Saturday
September 18, 2004
The Guardian
You cannot
be sure about anything on a battlefield. "When we are not sure, we are
alive."
Bạn không thể
chắc chắn về bất cứ điều gì về một trận chiến. “Khi chúng ta không chắc
chắn,
chúng ta vẫn còn sống”.
Tháng tới là
kỷ niệm một trăm năm Graham Greene [1904-1991]. Trong một bài essay
trên tờ
Guardian, Zadie Smith cho rằng, ông là một tiểu thuyết gia rất ư là rắc
rối, nếu
nói về mặt đạo hạnh. Và cuốn tiểu thuyết Người
Mỹ Trầm Lặng một
chuyện tình lấy
bối cảnh là những hỗn loạn tại Việt Nam vào thập niên 1950 cho thấy,
ông còn là
một trong những ký giả loại gộc.
Nổ và chết tại
Catinat, 1952. Greene và nguyên mẫu, Phượng [ngồi tít bên phải] ở ngoài
đời.
Greene đi tuần tra cùng lính Pháp tại Phát Diệm
Ruth
Franklin, trong bài đã dẫn, trên tờ Người Nữu Ước, còn nhắc tới một ẩn
dụ của
Borges, về một đế quốc khổng lồ, mà ở đó, nghệ thuật đồ họa đã toàn
thiện đến nỗi,
bản đồ nào tỉ lệ xích cũng là 1/1. Một nhà văn Việt Nam [Lê Trọng
Phương, trên
tờ Gió Đông ngày nào] đã mô phỏng Borges, và tưởng tượng ra cái đế quốc
khổng lồ
của người Việt tị nạn, trên khắp năm châu bốn biển, và cùng với họ, là
tấm bản
đồ Việt Nam rách nát, tỉ lệ xích 1/1 mà họ đã mang theo, và đời này
tiếp đời
khác, cố vá víu lại, cố làm cho nó được như xưa.
1952: Bom
gài trên xe đạp, nổ tại Catinat, mở ra Người Mỹ Trầm Lặng của Greene.
1965: Nạn
nhân là Gấu, không ngồi mà nằm, trên sàn nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, bên bờ
sông,
cách chỗ ở trong hình một chút. Không phải bom mà là mìn claymore, cũng
gài
trên xe đạp.
Bị thương nặng,
may thoát chết, viết Những
Ngày Ở Sài Gòn
trong những ngày nằm nhà thương
Grall:
Tôi chờ đợi
giờ phút đứng ở cổng nhà thương Grall, ngó ra ngoài đời, ngó vô Sài Gòn
và lúc
đó chiến tranh đã hết.
Tưởng Niệm
Greene [1904-1991]
1.
“Tôi phải
kiếm
cho ra một tôn giáo”, Graham Greene nói, “để đo lường cái phần quỉ ma ở
nơi
tôi”.
Một thách
đố
như vậy đã đặt Greene vào cái thế của một “tiểu thuyết gia Ky tô giáo”
– ông rất
ghét định nghĩa này - đúng như viễn tượng về ông: trước khi chọn Chúa
Ky Tô,
như là một thế giá cao cả nhất, thì ông, trước hết, còn là một con
người bị ám ảnh
bới chính cái nấc thang thế giá đó. Không
nhà văn nào của thế kỷ 20 này có thể so với
ông, người muốn đi tới
cùng trong cõi nhân sinh nhỏ xíu - ấy là nói về chuyện so sánh giữa con
người với
con người, và có thể, với Chúa nữa. Trong khi những tiểu thuyết gia
thuộc loại
tầm tầm mày mò, dị mọ những đòn phép nhằm phân biệt thằng cha này tốt,
thằng
cha kia xấu, Greene là bậc thầy của sự tách biệt đa tầng, dị dạng, khi
xoáy vào
những đường ranh thật là mỏng manh phân chia, giữa thế nào là quỉ ma
thế nào là
độc địa, thế nào là bất tương thân, thế nào là ngu si đần độn chứa đầy
ác tâm.
Những con người của ông loay hoay xoay sở bên trong cái khuôn mẫu đạo
đức rất ư
là chi ly. Sa sẩy, là từng bước chân, là từng lỡ bộ. Sai một ly đi một
dặm.
Thành thử vô phương, làm người tốt [to be good] ở nơi Greene. Nhưng có
hàng triệu
triệu cách, để đỡ tồi tệ hơn, ít hoặc nhiều.
Khía cạnh hiện
thực mang tính đạo hạnh chi ly tỉ mỉ đó, ở Greene,
thường không được người đọc để ý, thay vì
vậy, là những mầu sắc
“baroque” – trò truy hoan thẳng thừng, thú du lịch, cái lối viết nhà
báo – những
dấu ấn khiến ông được coi là đồng hội đồng thuyền với những tay phiêu
lưu như
Erskine Childers, Len Deighton, Alec Waugh, John Le Carré.
