind.

Hay, như sau đây:

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_tho_di_01.html

Ghi chú:
* Nguyên văn đoạn trích dẫn Brodsky:
.....
VIII
The poem has the quality of an uneasy dream, in which you gain something extremely valuable, only to lose it the very next moment. Within the limitation of one's sleeping time, and perhaps precisely because of that, such dreams are excruciatingly convincing in their details; a poem is also limited, by definition. Both imply compression, except that a poem, being a conscious act, is not a paraphrase or a metaphor for reality but a reality itself.
For all the recent popularity of the subconscious, our dependence on the conscious is still greater. If responsibilities begin in dreams, as Delmore Schwartz once put it, poems are where they ultimately articulated and fulfilled. For while it's silly to suggest a hierarchy among various realities, it can be argued that all reality aspires to the condition of a poem: if only for reasons of economy.
This economy is art's ultimate "raison d'être", and all its history is the history of its means of compression and condensation. In poetry, it is language, itself a highly condensed version of reality. In short, a poem generates rather than reflects. So if a poem addresses a mythological subject, this amounts to a reality scrutinizing its own history, or, if you will, to an effect putting a magnifying glass to its cause and getting blinded by it.
"Orpheus. Eurydice. Hermes" is exactly that, as much as it is the author's self-portrait with that glass in hand, and one learns from this poem a lot more about him than any life of him will offer. What he is looking at is what made him, but he who does the looking is far more palpable, for you can look at something only from outside. That's the difference between a dream and a poem for you. Say, the reality was language's, the economy was his.

[Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó bạn có được một cái chi cực kỳ quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn là một hành vi ý thức, không phải sự phô diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra, những giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những thực tại phức biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao của thực tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là phản ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này có nghĩa là một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn - điều này có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi nó chính là chân dung tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn
thì rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài. Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ.]
NQT

Image may contain: text




Nhân đọc Milosz: Nói về cái giống có dzú, Speaking of a mammal, bằng 1 cú “tâm linh”, - THMN, thì cũng vưỡn nó - Gấu bèn ngộ ra, tại sao “đảo xa”, hay nói rõ hơn, tại sao TTT coi mình như 1 anh chàng Lỗ Bình Sơn, khi viết cho “em” của ông?
Hà, hà!

Mười năm trước, tin tức về vụ Hiroshima kiếm thấy tôi, ở Cracow, và nếu nó không làm tôi quan tâm đúng mức, ấy là vì lúc đó tôi đang điên đầu vì 1 chuyện khác. Tôi đang làm việc với 1 scenario về 1 cuốn phim. Nhân vật chính của cuốn phim này, là 1 thành phố, trước chiến tranh cư dân hơn triệu mạng, nhưng do sử dụng bom thường, và thuốc nổ, bị biến thành 1 sa mạc với những đường phố lụi tàn, kẽm gai, hầm hố giăng bẫy… và đó là thành phố Vác sô vi, Warsaw
Ý nghĩ về cuốn phim tới với tôi từ 1 câu chuyện về 1 người, sau khi mất những liên hệ với văn minh, phải một mình đối diện với thế giới - Lỗ Bình Sơn của Daniel Defoe.
Một khi Nazi tống xuất tất cả những con người sống sót cú nổi dậy 1944, chỉ một số những người riêng lẻ, isolated men, sống cuộc sống của những con thú bị săn đuổi, lẩn trốn trong những điêu tàn, đổ nát ở Warsaw. Với mọi người trong số người này, for every one of those men, lịch sử trước đó, ngưng hiện hữu - bất giác bèn nhớ đến Nguyễn Mộng Giác, và bài viết đồng hồ Mít ngưng chạy vào đúng ngày 30 Tháng Tư 1975.
Mỗi người trong số họ phải giải được 1 vấn đề khó khăn mới mẻ, là tìm nước uống và những mẩu vụn bánh mì trong những hầm hố, phòng ốc… bỏ hoang, sợ bất cứ 1 đốm lửa phản bội sự hiện hữu của mình, và run lẩy bẩy khi nghe tiếng động, tiếng người.

