|
Camus,
Kẻ Trung Thực, Tên Công
Chính
Hai
tuyệt chiêu của Camus,
tạo khoảng cách giữa ông và đề tài, và giọng kể thầm thì. Như thể chính
ông
cũng không làm sao quyết định được, có nên đẩy độc giả lậm sâu vào câu
chuyện,
và sau cùng đành đem con bỏ chợ, nghĩa là bỏ mặc chúng ta lơ lửng giữa
những âu
lo, thắc mắc siêu hình của tác giả, và bản văn, chính nó. Đây có thể là
sự suy
tưởng về những vấn đề nhức nhối thương đau mà Camus gặp phải trong
những năm
cuối đời. Chúng ta có thể nhận ra điều này, ở đoạn mở ra Người Câm,
khi
Camus tự ý thức về tuổi già. Hay trong một truyện khác, Nghệ sĩ làm
việc,
The Artist at Work, chúng ta có thể cảm nhận vào những ngày tận
cùng của
ông, sống căng thẳng, và gánh nặng vinh quang đè lên ông mới khủng
khiếp làm
sao.
Pamuk:
Camus
Tôi đọc Camus, đâu đó trước khi đọc Dos và Borges, vào lúc 18
tuổi, dưới
ảnh hưởng của cha tôi, một nhà kiến trúc sư về xây cất. Vào thập niên
1950, nhà
xb Gallimard cho Camus ra lò hết cuốn này tới cuốn tới, cha tôi cho mua
chúng
đều đặn, và được chuyển tới Istanbul,
nếu ông không
ở Paris.
Còn ở
đó thì ông tự mình đi mua, lẽ tất nhiên! Ông đọc chúng một cách tới nơi
tới
chốn, và bèn lèm bèm về chúng, với thằng con. Mặc dù đôi lúc hứng lên,
ông lèm
bèm về cái gọi là “triết học của sự phi ní” [ấy chết xin lỗi, phi lý],
bằng
những từ ngữ mà tôi chẳng làm sao hiểu nổi, chỉ đến mãi sau này, thì
tôi mới
ngộ ra rằng thì là tại sao ông lèm bèm về Camus, về phi lý: Cái triết
học phi
lý đó đến với chúng ta không phải là từ những thành phố lớn của Tây
Phương,
cũng không phải từ những nội thất của những đền đài tưởng niệm hay
những căn
nhà của họ, nhưng mà từ một thế giới bên lề, có tí ti hiện đại, có tí
ti Hồi
giáo, có tí ti Địa Trung Hải, giống như thế giới của chúng tôi.
*
Tuyệt!
Cô con gái của Camus, cũng phán y chang về ông bố của mình!
Papa
continue á écrire ses
livres, ses pièces. Maria, elle, joue. Cela ne me regarde pas, c'est la
vie.
Mais, chez moi, je n'ai jamais entendu un seul mot contre Maria. Je
l'ai
rencontrée dans les années 1980, après la mort de ma mère. J'étais à
Nice. Elle
y jouait une pièce. J'ai mis un mot au théâtre. On s'est dit plein de
choses.
On était bien ensemble. Elle était tellement vivante, chaleureuse,
drôle. On a
mangé du chocolat. Elle fumait, et elle avait des quintes de toux
épouvantables.
Quand elle éteignait une cigarette, aussitôt, elle en rallumait une
autre. Ils
se ressemblaient, mon père et elle. Ils avaient ce même amour forcené
de la
vie, quoi qu'il se présente. On endure. Mais on prend.
A la Libération, mon père fréquente
beaucoup Sartre et Beauvoir. A Saint-Germain-des-Prés, c'était tout le
temps la
fête, la danse, les beuveries, aussi. Mais mon père a toujours eu
l'impression de
faire un peu tache parmi eux. II est méditerranéen, n'a pas fait
l'Ecole
normale, n'est pas d'origine bourgeoise. Ce n'était pas tout à fait
faux quand
Sartre le traitait de "voyou des
rues”:
il avait un peu l'impression de s'encanailler en compagnie de son
copain Camus.
Beauvoir, elle, a alors un faible pour mon père, qui ne le partage pas.
Etait-ce vraiment un faible, ou une curiosité intellectuelle ? Elle
disait - c'était
scientifique, chez elle! - que pour connaitre un homme il fallait
coucher avec
lui. Regardez cette photo de Brassai: mon père avait mis en scène une
pièce de
Picasso, «le Désir attrapé par la queue ». Il y a Lacan, Cecile Eluard,
Picasso, Valentine Hugo, les Leiris, Sartre et Beauvoir. Et que regarde
mon père
? Le chien.
