|
*
Note:
Trần Thiện Đạo là một
trong những người mà Trần Phong Giao, và qua ông, tờ Văn, rất tin
tưởng, và
trông cậy, về việc dịch tiếng Tây. Ông là người đầu tiên giới thiệu
Camus với
độc giả Miền Nam
qua tờ Văn
Post lại ở đây, bài viết của
ông liên quan tới vấn đề dịch L'Etranger ra tiếng Việt.
Nói về bản dịch 'Người dưng'
[2/2]
Aujourd’hui, maman est morte.
Gấu đã từng dịch như trên.
Trần
Thiện Đạo giải thích:
Đây là mấy câu độc thoại
nội
tâm mở màn cho thiên truyện, Albert Camus đã dụng công dùng từ maman
hàm nghĩa
má, mẹ, mợ, me, u... nói thầm trong bụng nhơn vật. Chớ không phát thành
tiếng
để gởi tới một đối tượng nào chung quanh, nên nó tuyệt nhiên không mang
ý nghĩa
"một từ gọi mẹ thân thiết" (Trần Hinh) hay một "cách nói theo
thói quen" (Dương Tường): té ra hai ông đã tranh cãi nhau trên một cái
cớ
hão huyền.
Thành ra khi Dương Tường
chuyển chữ maman thành mẹ tôi thì ngay từ đầu đã trật đường và sai
hướng rồi.
Chữ tôi kèm theo chữ mẹ ở đây tự dưng biến nó thành lời khai mào cho
một câu
chuyện thuật lại cho người khác nghe, chớ không còn là suy nghĩ trong
đầu nhơn
vật nữa. Xóa mất tánh cách độc
thoại nội tâm cốt yếu. [Gấu
gạch dưới]
Như vậy là bóp méo văn Pháp
của tác giả.
Đúng quá. Quá đúng.
Cám ơn Trần Thiện Đạo.
Bữa nay mẹ
mất.
Tuyệt!
TTD
giải thích từ “asile”,
viện tế bần, quá đúng. Cụm từ "Cela ne veut rien dire", cũng
thế.
Tks. NQT
*
Tran
Minh Huy:
Albert Camus avait ses
maximes en journalisme, dont celle-ci: « En toutes choses, ne pas
admettre que
la politique l'emporte sur la morale ni que celle-ci tombe dans le
moralisme. »
Considération révélatrice du fossé qui le sépare de Jean-Paul Sartre ...
Daniel Rondeau:
On ne peut rien créer sur le
mensonge, dit un jour Albert Camus. « Le privilège du mensonge est de
toujours
vaincre celui qui prétend se servir de lui. Et aucune vertu ne peut
s'allier à
lui sans mourir. » Ce qui va séparer Camus et Sartre, c'est
principalement la
question de savoir s'il est bon ou pas de dire la vérité sur les camps soviétiques
. On peut d'ailleurs faire une lecture rétrospective de la littérature
française du xx· siècle sous cet angle particulier: mensonge/ vérité.
Ce qui a
été engagé avec Barrès (mentir au procès de Rennes (2) pour ne pas désespérer
l'armée
française) est continué par les valses rouges de Hourrah l'Oural et
conduit aux
délires de Sartre sur l'URSS (pour ne pas désespérer Billancourt).
Rares sont
les écrivains qui n'ont pas participé à l'étouffement de leurs
contemmporains
par le mensonge. Citons quand même Gide, Mauriac, Camus bien sûr, et
naturellement Malraux. S'il existe, comme je le pense, une fraaternité
distante
entre Camus et Malraux, elle est fondée sur l'estime réciproque et par
un goût
profond des deux hommes pour la vérité. Je sais bien ce qu'on reproche
à
Malraux: ses invenntions, son art de broder sur le réel, mais au fond,
dès
qu'il s'agit de choses sérieuses, et malgré des chemins parfois «
farfelus »,
Malraux est toujours en quête de vérité.
[Trò chuyện với Daniel
Rondeau, nhà văn. Le Magazine
Littéraire Mai 2006]
Tran Minh Huy:
Camus có những châm ngôn của ông khi làm nghề báo, thí dụ, «Trong mọi
chuyện,
đừng chấp nhận chính trị vượt đạo đức, cũng đừng chấp nhận để cho đạo
đức xuống
cấp, trở thành rao giảng đạo đức”. Đúng là một nhận xét mặc khải làm
bật cái
hố phân cách Camus và Sartre....
Daniel Rondeau:
Camus đã từng nói, người ta
không thể sáng tạo gì được với nói dối. “Đặc quyền của nói dối là, nó
luôn
thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó. Không có một tính tốt nào, một khi
đồng
minh với nói dối, mà không ngỏm củ tỏi.” Camus và Sartre xa nhau, “anh
đi đường anh, tôi đường tôi,” chính là khi cả hai đứng trước câu hỏi,
liệu nói
hay không nói sự thực về những trại tập trung Xô Viết. Người ta có thể
nhìn lại
văn học Pháp thế kỷ 20 dưới khía cạnh đặc biệt này : dối trá/sự thật.
