*

Tribute

1
2
3























Tưởng niệm Camus, 50 năm sau khi ông mất

Bây giờ đọc lại Những Con Dã Tràng, Gấu nhận ra một điều thật là hiển nhiên, nếu chưa từng đọc Kẻ Xa Lạ, không thể nào viết ra được.

Kỹ thuật viết, [lồng ba bốn câu văn vào nhau, Người con gái lớn đứng im lặng, nhìn ra biển. Tôi bỗng nói, tôi không thể làm sống lại người đã chết, tóc xõa che lấp cả khuôn mặt, và hơn nữa, tôi không muốn ngồi vào chỗ của người khác, cúi xuống nhặt một viên sỏi, ném ra xa, cử chỉ lạnh lùng, người đàn bà (bà mẹ) ngạc nhiên nhìn tôi.. ] chưa từng có trong cõi văn Mít, trước Gấu, và cho tới bây giờ, cũng vẫn chưa có!

Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn từng lỗ chân lông.
Nguyễn Ngọc Tư: Khói trời lộng lẫy 

Câu văn mở ra, [khởi đầu là lời], mới lộng lẫy làm sao!

Bất giác nhớ đến câu văn mở ra đời văn của Gấu:
Villa trông ra biển

Của Camus:
Bữa nay mẹ tôi mất.
*
Người mở truyện hách nhất, có lẽ là Camus.
Thử coi, có đúng không.
NOCES A TIPASA
Au printemps, Tipasa est habitée par les dieux et les dieux parlent dans le soleil et l'odeur des absinthes, la mer cuirassée d'argent, le ciel bleu écru, les ruines couvertes de fleurs et la lumière à gros bouillons dans les amas de pierres.
Hôn lễ ở Tipasa
Vào mùa hè, Tipasa là nơi trú ngụ của những vị thần, và những vị thần lèm bèm với nhau trong ánh nắng, trong mùi ngải, biển rát bạc, trời xanh tươi, giữa những điêu tàn phủ hoa, giữa ánh sáng sủi cục trong những đống đá.
LE VENT A DJÉMILA
Il est des lieux où meurt l'esprit pour que naisse une vérité qui est sa négation même. Lorsque je suis allé à Djémila, il y avait du vent et du soleil, mais c'est une autre histoire.
Gió về Djémila
Có những nơi chốn mà ở đó, tinh thần chết đi để nẩy ra sự thực, là phủ định chính nó. Khi tôi tới Djémila, thì ở đó có gió, có mặt trời, nhưng đó một câu chuyện khác.
L'ÉTÉ A ALGER
Ce sont souvent des amours secrètes, celles qu'on partage avec une ville. Des cités comme Paris, Prague, et même Florence sont refermées sur elles-mêmes et limitent ainsi le monde qui leur est propre. Mais Alger, et avec elle certains milieux privilégiés comme les villes sur la mer, s'ouvre dans le ciel comme une bouche ou une blessure. Ce qu'on peut aimer à Alger, c'est ce dont tout le monde vit: la mer au tournant de chaque rue, un certain poids de soleil, la beauté de la race. Et, comme toujours, dans cette impudeur et cette offrande se retrouve un parrfum plus secret. A Paris, on peut avoir la nostalgie d'espace et de battements d'ailes. Ici, du moins, l'homme est comblé, et assuré de ses désirs, il peut alors mesurer ses richesses.
Mùa hè ở Alger
Luôn luôn là những mối tình thầm kín, thứ mà người ta chia sẻ với một thành phố. Những đô thị như Paris, Prague, và luôn cả Florence, chúng tự khép lại, và giới hạn cái thế giới của riêng chúng. Nhưng Alger, và, cùng với nó là một vài vùng đặc quyền như những thành phố nhìn ra biển, mở ra bầu trời, như một cái miệng, hay như một vết thương. Điều mà người ta có thể yêu ở Alger, là ai cũng có phần sống của mình: biển ở mỗi ngõ quặt của con phố, một mẩu mặt trời, cái đẹp của sắc dân. Và luôn luôn, trong cái dơ dáng, đĩ thõa, thèm cho không, biếu không, là một mùi phấn hương bí ẩn. Ở Paris, người ta có thể hoài nhớ không gian, những tiếng vỗ cánh. Ở đây, ít ra, con người tràn đầy, no đủ, và một khi, mọi ham muốn đều được bảo đảm, thằng chả bây giờ bèn thẩm định sự giầu có của mình.
*
Gấu, khi mở ra Mùa Hè Miền Nam, đã chắc mẩm, kể như xong, một truyện dài, chẳng thua gì Lumière d’Aout của thầy Faulkner.
Hóa ra tẽn tò!
*
Phi lý của Camus ở đâu mà ra?
*

Albert Camus và đạo đức học của những giới hạn

Hai mươi năm trước đây, Albert Camus là một tác giả thời thượng; những kịch phẩm, tiểu luận và tiểu thuyết của ông giúp những người trẻ tuổi, sống. Vào lúc đó, bị ảnh hưởng Sartre, say mê những tư tưởng của ông ta, tôi đọc Camus mới ngán ngẩm làm sao, và nhiều khi còn bực bội về cái gọi là chất trữ tình làm ra vẻ trí thức của ông!
Sau đó, khi tác phẩm di cảo của ông, Sổ Ghi [Notebooks], được xb, vào năm 1962 và 1964, tôi bèn đi vài đường tạp ghi, bằng một giọng văn tầm phào, bố lếu bố láo, phiến diện, tôi chụp cho cái xác của ông một cái nón mầu ‘xám chưa đủ xám’[a ‘premature greyness’]. Dựa vào thái độ của ông trước thảm kịch Algeria - một vị trí mà tôi thật sự chẳng hiểu cái chó gì, hò theo những kẻ thù, đối thủ của ông, không chịu đọc thẳng ông, tôi tự cho phép mình vẽ ra một hình ảnh tiếu lâm về ông, một kẻ công chính, một ông bình vôi, the lay saint, mà những đệ tử của ông để lên bệ thờ và cứ thế xì xụp!
Tôi đếch thèm đọc ông, cho mãi tới mấy tháng trước đây, may mắn làm sao, trong khi theo dõi một vụ khủng bố tấn công ở Lima [ở Sài Gòn, do tay khủng bố VC nằm vùng DH, cũng một đệ tử của ông, thực hiện! Hà, hà!]….
Mario Vargas Llosa, Lima 18 May 1975
[còn tiếp]

*


Ui chao, xuống phố, lượm phụ trang văn học của tờ Le Monde:

1959: Gấu trước tác Những Con Dã Tràng ở Sài Gòn
1959: Tiểu thuyết mới đăng quang ở Pháp.
1959: Kẻ Công Chính Cuối Cùng, Le Dernier Des Justes, của André Schwart-Bart, được Goncourt của Tây.

Gấu quả là bảnh thật!