Écrire,
c'est s'exposer au
malentendu, et à ne pas être entendu. Il le savait bien, mon père.
J'étais une
petite fille, mais je sentais l'agressivité autour de lui. Avec,
«l'Homme révolté », en 1951,
il ébranle un tabou. A l'époque, on n'a pas le droit de toucher à
l'Union soviétique.
Alors que tout le monde sait que le goulag existe. On dit que c'est au
nom de
la bonne cause. On se tait. Lui, il a décidé de parler. Et cela ne
plait pas.
Un jour - j'ai compris plus tard que c'était après la terrible
polémique avec «
les Temps modernes» où Francis Jeanson, sur ordre de Sartre, avait
descendu le
livre avec une incroyable violence - je trouve mon père dans le salon,
assis
sur un fauteuil bas, la tête baissée. Je lui dis : “Tu es triste,
Papa?”. Il lève
la tête, me regarde droit dans les yeux et me répond : “Non, je suis
seul”. Je
n'ai jamais oublié. Cela me révoltait tellement ! Je ne savais pas
comment lui
dire qu'avec moi il ne pouvait pas être seul.
En janvier 1956, quand il écrit “Trêve
pour les civils”, dans «
l'Express
», il ne fait pas que l’écrire. Il va à Alger, proposer qu'on épargne
les
civils des deux camps. Le gouvernement général lui interdit d'occuper
la salle
prévue. Il déplace sa réunion dans la Casbah, sous les cris des ultras,
qui
hurlent : “A mort Camus!”. Il
a eu très peur que cela finisse dans un
bain de
sang. Quand je pense qu'on ose encore prétendre que Camus n'a rien dit
sur l'Algérie! Il avait été bien seul, en 1945, quand il avait dénoncé
les
massacres
de Setif! Il a donc continue d'écrire, jusqu'au moment où il a
considère que
chaque mot ajoutait à la violence. Il savait que le FLN
liquidait les messalistes et que, si l'on
faisait une Algérie avec un parti unique et une religion d'Etat, les
premières
victimes seraient les Algériens. Quand on voit ce qui s'est passé
depuis, on
peut se dire qu'il n'avait peut-être pas complètement tort. A partir de
1960, c'est
vrai, il n'a plus rien dit du tout. Mais c'était pour la bonne cause.
Il était
au cimetière.
“Quand tu as eu ta prime
... “,
comme disait Mémé en parlant du prix Nobel de littérature ... Lui, il
se
trouvait un peu jeune. Il disait: “Personnellement,
j'aurais voté Malraux”. Ce
jour-là, au lycée, tout le monde me regardait drôlement. J'ai demandé à
une copine
si je n'avais pas un ourlet défait. Elle a ri: “Mais tu es
dans ‘Paris
Match’” …..
Cathérine Camus: Camus, mon père.
Viết là phơi bày ngộ nhận, chẳng
được ai nghe. Cha tôi biết rất rõ điều này. Khi đó, dù chỉ là một đứa
con nít,
nhưng tôi thấy chung quanh cha tôi là cả một sự hung hãn, gây gổ. Năm
1951, khi
viết « Con người nổi loạn”, là ông đụng vô ổ kiến lửa, lay đến tận gốc
điều cấm
kỵ. Vào thời buổi đó, cấm không được đụng tới Xô-Viết, trong khi ai
cũng quá rành
về sự hiện hữu của trại tù Goulag. Họ
bảo, phải bảo vệ nghĩa cả! Và họ câm miệng. Còn ông, ông tung hê hết.
Thế là cả
đám sưng lên. Một bữa – sau này tôi mới biết, do đụng độ với tờ « Thời
Mới », qua
đó, theo lệnh Sartre, Francis Jeanson đã ‘tàn sát’ cuốn sách của ông -
tôi thấy
cha tôi ở trong phòng khách, ngồi trên chiếc ghế bành thấp, đầu cúi
xuống. Tôi
nói: « Ba buồn hả ba? » Ông ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt tôi và
nói: «
Không, ba cô đơn. » Tôi không bao giờ quên câu này. Nó làm cho tôi phát
bực!
Tôi không biết làm sao để nói cho ba tôi hiểu, làm sao ông nói cô đơn,
khi có tôi
ở kế bên.