Toan tính của tôi, là trình ra 1 Lỗ Bình Sơn của thời của chúng ta
Bất hạnh của me xừ LBS trước là thấy mình tại một hoang đảo chưa hề được văn minh chiếu cố. Anh chàng LBS của tôi, ngược lại, đứng trước 1 “hoang đảo” được văn minh chiếu cố tận tình, vì những mục đích tự sát, làm thịt chính nó, suicidal aims!

Note: Đừng nghĩ là Gấu bị THMN, khi nhìn đâu cũng thấy VC. Cái cú 30 Tháng Tư 1975, là cú Mít làm thịt Mít, đúng như tình cảnh trên đây.
Lũ Bắc Kít chưa tên nào nhận ra sự thực này cả. Chúng giết Miền Nam là chúng giết chính chúng!

Bài viết này OK, lắm nhẩn nha làm thịt hết cả bài

 



VIẾT MỖI NGÀY / APRIL 20, 2018 : NÉN NHANG MUỘN CHO NGUYỄN KHẢI 

 

“Mọi phê bình phải được đi trước bằng một phê bình tôn giáo”, “Toute critique doit être précédée d’une critique de la religion”. Marx phán [trong Crit. de la Phil. Du Droit de Hegel, Henri Lefebvre trích dẫn trong Duy vật biện chứng. Le Matérialisme dialectique, tr. 53].

 

Câu trên có thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Khải.
Ðọc NK là phải đọc trong cái tinh thần đó, đúng như ý của ông, trong 1 bài viết có tính tự kiểm, (1) không có Ðảng là tôi đã trở thành 1 vị linh mục, khi ông nhớ lại một lần tà tà đi mua thuốc lá tại một cái quầy chắc là gần Nhà Chung Hà Nội, và vị chủ quán đã lầm ông với 1 vị linh mục.


Hai cú đánh khủng khiếp trong đời NK, là đánh vào mật khu Ky Tô ở đất Bắc là Phát Diệm, và những tác phẩm viết về nó, khi ông được Ðảng tin cậy vì đã chọn Ðảng, thay vì Nhà Thờ, những ngày sau 1954, sau khi một nửa đất nước thuộc VC.
Cú thứ nhì là sau 30 Tháng Tư, đánh vào mật khu Cao Ðài, Tây Ninh.
Nên nhớ, lại nên nhớ, gốc gác của NK, là con quan, thuộc dòng thứ, và suốt đời ông bị mặc cảm bị bố bỏ rơi, nên đành chọn Ðảng. Ðó là cái thế 3 ngôi trong đời ông: Bố Bắc Kít, Ðảng VC, và Chúa Ky Tô [theo trật tự đại khái!]


(1)
Tôi cô độc bẩm sinh. Nếu không có cách mạng, chắc tôi là tu sĩ. Một lần tôi đến tìm ông cha tìm hiểu về Vatican 2 để viết sách tôn giáo. Trong lúc chờ, tôi ra mua thuốc lá. Người bán thuốc nhìn tôi hỏi: "Cha mua loại nào? Con biếu cha bao diêm". Chắc mặt tôi giống linh mục.
[NK trả lời phỏng vấn, NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI thực hiện, Tuổi Trẻ online]


Bây giờ chúng ta có thể hình dung ra được, đi tìm cái tôi đã mất của NK, là đi tìm một "cái tôi thần học", qua hình dáng nhập thế của 1 vì linh mục. Hai cú đánh vô tôn giáo của NK, là hai cú thất bại, có thể cuối đời ông ngộ ra điều này. Ông bị ông Bố Bắc Kít bỏ vô Nam, Chúa bỏ vô Nam, và đành chọn Ðảng. Nhưng Ðảng cũng chỉ coi ông là 1 thứ con rơi, con hoang, không thuộc giai cấp bần cố nông [đọc những gì ông cà khịa với đám nhà văn được Ðảng tin cậy, thuộc loại nồng cốt, chúng viết như kít, có đứa nào bằng tôi đâu!]. Ðó là bi kịch của nhà văn NK.
Ông chưa từng viết về con người, mà là về “một thứ con người” nào đó, “một thứ nhân danh con người” nào đó.