Điều mà
Barrès dấn vô [nói dối ở tòa án Rennes
để khỏi làm nhụt chí quân đội Pháp] được tiếp tục bằng những điệu luân
vũ đỏ Hourrah Oural và đưa tới những lời nói
sảng của Sartre về Liên Xô (để khỏi làm nản lòng Billancourt). Hiếm có
nhà văn
nào mà không tham dự vào cơn nghẹt thở của những đồng nghiệp đương thời
của họ,
vì nói dối. Kể luôn Gide, Mauriac, Camus đương nhiên, và tất nhiên
Malraux.
Theo tôi, nếu có một tình huynh đệ xa xa nào giữa Camus và Malraux thì
tình này
được xây dựng trên sự tương kính lẫn nhau và cái khiếu sâu đậm của cả
hai về sự
thật. Tôi biết người ta trách Malraux về những điều ông ta thêu dệt ra,
về
nghệ thuật chờn vờn chung quanh cái thực, nhưng xét cho cùng, một khi
đụng
chuyện nghiêm túc, và, mặc dù những con đường đôi khi ‘phù phiếm’,
Malraux lúc
nào cũng truy tìm sự thật.
*
“Đặc
quyền của
nói dối là, nó luôn thắng kẻ tưởng là sử dụng được nó”
Ui chao, áp dụng
vô Mít, mới “thiên tài, thiên tai” làm sao!
Trần Thiện Đạo
giải thích:
Đây là mấy câu độc thoại nội tâm mở màn cho thiên
truyện, Albert Camus đã
dụng công dùng từ maman hàm nghĩa má, mẹ, mợ, me, u... nói thầm trong
bụng nhơn
vật. Chớ không phát thành tiếng để gởi tới một đối tượng nào chung
quanh, nên
nó tuyệt nhiên không mang ý nghĩa "một từ gọi mẹ thân thiết" (Trần
Hinh) hay một "cách nói theo thói quen" (Dương Tường): té ra hai ông
đã tranh cãi nhau trên một cái cớ hão huyền.
Thành ra khi Dương Tường chuyển chữ maman thành mẹ tôi thì ngay từ đầu
đã trật
đường và sai hướng rồi. Chữ tôi kèm theo chữ mẹ ở đây tự dưng biến nó
thành lời
khai mào cho một câu chuyện thuật lại cho người khác nghe, chớ không
còn là suy
nghĩ trong đầu nhơn vật nữa. Xóa mất tánh cách độc thoại nội tâm
cốt yếu. [Gấu
gạch dưới]
Như vậy là bóp méo văn Pháp của tác giả.
Trong cuốn Kẻ Xa Lạ, bản
Folio, trên, coi đây là độc thoại nội
tâm. Không phải thể văn nhật ký,
hay hồi
tưởng.
Sartre cũng
kiếm thấy Hemingway ở trong văn của Camus
• Étudier les illogismes des
différents
indices d'énonciation dans le dernier chapitre du roman.
En toute logique, ces différentes contradictions ne sont susceptibles
que d'une
seule explication: les différents moments du récit correspondraient à
différents moments de conscience. L'étranger ne serait alors pas
un
récit écrit - journal ou Mémoires -, mais une forme particulière de
monologue
intérieur.
Un monologue intérieur?
Une telle hypothèse, outre qu'elle rendrait à peu près compte des
différents
illogismes de la narration, permettrait d'expliquer la simplicité du
vocabulaire et de la syntaxe employés, et notamment l'usage du passé
composé et
celui de la parataxe.
*
Quelle est cette technique? On m'avait dit: "C'est du Kafka écrit par
Hemingway". J'avoue que je n'ai pas retrouvé Kafka
Còn kỹ thuật viết đó thì sao? Người ta bảo tôi, đây là Kafka, được viết
bởi
Hemingway. Thú thực, tôi không kiếm ra Kafka.
Sartre: Explication de “L’Étranger”
*
Camus viết về Kẻ
Xa Lạ.
Vào năm 1954, một người Đức đã gửi thư cho Camus, đề nghị và xin phép
đưa Kẻ Xa
Lạ lên sân khấu. Sau đây là lá thư trả lời của Camus (lần đầu tiên xuất
hiện
trong cuộc trưng bầy "Những câu chuyện về một cuốn sách: ‘Kẻ Xa Lạ’ của
Albert Camus". 1990).