“J’ai le sens du
sacré mais je ne crois en
Dieu”
[Tôi có cảm quan về điều thiêng
liêng nhưng tôi không tin (về một) Thượng Đế]
“Le réel, c’est le rationel,
et l’Histoire, la fille bâtarde de la violence”
[Cái thực, là cái thuần lý,
còn Lịch sử, đứa con gái đẻ hoang của bạo lực]
Camus
“Eh bien, mon cher Camus,
vous aurez révélé que Hegel et moi avons quelque chose en commun, c’est
le fait
que vous ne nous avez lu ni l’un ni l’autre”
[Bạn Camus ơi, bạn phát giác
ra, có cái gì đó chung, giữa Hegel và tôi, điều này chứng tỏ, bạn đếch
đọc, cả
tôi lẫn Hegel!]
Sartre
Cô con gái nhớ lại…
Trong “Albert Camus,
Solitaire et solidaire’, sẽ ra mắt vào ngày 10 Tháng Chạp, nhà xb
Michel Lafon,
Cathérine Camus gợi lại hình ảnh ông bố, nhà văn Nobel biến mất 50 năm
trước đây.
Đặc biệt, bà tâm sự với tờ Người
Quan Sát Mới, và nói về một số hình ảnh trong hồ sơ riêng
gia đình.
“Đúng là như thế. Bức hình nào cũng thấy
điếu thuốc lá. Ông hút
và nhả khói giống như cái ống khói tầu. Tại sao lại nhịn hút khi biết
mình bị bệnh
lao kết án?”.
Cái tiếu lâm, khôi hài, diễu diễu là để che giấu cảm xúc. Thật cứng
rắn [dur] – và cũng thật hiếm hoi – khi cô con gái phải nói về ông bố
của mình,
một ông bố thuộc quá nhiều về kẻ khác – công chúng – nhưng cũng thật
riêng biệt
biết bao, vì là ông bố của cô: ở trong những nụ cười, những nét riêng,
và trong mầu mắt của ông.
Trong căn nhà ở Lourrain, nơi
ông đã sống trên một năm, và là nơi ông ra đi, thảnh thơi, không chút
âu lo, vào
một buổi sáng Tháng Giêng 1960, sau khi đã đưa vợ con ra xe lửa, còn
ông, đi
xe hơi cùng bạn bè, lên Paris,
và ông không bao giờ trở về.
Vẫn như xưa, căn nhà với những
cánh cửa bằng gỗ thật nặng nề, và đầy loài vật: hai con chó, và sáu con
mèo....
Agathe Logeart
"Papa,
tôi không biết bố tôi nổi
tiếng, cho tới khi ông mất. Tôi biết điều đó, lúc ông mất, và tôi chẳng
ham. Với
tôi, đó là cha tôi. Tếu, rất tếu. Tôi mê nụ cười của ông. Với những
người khác,
Albert Camus, đó là một huyền thoại, không phải một ông bố. Sự nổi
tiếng, tôi
không ý thức gì về nó, và nó cũng chừa chúng tôi ra, cho đến khi chúng
rớt xuống
anh tôi, và tôi, nó đè nát hai anh em. Tôi lúc đó 14 tuổi.”
“Ở
trường học, khi người ta hỏi bố
tôi làm nghề gì, tôi trả lời ‘nhà văn’, và nó làm tôi phải suy nghĩ.
Làm thợ mộc,
thì đúng là một nghề. Nhưng nhà văn?”
«Je me
révolte, donc nous
sommes ... »
“Il y a la beauté et il y a les
humiliés.”
“Le bonheur et l'absurde sont
inséparables”
“Il y a
la beauté et il y a les
humiliés.”
Có cái đẹp và có
những người
bị sỉ nhục.
Ui chao sao mà đúng y chang tình
cảnh Mít, trước và sau Anus
Mundi [hậu
môn của thế giới]
Trước,
cả nhân loại nằm mơ ngủ dậy, biến thành Mít.
Sau, Mít, có nghĩa là, bị sỉ
nhục!
Vào thời cực thịnh của Camus
tại miền nam
Việt Nam, trên tờ Sáng Tạo của nhóm, Thanh Tâm Tuyền đã coi Camus muốn
làm một
kẻ "juste", đứng ở lưng chừng trời, ngó xuống thế gian... và kết
luận: cái chết của Camus đã nhốt chặt ông vào quá khứ.
Khi gọi Camus là một "juste", Thanh Tâm Tuyền gợi đến kịch phẩm
"Những người công chính" (Les Justes) của Camus, (bản tiếng Anh dịch
là Những Tên Sát Nhân Chính Trực, The Just Assassins); người viết đọc,
vẫn
những ngày đầu, thời mới lớn, trong một thành phố Sài Gòn đang còn
thanh bình,
và chỉ còn nhớ mài mại, đây là về một tay khủng bố không chịu ra tay
khủng bố,
chỉ vì có những đứa trẻ tại hiện trường.
Ui chao, lại nhớ đến tên khủng
bố, VC nằm vùng DH, tà tà chạy Honda, tà tà thẩy
bom vô trạm gác Ngụy, tà tà đi tiếp!
DH đã từng tuyên bố, do đọc Camus mà đi làm Cách Mạng!
Bữa
nay mẹ tôi mất
Prométhé,
nhân vật trong “Kẻ phản
kháng”, chọn sống một cuộc sống vì
những người khác, một cuộc sống phản kháng chống
lại nỗi bất hạnh của họ, và
nhìn ra ở đó một giải pháp cho sự ‘phi lý như là phần
số của con người’, chính sự phi lý này khiến Sisyphe, bị ám ảnh, quằn
quại bởi nỗi
bất hạnh của chính mình, tìm tới tự tử, coi đây là giải pháp độc nhất
và lối
thoát khả hữu, cho sự trù ẻo con người, quá con người [và như vậy là
trung thành
với châm ngôn của Pline l’Ancien, hẳn nhiên là để gửi
tới tất cả những đệ tử chỉ
có biết yêu lấy mình, chỉ có biết tự ái: “Trong nỗi khốn cùng của cuộc sống của
chúng ta trên thế gian này, tự tử là món quà đẹp nhất mà Thượng Đế ban
cho con
người”
Tôi phản kháng vậy là chúng
ta hiện hữu
«Je me
révolte, donc nous
sommes ... »
Tưởng niệm
Camus, 50 năm sau
khi ông mất
Bây giờ
đọc lại Những Con Dã
Tràng, Gấu nhận ra một điều thật là hiển nhiên, nếu chưa từng đọc Kẻ Xa
Lạ, không
thể nào viết ra được.
Gấu đậu Tú Tài Hai, khóa hai,
niên học 1957-1958. Khóa một rớt, được bà cụ C. cho đi nghỉ hè ở Nha
Trang. Cô
gái trong truyện, nguyên mẫu ngoài đời là H. cô con gái thứ của bà T,
bạn cụ C.
Gấu có viết về cô, trong Một
Người Anh.
Gấu nhớ là, khi viết xong, gửi
cho Sáng
Tạo, anh T. khen um lên, qua lời kể của bà cụ C. Nhưng liền sau đó, báo
chết,
sau thấy nó trong mục hộp thư của tờ báo Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong.
Sáng Tạo
chết năm 1960.
Như vậy truyện phải được viết cùng năm hoặc trước đó 1
năm, tức
1959.
Nhân vật chính ở trong truyện,
khật khà khật khừ, ho hung hắng vào buổi chiều, chắc chắn phải
là.. Meursault,
từ biển
Địa Trung Hải, bơi tới biển Nha Trang, nhập vào Gấu!
Những
con dã tràng
Villa
trông ra biển. Tường phía trước thấp. Gió từ biển tới, vượt khoảng vườn
nhỏ,
mang những chiếc lá vàng trải lên thềm nhà. Con đường nhựa đen đúi, lầm
lì chạy
mải tới cuối thành phố. Bên kia con đường, là bãi biển, cát trắng và
nóng. Xa
hơn, về phía trái, nơi bắt đầu con đường, con sông nhỏ đổ nước ra biển
làm đỏ lờ
đờ một vùng. Xa hơn nữa, cuối tầm nhìn, một ngọn núi nằm trơ trọi, hình
dáng nặng
nề, thô kệch. Buổi tối, những người dân thường đốt rừng làm rẫy, xa
trông, như
một con rắn đỏ lập lòe.
Một
chiếc xe ngựa đậu dưới bóng cây lớn ở trước cổng ra vào.
Hai
dẫy nhà nhỏ chạy dài ra vườn sau. Phòng H. ở cuối một dẫy.
Những
cây phi lao đứng im ở ngoài vườn.
Buổi
chiều ngày đầu, Q. nói với tôi, H. là con gái lớn bà chủ nhà. Chúng tôi
đứng ở
cuối vườn. Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám
phi lao
ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ
im lìm
buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm
nhìn của
tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại
hiện ra
giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn. Tiếng cười
giòn, nhẹ
và ấm vọng tới chỗ chúng tôi. Rồi gió thổi mạnh làm át đi tất cả; trong
gió có
những con vật bé li ti, những chiếc lá cây, và những hạt cát. Tôi dựa
lưng vào
thân cây phi lao, và bỗng nhận ra đời sống vô vị, buồn nản của mình,
một đời sống
không có gì để nhớ, hoặc để chờ: tôi chờ những lần chiếc đu trở lui về
phía sau
và cố nén cơn ho thường lệ buổi chiều. Tôi nghĩ tới những lần tự nhiên
thức giấc
trong đêm khuya, mọi người đều yên ngủ, tôi lặng lẽ nghe tôi nặng nề
thở và mệt
nhọc sống. Khi người bác sĩ báo tin tôi mắc bịnh, tôi cảm ơn ông ta, và
quay
qua xin một điếu thuốc lá. Buổi chiều hôm đó, tôi đi coi một phim trinh
thám.