NK làm Gấu nhớ tới Graham Greene, nhất là, câu phán nổi tiếng của ông, nhớ đại khái: Suốt đời tôi đi tìm một đấng Thượng Ðế để cho Con Quỉ ở trong tôi uýnh lộn với ông ta!
Ðây cũng là bi kịch của NK, nhưng ở tầm mức thấp hơn, một phần có thể là do mặc cảm bị bỏ rơi của NK mà ra. Greene thanh thản hơn, theo nghĩa, bi kịch của ông là của chung con người.


Văn của NK độc. Và rất giống văn VP. Ðiều này do NMG nhận ra, không phải Gấu. Ông còn cho biết, hai đấng rất quí tài, và độc, của nhau. Ðiều này thì NMG, trong 1 lần đi tour văn học ở trong nước, có tuyên bố.
Nhân vật của NK hình như không có 1 tay nào lâm vào đường tự tìm cái chết như của Greene.
Cũng không phải tự nhiên mà NK viết về PXA, qua nhân vật Quân, trong Thời gian của người.
Tuy nhiên cái chết ngắc ngoải, không làm sao đi được của PXA ở ngoài đời, NK không làm sao tiên tri ra được!


Gấu đã từng có vinh dự được “nhìn thấy” nhà văn Nguyễn Khải, thời gian lui tới nhà xb Văn Học, bộ phận phía Nam, khi nhà này tính tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc bản dịch của NQT trước 1975.

 


Tạ Duy Anh, người dám “bước qua lời nguyền” viết về Nguyễn Khải:


Nguyễn Khải, một người được theo nghiệp đèn sách từ bé, không thể không biết thực tế đó. Bài học về Cải cách ruộng đất, về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm… buộc ông phải nhớ lại lịch sử. Và vì thế, giống như số đông những người được coi là trí thức cùng thời ông ở đất nước này (chỉ tính riêng miền Bắc, vì trí thức miền Nam có một số phận riêng), ông đã tìm thấy lý do vô cùng chính đáng để vờ quên bản thân mình, đó là lý tưởng vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đó không hề xấu và không hề ít tính chất thiêng liêng, nếu người tin theo nó thật lòng. Nó chỉ đáng trách với những kẻ vờ vịt. Mà những kẻ đó phần lớn lại rơi vào thành phần trí thức. Bi kịch mang màu sắc hài kịch của trí thức Việt (tất nhiên không tính bọn giả danh trí thức), từ cổ chí kim, chính là luôn phải vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không phải vậy, nhưng lại cứ phải làm ra rằng mình hiểu nó như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung tận tụy, vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ thán phục, vờ yêu… và những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, làm bao nhiêu cũng không sao ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ không hề vờ, ấy là sự khinh ghét, thì phải nén lại, giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ biết là tàn đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công thì nhiều như ruồi, ngay trong giới trí thức); phải luôn tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu, quên đi được thì càng phúc. Còn sống là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa đời, nếu còn lòng tự trọng, còn thấy hổ thẹn thì viết nó ra để thanh minh và sám hối.
TDA


Ðọc như thế là chưa nhìn ra thế 3 ngôi [Bố Bắc Kít, Ðảng VC, Chúa Ky Tô], ở Nguyễn Khải, và, “có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định”, như Steiner viết, trong UNDER EASTERN EYES:


Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.


Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.


Với đám cầm bút Bắc Kít, vấn nạn nghiêm trọng hơn nhiều.
Hơn cả “Dưới cái nhìn Ðông Phương” của Steiner!
Ðằng sau tất cả những cay đắng nhục nhã như thế, là giấc mộng thống nhất đất nước.
Giấc mơ đẹp nhất của giống Mít.



Bình luận

Ngô Nhật Đăng: Đi "thực tế" để viết tiểu thuyết Xung đột đánh Công giáo thật ác, nhưng ông Khải ghi trong nhật ký : "Nếu không có tôn giáo con người sẽ sống không khác gì súc vật". Ông Khải là một khối mâu thuẫn cực kỳ, luôn có 2 con người cãi nhau, đánh nhau trong thân xác ông ấy. Em sống gần ông khá nhiều. Bố em đã có lần nói : "Viết về văn, về đời của NK cũng là điều đáng nên làm". Vương Trí Nhàn thì nói : "XS hiểu NK đến chân tơ, kẽ tóc", nhưng không hiểu sao về sau bố em bỏ ý định viết về ông Khải ngoài 1 bài có vài chục trang.