Albert Camus, 50 năm sau khi mất

Albert Camus và đạo đức học của những giới hạn

Hai mươi năm trước đây, Albert Camus là một tác giả thời thượng; những kịch phẩm, tiểu luận và tiểu thuyết của ông giúp những người trẻ tuổi, sống. Vào lúc đó, bị ảnh hưởng Sartre, say mê những tư tưởng của ông ta, tôi đọc Camus mới ngán ngẩm làm sao, và nhiều khi còn bực bội về cái gọi là chất trữ tình làm ra vẻ trí thức của ông!
Sau đó, khi tác phẩm di cảo của ông, Sổ Ghi [Notebooks], được xb, vào năm 1962 và 1964, tôi bèn đi vài đường tạp ghi, bằng một giọng văn tầm phào, bố lếu bố láo, phiến diện, tôi chụp cho cái xác của ông một cái nón mầu ‘xám chưa đủ xám’[a ‘premature greyness’]. Dựa vào thái độ của ông trước thảm kịch Algeria - một vị trí mà tôi thật sự chẳng hiểu cái chó gì, hò theo những kẻ thù, đối thủ của ông, không chịu đọc thẳng ông, tôi tự cho phép mình vẽ ra một hình ảnh tiếu lâm về ông, một kẻ công chính, một ông bình vôi, the lay saint, mà những đệ tử của ông để lên bệ thờ và cứ thế xì xụp!
Tôi đếch thèm đọc ông, cho mãi tới mấy tháng trước đây, may mắn làm sao, trong khi theo dõi một vụ khủng bố tấn công ở Lima [ở Sài Gòn, do tay khủng bố VC nằm vùng DH, cũng một đệ tử của ông, thực hiện! Hà, hà!]… .
tôi lại mở ra Kẻ Nổi Loạn, một tiểu luận của ông về bạo động trong lịch sử mà tôi đã quên mẹ nó từ lâu (hay, chẳng bao giờ hiểu được).
Ui chao, đúng là một mặc khải.
Cú tìm tòi, nghiên cứu của ông về những nguồn gốc triết học của khủng bố, món quà quí báu [đặc sản Nam Bộ của đám VC nằm vùng đem đến cho dân Miền Nam, trong có Gấu, đã từng xơi hai trái mìn cờ lê mo của DH hoặc bạn của ông!] của lịch sử đương thời, làm cho tôi kinh ngạc đến mất hết cả hồn vía, vì cái sự sáng suốt, cái sự xác đáng nóng bỏng của nó, cùng với nó là những câu trả lời cho những hồ nghi và sợ hãi mà tôi cảm thấy, về thực tại đất nước tôi. Tôi sướng điên lên, khi khám phá ra rằng, một số những nan đề về chính trị, lịch sử và văn hóa, của riêng tôi, sau bao nhiêu lần vấp ngã, sa sẩy, té lên té xuống, sau cùng đã đi đến những kết luận, những giải đáp y chang của ông Camus!
Trong mấy tháng sau đó, do tôi cứ thế đọc đi đọc lại ông, sau bao bất đồng không thể tránh khỏi, cuối cùng tôi thấm đòn, gật gà gật gù chịu ông, và biết ơn ông.
Sau đây, tôi sẽ đi vài đường, về cái hình ảnh mới mẻ mà tôi nhìn ra ở nơi ông.
Để hiểu tác giả Kẻ Xa Lạ, thì chớ bao giờ quên ba món đặc sản, đúng ra phải nói, ba cái cù lần của ông: một kẻ miệt vườn, một tên ven biên, và một gã thuộc cộng đồng thiểu số, a provincial, a man of the frontier, and a member of a minority. Cả ba món này, theo tôi, đã góp phần tạo nên cách cảm, cách viết và cách nghĩ của ông.
Camus là một gã miệt vườn theo đúng nghĩa thật nghiêm ngặt của cái từ này, vì ông sinh ra, được dậy dỗ và trưởng thành ở một nơi thật quá xa thành phố, khu thị tứ, chốn phồn hoa, ở một nơi thật xa nước Pháp: Algeria, Bắc Phi. Khi ông dời hộ khẩu thường trú vào Paris, ông vào lúc đó là đúng cái tuổi Cụ Khổng gọi là tam thập nhi lập, Llosa viết, yếu tính mà nói, thì ông đã là cái mà ông sẽ là suốt cuộc đời còn lại sau đó, he was already in essence what he would be for the rest of his life.
Với tất cả những sự kính trọng, chúng ta có thể phán, Camus là một anh chàng nhà quê, cù lần, miệt vườn, theo nghĩa tốt nhất, và tệ nhất của những cái nón này!
Thứ nhất, bởi vì, không như mấy thằng cha sống ở những thành phố lớn, ông sống trong một thế giới mà ‘quang cảnh quê ta’ thì luôn luôn tràn trề, chỉ có nó, và nó mới quyến rũ, mới quan trọng làm sao, làm sao xi măng, cát vữa, nhựa đường… so với nó cho được! Cái tình yêu thiên nhiên của Camus thì thường trực ở trong tác phẩm của ông. Trong những tác phẩm đầu tay – Beteween Yes and No [Giữa Ừ và Không Ừ], Noces [Hôn Lễ, Trần Thiện Đạo, trên báo Văn ngày nào dịch là Giao Cảm, nếu Gấu nhớ không lầm], Mùa Hè, Minotaure ou halte d’Oran [The Minotaur or the Shop in Oran] - mặt trời, biển, cây cối, hoa lá, đất cứng, và những đụn cát nóng bỏng của Algeria là chất liệu thô, nguyên, ròng, sẵn sàng chờ được miêu tả, và mở ra suy tưởng.
[Ui chao, lại nhớ đến đoạn mở ra Những Con Dã Tràng: Villa trông ra biển. Tường phía trước thấp… ]
Chúng là những điểm qui chiếu bắt buộc của tiểu luận gia trẻ tuổi, khi ông toan tính định nghĩa cái đẹp, nâng bi cuộc sống, hay lèm bèm về ‘ngứa quá, ngứa quá’ [thiên hướng nghệ thuật, artistic vocation]. Cái đẹp, cuộc đời, nghệ thuật, chúng đan dệt vào với nhau, ở trong những bản văn ngắn ngủi, chau chuốt, tẩn mẩn này, và biến thành một thứ tôn giáo tự nhiên, a sort of natural religion, một sự hợp nhất thật bí ẩn với đất, với đá, với những thành phần thiên nhiên [Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau, là cũng theo nghĩa này], một sự thánh hoá thiên nhiên khiến tôi [Llosa] nhớ tới José Maria Arguedas, trong những cuốn tiểu thuyết của tác giả này cũng xẩy ra tình trạng tương tự.
Mario Vargas Llosa, Lima 18 May 1975
*
Milosz phán, trong diễn văn Nobel, mới thật là bảnh, và khiến Gấu nhớ đến quê Bắc Kít của Gấu, cái làng ven Sông Hồng của Gấu, nhưng khi về, đéo còn cái chó gì hết, thảm ơi là thảm.
It is good to be born in a small country where nature is on a human scale, where various languages and religions have coexisted for centuries. I am thinking here of Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le với con người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi đang nghĩ về Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Và đây là cái cảnh Gấu trở về.

*

Điếm canh đầu làng Thanh Trì, quê hương Bắc Kít ngày nào của Gấu.

Có thể nó vưỡn là cái điếm canh từ ngày xửa ngày xưa chăng?
Từ đó, có lối đi xuống làng. Còn một lối xuống nữa, ở cuối làng, hai bên đường là rừng tre xanh phủ ngập lối đi, đi hết rừng tre, thì tới hai căn nhà, bên phải, là cái nhà gạch của bố mẹ Cô Hồng Con, bên trái, là cái ao, và nhà của ông chú của Gấu, Chú Trực, con ông giáo Dực, ông giáo làng của cả hai bố con Gấu.
Chú Trực sau làm Việt Gian, mật thám cho Tây, lần Gấu về có gặp lại, kể chuyện cũ, ông phân bua với mấy người ngồi cùng bàn, bữa tiệc đoàn tụ: Tôi đâu có nói sai đâu, hồi đó Lưu Hữu Phước tính nhận tôi làm đệ tử cắp cặp theo hầu ông, nhưng bố tôi không chịu.
Cái ao bên ngoài, là nơi Cô Hồng Con bò ra rồi gục chết ngay bên bờ ao.
Khi Gấu về, cả làng chẳng còn gì. Tre, ao gì cũng chẳng còn. Trưa nắng gắt. Gấu nhớ lại cái cảm giác, một lần đi chơi bời, gặp một em bạch bản, em nằm phơi trên giường, dưới ánh đèn chói loà, y chang cái cảnh bữa Gấu hội ngộ làng xưa.
Thảm thật!
Khủng khiếp thật, đúng hơn!


Albert Camus, 50 năm sau khi mất

Albert Camus và đạo đức học của những giới hạn

Ở trong những tác phẩm sau này của Camus, phong cảnh – và trên tất cả, phong cảnh quê ta, miền đất thiên đàng Địa Trung Hải của ông - vưỡn hiện diện, thường như là, một ham muốn tàn khốc, an atrocious desire, hay một hoài nhớ khủng khiếp, đến trở thành khốn khổ, khốn nạn, rất ư là hơi bị thảm hại [y chang Gấu, những ngày sắp lìa đời!], a terrible nostalgia: Marthe và bà mẹ của cô, những tên trộm cướp và những tên sát nhân trong Ngộ Nhận, làm thịt du khách trong quán trọ, để có một ngày, có đủ vốn liếng, tậu được một căn nhà bên bờ biển [Ui chao, chẳng lẽ đây là giấc đại mộng của những anh nhà quê Bắc Kít, những anh Cu Sài, xẻ dọc Trường Sơn, hy vọng vô được nước Xề Gòn, kiếm tí chiến lợi phẩm, về làng cũ, xây cái nhà gạch nho nhỏ, sửa sang phần mộ cho ông cụ, cưới một em ở Xóm Đoài, Xứ Đoài mây trắng lắm?], và cái anh chàng Tướng Về Hưu, Jean Baptiste Clemence, sau khi xây dựng xong Địa Ngục, bèn đi vào miền Sa Đọa, The Fall, tên một tác phẩm của Camus, sám hối, và trong một khoảnh khắc trầm thống, rống lên như một con quỉ, Quỉ Bắc Kít, trong một cuộc độc thoại nội tâm: “Ôi, mặt trời Bắc Kịt, ôi bãi biển Đồ Sơn, ôi những hòn đảo Hạ Long của những trận gió thương mại, ôi những hồi ức của thuở thanh niên, chúng mới làm cho đám Bắc Kít chúng ta chán chường làm sao!” [‘Oh, sun, beaches, islands of trade winds, memories of youth that make us despair’]: Ở Camus, cái đẹp và cái ấm mà con người được thừa hưởng từ thiên nhiên không chỉ thỏa mãn nỗi thèm khát của cơ thể, mà còn là một thứ thánh dược thanh tẩy tâm hồn! 

Ui chao, những câu sau đây, trong Lần Cuối Sài Gòn, của 'đại văn hào' Gấu Nhà Văn, mà không phải những "thánh ngôn" 'thanh tẩy tâm hồn', ư?

Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.

Lần thứ nhì bỏ chạy quê hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm thêm cay đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống lại, chỉ một sợi nắng Sài-gòn.

Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu mủ, ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ sau này, đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó: Miền Bắc, Hà-nội.

Suốt cuộc đời, Camus luôn tỏ ra trung thành với niềm tin, rằng con người phải hoàn chỉnh trọn vẹn chính mình, sống trọn với bản chất của mình, khi mình tương hợp với thế giới tự nhiên, khi cuộc ly dị giữa nó và thế giới tự nhiên sẽ cắt manh mún cuộc hiện hữu nhân sinh của nó. Có lẽ, đây là niềm tin, kinh nghiệm của một người lớn lên không nương tay nhờ sỏi, đá, bụi bặm, giọt mưa, sợi nắng, và, nó tách Camus ra khỏi cái đám đông khốn kiếp ở thành phố, ở Paris, và hơn thế nữa, tách ông ra khỏi cả một tầng lớp trí thức cùng thế hệ với ông. Tất cả lũ, nào Mác Xịt, nào Ky Tô, nào tự do, nào hiện sinh, đều có một điểm chung: chúng đều thần tượng hoá lịch sử. Sartre và Merleau-Ponty, Raymond Aron và Roger Garaudy, Emmanuel Mounier và Henri Lefebvre, ít ra đều đồng ý về một điểm: rằng con người là một con người xã hội, và, để hiểu nỗi khốn cùng, những khổ đau của nó, và đề ra giải pháp cho vấn đề của con người, việc đó chỉ thế xẩy ra, ở trong cái khung lịch sử. Kẻ thù ở bất cứ đâu đâu, ở bất cứ điều gì khác, nhưng đám này đều chia sẻ với nhau một giáo điều rộng lớn nhất trong mọi giáo điều của thời đại chúng ta: rằng lịch sử là chìa khóa cho câu hỏi nhân sinh [that history is the key to the human question], là nơi chốn, môi trường, ở đó, trọn số phận của con người được quyết định.
Llosa:
Albert Camus và đạo đức học của những giới hạn