Chắc chắn rồi,
Greene phải được coi như là một người viết quan tâm tới dòng văn chương
điệp
viên, tình báo – chú thiếu niên Greene
ngày nào đã từng thử làm người hùng máu lạnh, qua trò chơi chết người
Russian
roulette. Tuy nhiên, người đọc đừng quên rằng, trên giá sách của ông,
còn có sự
ngự trị của, thí dụ như, Henry James. Hơn thế nữa, Greene quả thực là
một điệp
viên nhị trùng, theo đúng nghĩa đen của từ này.
“Thượng Đế ở
trong những chi tiết”, Ruth Franklin, trên báo Người Nữu Ước số đề ngày
4 tháng
Mười - điểm cuốn thứ ba và nhân đó toàn bộ ba cuốn, tiểu sử Greene, của
Sherry
- và cùng lúc tưởng niệm một trăm năm ngày sinh của Greene, cũng đã
nhắc tới một
chủ nghĩa hiện thực mang chất Ky Tô Giáo của Greene, và cho rằng, khổ
tâm số một
của Greene - như là một tay Ky Tô - đó là: ông nghi ngờ khả năng yêu
Chúa của
chính ông [he doubted his own ability to love God], và nếu thiếu nó, là
không
thể làm cú nhẩy chót vào lòng Ngài, để dâng hết mình cho Ngài, rằng con
xin đầu
hàng! Cú đầu hàng vô điều kiện cần thiết để biến một tay tổ sư tội lỗi
là
Greene, trở thành ông thánh Greene!
Nhưng
chính sự thất bại của một ông tổ sư tội
lỗi - không thể nào thành Thánh được - đã biến ông thành một tiểu
thuyết gia bậc
thầy. Hơn thế nữa, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, mỗi lần ông đưa cái
mũi vào một
mảnh đất khốn khổ khốn nạn, là y như rằng, ở đó có vấn đề, và vẫn còn
có vấn đề.
Thí dụ như trong Người Mỹ Trầm Lặng, ông đã ngửi ra được rằng, hoà bình
không
có nghĩa là thanh bình, ở một cõi nhân gian nhỏ xíu của những tên mít
đặc, mít
ướt, mít mật, mít cà chớn… đó!
Đây cũng
là
điều một nhà phê bình người Pháp, Simon Leys, nhận ra, và gọi là “kỹ thuật thư giãn kép” của Greene, như NQT
tôi đã viết, trong bài Tưởng Niệm Mai Thảo, nhân đó, bèn tản mạn về
phim Người
Mỹ Trầm Lặng, Mê Thảo Thời Vang Bóng [làm theo cuốn Chùa Đàn của Nguyễn
Tuân],
và Những Ngày Ở Sài Gòn:
“Cách kết
thúc truyện của Greene, như trong Brighton Rock, theo Leys, là để cho
độc giả
thở phào, không phải một, mà tới hai lần. Ông dùng thuật ngữ ‘fins à
double
détente’, (tạm dịch: kết cục theo kiểu thư giãn kép), theo đó, kết thúc
thực sự
không nằm ở câu chót của cuốn sách, mà là ở đâu đó, vài giây sau, ở
trong sự tưởng
tượng của người đọc. Kỹ thuật này dành cho những cuốn tiểu thuyết -
giống như một
trái bom cực kỳ độc địa, một khi đã nổ ra, hậu quả thật là khủng khiếp
nhưng
không tức thời, mà là sau đó. Một thứ bom nổ chậm. Áp dụng ‘kỹ thuật’
này vào
thời điểm 1975, có thể nói hậu quả tức thời là miền nam, hậu quả tiếp
theo, là
cả nước đều khốn khổ khốn nạn vì nó.”
Ruth
Franklin, trong bài đã dẫn, trên tờ Người Nữu Ước, còn nhắc tới một ẩn
dụ của
Borges, về một đế quốc khổng lồ, mà ở đó, nghệ thuật đồ họa đã toàn
thiện đến nỗi,
bản đồ nào tỉ lệ xích cũng là 1/1. Một nhà văn Việt Nam [Lê Trọng
Phương, trên
tờ Gió Đông ngày nào] đã mô phỏng Borges, và tưởng tượng ra cái đế quốc
khổng lồ
của người Việt tị nạn, trên khắp năm châu bốn biển, và cùng với họ, là
tấm bản
đồ Việt Nam rách nát, tỉ lệ xích 1/1 mà họ đã mang theo, và đời này
tiếp đời
khác, cố vá víu lại, cố làm cho nó được như xưa.
Ruth dùng
ẩn
dụ trên, để nói về bộ tiểu sử khổng lồ tỉ lệ xích 1/1 về cuộc đời của
Greene mà
tác giả là Norman Sherry. Bộ tiểu sử khổng lồ này, cuốn thứ ba, “The
Life of
Graham Greene” vừa mới ra lò, [nhà xb Viking, $ 39.95US], cách cuốn đầu
đúng mười
lăm năm, và cách thời điểm ông này được Greene cho phép viết tiểu sử về
ông ta,
ba mươi năm!