New, Hard Cover

Image may contain: 1 person, closeup


Image may contain: 2 people, closeup


PR: Do you think the destruction of the world is coming soon?
MK: That depends on what you mean by the word "soon."
PR: Tomorrow or the day after.
MK: The feeling that the world is rushing to ruin is an ancient one.
PR: So then we have nothing to worry about.
MK: On the contrary. If a fear has been present in the human mind for ages, there must be something to it.

Roth: Ông có nghĩ thế giới ngỏm củ tỏi sẽ tới rất liền tù tì?
Kundera: Cái đó còn tùy thuộc ở cái từ “liền tù tì”
Ngày mai hoặc ngày kế tiếp ngày mai
Cái cảm nghĩ “thế giới vội vã điêu tàn” thì cũ xì
Thế thì lo làm khỉ gì
Ngược lại. Nếu cái sự sợ hãi đó có trong đầu con người từ bao đời rồi, thì chắc chắn nó phải có 1 điều gì đó liên quan tới nó!


Ui chao, đúng như thế. Điêu tàn ư, đâu chỉ điêu tàn, là thế đó!
Nietzsche chẳng đã từng phán, ta đi đến tận cùng con đường, còn cả lũ Mít, chúng đi chưa được nửa con đường, là đã dừng lại!

http://www.tanvien.net/intervi…/Vila_Matas_Paris_Review.html

Enrique Vila-Matas on ‘Never Any End to Paris’

Tay này, GCC cực mê. Ông giữ 1 mục trên Le Magazine...

See More
Image may contain: 1 person
LikeShow more reactions
Comment
Comments
Son Lyngoc Hầu hết bài anh đăng lại em đã đọc hết. Khổ nhất là đọc bài này phải lội qua bài kia mà thời gian như co lại khi đọc anh. Em rất tôn quý anh, dầu rằng có người không thích anh.
Manage
LikeShow more reactions
Reply12h
Quoc Tru Nguyen Tks. Toi co nhieu nguoi khong thich, Chui hoai, dau khen ai, ma mong nguoi thich


Ui chao, lại nhớ đến Cụ C. Cụ nói, mày với thằng Tâm y hệt nhau, cứ thấy người giầu là tởm rồi!
TTT cũng chẳng được nhiều người yêu thích. Mấy đấng bạn quí, ngay đấng Hoàng Tử Của Lòng Ta, cái gì gì "Sweet Prince" là Mai Thảo, mà còn phịa ra giai thoại bất hủ, lần đầu gặp, lầm TTT là tên thợ sắp chữ ở tòa soạn báo Dân Chủ của Vũ Ngọc Các.
Hoàng Tử còn nhớ được cả 1 chi tiết thần sầu, thằng khốn chìa tay hỏi xin chàng 1 điếu thuốc lá!

Tuyệt!

Không có chi tiết đó, sợ người đời sau này, nghi chàng phịa!

Nhưng cuộc đời của ông anh và thằng em khác hẳn nhau. Ông anh thẳng đi 1 đường, sống cuộc đời thanh bạch, trong sáng… cái gì gì “tiết tháo”, như ông Chánh Tổng An Nam ở Paris khen tặng, thằng em lặn lội đủ kiếp giang hồ gió tanh mưa máu, chưa hết, còn “kinh qua”, nào địa ngục đen, địa ngục đỏ, bạn quí thì thằng nào thằng đó, đều thủ sẵn 1 bài ai điếu “tên ghiền”, hà, hà!
Nhưng, Gấu hạnh phúc hơn ông anh nhiều, rất nhiều. Thân hữu, như O, như K sợ rành Gấu hơn cả Gấu.
Chân tu của vị nào cũng tới chỉ cả. Nhìn ra ngay nỗi bất hạnh của thằng Cu Gấu. Thí dụ, K chúc SN năm nào năm nào, đừng để ý đến thằng chó nào hết, “lõ”, không mà “tẹt” cũng không, chỉ làm thơ thôi!