Khi nhân vật trong phim trúng đạn ngã xuống, tôi bỏ ra về. Buổi tối,
tôi ngồi
viết thư cho T. "Em có hiểu thế nào là thần tượng không? Yêu một người
con
gái, một người con gái quen biết từ nhỏ, tình cờ gặp người con gái đó
trong tay
một kẻ khác không phải là mình. Thần tượng bị phá vỡ hoàn toàn và đột
nhiên tôi
thấy lố bịch, lố bịch vô cùng."
Lá
thư đầy giả tạo. Ghen tuông, tôi lựa chọn sự tầm thường, và tự hạ.
Nhiều khi
tôi tự hỏi tại sao không nói tôi bệnh và từ chối tình yêu của nàng.
Đúng lúc tựa
thân mình vào cây phi lao, tôi mường tượng ra, tại sao tôi xử sự như
vậy. Một lần
tôi vào xóm chơi bời, đi theo một đứa con gái vào một căn phòng nhỏ,
hôi hám,
chật hẹp. Ngọn đèn dầu le lói chiếu sáng căn phòng đỏ lờ đờ. Khi tôi
quay lại
nhìn, cô gái nằm trên giường, thản nhiên chờ đợi, chẳng thèm để ý tới
tôi. Đúng
lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng
ngồi
choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng
gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi
nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi
tới tận lúc đó.
Buổi
chiều chúng tôi đi dạo trên bãi. Biển xanh sẫm, ì ầm, âm thanh dài như
không
bao giờ dứt. Q. nói, "Bà chủ có vẻ mến cậu." Tôi nói, "Như vậy
tôi có thể ở đây lâu." Tôi không nói gì. Cả hai đều yên lặng.
Tôi nghĩ
đến
sáng nay, tôi thức giấc vào khoảng bốn giờ, tôi nghe tiếng chuông nhà
thờ và tự
hỏi, nếu tôi đang quì cầu nguyện. Tôi nghĩ đến K. Nó yêu một người con
gái, ít
lâu sau cô gái bỏ đi lấy chồng. Trước đó, cả hai thường rủ nhau đi nhà
thờ cầu
nguyện. Tôi nghĩ nếu Thượng Đế phải dậy sớn vì những chuyện như vậy,
Pauvre Dieu,
và tôi mỉm cười. Sự thực, tôi ít nghĩ đến chuyện đó. K bảo tôi, "Như
vậy người
ta mù tịt về thân phận mình." Tôi trả lời, "Chính vì mù tịt mà người
ta hạnh phúc, ít ra là trong quãng đời ngắn ngủi đó." T nói thêm,
"Nhưng còn sự chết..."
Sự
chết, tôi vẫn thường nghĩ đến. Hồi nhỏ, khi còn ở Hà Nội, một lần đứa
cháu gái
tôi bị bệnh nặng. Nó bắt tôi phải ngồi bên cạnh nó, phải kể chuyện cho
nó nghe,
nghe nó đòi mua quà này, quà nọ. Còn nhỏ, ham chơi, tôi chờ nó mệt, ngủ
thiếp,
và bỏ đi chơi đứa bạn ở gần nhà. Hai đứa rủ nhau lên Bách Thảo, lang
thang
trong vườn. Đang đi, tôi đột nhiên nghĩ đến đứa cháu, và đột nhiên nhận
ra rằng,
nó đang chết, và đang gọi tên tôi. Tôi chạy về, bất kể xe cộ, mất hết
cảm giác
và ý thức. Về đến gần nhà, nghe tiếng chị tôi khóc lóc, kể lể, tôi lủi
thủi bỏ
đi. Tôi cứ nghĩ, chắc là đứa cháu khổ sở lắm, khi không có tôi ở bên
cạnh, vào
lúc nó bị giằng co giữa sống và chết... Chắc cha tôi cũng đã trải qua
những giờ
phút tương tự như vậy. Khi còn sống, ông làm nghề dậy học, và bị thủ
tiêu vì vấn
đề chính trị đảng phái hồi 1945. Người ta nói, cha tôi bị cột đá vào
người, và
bỏ xuống sông. Những ngày sau khi nghe chuyện, mỗi lần đi tắm sông, tôi
thường
lặn sâu xuống nước, rồi cố gắng nín thở, cố gắng chịu đựng, và nghĩ đến
cha tôi.