Một
trong những khó khăn mà Sherry gặp phải,
là số lượng khổng lồ, đa dạng, những tác phẩm của Greene. Ông viết đủ
thứ, từ
điệp viên tới chuyện giải buồn, mua vui cũng được một vài trống canh
[chữ của
Greene, khi viết về Người Mỹ Trầm Lặng], tới bộ ba tiểu thuyết nổi
tiếng “Tam
Khúc Ky Tô” [Catholic trilogy], vào lúc ở nửa cuộc đời, cho tới những
cuốn sau
này, thật khó xếp loại, như Du Lịch Với Bà Thím, hay Ngài Quixote. Chưa
kể,
truyện ngắn, kịch, kịch bản phim, hồi ký, sách du lịch, cộng thêm biết
bao những
thư từ trao đổi, đúng là cả một khối lớn lao mà chỉ ông được đặc quyền
đụng tới:
Chỉ vì một cái dấu phẩy mơ hồ ở trong tờ di chúc viết nơi giường của kẻ
đang hấp
hối là Greene, mà tất cả những nhà học giả khác không được quyền trích
dẫn bất
cứ những gì chưa được in ra, cho tới khi Sherry hoàn tất bộ tiểu sử
khổng lồ của
ông ta về Greene!
Quả là một tổ
sư, chỉ riêng về mặt "mèo chuột".
Cuốn
"Du lịch với Bà Dì", là để tặng HHK,"người đã giúp tôi nhiều hơn
là tôi có thể nói ra". HHK có nghĩa là "con mèo sung sướng khỏe khoắn"
[happy, healthy kitten], đây là nickname ông gọi Yvonne Cloetta, người
tình 32
năm trời ròng rã của ông. Bà này cũng vừa cho ra lò một cuốn sách viết
về
Greene, nhân dịp một trăm năm này: "Đi tìm nụ hôn đầu ôm mái tóc lang
thang: Cuộc đời của tôi với Graham Greene" [In search of a beginning:
My
life with G. Greene, nguyên bản tiếng Tây, Euan Cameron dịch sang tiếng
Anh,
nhà xb Bloomsbury].
Đây là một
cuốn sách rất ư là riêng tư, gần như một lời thú tội, mà chỉ có một
tình yêu lớn
dành cho Greene, mới có thể viết ra. Tác giả mong muốn, trình bầy "chân
dung người đàn ông mà tôi biết." "Tôi là người... muốn nói hết mọi
chuyện...
sự thực. Sự cần thiết tạo dựng lại sự thực, người đàn ông, nhà văn".
Theo
người
điểm trên tờ TLS, [số đề ngày 24 tháng Chín, 2004], thoạt đọc, khó ưa,
Viết
theo kiểu hỏi-trả lời. Dịch không được mượt mà cho lắm. Cũng không phải
một cuốn
sách văn học. Nhưng càng đọc, cái tình yêu lớn của người đàn bà đã từng
yêu, sự
tò mò của bà đối với bất cứ khía cạnh nào của người bà yêu... dần dần
cuốn hút
bạn. Tuyệt hơn nữa, "kín đáo" mới chính là cái từ mà tác giả cố đạt
cho được, khi viết cuốn sách rất ư là riêng tư này. Cloetta, mất năm
2001, mười
năm sau Greene. Bà là vợ của một thương gia Thuỵ Sĩ. Greene gặp bà tại
Douala,
Cameroon, nơi ông chồng làm việc, vào năm 1959, sau khi vừa trải qua
sáu tuần lễ
tại xứ cùi, tại Congo thuộc Bỉ.
Vừa gặp
là
chàng dính liền. Năn nỉ em tới phòng khách
sạn, để nói lời từ giã. Ba tháng sau, gặp lại,
chàng hỏi: "Em
có yêu anh không?, Est-ce que tu m'aimes?", nàng trả lời, "Em không
biết. Còn quá sớm đối với em, để mà trả lời [để mà xác định tình cảm
của
mình]."
Thoạt đầu, Greene tính hỏi, em có thích anh
không. Sự tình xẩy ra đúng như vậy: Nàng thích, rồi mới yêu chàng, liền
sau đó.
Bà này không đúng týp của chàng. Vậy mà lâu. Thế mới lạ. Greene đã trải
qua nhiều
cuộc tình. Cuộc tình nào cũng đầy sóng gió, theo kiểu The End of the
Affair, và
đều kết thúc bằng một cuốn sách. Có thể nói, trong đời Greene, mọi cuộc
gặp gỡ,
từ tình cờ nhất, cho tới da diết nhất, đều trở thành những căn nguyên
cội nguồn,
những chất liệu để ông biến thành giả tưởng.
Thế còn ông chồng bị cắm sừng, thì sao?
Jacques, ông chồng, biết, nhưng vờ như không, hay nói theo Lucretta
Stewart,
người điểm cuốn hồi ký của nàng về chàng trên TLS, họ sắp xếp sao cho
êm ả, “cẩm
như Tây” [Their arrangement seems peculiarly French]. Vào lúc mới đầu,
do công
việc, ông chồng phải đi Phi Châu mười tháng, bà vợ ở Pháp với mấy cô
con gái.
Thật là tiện cho chàng mò tới thường xuyên. Nàng viết [trong hồi ký]:
“Tôi sắp
xếp sao cho chàng không gặp mấy đứa nhỏ, để chàng khỏi nghĩ ngợi, áy
náy, có hại
cho việc sáng tác”. Nhưng liền sau khi ly dị chồng, nàng bèn dâng hết
quãng đời
còn lại cho chàng – nghĩa là cho văn chương! – Nàng giúp chàng dịch tác
phẩm
sang tiếng Tây. Để đáp lại, chàng lo bảo bọc, thờ phượng nàng, mà chàng
gọi là
“con mèo xinh xắn khỏe mạnh của tôi” [HHK: happy healthy kitten]. Sở dĩ
có cuốn
hồi ký, như trong lời tựa của nàng, là do cả một trận bão những thù
nghịch nhắm
vào chàng, trong đó có cả những người bạn của chàng, vào mùa xuân 1994,
khiến
nàng không còn có thể im lặng, và phải viết ra, nhưng vẫn theo đúng lập
trường
của cả hai, là, “không hề vén áo cho người xem lưng” [absolute
discretion].
Greene chọn Norman Sherry, giáo sư văn chương
đại học Trinity San Antonio, Texas, là người viết tiểu sử, là do mê ông
này,
khi viết về Joseph Conrad [Conrad’s Western World]. Nhất là sự kiện
Norman
Sherry, để viết về Conrad, đã thực hiện những chuyến đi thực tế tới
vùng Viễn
Đông và đặc biệt là những khám phá của Norman Sherry ở Tây Phi về Trái
Tim Của
Bóng Đen, của Conrad. Chính Greene đã tìm cách tiếp cận Sherry, qua một
nhà
báo, William Igoe. Ông này nói với Sherry, trong một bữa cùng ăn trưa,
“Có một
tay, đúng là một huyền thoại của chính thời đại của anh ta, và tay này
rất mê
tác phẩm của bạn”. Sau đó, hai người gặp gỡ, vào lúc đó, như Sherry sau
này mới
biết, Greene đang bị gia đình và bạn bè đòi hỏi, phải kiếm cho ra một
tay viết
tiểu sử về mình. Và trong khi ông đang tỏ ra thích thú bởi nụ cười rất
ư là đặc
biệt, và cặp mắt xanh của Greene, bất thình lình, ông này nói: “Bạn khó
mà viết
về tôi, như là bạn viết về Conrad. Bạn khó có thể viết về tôi, bởi vì
bạn không
thể tới Sài Gòn." [Bối cảnh của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là Sài Gòn thập
niên 1950. Câu nói của Greene là vào năm 1974, tình hình chiến sự và
thái độ của
nhà cầm quyền miền nam không cho phép Sherry tới đây, như đã từng tới
Phi Châu,
khi viết về Conrad.]
Khó khăn thứ
nhì, Greene đòi hỏi, Sherry, người viết tiểu sử của mình, phải "theo
từng
bước chân của tôi". Thế là Sherry phải đi thực tế tới những nơi từng
làm
bà đỡ cho những tác phẩm lớn của Greene, như Mexico, Liberia, Cuba,
Việt Nam,
và cả lố những vùng chẳng hề thân thiện với đám mũi lõ. Trong khi cố
gắng hoàn
thành lời hứa, đi theo những vết chân của tôi, ông đã tới những vùng
như Haiti,
Argentina, Paraguay, Japan, Malaya, Sierra Leone, và nhiều nơi khác
nữa, và
trong những chuyến đi thực tế như vậy, đã bị mù sáu tháng, bị sốt rét
tại
Africa, và hoại thư, khiến ông mất một khúc ruột tại Panama.
Sherry gần như xục xạo tới từng chi tiết trong
đời Greene, và ông khám phá ra, tất cả những nhân vật của Greene đều có
nguyên
mẫu ở ngoài đời, và nguyên mẫu số một, còn ai trồng khoai xứ này nữa,
nếu không
phải là chính chàng!
Điều này gây trở ngại lớn. Greene sống, đến
mút chỉ đời mình, và có rất nhiều mối tình, tình nào cũng lâm ly bi
đát. Có nhiều
mối tình cùng xẩy ra một lúc, sóng đôi sóng ba mí nhau. Ông làm điệp
viên cho
MI6, phản gián Anh. Ông hít tô phe. Đi xóm hằng bữa! Càng "đi" nhiều
càng viết khỏe. Làm sao nhuần nhuyễn tất cả, mà vẫn tôn trọng sự kín
đáo, vẫn bảo
vệ đời tư của tất cả, và nhất là của Greene? Bản thân Greene cũng chơi
tới hai
cuốn nhật ký, viết song song, hai ấn bản khác nhau, để giấu giếm những
lần đi
chơi điếm, hoặc tới động hút. Có lần ông viết cho Catherine Walston,
một trong
những cô bồ lâu ngày của mình: "Nếu có ai cố tìm cách viết tiểu sử của
tôi, người đó sẽ thấy rắc rối, phức tạp làm sao, và rất dễ lầm đường
lạc lối
như thế nào."
Nhưng như trên đã viết, cái chiều sâu thăm thẳm
của tác phẩm của Greene chỉ được vén mở, nếu chúng ta nhìn lại giá sách
của
ông, và nhận ra rằng, người đi trước, “thần tượng” của ông, chính là
Henry
James, hay nói theo Zadie Smith, trong tiểu thuyết của Greene cũng như
của
James, tất cả những thăng trầm của một kiếp người, “những thói đời”,
đều được
đem lên bàn mổ. Cá tính nhân vật, mà người đọc cảm thấy như là nói về
chính
mình, và hãnh diện về chúng [“Tốt lành như tôi đây, còn nó, bạn thấy
đấy, chỉ
là một tên đểu giả”], đột nhiên bị lột trần, và chẳng là cái đếch gì cả
khi bị
đẩy tới cực điểm: Chiến Tranh, Chết Chóc, Mất Mát, Đổ Vỡ, Tình Yêu….
Đúng như
Greene nhận xét: Bản chất con người không đen và trắng, mà là đen xám,
hay đúng
hơn, xám xịt.[Human nature is not black and white but black and grey].
Chính trong
cái bầu khí xám xịt đó, là Sài Gòn thập niên 1950, mà cuộc tình tay ba,
trong
Người Mỹ Trầm Lặng, với ba đỉnh của nó, được mở ra: tính dễ bị mua
chuộc, mà
cũng rất ư là thành thực, không mầu mè, của một cô Phượng [với giấc mơ
lấy chồng
Mẽo, làm dâu Mẽo, hay tệ hại hơn, làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… như những
cô Phượng
hiện nay ở Việt Nam…], tính dãn ra, chẳng còn muốn vướng vào những vấn
đề của một
xứ xở thuộc địa như Việt Nam, của anh mũi lõ già nghiền thuốc phiện, là
Fowler,
và sự ngây thơ của một anh Mẽo trẻ tuổi đẹp trai, thiện nguyện viên,
hay cố vấn
Pyle! Đúng là một tam giác lý tưởng để dựng nên một cuốn tiểu thuyết lý
tưởng!
Nó làm cho Zadie Smith [trên tờ Guardian] nhớ tới trò chơi “jack
straw”, trong
đó mỗi người chơi, tới lượt mình, rút một cọng rơm mà không đượcđụng
những cọng
rơm còn lại. Tài nghệ của tiểu thuyết gia ở đây, là làm sao cân bằng cả
ba, bắt
từng nhân vật đối diện với chính mình, và với hai kẻ kia, trong tấn trò
đời, với
tất cả những lên voi xuống chó, những hy vọng, những thất bại - và nhất
là, phải
làm sao cho độc giả đừng trông mong có được một nhận định, đánh giá sau
cùng,
khi gấp sách lại, [và thở phào, rằng, việc đọc của ta như vậy là
xong!]. Greene
không thích những độc giả của ông có được sự hài lòng, thoải mái, theo
nghĩa
này: “Khi chúng ta không chắc chắn, như vậy là chúng ta vưỡn còn sống!”
Trường hợp
Người Mỹ Trầm Lặng, bầu khí mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng
từ từng mỗi
viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói tới, về một hệ thống đạo đức
được so
đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó làm Zadie Smith nhớ tới Henry James
trong tác
phẩm Những Người Âu Châu, nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không
xẩy ra ở
trong một căn phòng, mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào
một trận
địa. Độc giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ
dáy, bẩn thỉu,
tởm lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều
cuộc chiến
khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù
những
“nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng nữa.
Những
nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào xác định
được, của
cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà lần,
một khi
con người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt. Nhưng,
cho dù vậy,
tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm Lặng, Phượng và tay phóng viên Fowler
đã tìm
được nhau, đúng là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là đối với
Fowler.
Đây đúng là một sự cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì vớ được
sợi thừng
cứu mạng!
“Tôi là một
kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như
vậy,
trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một
khi bị
ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không
thể nào
tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà
làm nữa!”
Ở Lò
Luyện
Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng
thiện
nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh
ta tới,
được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam.
Anh ta sẽ
bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả
một trái đất
sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh
ta về
Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về
tên thực
dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu
Mẽo đến
cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu
thuyết. Cả hai
tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có
một câu
chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá
nhân,
cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị
kỷ, nằm
nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ
Trầm Lặng,
những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và
cùng với
nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn
bà thực,
đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà
mà Pyle
đang chôm từ Fowler.
Gừng càng
già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới
của anh
chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được
xuất bản,
đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:
“Tôi cầu
mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi
hiểu rất
rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh. Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi
anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về
thế
thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo
của anh đấy,
Pyle ạ.”
Nhưng theo
Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng,
niềm
tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây
thơ của
anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo
[fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên
toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi
tới với
bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này
làm
chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene
ở trong
Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa
cả”, khi
chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và
những người
như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất
này, chẳng
có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau, vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy, anh tin
vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa lưng vô tường,
và có một
họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính hỏi bạn như vậy”.
Nhưng tác phẩm
của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng,
thứ hy
vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng
ta. Theo
nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta
những chi
tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến
đấu nhằm
chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng
lớn lao,
nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.
Ruth
Franklin trên tờ Người Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi
tiết,
ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong
những chi
tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể,
đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người
trong
chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên
hướng tin
yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.
Cầu sao được
vậy.
Nó quả đã
không bị phí phạm.
NQT
Trở lại với
Zadie Smith. Greene, 1 cách nào đó, là Thầy của Gấu. Thế là bèn mò đọc
thêm về
Zadie Smith. Mua vài cuốn của bà, trong có cuốn Changing my mind, On
beauty… Hoá
ra bà này còn mê cả Barthes. Rồi lại thấy Thầy Đạo dịch ZS trên Gió O
nữa chớ!
Zadie
Smith
Roland Barthes, 1 giới thiệu cực ngắn
Trong bài viết
về Bếp Lửa của TTT, từ những
năm 1970, Gấu nhận ra, số phận [sự thất bại] của
cuốn này, BL, 'y hệt' cuốn La Nausée.
Susan Sontag
cũng nhận ra điều này, mắc mớ giữa Sartre và Barthes:
… Although
Barthes agrees with Sartre that the writer's vocation has an ethical
imperative, he insists on its complexity and ambiguity. Sartre appeals
to the
morality of ends. Barthes invokes "the morality of form"- what makes
literature a problem rather than a solution; what makes literature.
Zadie Smith
cũng nhận ra mối tương quan giữa Sartre, nhóm tiểu thuyết mới, Barthes
– 1 phát
ngôn viên của nhóm - như trong bài viết về Barthes và Nabokov. Bà cũng
thú nhận,
Barthes là 1 favorite của mình, ngay từ khi còn ngồi ghế nhà
trường.
Lần kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100, Graham Greene, 2004, nhà
Vintage vinh
danh ông, bèn đi cả 1 đường xuất bản những tác phẩm của ông, mỗi cuốn
như thế,
là 1 bài tựa, tức 1 bài phê bình thần sầu, được 1 tác giả lừng danh,
viết.
Khổ cho
túi tiền của những độc giả nào mê Greene, như Gấu, và cũng thật sướng
mê tơi!
Bài của Zadie Smith mà chẳng tuyệt cú mèo sao?
Shades
of Greene
Bài
của Coetzee, in trong tập tiểu luận Inner Workings của ông, về
cuốn Brighton
Rock (1938) của Greene, cũng thật đã.
Simon Leys
cũng đã từng đi 1 đường
về cuốn này, TV có lèm bèm rồi. (1)
(1)
Người viết
làm quen với Greene những ngày học trung học, qua tác phẩm "Người thứ
ba", câu chuyện về một người đàn ông truy tìm thủ phạm đã sát hại bạn
thân
của mình, rút cục khám phá ra, chính cái tay bạn thân của mình, đã dùng
kế kim
thuyền thoát xác, tức là giết địch thủ, rồi để lại giấy tờ của mình cho
cái xác
chết, và tiếp tục giết hàng triệu triệu trẻ em trên thế giới, qua trò
sản xuất,
và tung ra khắp thế giới, loại thuốc trụ sinh dởm…
Qua tin báo
chí, viên tướng tình báo cộng sản, Phạm Xuân Ẩn, trước nằm vùng tại
miền nam,
có gặp gỡ phái đoàn quay phim, khi đang được quay tại Sài Gòn và cho
biết, ông
có chứng kiến vụ nổ bom trên, và cho biết thêm, ông biết nhà văn Graham
Greene
là gián điệp Anh. Điều này thế giới đều biết, vì Greene cũng chẳng
giấu. Nhưng
chi tiết trên chứng tỏ, Ẩn đã hoạt động gián điệp từ lâu. Và cái việc,
vào giờ
chót, ông ta đưa Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ thời ông Diệm, lên máy bay
ra nước
ngoài, chứng tỏ một điều: hai người có thể đã hiểu rõ nhau từ khuya!
Gần mực thì
đen, như người Việt nói. Theo nghĩa đó, đa số những ông ký giả, nhà văn
thường
có một "nghề tay trái": làm gián điệp. Phạm Xuân Ẩn, tướng cộng sản nằm
vùng tại miền nam qua vai trò ký giả tờ Time, lại không được như
Greene: ông
không biết viết văn! Ông đành nhờ một "văn hữu", là Nguyễn Khải, viết
giùm. Và Phạm Xuân Ẩn ở ngoài đời biến thành nhân vật Quân, ở trong
Thời Gian Của
Người. Nguyễn Khải, theo như người viết được biết, cũng là một chức sắc
trong
ngành công an. Ông đã từng viết về đạo Cao Đài, trong cuốn "Tường trình
về
một cái chết" (?), theo kiểu điều tra của "cớm"
("cop")! Phạm vi bài viết không cho phép phê bình tài viết văn của
ông, nhưng rõ ràng kém so với Greene.
Simon Leys,
tác giả cuốn Protée et Autres Essais, được giải thưởng Goncourt về tiểu
luận của
Tây (2001), cho rằng Greene thật tuyệt vời, khi mở ra, và đóng lại, một
cuốn tiểu
thuyết. Ai đã từng thử qua cái thú viết lách, chắc đều nhận ra, câu mở
đầu thật
quan trọng, và khó khăn vô cùng. Bạn cứ mở ra được, là viết được... một
cuốn tiểu
thuyết, hay nói một cách khiêm tốn, một cái truyện ngắn.
"Những
người khác có thể làm thành một cuốn sách", Leys trích dẫn Gide, trong
"Khung Của Hẹp", theo ý, bạn chỉ cần vớ được một câu thôi, ở trong một
cuốn mà bạn đang cầm trên tay, là có thể mở ra một cuốn của riêng bạn.
(Borges
còn hào phóng hơn, khi cho rằng, chỉ cần đọc một câu của Shakespeare
thôi, là bạn
trở thành Shakespeare).
Leys kể, một
lần lục lọi một tiệm sách, ông vớ được một cuốn của Chesterton mà ông
chưa từng
được hân hạnh rờ tay vô. Chỉ nội câu mở đầu, là ông vội vàng chạy tới
quầy trả
tiền, và sau đó, chạy vội ra khỏi cửa tiệm, rinh ngay cái kho tàng, là
cuốn
sách, về nhà. Câu đầu như thế này: "Cái giống người, mà hằng hà sa số
họ,
là độc giả của tôi"!
Đúng là một
câu văn hiển hách, nhất là đối với những nhà văn mà độc giả chưa đếm
hết mấy đầu
ngón tay, dù đã kể cả bà xã và những đứa con thân thương của mình!
Nhưng Leys tự
hỏi, liệu có cuốn sách nào xứng đáng với một câu mở đầu như vậy,
(nguyên văn:
Liệu hai trăm trang của một cuốn tiểu thuyết vẫn còn run lên bần bật
sau một cú
đánh sấm sét như thế?)
Trở lại với
Greene, không phải chỉ câu mở mà câu cuối, cũng tuyệt vời. Leys thí dụ
cuốn
Brighton Rock. Rose, nhân vật chính, là một cô gái ngây thơ (naive) và
dịu
dàng, mê thảm mê thương một tay găng tơ trẻ, nhận được món quà đầu tiên
trong đời,
từ người tình độc ác đó: một dĩa nhạc ba xu (loại dĩa nhựa ngày xưa),
mà cô
nghĩ, trong đó ghi lại những lời tỏ tình đắm đuối mà anh chàng dành cho
cô,
nhưng độc giả, chính anh ta (chính chúng ta), đã được tác giả bật mí,
chỉ là những
câu nói tục tĩu, dơ bẩn, nhắm vào cô gái đáng thương. Tay găng tơ bị
giết.
Rose, quá tuyệt vọng, trở về căn phòng của mình, với niềm an ủi, ít ra
mình
cũng còn giữ được tí kỷ niệm, là tiếng nói của chàng. Cuốn sách kết
thúc bằng
câu văn như vầy: "Nàng bước vội trong ánh mặt trời nhạt nhoà của một
ngày
tháng sáu, về với điều còn ghê tởm hơn cả sự ghê tởm."
Cách kết
thúc truyện của Greene, như trong Brighton Rock, theo Leys, là để cho
độc giả
thở phào, không phải một, mà tới hai lần. Ông dùng thuật ngữ "fins à
double détente", (tạm dịch: kết cục theo kiểu thư giãn kép), theo đó,
kết
thúc thực sự không nằm ở câu chót của cuốn sách, mà là ở đâu đó, vài
giây sau, ở
trong sự tưởng tượng của người đọc. Kỹ thuật này dành cho những cuốn
tiểu thuyết
- giống như một trái bom cực kỳ độc địa, một khi đã nổ ra, hậu quả thật
là khủng
khiếp nhưng không tức thời, mà là sau đó. Một thứ bom nổ chậm. Áp dụng
"kỹ
thuật" này vào thời điểm 1975, có thể nói hậu quả tức thời là miền nam,
hậu
quả tiếp theo, là cả nước đều khốn khổ khốn nạn vì nó.
Leys cho rằng,
những nhà văn cưu mang trong lòng một viễn ảnh nội tâm, là những nhà
văn số một.