Bây giờ thì Gấu hiểu được, vị trí của ông anh nhà văn nhà thơ của Gấu, và cái sự tại sao ông không chịu nổi Camus!
*
"Historians," says Cervantes in Part I of Don Quixote, "should be accurate, truthful and dispassionate, and neither interest nor fear, rancor nor affection should make them draw crooked the path of truth, whose mother is history, rival of time, safe keeper of events, witness of things past, example and caution of things present, warning of things to come." This paragraph is the example chosen by Jorge Luis Borges to show how different readers create through their readings different stories. In his famous fiction of 1939, "Pierre Menard, Author of Don Quixote," a "fake" biography written under the guise of a scholarly essay, Borges imagines a twentieth-century French writer, Pierre Menard, whose purpose is to write, once again, Don Quixote. Not to compose another Quixote, nor to transcribe or copy the original, but to create again, in a new time and place, word by word, the same novel as the one written by Cervantes. Borges then quotes the last section of the above paragraph, and compares Menard's version to that of the original; the words are, of course, the same. Cervantes's. paragraph, however, according to Borges, is a mere rhetorical encomium of history. Menard's, instead, is an astonishing text: history, writes Menard, is the mother of truth. "Menard," says Borges, "a contemporary of William James, defines history not as an investigation of reality but as its source. Historical truth, for him, is not what took place; it is what we believe took place."
Alberto Manguel: The Books of Don Quixote



Gấu, nhà văn
Nhà Hội


Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập tành viết lách. Nhưng sự vỡ mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu. Trong bài viết The Mandarin, ông không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre, Buồn Nôn. La Nausée. (1)
*
"Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp mình, tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai cấp vô sản"
TTT: Bếp Lửa
Llosa giải thích, thời của ông, cũng là thời của TTT:
Hoàn cảnh bi thương của đám trí thức tiến bộ những năm 1950 và 60, có thể tóm tắt bằng câu của Sartre, trong một tiểu luận, viết năm 1960:
"Hợp tác với Đảng Cộng Sản, thì, cùng một lúc, vừa cần thiết, vừa bất khả."
*
Đó không phải là cách đọc Sartre của đám Gấu, và đồng bọn, thường được coi là nhóm 'tiểu thuyết mới" ở Miền Nam.
Một cách nào đó, đám Gấu đọc Sartre từ La Nausée, và cũng bắt đầu viết, từ đó, từ những phát giác văn chương, của Sartre, nhưng do quá mê chính trị, ông đã bỏ qua.
Gấu đã từng kể kinh nghiệm đọc La Nausée của Gấu, và của ông bạn HPA. Có những xen, hai đứa đọc, trong những tình huống, thời điểm khác nhau, nhưng, phản ứng, có thể nói, y hệt nhau.


 *

HPA @ home, hẻm Trần Quí Cáp, Saigon, cc 2002


Tôi "biết" Sài-gòn, phần lớn là qua "ông thầy" Huỳnh Phan Anh. "Thằng chả" dậy tôi chơi banh bàn, bi da. Quán bi da nổi tiếng mà lâu ngày tôi quên mất tên, ở khu Ngô Tùng Châu, gần trường Nguyễn Bá Tòng, là nơi hai đứa nhiều ngày đứng suốt buổi, khi ra khỏi quán hai chân rã rời, kéo nhau băng qua đường, leo lên gác xép ngủ. Nhà Huỳnh Phan Anh là nơi lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái bàn ăn "dã chiến", khi ăn mở ra, ăn xong xếp lại. Đứa em trai nói ngọng. Mấy chị em là nguồn kinh tế của hai đứa chúng tôi. Rồi thằng chả dậy tôi "xóm" nghĩa là gì.
Sau này học trò vượt ông thầy. Tôi sa xuống mãi đáy Sài-gòn, những nơi chốn mà bạn tôi đã từng căn dặn chớ mò tới. Cái trò đọc sách trong một quán chệt, chỉ cần một ly cà phê túi, hoặc ly hồng xà (hồng trà), rồi cứ thế ngồi suốt buổi, là cũng do anh truyền cho tôi. Và hai đứa chia nhau kinh nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể cho tôi nghe, bữa trước đọc Buồn Nôn, La Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong thành phố Bouville, "một mình mà như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc tới đây, thú quá tao cũng bỏ ra ngoài đường lang thang một hồi...", và có lần cũng cảm thấy, như Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư đầu đường". Tôi cũng có những kinh nghiệm y hệt như vậy.
Qua anh tôi có được quá nhiều bạn: Dương Văn Ba, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật... Có thời gian tôi "cộng tác" với báo Điện Tín, là do anh. Thân nhất, có lẽ là lúc anh đang học Sư Phạm Đà Lạt. Tuần nào tôi cũng nhận được thư. Anh vốn là một con người rất cứng rắn, "dur", ít khi bộc lộ tình cảm. Những lá thư là một Huỳnh Phan Anh "đích thực", đối với tôi.
Lần đầu tiên tôi biết Đà Lạt là lần lên thăm anh. Đúng vào dịp Giáng Sinh, với một người bạn. Cả ba đi lang thang ngoài đường đến gần sáng, say, hát, la, rống dọc theo những con dốc. Lần đó, tôi có cảm tưởng sống lại Hà-nội, và mơ hồ hiểu được tâm trạng của những người lính lê dương nhớ nhà, say sưa giữa thành phố, giữa cuộc chiến "không phải của họ".
Với Huỳnh Phan Anh, tôi chỉ ân hận một điều, anh dậy tôi nhiều quá, còn tôi, chỉ có một bài học, đúng ra là một kinh nghiệm, mà không làm sao nói lại cho anh hiểu: tại sao bỏ vào Nam.
Nhưng câu hỏi đó, cho đến nay tôi cũng vẫn chưa trả lời được, cho chính tôi.
Chợ Đũi, Huỳnh Phan Anh, và tôi

Milosz không ưa Sartre, lẽ dĩ nhiên, vì Sartre mê Cộng Sản, mà ông từ  phía đó bỏ chạy qua Paris. Ông  hợp với Camus, và cả hai rất thông cảm nhau, về cái tai ương của nhân loại:  Cái Ác Mầu Đỏ đó.
Sau đây là "đầu vào" [input, entry], về Camus của ông trong ABC.
Camus, Albert. Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông, sau khi xuất bản Con Người Nổi Loạn, L'homme révolté. Ông viết như một con người tự do [like a free man], nhưng hoá ra là điều này không được phép, bởi vì đụng vô lằn ranh "chống-đế quốc" [có nghĩa, chống Mỹ, và ủng hộ Xô Viết]. Chiến dịch thô bỉ nhằm phạng Camus của Sartre, và Francis Jeanson, trên tờ Thời Đại Mới, được a dua [joined] bởi Simone de Beauvoir, cú này trùng hợp với thời điểm tôi đoạn tuyệt [break] với Varsaw vào năm 1951. Đây cũng là thời điểm mà Sartre viết về Camus:
"Nếu bạn không ưa cả Cộng Sản lẫn Tư Bản, thì chỉ còn có một chỗ cho bạn dung thân là Quần Đảo Galapagos".
Camus thò tay ra, bắt tay tôi, vào thời điểm đó, thật quan trọng, thật chí tình.
Milosz viết về bạn tình, bạn đường, của Sartre.
Beauvoir, Simone de. Tôi chẳng hề gặp, nhưng chuyện không ưa nổi bà ta thì không hề giảm, sau khi bà mất, và ngay cả cho tới bi giờ, khi bà chỉ còn là một cái tiểu chú về thời của bà...  Thì cứ thú nhận, thẳng ra ở đây, một thằng nhà quê miệt vườn, làm sao mà ưa cho nổi một bà lớn [grande dame]...  Tôi không thể tha thứ cho bà ta về những trò hạ cấp, cùng Sartre, nhắm bề hội đồng Camus.
Nói tới Camus, Gấu tôi nhớ, có lần ngồi Pagode, nhà thơ TTT chê Kẻ Xa Lạ, khi so sánh đoạn tử tội Meursault gặp ông thầy tu, với cũng một xen như vậy, trong Đỏ và Đen, thì Camus không đáng là học trò của Stendhal.
Ấy là mấy chục năm sau, thằng em diễn lại câu phán của ông anh, qua... tưởng tượng.
Quả thế thực, nhưng theo Gấu tôi, phải tính tới cái tuổi của người đọc, khi đọc bất cứ một tác giả.
Stendhal là phải già già một chút mới đọc được. Còn me-xừ Meursault không kịp có tuổi già. Những nhân vật như thế, là phải "chết non", mượn lại từ của ông anh.
Và có những tác phẩm, bạn không nên đọc sớm quá, và nên để dành! Lời khuyên của ông bà chúng ta, chớ đọc Phan Trần, chớ đọc Thuý Vân Thuý Kiều, là có thiện ý chứ không liên quan tới đạo đức. Cái cảnh, "Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Rành rành trước mắt một tòa thiên nhiên", chỉ 'trở thành hiện thực', khi bạn vừa đọc xong câu đó, là bèn thực hành liền!
Theo nghĩa đó, một độc giả của tờ TLS [số tháng Hai, 2004, mục Sổ Tay] sung sướng la lên rằng, may quá, tới hơn nửa đời người, mới đọc Hamlet. Đúng là một món quà quí báu dành để đọc vào lúc xế bóng về chiều, mái tóc muối tiêu [a mid-life gift to himself].
Sự nổi tiếng của một số tác giả ở trong nước, sau 1975 thí dụ như NHT, DTH, BN, có dư luận hải ngoại cho rằng, họ ảnh hưởng văn chương miền nam trước 1975. Tôi nghĩ, có. Chiến thắng miền nam, và thực thế phũ phàng sau đó, làm sao không ảnh hưởng lên bất cứ một người viết?  Đoạn cuối Nỗi Buồn Chiến Tranh, đọc, thấy phảng phất Tiếng Động của Thanh Tâm Tuyền. Tướng Về Hưu có không khí hiện sinh của một thời hậu chiến ở bên...  Tây. Thiếu, là thiếu một tiếng hát, của Gréco, và một điệu Jazz, thí dụ, some of these days... Một ngày nào, anh sẽ nhớ em...  của La Nausée.
Thiệp có thể "mơ hồ" cảm nhận ra sự thiếu sót đó, và thay bằng tiếng hát... nữ thuỷ thần.