Q
đi lễ, và hỏi tôi có thể đi cùng, tôi lắc đầu, gọi mua một gói lạc
rang. Người
đàn ông làm tôi nhớ tới người Tầu già bán lạc rang ở bờ hồ Hà Nội. Tôi
có nhiều
kỷ niệm về thành phố nhỏ bé và cũ kỹ đó. Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay
bên đường
xe điện. Tôi thường tinh nghịch để những viên sỏi nhỏ lên trên đường
sắt, rồi hồi
hộp chờ chuyến xe chạy qua. Suốt thời thơ ấu, tôi bị chiếc xe điện mê
hoặc. Một
lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi
dùng để nối
hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như
vậy, ngay cả
khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen,
một tay nắm
vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù
xù, tay cầm
hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường
nhìn
chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần
dần cảm
thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn
nhạc tôi
đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé
đánh giầy
nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập
vào thành
xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người
soát vé
đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp
tục cười,
tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ
sao, người
soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi
nhìn xuống
con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt
nghĩ tới
đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống,
nhặt chiếc
mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó,
tôi thỉnh
thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc
mũ dạ của
tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra
tôi.
Bãi
biển vắng. Trước mặt tôi, mấy đứa con trai đang chuyền banh. Bất chợt
trái banh
rớt gần chân tôi. Tôi đá trở lại, và cười gượng gạo cùng lũ trẻ. Tôi
nín cười
và bỏ đi. Nhiều tiếng cười đuổi theo sau lưng. Một người ăn mày ngồi
trên bãi
cát, chìa tay chờ đợi. Tôi cho tay vào túi quần. Những đồng tiền lẻ kêu
nhè nhẹ
trong túi. Tôi để yên tay trong túi quần, và bỏ đi. Một người Tây già
nằm trên
chiếc ghế vải. Tôi định tới gần châm điếu thuốc, nhưng ngần ngại. Điếu
thuốc
trên tay người Tây già chậm chạp vẽ
những đường
cong đều đặn, tay còn lại bỏ thõng xuống cát, buổi chiều sắp tàn, tất cả những
cái đó gọi là sự ngần ngại của tôi. Những con dã tràng lăng
quăng bò trên cát.
Tôi đi theo một con. Khi con vật chui xuống một lỗ nhỏ, tôi dừng lại
chờ. Tôi
không hiểu tôi chờ gì. Tôi chờ con vật chui ra khỏi lỗ cát, hay chờ một
gì đó sẽ
xẩy ra. Tôi bỏ đi, chẳng còn gì nữa,
buổi chiều hết rồi.
Về
tới cổng, tôi gặp bà chủ nhà cùng cô con gái lớn. Bà mẹ tỏ vẻ hy vọng,
tôi sẽ thích
nơi này. Bà kể chuyện, có một đứa con trai trai chết vì bịnh lao phổi
cách đây
ít lâu (nó khoảng tuổi cậu, rất ham học, thật tội nghiệp). Người con gái lớn đứng
im lặng, nhìn ra biển. Tôi bỗng nói, tôi không thể làm sống lại
người đã chết,
tóc xõa che lấp cả khuôn mặt, và hơn nữa, tôi không muốn ngồi
vào chỗ của người
khác, cúi xuống nhặt một viên sỏi,
ném ra xa, cử chỉ lạnh lùng, người đàn bà
(bà mẹ) ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi nói thêm, tôi không thể xin
lỗi bà ta, và thất
thểu trở về phòng.
cc
1959-60
Sơ
Dạ Hương
Kỹ thuật viết, [lồng ba bốn câu
văn vào nhau, Người con gái lớn đứng
im lặng, nhìn ra biển. Tôi bỗng nói, tôi không thể làm sống lại
người đã chết,
tóc xõa che lấp cả khuôn mặt, và hơn nữa, tôi không muốn ngồi
vào chỗ của người
khác, cúi xuống nhặt một viên sỏi,
ném ra xa, cử chỉ lạnh lùng, người đàn bà
(bà mẹ) ngạc nhiên nhìn tôi.. ] chưa từng có trong cõi văn Mít,
trước Gấu, và cho tới bây giờ, cũng vẫn chưa có!
Thảo nào, ông anh khen um lên!
Hà, hà!