"Với họ, viết luôn luôn là một hoạt động khắc khoải, ám ảnh, và họ thực
hiện
nó, trong tình trạng giống như mù lòa, tuân theo sự dẫn dắt của vô
thức. Viết
là một tình trạng mở nồi hơi, xả xú báp, mở toang an toàn, nhờ vậy mà
họ giữ được
lẽ phải, lý trí. Và nếu họ không viết, thì họ nghẹt thở, và chết.
Trường hợp của
Greene, và của những nhà văn như Georges Simenon, Julien Greene – nhân
cách của
họ đều rất đỗi khác biệt – cho thấy rõ điều trên."
Tiểu thuyết
của họ liên tục ám ảnh trí nhớ của chúng ta. Nhưng những gì chúng ta
nhớ về
chúng, không phải là những từ, những chữ, những câu văn kêu như chuông,
mà là một
hình ảnh hiện lên bức màn là trí tưởng tượng của chúng ta. Một giai
thoại về
ông cho thấy rõ điều này: Khi còn là một ký giả (một nhà điểm phim) tối
tăm,
chưa được người đời chiếu cố tới, trong lần đầu gặp nhà đạo diễn
Alexander
Korda, ông này hỏi Greene có cái gì (une idée) làm thành một chuyện
phim
(scénario), ông bèn đưa ra đoạn mở như sau: "Đó là một buổi sáng sớm,
trên
sân ga xe lửa Paddington số 1. Sân ga trống trơn, ngoại trừ một người
đàn ông đứng
đợi chuyến tầu chót từ xứ Galles tới. Những giọt máu từ phía trên, từ
phía bên
trong chiếc áo khoác của ông ta nhỏ xuống thành một vũng." "Vậy hả, rồi
sao?" Rõ ràng là trí tưởng tượng, tính tò mò của tay sản xuất bị "cắn"
trúng! "Thì còn nữa chứ", ông trả lời, nhưng chính ông cũng chưa biết,
nó sẽ ra làm sao... "Câu chuyện cần phải gia giảm thêm, và làm cho nó
thành hình...". Cuộc gặp gỡ đó đã tạo nên tình bạn giữa hai người, đưa
đến
việc thực hiện cuốn phim "Người Thứ Ba" phỏng theo tiểu thuyết của
Greene.
Chúng ta chẳng
hề biết, tiếp theo cái đoạn mở trên, về câu chuyện một kẻ lạ, đứng chờ
chuyến tầu
chót từ Galles, trên sân ga cô liêu, vào một buổi sáng, sớm ơi là sớm,
nhưng
cái hình ảnh đó, và những giọt máu thánh thót rơi xuống, và vũng máu
đọng trên
sân ga, cứ ám ảnh chúng ta hoài. Độc giả của Thanh Tâm Tuyền, thí dụ
vậy, nếu
đã từng đọc truyện ngắn Dọc Đường của ông, chắc chắn giữ mãi ở trong
trí tưởng
tượng của mình, hình ảnh một người đàn ông ôm bọc quần áo, lỡ độ đường,
không
nhà nào dám chứa, mà mỗi lần hỏa châu rọi sáng, in lên nền trời.
Graham Greene
Để
tưởng nhớ mình hương
Trở lại Anh, Greene nhớ Việt
Nam
quá và đã mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ
niệm tình cảm: cái tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít ngoài
đường Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp
với ông, và ông đã đi vài đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày
rời Việt Nam,
tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm
trên một cái dĩa tại căn phòng của Greene, ở Albany, bị sứt mẻ tí tí, do di
chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày hạnh phúc.
Nostalgie de la boue
Ways of Escape
Trong Tẩu Vi Thượng Sách, Greene có kể
về mối tình của ông đối với Miền Nam Việt Nam,
và từ đó, đưa đến chuyện ông viết Người Mỹ Trầm Lặng…
Tin Văn post lại ở đây, như là một dữ kiện, cho thấy, Mẽo thực sự không
có ý ‘giầy xéo’ Miền Nam.
Và cái cú đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng.
Cái chuyện MB phải thống nhất đất nước, là đúng theo qui luật lịch sử
xứ Mít, nhưng, do dùng phương pháp bá đạo mà hậu quả khủng khiếp 'nhãn
tiền’ như ngày nay!
Ui chao, lại nhớ cái đoạn trong Tam Quốc, khi Lưu Bị thỉnh thị quân sư
Khổng Minh, làm cách nào lấy được xứ... Nam Kỳ, Khổng Minh bèn phán, có
ba cách, vương đạo, trung đạo, và bá đạo [Gấu nhớ đại khái].
Sau khi nghe trình bầy, Lê Duẩn than, vương đạo khó quá, bụng mình đầy
cứt, làm sao nói chuyện vương đạo, thôi, bá đạo đi!
Cú Phú Lợi đúng là như thế! Và cái giá của mấy anh tù VC Phú Lợi, giả
như có, là cả cuộc chiến khốn kiếp!