Vị thân hũu O, “chúc”, mà chẳng “khiếp sao:
Mi “lãng mạn” quá!
Ta cầu sống để nhìn thấy “phép lạ”!
Thánh nữ của Gấu, mà không “đông, vui” hơn của TTT ư?
Ông chỉ có 1, mà còn bị khổ lên khổ xuống.
Bị ngay thánh nữ của mình tung hê thư riêng lên net, không đau sao?
Chưa hết. Còn bị 1 đấng bạn quí bê về blog, hê tướng lên, tưởng sao, cũng bồ nhí, bồ nhiếc!


Lạ, là làm sao mà vị thân hữu SCN này lại phán, "dầu rằng có người không thích anh"?
Tại làm sao mà lại “dầu rằng”?
Không lẽ lại muốn, những tên “không thích Gấu”, như... như...  cũng “thít” Gấu ư?
Chán bạn quá!

...  thời gian như co lại khi đọc anh.
Ui chao, phán như thế mới cực quí, cực hiếm!
Tks. Many tks
NQT


Thánh nữ đông vui
Quả thế.
Lần gặp lại bạn C, nghe bạn kể, ông T khổ vì vụ “đảo xa”… Gấu nghe thương ông anh quá xá quà xa, hà, hà!
Gấu Cái thì ngược lại, kệ mẹ Gấu, tuy cũng đau, hẳn thế, nhất là cái vụ Gấu tha Tào, gặp em nào cũng chẳng dám đụng vô, chỉ đến khi về già, mới hiểu ra, và tha thứ cho thằng chồng khốn kiếp.

Mới mò ra 1 tiệm sách, phim cũ. Vớ được cuốn này, quá tuyệt. Giở ra đọc loáng thoáng, trên subway, trên đường trở về nhà mới, vớ đúng 1 bài thần sầu – hình như đã đọc rồi, của xừ lủy, và đã từng chôm, để viết về Nếu Đi Hết Biển, của Trần Văn Thuỷ, ngủ với kẻ thù: Bạn qua Cali, ổ Ngụy, được lũ trở cờ tiếp rước, không đi đến đâu đâu. Phải được em Ngụy nào đó rước bạn vô nhà, thì cuộc giao lưu hòa giải giữa hai miền mới hoàn tất.
Gấu đã từng trải qua kinh nghiệm này rồi, hà, hà!
Bài tuyệt lắm, viết về sư phụ của Gấu: Graham Greene. Post bản tiếng Anh, rồi dịch sau!

Sleeping with the Enemy 

One of the most revealing moments in Norman Sherry's massive, ongoing biography of Graham Greene (with the second volume just published, he has now devoted 1,352 pages to Greene's first fifty-one years) comes at the very beginning, when Greene charges Sherry with compiling a list of his, the novelist's, enemies. Every man has enemies, Sherry replies. By the time the night is over, Greene has composed, with the help of his brother Hugh, his own extensive list of his lifetime's opponents and handed it to his biographer.
That might be said to be the paradoxical trademark of Graham Greene: that he rarely gave himself the benefit of his unending doubt, and that he invariably gave the men he was supposed to hate his best lines. He saw the folly, and the frailty, of everyone around him. Thus adulterers come to feel compassion for the husbands they're cuckolding; victims see the human side of their criminal tormentors; Fowler in The Quiet American comes to mourn the death of his rival in love and opponent in politics (Schadenfreude in reverse, you could say). Even when he was writing wartime propaganda for the British government, Greene described an Englishman shooting a German lieutenant-and then finding in the dead man's pocket a picture of his baby.
That issue is one of the hardest dilemmas in every serious life, and one that faces us daily in the office, the bedroom, even the income tax form we sign: what to do with the person who opposes us? We know, more or less, how to deal with our friends, but what to do with those who tempt us to awaken the devil in ourselves (a far more pernicious temptation than any external devil affords)? Many religions counsel us to forgive those who trespass against us and to extend charity even to the Jeffrey Dahmers of the world; Buddhists actually argue that our enemies are our best friends because they challenge us to transcend ourselves. Yet still the debate between mercy and justice is as unending as the one between duty and love.
If all Greene's novels are essays on fallenness (and self-accusations), they are also, by the same token, arguments against the whole notion of enmity, or reminders, at least, that our enemies are no less vulnerable, and right in their own minds, than ourselves. With his famous taste for
[còn tiếp]

Image may contain: text


Thanh Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ.