Kinh nghiệm đọc Buồn Nôn
Có thể nói, Gấu này cũng có, cùng hai ông thầy, Faulkner và Sartre, như Llosa, [ông hơn Gấu một tuổi, sinh 1936, cùng tuổi TTT], khi tập tành viết lách. Nhưng sự vỡ mộng của ông, đối với Sartre, theo Gấu, là do, ông đọc Sartre khác Gấu. Trong bài viết The Mandarin, ông  không hề nhắc đến cuốn bảnh nhất của Sartre, Buồn Nôn. La Nausée. (1)
Kinh nghiệm đọc Buồn Nôn


*

"Je serai ta femme". LH 16.8.1967
... sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
 Thời gian
 Hình chụp tại Đài Liên Lạc VTĐ số 5 Phan Đình Phùng Sài Gòn.
Bàn giấy ông trưởng đài, có cái bảng tên của ông: TBT.

 

Gấu làm quen với tờ Văn bằng truyện ngắn Thời gian. Truyện thứ nhì, sau truyện đầu tay trên Nghệ Thuật. Những Ngày ở Sài Gòn.

NĐT order, ngay lần đầu gặp, tại phở 44, Phan Đình Phùng.

*
Gấu sống, là nhờ được thay máu. Đêm đầu tiên, nằm phòng hậu-giải phẫu, đau quá, Gấu lăn lộn, vết thương nứt, máu chảy thành vũng dưới sàn giường. Sáng sớm, vừa cho phép thân nhân vô phòng, bà cụ lao vội vô, thấy thằng cu Gấu nằm ngay đơ, sợ quá la lên, y tá tới, tiếp máu liền tù tì, may thoát.

*
Đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, khi chàng tỉnh táo, nhận ra những khuôn mặt thân thương trong gia đình, chàng cố gắng cất tiếng nói nhưng không thể, và chàng cảm thấy thật rõ ràng một điều, chàng sẽ chết trong đêm, và trước khi chết, chàng sẽ được gặp nàng lần cuối cùng. Trước khi chết, chàng sẽ còn đủ thì giờ để nói với nàng, rằng chàng yêu nàng vô cùng, và tình yêu đó chẳng liên can gì đến đời sống hoặc cái chết, rằng nó phải như vậy, nếu không đã chẳng thể nào có nàng và chàng ở trên đời, và điều chàng ân hận, là chàng đã yêu nàng nhiều quá, như một lần chàng đã viết, "Chúng ta không sợ chúng ta không yêu thương nhau mà chỉ sợ chúng ta yêu thương nhau nhiều quá." Chàng cảm thấy đời chàng sẽ kết thúc như vậy, và chẳng thể nào khác.
Sáng sớm hôm sau, khi chàng nhận thấy đã chống cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa dối được định mệnh, đồng thời chàng cũng nhận ra một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc sai, dư, thừa, bất toàn, một giọng hát lạc giữa một bài ca, sự sống sót của chàng là một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã chẳng tới được nhà thương đêm đó.
Trong khi lần hồi sống lại, trong những lần nàng vào nhà thương Grall thăm chàng, nghe nàng kể chuyện, khi được tin, nàng đã khóc và không dám giụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ, và người trong nhà sẽ biết. Chàng nghe kể lại, vừa cảm động vừa hổ thẹn...
Thời gian
*
Bây giờ, sắp xuống lỗ, Gấu nhận ra, không phải đêm thứ nhì sau vụ mìn nổ, mà là đêm đầu tiên, nằm phòng hậu giải phẫu trên.
Thời gian Gấu nằm nhà thương Đô Thành, LH không tới thăm.
Tức là cái đêm tí nữa thì đi, đúng như định mệnh phán bảo, nhưng do LH không làm sao kiếm cớ ra khỏi nhà, nên định mệnh lại phán tiếp, thôi tha cho nó!
*
Gấu ăn tới hai trái claymore của mấy ông biệt động thành. Cú thứ nhất, gẫy cánh tay trái, giống như một nhánh cây bị bẻ, gập đôi lại. Cú thứ nhì, thủng bụng. Khi được đưa vô nhà thương Đô Thành, bác sĩ băng bó tạm cánh tay, lo giải phẫu vết thương bụng. Tay, cùng lắm thì cưa bỏ, bụng để lâu là đi. Một tay bác sĩ người Đức mổ.
Trong khi chờ vết thương bụng lành dần, cánh tay bốc mùi, kiến bu đen kịt mớ băng dính đầy máu. Đúng lúc đó, tổng giám đốc Bưu Điện, cũng là thầy của Gấu, ông Nguyễn Văn Điều, vô thăm, ông lắc đầu, ra lệnh, cho nó vô Grall liền. Tao trả tiền. Grall là nhà thương tư của Pháp. Cỡ Gấu không làm sao vô đó nổi.
Tao trả tiền, có  nghĩa, nhà nước trả tiền, trừ dần vào lương Gấu sau đó. Chỉ có ông mới quyết định được chuyện này.
Thành ra, "tha cho nó", còn sướng như vậy nữa!
Khi nằm nhà thương Đô Thành, tay Dirck Halstead, sếp UPI của Gấu vô thăm, hỏi nhà thương, hết bao nhiêu. Và anh xỉa tiền cho Gấu. Gấu bỏ túi. Đúng là "tha cho nó"!
Nhưng qua tới nhà thương Grall, UPI Nữu Ước lắc đầu, mày là nhân viên part time của chúng tao, không phải staff. Ít thì tao cho, nhiều quá, để VNCH, tức Bưu Điện của mày lo!
Không có thầy Điều, thì cũng thành độc thủ đại hiệp. Độc thủ, độc nhãn, thành Lưỡng Độc Đại Hiệp!
Ông TBT, trưởng đài, sếp của Gấu, may được một anh MP Mẽo, thường lên Đài nói chuyện với gia đình ở Mẽo, nhận ra, gọi xe cứu thương đưa liền vô bệnh viện của Mẽo. Sau đó, anh cũng qua Grall, nhưng chỉ để nằm chờ cho vết thương lành lặn. Anh kể lại, tao thấy tay bác sĩ Danney [hay Daney], vô phòng mổ ngay sáng sớm, tới đâu 4, hay 5 giờ chiều mới ra, đi không nổi, bước loạng choạng!
Phòng của anh nằm ngay phiá bên ngoài phòng mổ.
*
Vào thời kỳ Gấu ăn mìn claymore, nhân loại chưa phát minh ra chất inox. Để thay cho khúc xương bị mìn claymore thổi bay biến vào hư vô, bác sĩ sử dụng một thanh kim loại, không biết chất gì, nhưng được mạ bằng platine, tức vàng trắng. Gấu sau đó phải trả mấy năm mới hết nợ nhà nước.
Gấu lần đầu làm quen morphine, là do những ngày nằm nhà thương, sau vụ mìn nổ.
*

Thú thực, Gấu này chưa từng thấy, một quốc gia nào làm nhục người dân của nó, như đám VC trong nước.
Những người cầm viết, nếu có một chút lương tri, là cảm thấy nhục nhã, hơn lên, không biết bao nhiêu ngàn lần.
Không phải người cầm bút thì khác người dân thường. Nhưng, vì đã chọn cái nghề cầm bút như là nghiệp của mình, thì thường là, nhạy bén hơn, trong cái việc cảm thấy nhục nhã.
Và thường hay bị con bọ lương tâm cắn rứt hơn!
Lấy trường hợp Gấu, làm trang Tin Văn, một mình một chợ, muốn viết gì thì viết, và khi viết, chỉ phải đối diện với lương tâm của mình. Lỡ viết câu nào không đặng, đọc lại, nghe lương tâm phán, câu này không được, là delete.
Bịt miệng người dân, cho cả thế giới nhìn thấy, rồi sau đó bào chữa, làm vậy không đúng, vậy mà còn có kẻ thổi ống đu đủ, Ngài Chủ Tịch nước thật là "bản lãnh", mới dám 'nhận lỗi' như vậy!
*
Tin Văn xuất hiện như vậy là cũng được vài niên, từ 17, Tháng Năm 2003, không kể thời gian ăn nhờ ở đậu bên VHNT của PCL trước đó. Vậy mà, duy nhất chỉ có một lần, cơ quan quản lý tên miền gửi email, nhắc nhở, này, có gì thay đổi không đấy, nếu vũ như cẩn, thì OK, khỏi phải trả lời.
Sắp tới sinh nhật Gấu, nên đi vài đường cảm khái, mong bạn đọc, và VC, thông cảm! NQT
*
Réfugiés
« Le malheur ? Ils s'en accommodaient. L'environnement hostile ? Ils l'acceptaient. Comme la tempête, le froid, la sécheresse. La haine, la cruauté, la mort: on s'y habituait. Tout cela faisait partie de l'exil. Puisqu'il fallait vivre, autant se familiariser avec ses obstacles. »
Elie Wiesel
*
Bernard Kouchner - đại ân nhân của người Việt tị nạn, nhờ có ông mà có con thuyền cứu người vượt biển Đảo Ánh Sáng, ông còn là người sáng lập cơ quan "Y sĩ không biên giới", bất cứ người tị nạn nào đều biết tới, hoặc đã từng chịu ơn - mở ra chương Tị nạn, Réfugiés, trong cuốn Bất hạnh của những kẻ khác, Le malheur des autres, bằng câu trên, của Elie Wiesel, Nobel hòa bình, sống sót Lò Thiêu.
"Bất hạnh ư? Họ làm quen. Môi trường thù nghịch ư? Chấp luôn. Chấp luôn, nào bão tố, nào lạnh lẽo, nào khô cằn. Thù hận, độc ác, cái chết, làm quen luôn. Tất cả những thứ đó, thuộc về lưu vong, làm nên lưu vong. Và, bởi vì phải sống, thì phải làm quen với đủ thứ trở ngại."
*
Ông lập luận, nếu nhân loại tranh đấu, để loài vật, thí dụ loài voi, không bị tận diệt, thì cũng vậy, tị nạn cần được bảo vệ.
Ông vinh danh Sartre, sau khi hết còn bị Cộng Sản bỏ bùa mê, đã cùng với ông tranh đấu cho con thuyền Đảo Ánh Sáng, với câu nói tuyệt vời:
"Trước tiên hãy lo cứu những xác người!" ["D'abord sauver les corps"].
Quả là tuyệt vời, bởi vì đây là câu Sartre mượn Camus.
Một người bạn, và cũng là, kẻ thù, của ông.
*

Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của Pushkin."]
TTT: Trong đất trời

Liệu Gấu này có ngoa ngôn, khi dõng dạc phán: Cả một sự nghiệp 'đường ra trận...', 'mãi mãi tuổi hai mươi', cả một 'nhật ký họ Đặng'... sánh không bằng 'nửa' lời ca của Trần Thiện Thanh: Trong khói súng xây thành, mắt quầng thâm mất ngủ... Sao không hát cho những bà mẹ già, những người còn mải mê, những người vừa nằm xuống chiều qua? (1)
Nếu phải nhìn lại cuộc chiến, thì, một điều hiển nhiên, giải thích thái độ chống đối nhà nước VC, của cộng đồng hải ngoại, là do những gì xẩy ra sau đó, và tiếp tục xẩy ra cho đến ngày nay, đối với dân chúng ở cả hai miền.
Từ đó, suy ra: tất cả những ai dung thứ cho chế độ đó, đều là VC hoặc những kẻ cùng hưởng lợi với họ.
(1) Trong cuốn DVD tưởng niệm Trần Thiện Thanh, người ta được biết, bản nhạc Rừng Lá Thấp, có những lời ca như trên, được Trần Thiện Thanh sáng tác trong vụ Mậu Thân, nhân cái chết của một bạn thân, sĩ quan VNCH.
Nhật Ký
*
Chống Cộng điên cuồng?
Nhưng Cộng nào, mới là vấn đề.
Trước 1975, gần như không có chống Cộng, đừng nói Chống Cộng điên cuồng, trừ một thiểu số, có thân nhân bị họ giết hại, hay một đấng tiên tri, hiểu hơn hết cả mọi người, nếu Cộng thắng, là sẽ khủng khiếp lắm, là sẽ xẩy ra hiện tượng Chúa Sẩy Thai.
Sau 1975, Chống Cộng điên cuồng như thế, vẫn chưa đủ.
Phải làm sao y hệt như trước 1975, nhưng ngược lại, nghĩa là, cả nước, cả trong lẫn ngoài, cả ở trên trời lẫn dưới đất, cả ở thiên đường, lẫn địa ngục, đều Chống Cộng điên cuồng!
Gấu, nhà văn


Suốt cuộc đời, Camus luôn tỏ ra trung thành với niềm tin, rằng con người phải hoàn chỉnh trọn vẹn chính mình, sống trọn với bản chất của mình, khi mình tương hợp với thế giới tự nhiên, khi cuộc ly dị giữa nó và thế giới tự nhiên sẽ cắt manh mún cuộc hiện hữu nhân sinh của nó. Có lẽ, đây là niềm tin, kinh nghiệm của một người lớn lên không nương tay nhờ sỏi, đá, bụi bặm, giọt mưa, sợi nắng, và, nó tách Camus ra khỏi cái đám đông khốn kiếp ở thành phố, ở Paris, và hơn thế nữa, tách ông ra khỏi cả một tầng lớp trí thức cùng thế hệ với ông. Tất cả lũ, nào Mác Xịt, nào Ky Tô, nào tự do, nào hiện sinh, đều có một điểm chung: chúng đều thần tượng hoá lịch sử. Sartre và Merleau-Ponty, Raymond Aron và Roger Garaudy, Emmanuel Mounier và Henri Lefebvre, ít ra đều đồng ý về một điểm: rằng con người là một con người xã hội, và, để hiểu nỗi khốn cùng, những khổ đau của nó, và đề ra giải pháp cho vấn đề của con người, việc đó chỉ thế xẩy ra, ở trong cái khung lịch sử. Kẻ thù ở bất cứ đâu đâu, ở bất cứ điều gì khác, nhưng đám này đều chia sẻ với nhau một giáo điều rộng lớn nhất trong mọi giáo điều của thời đại chúng ta: rằng lịch sử là chìa khóa cho câu hỏi nhân sinh [that history is the key to the human question], là nơi chốn, môi trường, ở đó, trọn số phận của con người được quyết định.
Camus không bao giờ chấp nhận cái sắc lệnh hiện đại này. Không hề chối bỏ chiều hướng lịch sử của con người, ông luôn luôn tin rằng, giải thích số phận con người hoàn toàn bằng kinh tế, xã hội hay ý thức hệ, là không đầy đủ, và trên đường dài, nguy hiểm. Trong Mùa Hè, 1948, ông viết: “Lịch sử chẳng hề giải thích vũ trụ tự nhiên, có trước nó, cũng như cái đẹp, ở trên nó”. Cũng trong bài tiểu luận, ông phản đối sự lãnh đạo của những đô thị, vì nó a tòng [associated: kết hợp] với tính tuyệt đối của lịch sử, và sau này, trong Kẻ Nổi Loạn, ông coi đây là những nguồn gốc đưa đến bi kịch chính trị hiện đại, thời của những chế độ độc tài, chúng tóm lấy [take] những đòi hỏi lịch sử, như là biện minh triết học của chúng.
Ngược hẳn con người thành thị mà những tư tưởng gia hiện đại coi chỉ là một thứ sản phẩm lịch sử, mà những ý thức hệ lột sạch máu thịt; con người trừu tượng, đô thị này, bị tách ra khỏi đất đá và mặt trời, chẳng còn tí cá nhân cá nhiếc gì hết, non-individualized, không còn đồng nhất với gốc gác miệt vườn, với cánh đồng bất tận [đất đá, mặt trời, sông nước, con người… là một], con người đó biến thành một quần đảo của những phạm trù tinh thần, Camus nói về con người tự nhiên, được nối kết với thế giới của những phần tử như đất, như đá, như sông, như nước… rất hãnh diện, tự hào về cái vẻ rắn chắc của cơ thể của mình, yêu cơ thể, thân xác của mình và cố gắng thoả mãn nó, làm cho nó hài lòng, con người tự nhiên này nhận ra một điều, sự hài hòa giữa khung cảnh và vật chất [matter], thì không chỉ là sự viên mãn của lạc thú, và còn là sự xác nhận tầm lớn lao vĩ đại của con người. Của anh ta. Con người này, thì elemental [có tính phần tử, nguyên tố…] không chỉ vì những lạc thú của anh ta đơn giản, và trực tiếp, mà còn vì, anh ta thiếu [lack] sự gọt rũa cho thành đẹp của xã hội [social refinement], thiếu trò ma mãnh, nghĩa là, anh ta chẳng kính trọng qui ước, mù tịt về thất vọng, chán chường, và tình tiết [intrigue], mù tịt về cái gọi là tinh thần thích ứng, gia nhập, [hội đoàn hội điệc, cộng đồng, cộng điếc, thua, đếch có tớ!], và lại càng chẳng có tí tham vọng quyền lực, vinh quang, và của cải tiền bạc!
Đó là những điều mà anh ta không thể khinh miệt, bởi vì đếch biết đến chúng! Những đức tính, hạnh kiểm của anh ta, là sự thẳng thắn, giản dị, hơi bị tỏ ra thích, một cuộc sống X-pác-tơ [a Spartan life], những đức hạnh như thế, theo truyền thống mà nói, hầu hết kết hợp với cuộc sống nhà quê, thôn dã, tỉnh nhỏ, và nói một cách khác, với thế giới tà giáo, a pagan world. Chuyện gì xẩy ra khi một ông nhà quê, cù lần, một con người của thiên nhiên, như thế, nổi hứng lên, đòi cho hắn ta cái quyền, có cái phần của mình, ở trong một thành phố? Một thảm kịch: Thành phố sẽ tóm lấy, bóp nghẹt, đè nát, hủy diệt anh ta. Đây là đề tài của cuốn tiểu thuyết đẹp nhất, bảnh nhất của Camus: Kẻ Xa Lạ, The Outsider.
Từ lâu nay, người ta cứ lải nhải, lập đi lập lại, đây là một cuốn tiếu thuyết về bất công trên thế gian, injustice in the world, và, trong cuộc sống, in life, một minh họa văn học về triết học của sự phi lý mà Camus cố gắng miêu tả trong Huyền thoại Sisyphe. Bây gờ đọc, nó xuất hiện, trên tất cả, như là một tranh luận, argument, chống lại sự độc tài của qui ước và dối trá, mà cuộc sống xã hội dựa trên đó. Meursault, một cách nào đó, là một kẻ tử đạo sự thực, a martyr to truth. Điều dẫn tới cầm tù, kết án, và sau cùng, xử tử anh, là sự ‘không thể mang tính bản thể’, his ontological inability, để che đậy những cảm nghĩ của mình, để làm điều người khác làm: chơi cuộc chơi, play a part. Thật là vô phương, đối với anh ta, thí dụ, làm ra vẻ quá đau đớn khi dự đám tang của mẹ mình; anh ta cũng đau, chắc hẳn, nhưng không thể ‘làm ra vẻ’ quá đau, hay thốt ra những lời lẽ đúng qui ước của xã hội. Anh ta cũng không thể bầy ra, trước ông toà, sự ăn năn, sám hối, vì tội giết người, như là ông toà và mọi người đòi hỏi. Anh ta bị trừng phạt vì những điều này, chứ không phải vì tội ác mà anh ta phạm. Từ một điểm đứng khác, có thể coi, cuốn tiểu thuyết là một tuyên ngôn, coi đời sống thì bảnh, không có gì quí hơn nó, so với mọi thứ khác, a declaration in favor of the superiority of this life above any other. Meursault – con người nhân tố, the elemental man – thì có học, ăn nói gọn gàng, vừa đủ, cư xử hòa nhã (cái tội ác của anh ta, thực sự ra mà nói, nó đúng là một thứ công việc của sự tình cờ, a work of chance], và anh ta chỉ mất tự chủ, và trở thành khó chịu, cáu kỉnh, khi mọi người nói với anh ta về Thượng Đế, khi một người nào đó – như ông tòa, hay vị thầy tu nhà tù - từ chối không kính trọng niềm tin vô thần của anh ta, his atheism (đúng hơn, niềm tin tà giáo của anh ta, his paganism), cùng một đường hướng, như là anh ta kính trọng niềm tin của những người khác.

Những thái độ tra hỏi theo kiểu giáo lý, bè phái, trấn áp… làm anh ta bực, ‘lại đâm bực’. Tại sao? Bởi vì tất cả, mọi thứ mà anh ta yêu, và hiểu, thì tràn đầy ra đấy, bầy ra trước mắt: biển cả, mặt trời, những buổi hoàng hôn,  làn da mịn màng, trẻ măng, thơm như múi mít của em Maria [the young flesh of Maria]. Với cùng một vẻ dửng dưng thú vật mà với nó, anh ta trau giồi, gặt hái những cảm quan của mình, Meursault nói lên sự thực: điều này khiến những người chung quanh anh nghĩ anh là một con quái vật. Bởi vì sự thực, cái sự thực tự nhiên thoát ra khỏi miệng của anh ta, thì cũng giống như mồi hôi toát ra từ làn da của Maria, và cái đó thì thật là kỳ kỳ với ba trò thuần lý làm nên cuộc sống xã hội, cộng đồng con người trong lịch sử. Meursault, trong rất nhiều đường hướng, là một hóa thân, an alter ego, của Camus: ông cũng yêu cuộc đời này một cách hăm hở, cuồng nhiệt, tới chỉ, như những kẻ thần bí yêu một thế giới khác, [khác cái thế giới của chúng ta, hẳn thế!], ông cũng có cái thói xấu, là nói ra sự thực, và ông cũng là người, nhân danh sự thực – trên tất cả, trong chính trị - không ngần ngại lăng mạ những qui ước của thời của ông. Chỉ một người "tôi ở miền xa" [tên một bản nhạc sến], không quen với những show trình diễn [như trên eVăn] những mẫu mã, những hàng độc mới ra lò [last fashions], tỉnh bơ trước trò đểu cáng, nô dịch của thành phố, như Camus, thì mới có thể, ở trên đỉnh cao của niềm tin vào hệ thống, bảo vệ luận đề, rằng, những ý thức hệ, chạy trời không khỏi nắng, chỉ đưa đến nô lệ và tội ác, [Không biết Llosa muốn nói nhắc tới một câu mà Gấu, đọc, mê quá, bèn chôm liền, đưa vào bài viết về… Võ Phiến, nhà văn Bình Định: Những con đường đưa cá nhân đến tội ác / đưa xã hội đến cách mạng, là như nhau. Camus, Thèse sur Dostoevsky: Les mêmes chemins qui mènent l’individu au crime mènent la société à la révolution)], và khẳng định, đạo đức là một đòi hỏi cao, chính trị phải cúi đầu trước nó. Ông còn muốn trở thành nhà vô địch, ở trong hai môn chơi, mà thiên hạ hồi đó, chỉ nội nghe nhắc đến tên, là đã bật cười một cách khả ố: Tự Do, và Cái Đẹp.
Văn phong của Camus thì có vẻ lạc thời, lỗi điệu [anachronic], trang trọng [solemn] và kiểu cách [mannered]. Nó làm chúng ta nhớ tới một trong mấy anh chàng nhà quê, tỉnh lẻ, mỗi sáng Chủ nhật, đánh bóng đôi giầy, diện bộ đồ viá, đi dạo công viên, nghe ban nhạc trình diễn. Văn xuôi của ông chứng tỏ một sự giả bộ thường hằng, a constant affectation, theo một nghĩa đẹp nhất của từ này. Sự trầm trọng, hoàn toàn thiếu vắng tính u mặc [humor], vẻ cứng nhắc của nó, tất cả đều rất ư là mưa đêm tỉnh lẻ, đúng chất sến của đám Mít Nam Bộ chúng ta, trong có Gấu, tất nhiên!
Những câu văn thường là ngắn của Camus được ông chau chuốt, tinh chế, gọt rũa đến tận xương tuỷ, to the essential, và mọi câu như thế thì đều tuyệt hảo như một viên đá quí. Nhưng chuyển động hay tiềm lực của nó, như là một toàn thể, as a whole, thì thường yếu xìu. Đây là một thứ văn phong uy nghi, đẹp như một bức tượng, và - ngoại trừ tính hàm súc, và sự hiệu quả mà qua nó, một ý tưởng được biểu tỏ – nó có vẻ ngây ngô thế nào ấy, naïf,: đây là thứ văn phong ngột ngạt, cổ lỗ, có mùi hồ [hồ, như trong có bột mới gột nên hồ]. Quả là một nghịch lý, một nhà văn hiện đại, kẻ vinh danh cuộc sống tự nhiên, trực tiếp, với những lập luận quyến rũ nhất, thuyết phục nhất; cũng chính người này, bằng tản văn của mình, lại là một trong những nhà viết văn xuôi ‘nghệ thuật’ nhất, most ‘artistic’, [vừa chạm trổ, gọt rũa, vừa giả tạo, mất hẳn vẻ tự nhiên, artificial] vào bậc thầy của thời của mình.
Ngoài những quan tâm về văn học, cũng còn có những giá trị mà Camus trau giồi và bảo vệ, chúng đã bị lưu vong ra khỏi thành phố: Những giá trị về danh dự, và tình bạn, từ một thế giới của sự cô đơn, và của những con người đểu giả [cynical people]. Đó là những giá trị cá nhân, do định nghĩa, chúng cưỡng lại một quan niệm hoàn toàn có tính xã hội về con người. Ở trong những giá trị này, Camus nhìn ra hai hình thức của cứu chuộc cho thứ chủng loại là giống người, một đường lối để tái phục hồi [regeneratre] xã hội, và một ‘tình người, tình bạn’, thứ ‘bạn quí’, thật hách xì xằng, và thật đặc quyền đặc vị [a superior and privileged type of human relationship].
Camus là một con người của vùng biên cương, ông sinh ra và sống tại một vùng ven căng thẳng, dữ dằn, giữa Âu Châu và Phi Châu, Tây Phương và Hồi Giáo, một xã hội kỹ nghệ hóa và kém mở mang. Kinh nghiệm ngoại vi, ngoại biên này đem đến cho ông, như một gã Âu Châu, một cái nhìn đa dạng, rối rắm [a complex view] về thế giới của riêng ông. Một mặt, ông thấy mình dễ dàng nhập vô văn hóa đó, hơn những kẻ sống ở trung tâm, không thể phán đoán, và đánh giá [appreciate], ý nghĩa của văn hoá mà họ thuộc về nó. Mặt khác, ông cảm thấy mình xốn xang hơn, hục hặc hơn, ngửi ra sự hiểm nguy, và, quan tâm tới sự yếu ớt của hạ tầng cơ sở của xã hội hơn, so một người nào khác.
Tôi không buộc tội Camus, về chủ nghĩa vị chủng tộc của ông, về chuyện ông không màng tới những nền văn hóa còn lại của thế giới, bởi vì ông quá Âu Châu [he was profoundly European] theo một nghĩa phổ cập của từ này. Sự thực là, Âu Châu và những vấn đề của Âu Châu ở trung tâm những tác phẩm của ông, điều này không giảm trừ, nhưng đóng khung, khoanh vùng chúng, trong những giới hạn rõ rệt, chính xác. Khi Camus để mình vướng vào những vấn đề của Thế Giới Thứ Ba – như những khổ đau của người Kabyles, hay là đàn áp dân thuộc địa tại Madagascar – ông làm như thế trong viễn tượng đại lục, a continental perspective. Ông tố cáo những sự kiện – và đây là lời tố cáo nặng nề nhất mà ông đã từng – làm ô nhục Âu Châu. Âu Châu mà Camus chống đỡ, bảo vệ, một Âu Châu mà ông muốn gìn giữ, làm tăng sinh lực, và dâng hiến, như là một khuôn mẫu cho thế giới, là Âu Châu của một kẻ tà đạo hiện đại, và phía Nam [the Europe of a modern and southern pagan], một kẻ cảm thấy rằng, nó được thừa hưởng và bảo vệ những giá trị thoát thai từ một Hy Lạp cổ đại: Sự thờ phụng cái đẹp nghệ thuật [artistic beauty], và cuộc thoại với thiên nhiên; tiết chế, bao dung, và đa dạng xã hội, social diversity; cân bằng giữa cá nhân và xã hội; một dàn xếp dân chủ, a democratic arrangement, cho cả hai, những yếu tố hữu lý và phi lý, trong cuộc sống, và một sự kính trọng nghiêm ngặt cho tự do. Ky tô giáo và chủ nghĩa Marx bị gạt bỏ [banish], khỏi thế giới không tưởng tương đối này [this relative utopia, chữ của Camus]. Camus luôn chống đối cả hai, bởi vì, theo cách nhìn của ông, cả hai, vì những lý do khác nhau, làm giảm phẩm giá con người.
[Những nhận định trên, của Llosa, về Ky Tô giáo ở nơi Camus, làm Gấu nhớ đến James Wood, trong bài giới thiệu The Heart of the Matter, Tâm của Vấn đề,  của Graham Greene, đã coi The Heart… chẳng khác gì Dịch Hạch của Camus:
Bị phong tỏa bởi chiến tranh – thư từ bị kiểm duyệt, đường xá hạn chế, biên giới đóng lại - xứ thuộc địa của Greene giống thành phố Oran, bị vây hãm bởi dịch hạch mà Camus mô tả trong The Plague. Oran của Camus là thành phố ẩn dụ, một thứ địa ngục mà cư dân của nó, bị trừng phạt bởi dịch hạch, phải làm sao làm bật ra những liều thuốc chữa trị của riêng họ (their own theodicies, their own metaphysical and political explanations for what has unfairly visited them). The Heart cũng lại một cuốn tuyệt vời của Greene, đề tài của nó là về tội lỗi, sin, dưới cái nhìn Ky Tô giáo. Chắc cũng phải giới thiệu nó với độc giả Tin Văn!]

Albert Camus, 50 năm sau khi mất

Nói, Camus là một nhà dân chủ, một gã tự do, một tay cải tổ, thì chẳng đi đến đâu, mà có khi còn phản tác dụng […would not be very useful, rather, it would be counter-productive], bởi vì những quan niệm này – và ở đây, chúng ta phải nhận rằng, là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của những ý thức hệ toàn trị - sẽ đưa đến định nghĩa, về mặt tốt nhất, sự ngây thơ chính trị, và, về mặt tệ nhất, những mặt nạ giả đạo đức của những kẻ phản động và những kẻ bóc lột. Tốt hơn hết, là cố gắng định nghĩa, những quan điểm đó, có nghĩa gì, đối với Camus.
Cơ bản mà nói, Camus thẩy hết cả chủ nghĩa toàn trị vào thùng rác, khi coi nó như là một hệ thống xã hội trong đó con người không còn là một cứu cánh mà chỉ là một dụng cụ. Đạo đức học của những giới hạn là một hoàn cảnh, tình trạng [a state], khi đó, sự đối lập, tương phản, the antagonism, giữa phương tiện và cứu cánh biến mất, ở đó, phương tiện biện minh cứu cánh, chứ không phải ngược lại.
Đề tài - về chủ nghĩa toàn trị, quyền lực toàn trị, những cực điểm của khùng điên, có thể sẽ xẩy ra [to be reached: sẽ đạt tới], khi con người vi phạm [violate: hiếp đáp], đạo đức học của những giới hạn này - đã ám ảnh Camus suốt cuộc đời của ông. Nó là nguồn hứng khởi để ông viết ra ba vở kịch, Caligula, State of Siege, Tình trạng vây hãm, và The Just Assassins, Những kẻ công chính, tiểu luận đẹp nhất, The Rebel, Kẻ nổi loạn, và cuốn tiểu thuyết của ông, The Plague, Dịch hạch. Chỉ cần nhìn vào thực tại hôm nay, là bèn nhận ra rằng, ám ảnh của Camus, về khủng bố quốc gia, độc tài nhà nước hiện đại, đã được chứng nghiệm, justified, và nó mới tiên tri ra làm sao, tới cỡ nào!
Những tác phẩm này, chúng bổ túc cho nhau, miêu tả và giải đáp những khía cạnh khác nhau của cùng một hiện tượng!
[Còn gì chứng nghiệm hơn, tiên tri hơn, là sự kiện, nhà khủng bố VC nằm vùng, DH, một tay cầm cuốn Những kẻ công chính - mà ông ta là một trong những kẻ đó, một tên sát nhân chính trực -, một tay lái xe Honda, túi thủ trái bom, tới trạm gác Ngụy, bỏ cuốn sách của Camus vào giỏ xe phía trước, lấy trái bom ra, liệng vô trạm gác, và tà tà chạy xe tiếp. Ông này chẳng đã từng phán, tớ đọc Camus rồi đi làm cách mạng, đâu có đọc Marx!]
Nhưng thật bất công, khi cho rằng, chủ trương cải tổ, reformism, của Camus, thì cũng như tiếng nói sa mạc, đi biển gọi thầm, trong nỗ lực đòi hỏi tự do chính trị, kính trọng nhân quyền [ở đây, quyền cá nhân, rights of the individual], quên đi rằng, con người còn là nạn nhân của những ‘dịch hạch’ khác, ghê rợn, dữ dằn như đàn áp, oppression, và có khi còn khốc liệt hơn nhiều. Camus biết, bạo lực có nhiều bộ mặt, rằng, nó gây thương tổn, inflict, độc địa nhất, tàn nhẫn nhất, qua đói khát, bóc lột, vô học, ngu si đần độn, ignorance; rằng tự do chính trị, thì là cái chó gì [worth little: có giá tí ti] đối với một người sống trong nghèo đói, không văn hóa, without culture, và làm việc như một con vật. Và ông biết tất cả những điều này, qua kinh nghiệm riêng tư, cá nhân, vì là một thành viên trong một cộng đồng thiểu số, như tôi đã từng nói.
Ông sinh ra, như là một tên chân đen, a pied noir, một trong một triệu người Âu Châu, họp thành một thiểu số đặc quyền giữa bẩy triệu người Ả Rập Algerian. Nhưng cộng đồng thiểu số đặc quyền người Âu Châu này thì không đồng nhất. Có những người giầu có, trung lưu, và nghèo khổ, và Camus thuộc thứ tệ nhất, thấp nhất trong thiểu số này. Cái thế giới của tuổi thơ và tuổi mới lớn của ông thì quá nghèo khổ. Cha ông là một công nhân, và khi ông chết, bà mẹ phải làm nghề đầy tớ. Ông chú, người bảo hộ ông,  người đầu tiên dậy ông đọc, là một tên đồ tể cuồng tín. Ông học hành nhờ học bổng, và khi bị bịnh lao, vô nhà thương thí. Những từ như ‘nghèo đói’, ‘bất lực không làm sao chống đỡ, tự bảo vệ, ‘defenceless’, ‘bóc lột’, đối với ông, không phải là từ những cuốn cẩm nang cách mạng, như mấy tay trí thức, học sinh, sinh viên của Miền Nam Việt Nam, đám bợ đít VC, nhưng mà là từ kinh nghiệm hàng ngày. Vì lý do đó, thật là hoàn toàn lầm lẫn khi buộc tội ông là vô cảm trước những vấn đề xã hội, insensible to social problems.

Con người ký giả ở trong ông, trong rất nhiều dịp, đã tố cáo sự bất công kinh tế, tệ phân biệt, và thiên kiến xã hội, cũng bằng một cái nhìn trong sáng mà con người tiểu luận ở nơi ông sử dụng, để chiến đấu chống lại khủng bố của đám quyền chức. Đây là điều ông viết, vào năm 1939, trong Sự khốn cùng ở Kabylia, tố cáo hoàn cảnh khủng khiếp của người kabilas ở Algeria, vì bài viết mà ông bị trục xuất ra khỏi xứ sở. Trong tư tưởng của Camus, bóc lột kinh tế con người thì cũng bị kết án y hệt như đàn áp chính trị. Và cũng cùng lý do đó, xuyên qua niềm tin nhân bản của ông, là, cá nhân con người là cứu cánh, không phải phương tiện, kẻ thù của con người thì không phải chỉ là cái thằng đàn áp nó mà còn là tên khốn kiếp đã bóc lột nó, để hưởng lợi; ngoài cái tên VC tống nó vô trại tập trung cải tạo, còn có tên 'tư bản', đỏ cũng có nữa, biến nó thành cái máy sản xuất. Nhưng, sự thực là, một khi định cư tại Pháp, Camus tập trung vào đàn áp chính trị, và đạo đức hơn là kinh tế. Thứ nhất, do nó nóng bỏng ở nơi ông [ông ta, như tôi đã nói, là một gã Âu Châu, mà điểm qui chiếu chính với ông, lẽ dĩ nhiên, là thực tại Âu Châu], vào giai đoạn mà ông sống [ở đó]. Vào những năm hậu chiến, khi, đối đầu với nạn triều cường là chủ nghĩa Marx, sử tính, ý thức hệ, tất cả đều nỗ lực giản trừ con người về một vấn đề xã hội, tác phẩm của Camus càng trở nên quan trọng, thúc bách, như là một đối trọng, chúng nhấn mạnh đến một điều mà cả lũ kia vờ đi: đạo đức.
Nhưng chúng ta phải nhớ một điều là, kẻ phê phán nặng nề cách mạng, nhân danh ý thức hệ, thì chính anh ta cũng là một kẻ nổi loạn, và, tư tưởng của anh ta, trên nền tảng đạo đức, biện minh cái quyền của con người chống lại sự bất công. Điều khác biệt ở đây là giữa cách mạng và nổi loạn, rebellion. Liệu cả hai đều dẫn tới bạo động, và không thể tránh?
Bởi vì với Camus, cách mạng là một kẻ đặt con người dưới sự sai khiến của những tư tưởng [the revolutionary is a person who places man at the service of ideas], một kẻ được sửa soạn để hy sinh con người đang sống cho con người sắp tới [who is to come], kẻ đẩy đạo đức vào trong một tiến trình được điều khiển, được cai trị bởi chính trị, kẻ chọn công lý thay vì đời sống, [who prefers justice to life], kẻ tin tưởng vào cái quyền được nói dối, và quyền giết người, vì lý tưởng. Một kẻ nổi loạn có thể nói dối, có thể giết người, nhưng anh ta biết, anh ta không có quyền làm như thế, và nếu, một khi anh ta xử sự như thế, là anh ta đe dọa nghĩa cả của anh ta [he threatens his cause]. Anh ta không thể đồng ý, ngày mai ca hát vì ngày hôm nay chưa thấy ca hát! [Anh ta không đồng ý, ngày mai hơn ngày hôm nay, he does not agree that tomorrow should take preference over today]; anh ta biện minh cứu cánh bằng phương tiện, và anh để chính trị phục vụ một nghĩa cả, cao hơn nó – và đó là đạo đức.
Liệu cái món “không tưởng tương đối” này, của Camus, quá tầm tay chúng ta? Có thể thế, nhưng cũng đáng thòm thèm [desirable] vậy, và chắc chắn, nó bảnh hơn, đáng kính hơn so với mấy thứ đang ăn khách, it is more honorable than other models of current action. Sự kiện, mấy kiểu mẫu đang ăn khách kia thành công mau lẹ không có nghĩa chúng ưu việt hơn món hàng “không tưởng tương đối” của Camus, bởi vì sự thực về nỗ lực của con người thì không thể đo lường được bằng hiệu quả mà nó đạt được, [như Mít nói, không thành công thì thành nhân, thí dụ vậy]. Nhưng nếu có ai đó thắc mắc về giới hạn rõ rệt, mà Camus đặt ra, về hành động nổi loạn, thì người đó không thể chối cãi được một điều, trong lý thuyết cũng như trong thực hành, Camus không phải là cái thứ người chịu thần phục, he was an nonconformist, ông là một đối thủ của “định mệnh đã an bài”, ông chống lại điều gọi là “cái nước mình nó như thế”! [he was an opponent of the established order]."

Tôi muốn chấm dứt bài viết bằng cách nhắc tới một khía cạnh của Camus mà tôi rất ư là đồng điệu. Thời này là thời của nhà nước, và con quái vật này lấn chiếm hết mọi xứ sở, miền đất, cả những vùng trước nay coi như an toàn, được bảo vệ, xoá nhòa biên giới, sự khác biệt, tạo ra một sự đồng đều giả hiệu [trừ khử những cách biệt, như Caligula], và con quái vật cũng tác động [affecting] tới giới văn nghệ sĩ khiến họ qụy ngã trước bổng lộc, đời sống vật chất và trở thành nhân viên bàn giấy, tay chân của quyền lực. Tôi muốn nói tới liên hệ giữa người sáng tạo, creator, và những nguyên lý cai quản những xã hội [the principles that govern societies]. Như Breton và Bataille, Camus cảnh báo, vào lúc chung cuộc, sẽ có một vực thẳm không làm sao bắc cầu, giữa hai thế lực trên, bởi vì, phận sự của kẻ sáng tạo, là lo điều hòa, sửa sai, và tạo đối lực giữa những thế lực ở trong xã hội. Quyền lực, bất cứ quyền lực nào, thì đều chứa trong nó những mầm mống của điều gọi là ‘muôn năm trường trị’, self-perpetuation, và, nếu không được kiểm tra, nó sẽ phát triển giống như căn bệnh ung thư, và dẫn tới chuyên chế, độc tài. Trong thời hiện đại, với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, đây là một nguy hiểm đạo đức: thời đại của chúng ta là thời đại tuyệt hảo của những chế độ độc tài, của cảnh sát trị, của những chiếc PC, và những nhà phân tâm học, bịnh lý học. Chống lại sự đe dọa này - nó là kẻ nội thù, ở trong mọi cơ cấu quyền lực - là một địch thủ, tuy nhỏ bé, nhưng cương quyết, bướng bỉnh, lỳ lợm, đứng ngáng đường, giống như David chống lại Goliath: người sáng tạo, the creator. Với anh ta, bởi vì tính của anh ta là như thế, bởi cái sở hụi của anh ta là như vậy [by the very nature of his office], cái chuyện chống giữ, bảo vệ tự do, vừa là bổn phận đạo đức, vừa là còn do, nếu không chống, thì sẽ chết vì “ngứa quá” chịu không nổi, [chôm chữ của nhà đại phê bình để dịch cụm từ a “physical need”, ở đây]. Hơn thế nữa, tự do là một đòi hỏi mang chất yếu tính, của thiên hướng của anh ta, nghĩa là, của cuộc đời của anh ta. Trong “The Banishment of Helen”, Sự bãi bỏ Helen, Camus viết: "Tinh thần lịch sử, và nghệ sĩ, mỗi đứa mỗi bên, bằng đường hướng riêng của nó, đều muốn làm lại, remake, thế giới. Thằng cha nghệ sĩ, do bản chất của nó, hiểu được những giới hạn mà tinh thần lịch sử đếch làm sao hiểu được. Chính thế mà, cái thằng sau [tinh thần lịch sử] chấm dứt bằng bạo tàn, bạo chúa, bạo lực, bằng VC độc tài, độc đảng, [đúng như thế, vì đảng CS Mít, đúng “từ khi chưa có nó”, từ khi chỉ có thằng Tây mũi lõ, cho đến khi ăn cướp được Miền Nam, là biến thành Con Quỉ Bắc Kít!]. Còn thằng nghệ sĩ, niềm đam mê của nó, là đam mê tự do. Tất cả đám này, chiến đấu cho tự do, xong, bèn chiến đấu cho cái đẹp.”
Vào năm 1948, trong một cuộc nói chuyện ở Salle Pleyel, Camus lập lại: “Vào một thời đại mà kẻ chiến thắng, chinh phục, bằng luận lý của thái độ của anh ta [by the logic of his attitude], trở thành một tên hành quyết, an executioner, hay một tên cảnh sát, một gã công an, thì chàng nghệ sĩ bắt buộc phải là một gã cứng đầu cứng cổ, một tên ngoan cố, [a recalcitrant]. Trước xã hội chính trị đương thời, thái độ bảnh nhất và độc nhất, của người nghệ sĩ, ngoại trừ anh ta tính từ bỏ nghệ thuật của mình, là đếch thèm chơi với chế độ, không điều kiện điều kiếc, không biên tập biên tiếc gì hết, [In the face of contemporary political society, the only coherent attitude of the artist, unless he prefers to renounce his art, is unconditional rejection.]”. Tôi tin tưởng rằng bây giờ, tại Mỹ Châu La Tinh, tại đây, xứ sở của chính tôi, thật khó khăn nhưng bắt buộc phải như vậy, là, bất cứ kẻ nào vẽ, viết, hay soạn [nhạc, kịch...], kẻ đó phải hiểu rằng, tự do là điều kiện chính của sự hiện hữu của anh ta, và anh ta phải gìn giữ cho được sự độc lập của mình, và nhắc nhở đám cầm quyền, ở bất cứ thời điểm nào, bằng bất cứ phương tiện gì, về đạo đức học của những giới hạn.
Có thể, tiếng nói đó, của Camus, một tiếng nói của lẽ phải, reason, điều độ, moderation, bao dung, tolerance, thận trọng, prudence, nhưng còn là của can đảm, tự do, cái đẹp, và lạc thú, thì không kích thích, stimulating, và cũng không quyến rũ, đối với những người trẻ tuổi, so với của những nhà tiên tri của phiêu lưu bạo động, hay của từ chối mang tính khải huyền, apocalyptical denial, như Che Guevara, hay Frantz Fanon, chúng làm cho đám trẻ trở nên khích động, tạo hứng khởi cho họ, khiến họ sướng điên lên! [to such a degree]. Tôi nghĩ, điều này thì thực là không đúng, unjust. Như sự đời hiện nay, as things are today in the world, những giá trị và những tư tưởng – ít nhất là rất nhiều trong số này – mà Camus đề xuất, và hỗ trợ, đã trở nên cần thiết, cho cuộc sống, để mà sống được, for life to be livable, cho xã hội, để cho nó là một xã hội thực sự người, cũng cần thiết như là những giá trị mà Che và Fanon biến chúng thành tôn giáo, và cả hai từ bỏ cuộc sống của họ vì nó.


Bài viết của Llosa về Camus, Gấu có lâu rồi, trong tập Tạo Sóng, Making Waves, mua từ hồi nó mới ra lò, bìa dầy, to tổ bố, nặng như cái cùm, thế rồi lại thấy nó, trong dạng bìa mỏng tại một tiệm sách cũ, bèn mua nữa, để đi đâu dễ mang theo. Nhân tưởng niệm Camus mất, 50 năm sau, bèn lôi ra, tính dịch vài đoạn, không ngờ càng đọc, càng thấy có vẻ như Camus đang viết cho đám Mít, nhất là đám hải ngoại mang sách về nhà cho VC sờ chim sách, mà chim sách thì cũng là chim của chính mấy xừ lủy!
Thế là bèn dịch trọn bài viết, cũng là một cách tưởng nhớ ông Camus, và ông anh nhà thơ.
Chả là, khi Camus mất, ông anh khi đó còn mê 'làm cách mạng', nên phạng Camus cũng khá nặng, y chang Llosa đã từng, và sau đó, viết bài này để tạ lỗi với 'vong hồn' Camus!
Khi dịch xong, sẽ edit, thành một bài gọn gàng, hầu quí độc giả.
*
Kinh nghiệm hiện đại cho chúng ta thấy, tách biệt sự chiến đấu chống lại cái đói, sự bóc lột, và chủ nghĩa thực dân thuộc địa, ra khỏi cuộc chiến đấu cho tự do, và phẩm giá của cá nhân con người, thì thật đúng là tự sát, phi lý, cũng như tách rời ý nghĩ về tự do ra khỏi ý nghĩ về công lý thứ thiệt, true justice, và chuyện này xung khắc, incompatible, với chuyện phân chia không đúng [unjust distribution] của cải và quyền lực. Ôm tất cả mớ đó, gom chung thành một cục, đưa vào một hành động chung, cho chỉ một mục tiêu, a single goal, thì, lẽ dĩ nhiên rất khó khăn, và là một cuộc phiêu lưu đầy rủi ro, nhưng chỉ qua một cuộc phiêu lưu như vậy, xã hội mới có ngày biến thế gian thành thiên đàng, thứ thiên đàng mà những tín đồ tôn giáo tin tưởng, cho một kiếp sau, trong một thế giới khác. Như Camus viết: “Đời sống thì tự do cho mọi người và đúng là cho tất cả” [“Life is free for everyone and just for all”], một khi mà chúng ta đăng nhập vào cuộc chiến đấu này, và đeo đuổi nó cho tới khi chiến thắng, kệ mẹ ai nói gì thì nói, thù nghịch gì cũng kệ cha, thì khi đó, đọc đi đọc lại Camus, mới càng thấy quí giá vô vàn đối với chúng ta.
Mario Varga Llosa
Lima, 18 May, 1975