*
Villa trông ra biển. Tường phía trước thấp...", truyện ngắn
"Những con dã tràng", truyện đầu tay của tôi được viết ra từ cát, biển
Nha Trang, nhưng thực ra là từ cái không khí "chết người" của Kẻ Xa Lạ,
của Buồn Nôn: Tôi tự hỏi cớ
sao lại sợ hãi một thế giới bình thường như vậy...(Sartre. La Nausée).
Khi đó Dương Nghiễm Mậu, với truyện ngắn "Rượu chưa đủ", đăng trên
Sáng Tạo bộ mới đang là một xôn xao trong đám chúng tôi, những đứa trẻ
vẫn mơ hồ
hy vọng, con đường độc nhất để thoát ra khỏi cuộc chiến, để đừng bị nó
huỷ diệt
một cách tức tưởi, chỉ là con đường văn chương. Khi tôi viết "Những con
dã
tràng", chủ yếu là để giải tỏa cơn đau do Kẻ Xa Lạ gây nên, và tuy hứa với
lòng mình, đó là con đường phải chọn, nhưng chưa phải lúc này. Tôi vẫn
nghĩ, phải
học đã, rồi muốn gì thì muốn. Vả lại khi đó đam mê đọc mạnh hơn nhiều.
Đọc hối
hả, đọc ngày, đọc đêm, đọc bất cứ cái gì vướng vào mắt. Đọc như để chạy
đua với
chiến tranh. Hơn nữa, sách tiếng Pháp loại bỏ túi, chương trình Thông
tin &
Văn hóa, IC (Information & Culture), được chính phủ Pháp tài trợ
cho nên
giá rất rẻ, để "cạnh tranh" với văn hóa Mỹ, theo suy nghĩ của A.
Malraux: người Pháp đã ra đi, nhưng nước Pháp vẫn ở lại (Anti-mémoires).
Một
Người Anh.
N#
1: L'ÉTRANGER d'Albert Camus (1942)
Le
n # 1 de ce classement des 50 livres du siècle,
choisis par le vote de 6.000 Français, n'est pas moi mais je m'en fous,
même
pas vexé, je serai dans le «Premier Invenntaire» du XX le siècle, non?
Non
plus? ?
Il faut souligner que notre grand vainqueur rassurera les paresseux :
un roman
très court (123 pages en gros caractères). Pas besoin de se fatiguer :
on peut
donc écrire un chef-d'œuvre sans noircir des millliers de pages comme
Proust.
Chef-d'œuvre que nous pouvons lire en une demi-heure montre en main.
Autre
bonne nouvelle : le n# 1 de notre liste est un premier roman. Il s'agit
donc
d'un premier roman premier. Enfin, mauvaise nouvelle pour les
xénophobes : le
roman préféré des Français s'intitule L'Etranger.
Il nous narre l'histoire de Meursault, un type décalé qui se fout de
tout : sa
mère meurt - il s'en fiche; il tue un Arabe sur une plage algérienne -
ça lui
est égal; on le condamne à mort - il ne se défend même pas. La célèbre
première
phrase du livre le montre bien : «Aujourd'hui maman est morte. Ou
peut-être
hier, je ne sais
pas. » Le gars ne sait même pas quel jour sa mère est morte! On ne se
rend pas
toujours compte d'une chose : tous les losers magnifiques, les
meurtriers
paumés, les anti-héros désabusés de la littérature contemporaine sont
des
héritiers de Meursault. Ce sont des Sisyphe heureux, des révoltés pas
dupes,
des nihilistes optimistes, des naïfs blasés : bref, des paradoxes
ambulants qui
contiinuent de respirer malgré l'inutilité de tout.
C'est que, pour Albert Camus (1913-1960), la vie est absurde. Pourquoi
tout ça?
A quoi bon? Pourquoi cette chronique inutile? N'avez-vous rien de mieux
à faire
que de lire ce livre? Tout est vanité en ce bas monde (Camus, c'est
l'Ecclésiaste chez les pieds-noirs). Cette lucidité taciturne n'a pas
empêché Camus
d'accepter le Prix Nobel de Littérature en 1957 (à 44 ans, ce qui
faisait de
lui le plus jeune lauréat après Kipling). Pourquoi? Parce qu'il a
résumé son
existentialisme en une devise simple : «La vie est d'autant mieux vécue
qu'elle
n'a pas de sens. » Rien ne rime à rien - et alors? Et si c'était
justement
cela, «le bonheur inévitable»? Contrairement au refus snob de Sartre, 7
ans
plus tard, qui confère de l'importance à la récompense, Albert Camus
accepte le
Nobel précisément parce qu'il s'en moque. On peut se foutre de
l'univers, et
l'accepter tout de même, voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider
tout de
suite, puisque tel est le seul « problème philosophique vraiment
sérieux ».
Même la mort de Camus sera absurd.
Bien que tuberculeux, ce play-boy, sosie d'Humphrey Bogart, fut
assassiné à 47
ans par un platane en bordure de la Nationale 6 entre Villleblevin et
Villeneuve-la-Guyard, avec la complicité de Michel Gallimard et d'une
Facel
Vega décapotable.
La
seule chose qui n'est pas absurde, c'est le style
que Camus a inventé : des phrases courtes (« sujet, verbe,
commplément,
point », écrivit Malraux dans sa note de lecture à l’éditeur), une
écriture
sèche, neutre, au passé composé, qui a fortement influencé tous les
auteurs de
la seconde moitié du siècle, Nouveau roman inclus. Ce qui n'interdit
pas les
Images fortes - par exemple, pour décrire les larmes et la sueur sur le
visage
de Perez : «Elles s'étalaient, se rejoignaient et formaient un vernis
d'eau sur
ce visage détruit. » Même si on l'a un peu trop étuudié à l'école, il
faut
relire L'Etranger, dont le désespoir ensoleillé, reste, comme dit la
publicité
pour la Suze, «souvent imité, jamais égalé ». L'humanisme gentille
d'Albert Camus
peut parfois lasser, mais pas son écriture tranchante.
Au moment de conclure ce dernier inventaire avant liquidation, alors
que la fin
du monde approche tranquillement et que l'homme organise sa propre
disparition
en souriant, n'y a-t-il pas une légère ironie à voir Camus s'emparer de
la
première place (donc la dernière du compte à rebours), lui qui nous a
expliqué
que le secret du bonheur consistait à s'accommoder de toutes les
catastrophes?
Những cuốn sách được đưa lên bảng phong thần cuối cùng, trước khi quăng
vào
lửa.
Dernier inventaire avant liquidation
Nhà xuất bản Grasset 2001
Năm muơi cuốn sách của thế kỷ, do bạn chọn, nhưng Frédéric Beigbeder:
làm công việc
của Thánh Thán.
Đứng đầu bảng là Kẻ Xa lạ của Albert Camus.
Cái
ngôi vị số dzách, năm bơ oăn, của Bảng Phong Thần
Cuối Cùng gồm 50 cuốn, thuộc về Kẻ Xa Lạ của ông Tây thuộc địa Albert
Camus, và
là do 6000 độc giả Tây chọn. Tuy không được hân hạnh đó, nhưng tôi đếch
cần.
Cũng chắng vếc xê vếc xiếc gì hết trơn hết trọi. Biết đâu nhờ vậy, tôi
sẽ có
tên trong Bảng Phong Thần Đầu Tiên của thế kỷ 21. Tại sao không?
Phải nhấn mạnh một điều là kẻ chiến thắng vĩ đại này rất được lòng
phái... nữ -
ấy chết xin lỗi - mấy tướng đại lãn, hay nói theo người miền bắc, lười
chảy
thây ra: đây là một cuốn tiểu thuyết rất ngắn, 123 trang, chữ bự tổ
trảng...
Đâu cần phải bôi đen hàng ngàn trang giấy mới đẻ ra được một đại tác
phẩm, như
Proust...
«La vie est d'autant mieux vécue qu'elle n'a pas de sens. »: Đời đáng
sống, và
nếu nó đếch có một ý nghĩa nào, thì lại càng đáng sống!
Contrairement au refus snob de Sartre, 7 ans plus tard, qui confère de
l'importance à la récompense, Albert Camus accepte le Nobel précisément
parce
qu'il s'en moque. On peut se foutre de l'univers, et l'accepter tout de
même,
voire l'aimer. Ou bien il faut se suicider tout de suite, puisque tel
est le
seul « problème philosophique vraiment sérieux ».
Trái hẳn cái trò xì tin dởm của Sartre, 7 năm sau đó, Camus chấp nhận
Nobel, vì
ông đếch cần. Người ta có thể ị vào mặt cả vũ trụ, có Đảng ở trong đó,
thì hà
cớ gì từ chối Nobel?
Hay là tự tử liền tù tì, bởi vì đó là vấn đề triết học nghiêm túc.
Đây là muốn nhắc tới câu của Camus: Suy nghĩ, cuộc đời đáng sống hay
không đáng
sống, là trả lời câu hỏi nghiêm túc của triết học.
Phi lý của Camus ở đâu mà
ra?
|