Paris,
ngày 8
tháng Chín, 1954
"Ông thân mến,
... Ông hẳn cũng đoán ra được, dự án của ông làm tôi phân vân. Đã hai
mươi năm
tôi quan tâm tới kịch nghệ, từ đủ thứ khía cạnh của nó (tôi đã từng là
diễn
viên, và là nhà đạo diễn), và tôi biết rằng, thứ ánh sáng còn sống, còn
tươi
(cru) là ánh đèn chói lòa ở sàn quay, thật khác xa cái thứ ánh sáng
được tính
toán thật chi ly mà người ta đưa vào trong một cuốn tiểu thuyết. Trước
ánh sáng
chói chang đó, một nhân vật, cho dù đứng thẳng ở trong một câu chuyện
kể, có
thể ngã lăn đùng ra. Nhưng lá thư của ông, và của M. Deblue làm cho tôi
thật
muốn lao vào cuộc phiêu lưu này. Và do kinh nghiệm, tôi biết rằng, chỉ
sự tương
kính giữa hai cá nhân mới là đảm bảo số một, khi quyết định cộng tác.
Và tôi
đồng ý để ông thực hiện dự án đưa tiểu thuyết Kẻ Xa Lạ thành kịch trình
diễn...
Được đấy, ông bạn ạ, cái dự án của ông. Chỉ có hai điểm xuyết nho nhỏ:
1. [Khán giả mà] không được coi cái xen giết người thì thật là bực mình
lắm
đấy. Bởi vì đây là trái tim [centre: trung tâm] của câu chuyện. Đây là
một cú
giết người có mặt trời ở trong đó. Mặt trời ở đây là trung tâm mà thảm
kịch
xoay quanh. Và thảm kịch sáng chói lên nhờ ánh sáng mặt trời chiếu vào
nó. Theo
tôi, đây là điều làm cho nó khác với một câu chuyện u tối, và thoát tục
[désincarné: mất xác phàm; có xác phàm thì mới có chuyện giết người],
theo kiểu
của Kafka. Ông sẽ nói, khó lắm đấy, nếu trình diễn được như thế. Tôi
trả lời:
Đúng như vậy. Khó lắm đấy. Hãy cố mà tìm tòi, và một khi vớ được, vở
kịch của
ông mới nguyên xi biết bao; ấy là tôi muốn nói, cái chất sáng tạo của
kẻ đạo
diễn.
2. Cái xen độc thoại kết thúc màn thứ sáu, theo tôi, là bất khả thực
hiện. Trên
sân khấu độc thoại chỉ đi được với những cử chỉ, động tác (ấy là với
những diễn
viên số một). Thực hiện theo cách của ông, như ở xen đó, sẽ trở thành
"lên
lớp, giảng mo-ran", nghĩa là rất kịch cợm, tôi muốn nói, giả tạo.
... Nói ngắn gọn, tôi muốn làm sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi Kafka, và
chủ
nghĩa biểu hiện (expressionnisme). "Kẻ Xa Lạ" không hiện thực mà cũng
không kỳ quái (fantastique). Với tôi, đây là một thứ huyền thoại nhập
thể
(incarné: nhập xác phàm), không lơ mơ mà bám cứng lấy cõi người ta, tới
tận da,
tận xương, tận tủy. Và tới tận cùng của hơi nóng ngày ngày. Người ta
muốn coi
đấy là một kiểu cọ mới của vô đạo đức (immoraliste). Vậy là lầm to. Cái
đập vào
mặt chúng ta ở đây, không phải là đạo đức, mà là thế giới của vụ án, nó
trưởng
giả, nó quốc xã, nó cộng sản, nói tóm gọn, đây chính là vết lở lói
đương thời.
Riêng với anh chàng Meursault, có chút hướng thượng ở anh ta, và đó là
từ chối,
tới chết: nói dối.... Meursault không ở phía những ông tòa, lề luật xã
hội,
những tình cảm ước lệ, đóng hộp. Anh ta có đó, như hòn sỏi, như ngọn
gió, như
biển cả, dưới mặt trời. Và cũng như sỏi đá, chúng có thể biết đau,
nhưng không
thể nói dối, chẳng bao giờ nói dối.... Nếu ông đọc cuốn sách theo kiểu
tôi vừa
đề nghị, ông sẽ nhận ra một thứ đạo đức của sự chân thành, và một niềm
vui, vừa
tiếu lâm vừa bi thảm, về cõi đời. Chính những điều này làm nó thoát ra
khỏi vẻ
u tối, biểu hiện, hay là thứ ánh sáng của sự tuyệt vọng....
Thân ái...
Albert Camus.
LES JUSTES
Créée en
décembre 1949, cette
pièce en cinq actes met en scène un personnage historique: Kaliayev.
Chargé de
lancer une bombe sur la calèche du grand-duc Serge, oncle du tsar
Nicolas II,
Kaliayev renonce parce que deux enfants sont présents dans cette
calèche. Il ne
veut pas transformer sa « juste révolte» en assassinat. Cet épisode
authentique
est l'occasion pour Camus de s'intéresser aux terroristes russes du
début du
xxe siècle, ceux qu'il appelle les « meurtriers délicats ». Cet extrait
de
l'acte II se situe juste après l'attentat manqué. Face à Stepan le
révolutionnaire, pour qui l'idéologie l'emporte sur tout aspect humain,
Kaliayev et Dora défendent leur conception d'un terrorisme fidèle à
l'honneur
et à la fraternité.
Những
kẻ công chính
Được sáng tác vào Tháng Chạp
1949, vở kịch
5 màn trình ra một nhân vật lịch sử: Kaliayev. Tổ chức giao cho K công tác,
thẩy bom vô
chiếc xe ngựa chở thái công Serge, chú của sa hoàng
Nicolas II. K.
không chịu thẩy
khi thấy có hai đứa trẻ ở trên xe. [Khác me- xừ VC nằm vùng DH của
Mít], K.
không muốn biến sự ‘nổi dậy chính đáng’ của mình thành hành động sát
nhân. Giai đoạn
lịch sử thực sự này là dịp để Camus quan tâm tới những tên khủng bố Nga
đầu thế
kỷ 20, những người mà ông gọi là “những tên giết người tế nhị”. Đoạn
trích dẫn
sau đây, màn II, là sau khi cú thẩy bom bất thành. Đối diện với đồng
chí Stepan,
với anh ta, ý thức hệ vượt lên tất cả mọi sắc thái nhân sinh, Kaliayev
và Dora bảo vệ quan điểm của cả hai, về một thứ khủng bố trung thành
với phẩm
giá, và tình đồng chí.
*
KALIAYEV,
égaré: Je ne pouvais pas prévoir. .. Des
enfants, des enfants surtout. As-tu regardé des enfants? Ce regard
grave qu'ils
ont parfois ... Je n'ai jamais pu soutenir ce regard ... Une seconde
auparavant, pourrtant, dans l'ombre, au coin de la petite place,
j'étais
heureux. Quand les lanternes de la calèche ont commencé à briller au
loin, mon
cœur s'est mis à battre de joie, je te le jure. Il battait de plus en
plus fort
à
mesure que le roulement de la calèche grandissait. Il faisait tant de
bruit en
moi. J'avais envie de bondir. Je crois que je riais. Et je disais «
oui, oui»
... Tu comprends?
Il quitte Stepan
du regard et reprend son attitude
affaissée.
J'ai couru vers elle. C'est à
ce moment que je les ai vus. Ils ne riaient pas, eux. Ils se tenaient
tout droits
et regardaient dans le vide. Comme ils avaient l'air triste! Perdus
dans leurs
habits de parade, les mains sur les cuisses, le buste raide de chaque
côté de
la portière! Je n'ai pas vu la grande-duchesse. Je n'ai vu qu'eux.
S'ils
m'avaient regardé, je crois que j'aurais lancé la bombe. Pour étreindre
au
moins ce regard triste. Mais ils regardaient toujours devant eux.
*
Nhân
đây, nói chuyện lần Gấu xơi
hai trái mìn Claymore của bạn của DH, sau khi Mẽo đổ quân Đà Nẵng.
Cú thứ nhất hướng vô nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, nhắm sát hại thực khách,
thường có Mẽo.
Cú thứ nhì hướng vô cây cầu nổi. Tức là nhắm sát hại những người tới
cấp cứu nạn
nhân.
Chết nhiều là do cú đúp thứ nhì này.
Một người hàng xóm của Gấu, vợ là nhân viên Bưu Điện cho nên được cấp
căn nhà
cách căn nhà của Gấu một căn, ngồi bên Ngân Đình, tức nhà hàng ngay
dưới chân
cột cờ Thủ Ngữ, nghe tiếng nổ thứ nhất, chạy qua cấp cứu người bị
thương, ăn
trái thứ nhì, mất một giò, sau bị vợ bỏ.
Chết và bị thương trên hai trăm mạng.
Gấu xơi cả hai trái, vậy mà vẫn tỉnh, nằm trên cáng, nhìn lên bầu trời
Sài Gòn
đầy sao, nghe hai ông cảnh sát chửi, thằng khốn, ham ăn ham nhậu làm
khổ chúng
tao, cho đến nhà thương Đô Thành còn kịp đọc cái tên "Gấu Nhà Văn"
cho anh ký giả Chính Luận, rồi mới lịm đi.
BHD đọc tên Gấu trên báo, không dám khóc ra mặt, sợ ông bố nhìn thấy.
Ui chao, cám ơn mấy ông bạn của DH.
Nhờ mấy ông mà Gấu được em nhỏ lệ vì mình!
Camus
là nhà văn đầu tiên
viết về Cái Ác Nazi, như trong số báo 60 năm Nazi viết
|
|