Khi viết những dòng trên, MT đinh ninh VC đã làm thịt TTT!
Y chang những dòng VP viết về nhóm Sáng Tạo trong VHTQ

Còn đây là ai điếu của TTT, cho bạn mình:

Mai Thảo gửi tới chúng tôi Đêm Giã Từ Hànội.
Tôi nhận được một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người gửi, trong đựng xấp bản thảo đánh máy. Bút hiệu Mai Thảo hoàn toàn xa lạ với tôi.
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc:

Phượng nhìn xuống vực thẳm: Hànội ở dưới ấy. 

Câu trích đề của truyện đột ngột khác thường. Nó không trích ra từ một tác phẩm khác đã có. Nó như tự trên trời rớt xuống, hay nói như Mai Thảo là câu “bắt được của trời”. Cái chiều sâu của nó làm chóng mặt.
Tưởng nên nhắc nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi biết, cho đến lúc bấy giờ chưa thấy được dùng trong văn chương Việt Nam. Phải đợi vài năm sau, khi Phạm Công Thiện xuất hiện với ảnh hưởng của Nietzsche, văn từ “hố thẳm” mới tràn lan và trở thành sáo ngữ.
Đọc hết truyện thì rõ câu trích đề là một câu ở trong truyện. Phượng là tên nhân vật.
* 

Đây là một truyện không cốt truyện.
Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng nói bắt lắng nghe – theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ ngỏ trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong giấc kín bưng triền miên của chúng - , ở sự dồn đẩy khôn ngưôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành những vận tiết mê mải tới chốn nhòa tắt mọi tiếng.
Gọi Đêm Giã Từ Hànội  là truyện hay tùy bút đều được. Cứ theo ký ức cùng cảm thức của riêng tôi, trong và sau khi đọc, thì đó là một bài thơ. Thơ là thứ tiếng nói tàng ẩn trong quên lãng bất chợt vẳng dội, đòi được nghe lại (nghĩa là đọc lại, lập lại). Người ta nghĩ đến một truyện ngắn, một bài tùy bút, một quyển tiểu thuyết đã đọc, nhưng người ta nhớ đồng thời nghe và gặp lại một câu thơ, một bài thơ.

Đêm Giã Từ Hà Nội là một bài thơ thỉnh thoảng vẫn vẳng dội trong tôi mà tôi không thể nhớ toàn vẹn - tỷ như lúc này đang viết đây tôi không cách nào tìm đọc bài thơ ấy trừ cách tưởng tượng dựa vào ý ức và cảm thức còn sót đọng, trừ câu trích đề.
*

Nhớ trong buổi họp kiểm bài vở trước khi chuyển xuống nhà in, tôi đã không thể ngăn nổi mình yêu cầu các anh Hiệp, Sỹ, Tế nghe tôi đọc Đêm Giã Từ Hànội đăng trọn trong một kỳ báo, không cần lời giới thiệu. Và tôi đọc say sưa, hùng hồn liên hồi. Và các anh chịu khó ngồi nghe trên căn gác lửng tối chật của tòa báo. Anh Tế kết thúc buổi họp nói đùa "Anh làm chúng tôi mất cái thú tự mình khám phá".

Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của Pushkin."]

Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ. [Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn, tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách ra khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc].

*
Đăng bài Anh, tôi viết lời nhắn mời anh đến chơi tòa soạn. Mai Thảo đến.
Chúng tôi thân thiết nhau ngay từ buổi gặp gỡ ấy.

Good Night, Sweet Prince!
Hamlet – Shakespeare.
Chúc Người An Giấc, Công Tử của Lòng Ta.

Thanh Tâm Tuyền
2-98

[Lần đầu đăng trên Tạp Chí Thơ, số Mùa Xuân 1998]

























Trang NQT

art2all.net

Istanbul


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây