Thạch Chương
Trình bày và phê bình hai
quan niệm nổi loạn của Albert Camus
I. Giữa
hoàn cảnh xã hội lạc
loài của nước Pháp hậu chiến, giữa khí hậu trí thức bi quan mà phái
hiện sinh
ngự trị, giữa những tiếng để dọa phá hủy của trường siêu thực, và trong
viễn
ảnh một mùa đông dài tăm tối của Đệ Tam Quốc Tế: Albert Camus, một hình
bóng
trơ trọi, hiện lên như một tia nắng ấm hy vọng của Âu châu. Tôi vừa
nói: một
hình bóng trơ trọi – bởi Camus không đại diện cho hàng ngũ nào, không
cộng sản,
và cũng không hẳn là Pháp [1] : một kẻ lưu vong với một triều đình đã
mất.
Sau cái chết đầy “phi lý”
cách đây mấy tháng, Camus để lại đằng sau mình hai tập triết luận, mấy
tập
truyện, một tập đoản văn, dăm vở kịch, một ít tạp luận và một số dịch
bản,
phóng tác, thời sự: tất cả dựng lên, như lời Pierre Simon [2] , một mốc
đường
cho một chủ nghĩa nhân đạo thực chứng (humanisme positif).
Tránh hết mọi phê phán giá
trị, hôm nay tôi muốn nói đến hai khía cạnh trong quan niệm “nổi loạn”
của
Camus, và tôi sẽ phân tích chúng qua một lăng kính luận lý (hơn là đạo
đức hay
thẩm mỹ). Những tư tưởng chính của Camus khởi điểm từ một quan niệm về
“Phi lý”
(Absurde), để tới một kết luận về chủ nghĩa nhân đạo, và chấm dứt ở một
thái độ
vô cùng mơ hồ (tôi nghĩ đến chữ ambigüe) mà ta thấy trong quyển La
Chute. Tôi
dành hai khía cạnh nổi loạn trong hai phần đầu, và cái thái độ mơ hồ
vừa nói
trong phần cuối.
Mặc dù những tư tưởng của
Camus đã được phát triển dần dần từ phần nọ sang phần kia và có lẽ cũng
không
được định theo một hướng luân lý nào rõ rệt, trong bài này tôi đã tự ý
trình
bày chúng theo một dàn ý biện chứng (tuy không “hegelien” lắm, tôi phải
thú
trước): như thế để nêu rõ tương quan tôi nhận thấy giữa những tư tưởng
đó [3] .
Và như vậy tôi sẽ nói lần lượt:
Chu kỳ I:
Tôi nổi
loạn, vậy tôi hiện
hữu [4] .
Chính đề: Phi lý: Quan niệm.
Phản đề: Phi lý: Tình cảm.
Tổng hợp đề: Nổi loạn: ca
ngợi cuộc đời.
Chu kỳ II:
Tôi nổi loạn, vậy chúng ta
hiện hữu.
Chính đề: Cuộc đời là một giá
trị.
Phản đề: Chủ nghĩa hư vô và
chủ nghĩa bạo sát.
Tổng hợp đề: Nổi loạn: Thái
độ ôn hoà, chủ nghĩa nhân đạo thực chứng.
II. Tôi
nổi loạn, vậy tôi
hiện hữu
Người
ta phải nói ngay trước
tiên rằng Camus không phải là một triết gia, và chính Camus cũng nhận
như vậy
[5] , vì điều hiển nhiên là Camus không hề nói đến những vấn đề triết
học mà ta
hằng thấy trong các Traités, như bản thể luận (ontologie) hay nhận thức
luận
(épistémologie) hay những vấn đề thời gian, không gian, nhân quả, tự do
v.v…
Hơn nữa Camus cũng không phải, và cũng không nhận [6] là một nhà văn
hiện sinh
[7] , bởi một trong những lý do hiển nhiên nhất là Camus nhận rằng con
người có
một bản tính riêng biệt, trong khi Sartre và công ty cho rằng con người
có
trước đã, rồi mới tự tạo cho mình một bản tính sau. Tuy nhiên, nếu ta
hiểu
“existentialisme” theo một nghĩa khác, một nghĩa nói chung cái khí hậu
của thời
đại với những đặc tính cơ bản, thì ta vẫn có thể xếp Camus ngồi chung
với phái
hiện sinh mà không hề gì. Những đặc tính cơ bản đại khái như: chống lại
chủ
nghĩa duy lý cựu truyền, phá hủy mọi tin tưởng tiên thiên về chân lý,
về giá
trị, gạt bỏ mọi hệ thống triết học trừu tượng không đi đôi với lòng
hiện sinh
cụ thể, nhấn mạnh thành phần chủ quan và coi đó là tiêu chuẩn độc nhất
để khám
phá bản thể, nhấn mạnh tính cách “trở nên” của con người và những vấn
đề lựa
chọn, tự do, công nhận dữ kiện con người sống trong thế giới và có
những liên
hệ thiên nhiên với nó, và nhất là nhấn mạnh hiện tượng phi lý căn bản
của con
người: sự chết. Một điều nữa, đồng ý với Sartre và công ty (nhưng cố
nhiên
không với Kierkegaard, hay Jaspers hay Gabriel Marcel), Camus chủ
trương vô
thần. Cố nhiên Camus không quả quyết rằng Thượng Đế không thể có được,
mà chỉ
từ chối, hết sức chủ quan, sự hiện hữu ấy [8] : như thái độ của Oreste
trong
Les Mouches.
Trong
cái khí hậu triết học
trên, Camus vun xới cho mình một quan niệm mà ông gọi là “phi lý”
(trong Le
Mythe de Sisyphe). Đây là một quan niệm thuần chủ quan, bởi phi lý
không có
nghĩa là không có lý do, nhưng có nghĩa là tôi không tìm thấy một lý do
nào.
Camus không dám quả quyết một cách khách quan rằng bản tính của vũ trụ
có tính
cách phi lý [9] , bởi chính ông không biết. Cũng không phải là phi lý ở
trong
bản tính con người. Nhưng phi lý tùy thuộc ở thế giới cũng như ở con
người: nó
là một đụng độ giữa cái bí mật của vũ trụ và lòng ham muốn tìm hiểu (mà
không
thoả mãn) của con người [10] .
Đây là
khởi điểm của Camus,
đồng thời cũng là chính đề trong chu kỳ biện chứng thứ nhất. Phi lý như
vậy ở
Camus là một thế mâu thuẫn giữa lòng ham muốn dùng lý trí để khám phá
vũ trụ và
sự tối tăm, cái “yên lặng vô lý” (silence déraisonnable) của vũ trụ. Nó
là thế
mâu thuẫn giữa lòng ham muốn tiến tới một tuyệt đối, một nhất nguyên
(unité) và
tính cách tương đối của mọi hiện tượng, cùng tính nhị nguyên (dualité)
căn bản
của bản ngã. Nó là một đụng độ giữa đam mê điên cuồng về cuộc đời, về
hạnh
phúc, và sự vô ích của mọi hành động con người. Nó là cái thế giằng co
giữa
khát vọng về vĩnh cửu và giới hạn ngắn ngủi của hiện sinh. Hơn nữa nó
còn là
một đụng độ, một đụng độ đau thương, giữa ta với ta: cái ta ở trong
gương và
cái ta ở ngoài gương: một vực thẳm mà không cầu nào bắc qua, và suốt
đời tôi sẽ
chỉ là một kẻ đứng ngoài gương, một kẻ đi đày. Tôi biết chắc chắn tôi
có một
bản ngã nhưng tôi không có cách nào nắm được lấy nó: như nước chảy xuôi
qua kẽ
ngón tay: “Ce coeur même qui est le mien me restera à jamais
indéfinissable”
(Mythe – trang 34) [11] .
Nhưng
quan niệm phi lý sẽ chỉ
mãi mãi nằm trong bóng tối nếu nó không được ánh sáng của lý trí, hay
đúng hơn,
của trực giác dọi qua. Và như vậy ta sang đến phần phản đề: tình cảm về
phi lý.
Tình cảm này được Camus diễn tả trong Meursault, nhân vật chính của
L’Etranger
[12] .
L’Etranger
diễn mấy đề chính:
tập quán hằng ngày là tù ngục; hy vọng trước cái chết; nổi loạn và lòng
khát
vọng được sống lại (2 trang cuối). Meursault là một kẻ đi đày, một kẻ
đứng bên
ngoài gương, một kẻ lạc lõng giữa xã hội loài người; hắn hững hờ với
mọi thứ,
và sống hoàn toàn trên bình diện thể xác: giữa hắn và loài người, giữa
hắn và
thiên nhiên chỉ có những liên hệ thuần cảm giác, mà không tình tự. Câu
truyện
cũng giản dị: Meursault, một thư ký ở Algiers, đi đưa đám mẹ hôm thứ
sáu (bực
mình vì phải xin phép chủ để nghỉ hai ngày), kiếm được một tình nhân đi
chơi
hôm thứ bảy (xem một phim Fernandel, tối về ngủ với nhau), dính líu vào
một
chuyện rắc rối vô ích, bắn chết một người vì tình cờ, rồi bị kết án tử
hình.
Meursault
là một kẻ sống ở
hiện tại, và bởi hiện tại chỉ là một điểm, nên cuộc đời hắn trở nên một
chuỗi
thời gian đứt đoạn: không quá khứ, không tương lai, cả cái khoảng đời
từ lúc mẹ
hắn chết cho tới khi hắn nằm đợi ngày xử hình, được Camus tả bằng một
lối văn
staccato [13] . Từ câu nọ sang câu kia không mấy khi có một liên hệ
luận lý
nào; mỗi câu, như mỗi lúc, thường là một “hòn đảo”, một vũ trụ nhỏ
riêng biệt,
kín mít, không dính líu gì tới những cái đã qua, và cũng không bạn hữu
cho
những gì sắp tới; một sự kiện vừa nói lên là đã biến mất vào vực thẳm
yên lặng.
Bởi vậy người ta không tìm thấy ở hắn một tình tự nào [14] , cũng như
người ta
không thể chờ đợi ở hắn một hệ thống giá trị nào hết: bởi tình cảm hay
giá trị
thường đòi hỏi một quá khứ hay một tương lai. Trình bày Meursault như
vậy,
Camus muốn cho ta đụng độ với thực tại đơn thuần, cái thực tại ở trong
trạng
thái thô sơ nhất: và lởn vởn chung quanh là phi lý. Meursault là trường
hợp một
ý thức đang triền miên ngủ giữa những “bức tường phi lý”, trong một đêm
tối mù
của tập quán.
Nhưng
bỗng một hôm, rất tình
cờ, tôi sẽ sực tỉnh dậy. Tôi bỗng ý thức được những bức tường phi lý
ấy, tôi
bắt đầu lột hết những ngụy trang mà cuộc đời cảm giác cùng cuộc đời tập
quán
hằng ngày che giấu phi lý đi, và tôi bỗng thấy nó đang nằm trần truồng
trong
một vị trí hết sức khách quan, xa lạ, vô nhân, thách thức. Meursault,
sau khi
nghe toà tuyên bố xử hình bằng máy chém, bỗng dưng, lúc đã về xà lim,
lần đầu
tiên, nghĩ đến cách đào tẩu [15] . Trước đó, mặc dù hắn vẫn nhận mình
vô tội
(“Je ne regrettais pas beaucoup mon acte” – trang 142) [16] , hắn vẫn
không cố
ý tranh đấu bảo vệ sự ngây thơ của mình, không cố gỡ tội cho mình. Giữa
hắn và
xã hội, một xã hội với những quy ước, những thủ tục, những tiền quan
niệm hẹp
hòi, một xã hội máy móc, chỉ quan tâm đến những bề ngoài, Meursault vẫn
giữ một
thái độ lãnh đạm, một thứ lãnh đạm không thoả hiệp: phần vì hắn có lẽ
muốn
thành thực với mình, nhưng phần chính vì hắn còn đang ngủ triền miên
trong rừng
tập quán. Cho đến khi quay lại xà lim lần cuối, Meursault mới ý thức
được phi
lý.
Trong
Thần thoại về Sisyphe
(trang 26 et seq.) ta còn tìm thấy nhiều thí dụ khác cho sự ý thức về
phi lý.
Như đa nói, phi lý đến với ta đột nhiên và bất ngờ. Ngày lại ngày ta
sống cuộc
đời vô cùng bình thản: sáng đi làm, trưa về ăn, chiều đi làm, tối về
ngủ, thứ
hai ba tư năm sáu bảy một nhịp đều hoà. Nhưng có một buổi, ở một nẻo
phố nào
đó, ta bỗng dưng nghĩ đến ngày mai, ta nói đến tương lai, ta chợt thấy
ta già,
ta bắt đầu hỏi “tại sao”, và đồng thời cảm thấy một nỗi “chán chường
pha lẫn
với kinh ngạc”, nỗi chán chường “buồn nôn” của hiện sinh. Hoặc bỗng
dưng ta nhìn
thế giới với đôi mắt khác hẳn mọi khi: ở người yêu tôi thấy bộ mặt quái
dị, ở
những hòn đá hiền từ tôi thấy những vẻ hung bạo, lãnh đạm bí mật; và
những thứ
gì thường ngày đẹp nhất đối với tôi, chẳng hạn một buổi chiều nắng
nhum, vòm
trời êm đềm, đồi thông xanh vút, suối thủy tinh… thảy đều biến mất đi
như thiên
đường đã mất, chúng có vẻ kinh tởm của thực tại; và tôi nghĩ đến sự tôi
phải
chết một ngày, sự cuộc đời tôi không một mục đích, lòng ham muốn đi vào
vĩnh
cửu, và hơn nữa, tôi bỗng nhận ra rằng mọi hành động của tôi đều có một
giá trị
ngang nhau: giết người cũng như giết một con ruồi, hay ngắt một chiếc
lá, hay
châm một điếu thuốc; bởi cuộc đời vô mục đích, vô hoạch định cho tương
lai, vô
hy vọng, do đó cái rỗng tuếch của mọi kỷ luật, mọi luật lệ; và tình
yêu, và
tình bằng hữu, và tham vọng… thảy đều trở nên những ảo tưởng vô nghĩa –
tất cả
là những tia sáng dọi vào khoảng tối mù của tập quán hằng ngày: tôi
tỉnh dậy.
Meursault tỉnh dậy. Và đột nhiên tôi thấy thèm sống mãnh liệt.
Meursault đột
nhiên nghĩ đến một buổi sáng tinh mơ nào đó, nếu được tha, hắn sẽ được
đóng vai
một người đi xem một kẻ khác bị chém, và nguồn vui ngột ngạt xâm lẫn
trái tim
hắn (trang 155). Hắn nghĩ đến tương lai (trang 170), và cảm thấy sẵn
sàng, rất
sẵn sàng, sống lại đời mình một lần nữa (trang 171).
Như thế
ta đã sang tới phần
tổng hợp đề: Nổi loạn trên bình diện cá nhân, kết quả của thế mâu thuẫn
giữa
phi lý và ý thức về phi lý của con người. Trước hết ta phải hỏi ngay:
khi ý
thức được phi lý rồi và nhận thấy đời mình vô nghĩa, vô mục đích, tại
sao ta
không tự sát, mà lại phát sinh ý sống mãnh liệt ấy – như trường hợp
Meursault?
Cho nên Camus đã nói ngay ở trang đầu tiên của “Thần thoại”: “Chỉ có
mỗi một
vấn đề triết học thực sự nghiêm trọng: đó là sự tự sát. Xét xem đời
đáng hay
không đáng sống, đó là trả lời vấn đề cơ bản của triết học. Còn sự vũ
trụ có 3
chiều hay không, sự trí tuệ ta có 9 hay 12 phạm trù là việc đến sau”
[17] .
Để trả
lời câu hỏi trên,
Camus xét đến hai loại tự sát: “Tự sát triết lý” và “tự sát thể xác”
(suicides
philosophique et physique). Nếu đã tự an ủi như Pindare rằng: “O mon
àme,
n’aspire pas à la vie immortelle, mais épuise le champ du posisible”
[18] , mà
tôi còn tìm cách thần tượng hoá phi lý và lấy nó làm căn bản để xây
dựng một
lòng tin tôn giáo như Jaspers, Kierkegaard, Chestov hay Dostoievsky,
thì sự
thực tôi mới chỉ tìm cách nhảy qua những bức tường phi lý: một thái độ
yếu
đuối, đầy ảo tưởng; và như vậy phi lý vẫn còn đó, thách thức như bao
giờ: đó là
một vụ tự sát triết lý. Hơn nữa, nếu tôi từ chối cuộc đời tôi, nghĩa là
nếu tôi
tự sát, thì như vậy tôi cũng chỉ tìm cách chạy trốn khỏi phi lý: tôi đã
quỳ gối
trước nó, tôi không dám nhìn thẳng vào mắt nó. Nói một cách loại suy,
sự phi lý
có thể ví như cái thế giằng co mãnh liệt giữa hai kẻ thù địch, và một
trong hai
kẻ giả thử ở vào một vị trí vô địch. Nếu tôi chạy trốn khỏi kẻ thù vô
địch ấy,
hoặc nếu, vì biết không có cách nào triệt được hắn, tôi tới quỳ gối
trước hắn,
nhận hắn là một thần tượng, thì như vậy tôi đã cố quên thế giằng co
bằng một
giá nhục nhã; trái lại, nếu tôi tự sát để không nhìn mặt hắn, thì thế
giằng co
tuy cũng đã bị hủy, nhưng kẻ thù tôi vẫn còn sống đó. Cả hai giải pháp
trên đều
là tự sát: một tinh thần, một thể xác.
Không
tự sát, tôi phải nổi
loạn. Nổi loạn là giữ nguyên cái thế giằng co ấy giữa tôi và thế giới,
chống
lại mọi thoả hiệp với phi lý, chống lại mọi ảo tưởng, mọi lối ẩn náu
“không mất
tiền”, mọi lối đào ngũ hèn nhát. Nổi loạn là chịu nhận sự chật hẹp của
cuộc đời
mà vẫn tiếp tục sống. Cuộc đời càng đáng sống hơn khi nó không có một ý
nghĩa
nào. Nổi loạn là sống không cần hy vọng – nhưng không hẳn là tuyệt vọng
[19] .
Sống là nuôi cho sự phi lý sống, và nuôi nó sống là nhìn thẳng vào mắt
nó [20]
, không cúi đầu khuất phục, không trốn tránh. Chỉ có nổi loạn tôi mới
tìm thấy
được bản thể của tôi; chỉ có nổi loạn tôi mới tìm thấy được cái nét
hùng vĩ của
con người [21] . Tôi nổi loạn, vậy tôi hiện hữu.
Nếu đã
nhận sự phi lý, nếu đã
bằng lòng giữ nguyên cái thế giằng co ấy, thì ta phải sống thế nào? Tôi
có thể
tìm được một “phép sống” nào không? Và đâu là mẫu người sống theo phép
đó? Đi
tìm một lẽ sống và một kiểu sống, đó là những việc chính trong “Thần
thoại”.
Con
người đã ý thức được phi
lý và đã nổi loạn bây giờ được gọi là “con người phi lý”. Con người phi
lý,
không hy vọng, không ngày mai, không Thượng Đế, bỗng nhiên cảm thấy
mình có một
tự do. Một tự do bát ngát: bát ngát bởi vì hắn không cần hy vọng, không
cần đến
ngày mai, và nhất là bởi hắn biết chắc sự chết là mốc đường cuối cùng,
và xa
hơn sự chết là hư vô. Đồng thời, với tự do bát ngát ấy, con người phi
lý cảm
thấy một “passion d’épuiser tout các em qui est donné” [22] : hắn phải
sống, và
sống thật nhiều, chứ không phải sống hơn (theo một nghĩa đạo đức nào).
“Nếu tôi
tin rằng cuộc đời này không có bộ mặt nào khác ngoài bộ mặt của phi lý,
nếu tôi
cảm thấy rằng cả cái thế quân bình của nó chỉ dựa trên cái thế đối lập
vĩnh cửu
giữa sự nổi loạn có ý thức của tôi và sự tối tăm mù mịt (của thế
giới)…, nếu
tôi nhận rằng sự tự do của tôi chỉ còn nghĩa lý khi đem so sánh với số
phận
ngắn ngủi của chính nó, thì tôi phải nói rằng điều đáng kể, không phải
là sống
hơn, mà là sống nhiều” [23] . Sống nhiều có nghĩa là trải qua thật
nhiều kinh
nghiệm, sống toàn diện, trong mọi khía cạnh, lấy lượng thay cho phẩm,
“vượt
nhiều kỷ lục”; bởi mọi kinh nghiệm đều có giá trị ngang nhau, tôi không
cần
phải mất thời giờ chọn kinh nghiệm này, bỏ kinh nghiệm kia.
Như vậy
ta thấy con người phi
lý yêu đời. Đó là tình yêu đời của Meursault, một kẻ phi lý điển hình:
hắn nhận
đời hắn một cách lãnh đạm (tuy vẫn rất nhiều kinh nghiệm, nhưng kinh
nghiệm
thuần thể xác), nhưng chỉ khi đã ý thức được sự chết – bằng chứng hùng
hồn nhất
của phi lý – hắn mới cảm thấy tình yêu đời mãnh liệt, và mới ước mong
được sống
lại, một lần nữa, cuộc đời mình. Hoặc sống như Don Juan, con người tình
của Tây
Ban Nha ấy, không lúc nào thiếu một người đẹp trên tay, không đêm nào
là không
một truy hoan. Hay sống như Molière, như Kean, những “kép hát” với mỗi
đêm một
vai kịch, một cuộc đời, một nét mặt, một tâm tình. Hay sống như
Prométhé, như
Thành Cát Tư Hãn, như Napóleon, những kẻ suốt đời say mê chinh phục, đo
hùng vĩ
của mình bằng diện tích, bằng khoảng rộng, làm bạn với nguy hiểm thường
xuyên.
Và nhất là sống làm một nghệ sĩ sáng tạo, như Nietzsche nói ở đâu:
“Nghệ thuật,
và chỉ nghệ thuật mà thôi; chúng ta có nghệ thuật để không phải chết vì
chân
lý”. “Sáng tạo chính là để sống hai lần một cuộc đời” [24] . Và cuộc
đời vô hy
vọng, vô mục đích, mà đáng say mê của Sisyphe nữa. Homère kể rằng: trời
đầy
Sisyphe phải ném một tảng đá lên đỉnh núi, rồi lên núi khuân đá xuống
đồng, rồi
lại ném lên núi cứ như thế mãi. Vậy mà Sisyphe vẫn say mê cuộc đời vô
vị của
mình: không bao giờ tuân lời Thượng Đế, bằng lòng sống mãi cuộc đời như
thế cho
đến ngày cuối, chỉ dùng sức mạnh cố ném tảng đá nặng lên đỉnh núi như
vậy cũng
là một cách kiếm cho đời mình một nét cao thượng. Đùa cợt với số phận:
Sisyphe
là một kẻ phi lý điển hình vậy.
Như ta
vừa thấy, con người
phi lý như vậy là một kẻ vô chính phủ (trong cái nghĩa rộng nhất của
nó); không
tin ở những thần tượng siêu nhiên, không tin vào một giai đẳng giá trị
sẵn có
nào, và giá trị là một thứ gì hắn tạo riêng cho mình. Nhưng nếu, trên
bình diện
cá nhân, mỗi người là một nổi loạn riêng biệt, có một giai đẳng giá trị
riêng
biệt, và mỗi người, giả thử, đã tiến tới cái trình độ… phi lý của
Camus, thì ta
có thể đoan chắc được rằng sẽ không có một xung đột nào xảy ra giữa các
cá nhân
khác nhau không? Ai cũng biết phong trào Nazi trong hồi đại chiến vừa
qua là
kết quả của một thứ siêu hình học phi lý (có nhãn hiệu Hégel và
Nietzsche), và
theo những điều vừa trình bày, mọi người dám quả quyết rằng Camus sẽ
tìm thấy ở
Hitler mọ anh hùng lý tưởng của phi lý. Vậy mà Camus đã tham dự vào
phong trào
kháng địch, đã lớn tiếng phê phán hành động bất nhân của Đức quốc xã
trong tờ
Combat: tự mâu thuẫn với mình chăng? Điều đó rất có thể. Nhưng có điều
chắc
chắn hơn: quan niệm “nổi loạn” của Camus đã chuyển hướng, hay đúng hơn,
đã có
một khía cạnh khác: nó đã được chuyển từ bình diện cá nhân sang bình
diện đoàn thể.
Tư tưởng Camus, như vậy, đã sang một chu kỳ biện chứng thứ hai. Nhưng
trước khi
nói đến chu kỳ này, tôi muốn xét tới luận lý của Camus (và tôi sẽ trừu
tượng
hoá mọi khía cạnh giá trị).
*
“Thần
thoại” là một “lược
luận về phi lý”, trong đó Camus dùng mọi lý luận, từ triết sang tới
khoa học,
để chứng minh sự hiện hữu của phi lý. Nhưng, đọc xong, người ta, hay,
ít nhất,
tôi, vẫn không thoả mãn một chút nào về lý luận của Camus. Dưới đây tôi
muốn
xét đến cái tiền đề của ông ta.
Phải
nói ngay rằng quan niệm
về phi lý của Camus rất mơ hồ và vu vơ: người ta không biết chắc cái gì
phi lý.
Lúc Camus bảo: thế giới phi lý; lúc khác lại bảo: không, thế giới không
phi lý,
chính bởi tôi không tìm thấy lý do nào cho vũ trụ nên phi lý là một
tương quan
giữa tôi và vũ trụ. Một tương quan? Một tương quan có thể là mâu thuẫn,
hay hoà
hợp, hay trung lập, làm sao nó có thể là phi lý? Cho nên, theo tôi,
thì, sự
thực, cái phi lý của Camus chính là sự không-thể-hiểu-nổi của vũ trụ.
Nhưng nếu
vũ trụ bí hiểm và ta không hiểu nổi, thì ta không có quyền nói rằng nó
phi lý
hay hữu lý. Nói rằng “x phi lý” cũng vô nghĩa như nói “x hữu lý” trong
trường
hợp tôi không biết gì về x cả. Điều lầm lớn trong luận lý của Camus là
ông đã
bắt đầu bằng một tiền giả định rằng mọi vật và phải có lý do, rồi khi
trí tuệ
không tìm thấy mới kết luận là phi lý. Nhưng tại sao, tại sao mọi vật
đều bắt
buộc phải có một lý do? Điều gì đã cho phép ông quả quyết như vậy? Vũ
trụ có
đấy, nó có ngoài ý của con người, việc gì nó phải theo một luật nào,
hay không
theo một luật nào? Tôi là một vũ trụ nhỏ, cũng như nó là một vũ trụ
lớn: chỉ có
thế thôi. Hay bảo rằng nó phải có một lời giải, bởi tôi muốn nó có, thì
lại
càng lầm hơn. Cái lầm đó đã nhiều người trỏ cho ta biết từ lâu, chẳng
hạn
Wittgenstein: “Thế giới đối lập với ý chí của tôi. Cho dù mọi điều
chúng ta
mong ước đã xảy ra thực sự như ý muốn, thì đó chỉ kiểu như một thứ ân
huệ của
định mệnh mà thôi, bởi giữa thế giới và ý chí không có một tương quan
luận lý
nào hết…” [25] . Bảo rằng linh hồn bất tử bởi vì tôi muốn, cũng như bảo
rằng nó
không bất tử vì tôi muốn: đều vô lý như nhau. Một thí dụ tầm thường
hơn: sự A
muốn trúng số độc đắc là một chuyện, sự A có trúng hay không lại là một
chuyện khác:
nếu ai muốn được trúng cả thì nhà nước sẽ vỡ nợ! Cho nên ta không có
quyền nói
gì về vũ trụ hết, nếu ta muốn nói thì ta phải đứng ra hẳn ngoài nó. Hay
có thể
bắt chước trường hiện tượng luận mà “đặt nó vào trong ngoặc”, vả lại sự
thực đó
chính là phương pháp Camus đã dùng khi bàn về Thượng Đế ở đâu, nếu tôi
không
nhầm. Cho nên, rất bực mình về những biện luận vu vơ, phù phiếm, bí
hiểm, vô
nghĩa của những “đại siêu hình học gia”, Wittgenstein đã phải nói:
“Điều ta
không thể suy tư nổi là điều ta không thể suy tư nổi: vì vậy ta cũng
không thể
nói gì về điều ta không thể suy tư nổi”, và “Điều gì ta không thể nói
nổi, thì
ta phải lặng im” [26] .
Hơn
nữa, và đây là lời phê
của một triết gia hiện đại của Anh, A. J. Ayer [27] , Camus đã muốn
những sự
kiện xảy ra trong thế giới bắt buộc phải có những tương quan luận lý
tất hữu:
nghĩa là chúng phải là những chân lý hay những hư ngụy a priori. Đây là
đòi hỏi
của một kẻ điên thì đúng hơn là của một “penseur” (nếu Camus có thể
được gọi
như vậy). Quả vậy, Camus mượn một chứng minh của Aristote (mà ông cho
là “la
plus claire et la plus élégante”: “…en affirmant que tout est vrai,
nous
affirmons la vérité de l’affirmation opposée et par conséquent la
fausseté de
notre propre thèse (car l’affirmation opposée n’admet pas qu’elle
puisse être
vraie). Et si l’on dit que tout est faux, cette affirmation se trouve
fausse,
elle aussi” – (trang 31). Câu này, sự thực, cho dù elégante đến đâu
cũng chỉ
chứng minh rằng chân và hư không thể áp dụng cho toàn thể các mệnh đề
luận lý.
Ai cũng đã biết rằng những mệnh đề tất hữu (propositions nécessaires) –
kiểu:
“z là hình vuông”, và “z có 4 cạnh” – khác hẳn những mệnh đề ngẫu nhiên
hay
thực nghiệm (contingentes hay empiriques), kiểu: “z là một hình vuông”,
và “z
có 4 cạnh”. – Những mệnh đề đầu có thể đúng hay sai a priori, nghĩa là
không
tùy thuộc gì vào nhận xét về ngoại giới của tôi; còn những mệnh đề sau
đúng hay
sai a posteriori. Đòi hỏi mọi chân lý phải có tính cách tất hữu tức là
đòi hỏi
một sự không thể có được trong luận lý. Và như vậy, câu trên không
chứng minh
gì được về hiện hữu của phi lý hết, và cái kêu ca của Camus là một thứ
kêu ca
hão huyền, của một kẻ không bị đánh mà kêu đau!
Sau
hết, giả thử cho rằng
quan niệm phi lý của Camus đã vượt qua những thử thách luân lý trên, ta
cũng
không thể nhận Meursault là một mẫu người có thể có trong thực tế được
nếu quả
thực Camus muốn coi hắn là một hình ảnh của một con người phi lý bằng
xương
bằng thịt. (Tôi không nói gì đến tự do của tác giả với nhân vật mình
tạo ra, vì
Camus có ý định chứng minh phi lý). Hắn là một con người đã bị bóp méo
vì cái
parti pris của Camus. Bởi một kẻ có một điều kiện bình thường về thể
xác cũng
như về tinh thần ắt phải có quá khứ và tương lai: quá khứ gói trong kỷ
niệm, và
tương lai gói trong mong ước (càng chưa đến cái “trình độ phi lý”, lại
càng ước
vọng).
Nhưng,
khi đã giả thử cái
tiền đề của Camus đúng, tôi rất sẵn sàng công nhận cái kết luận của
ông: nổi
loạn và bằng lòng sống không cần Thượng Đế dẫn dắt, hay một ảo tưởng
loại
Kierkegaard. Tuy nhiên có lẽ tôi không nói rằng Camus đã độc đáo cho
lắm, nhất
là khi tôi nghĩ đến L’Espoir của Malraux, hoặc Immoraliste của Gide,
hoặc
Nausée của Sartre. Có điều Camus đã nói đúng lúc, đã tìm cái lạc quan
ngay
trong cái bi quan của thời đại, và cái quan trọng ở ông do đó nằm trong
vị trí
đạo đức của ông hơn là vị trí nào khác.
III.
Tôi nổi loạn, vậy chúng
ta hiện hữu
“On
voit déjà que
l’afirmation de la révolte s’étend à quelque chose qui transcende,
l’individu,
qui le tire de la solitude supposée, et qui fonde une valeur” [28] .
Đọc
đoạn dẫn trên, ta nhận
thấy tư tưởng Camus đã tiến sang một giai đoạn mới. Quan niệm nổi loạn
bây giờ
có một khía cạnh khác; một khía cạnh lạc quan hơn, tích cực hơn. So nó
với định
nghĩa của nổi loạn trong “Thần thoại” [29] , ta còn thấy một mâu thuẫn
là đằng
khác. Sự mâu thuẫn ấy cũng dễ nhận và dễ hiểu. Nổi loạn trong “Thần
thoại” là
một thứ nổi loạn không hy vọng của một con người không Thượng Đế, không
một
giai đẳng giá trị: mỗi người tự lập cho mình một giai đẳng giá trị
riêng biệt.
Nổi loạn trong “Remarque sur la révolté”, trong những bài thời sự ở
“Combat”,
trong những vở kịch như “Les Justes”, “Caligula”, “L’Etat de Siège”,
rồi trong
tập récit nhan đề “La Peste”, và rồi tiếp đến tập triết luận thứ hai
“L’Homme Révolté”,
đã bao hàm nhiều hy vọng: hy vọng tiến đến siêu nhiên, hy vọng tiến đến
một
tình liên đới giữa người và người, và hy vọng tiến đến một bảng giá trị
chung
cho cả nhân loại, mà vẫn không cần viện đến Thượng Đế [30] . Sự mâu
thuẫn cũng
dễ hiểu, bởi, như đã nói, Camus là một thành phần tích cực trong phong
trào
Kháng Địch, đã chứng kiến những thác loạn, những hỗn mang đau thương
nhất của
thế kỷ (chẳng hạn những chambres à gaz), cho nên hy sinh luận lý để giữ
lại, và
bảo vệ, cuộc đời con người đối với Camus, là một lời biện hộ hùng hồn
hơn hết
thảy. Và đây là khởi điểm mới cho tư tưởng của ông: Cuộc đời là một giá
trị.
Tôi nói khởi điểm mới, nhưng sự thực nó là cái kết quả cuối cùng trong
“Thần
thoại” (bởi nếu không, thì con người đã tự sát), và theo dàn ý của tôi,
nó đã
được gói trong phần tổng hợp đề của chu kỳ biện chứng trước.
Camus
biện hộ sự mâu thuẫn
của mình trong “Kẻ nổi loạn” bằng cách cho tự sát và sát nhân làm hai
vế một
phương trình. Quả vậy, theo Camus, nếu tôi từ chối không tự sát, thì
chính bởi
vì tôi coi cuộc đời tôi là một điều kiện cần thiết độc nhất; nhưng nếu
cuộc đời
cần thiết cho tôi, hiển nhiên nó cũng cần thiết cho mọi người. Mọi
người khác
cũng có một lý luận về phi lý như tôi: tại sao tôi lại muốn giữ độc
quyền lý
luận đó? “Bước tiến bộ đầu tiên của con người đã khám phá ra được phi
lý là
nhận định rằng mình đang chia sẻ sự phi lý này với mọi người, rằng con
người,
xét trên toàn diện, chịu đau khổ vì nỗi xa cách ấy không những đối với
chính
mình mà còn đối với cả nhân loại. Một tai hoạ đến với một cá nhân trở
nên một
thứ bệnh dịch cho toàn thể” [31] . Do đó, nếu ở trong cùng một điều
kiện phi lý
như nhau, thì “sát nhân và tự sát chỉ là một” [32] .
Hơn
nữa, có hai loại sát
nhân: sát nhân vì phẫn nộ, vì nhiệt tình, và sát nhân vì luận lý, vì lý
tưởng
hay cho một ý thức hệ nào. Camus không trách loại sát nhân trên (chẳng
hạn loại
sát nhân vì tình của Heatchliff trong Wuthering Hegiths), bởi nó phải
đòi hỏi
một sức mạnh tình yêu, một caractère. Nhưng bởi sức mạnh vì tình hiếm
có, nên,
vẫn theo Camus, loại sát nhân này chỉ là ngoại lệ. Loại thứ hai là một
mưu sát
(meurtre prémédité), một thứ sát nhân có quy củ, có tổ chức, có khoa
học: chẳng
hạn Raskolnikoff trong Tội ác và trừng phạt hay Ivan trong Anh em nhà
Karamazov. Camus lên án sự sát nhân thứ hai này, và mục đích chính của
tập
triết luận chỉ là thế: lên án mọi tư tưởng, mọi hành động phủ nhận đời
sống con
người, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nhưng
đâu là những tư tưởng
và những hành vi ấy, có thực chúng muốn phá hủy con người không? Như
vậy ta
sang đến phần phản đề: chủ nghĩa hư vô (nihilisme) và chủ nghĩa bạo sát
(terrorisme), những động lực, theo tác giả, tất hữu xung đột với cuộc
đời nhân
loại trên bình diện văn hoá cũng như trên bình diện chính trị.
Lịch sử
con người là một lịch
sử nổi loạn. Từ thời nguyên thủy (nhất là cái nguyên thủy tả trong Cựu
ước),
người ta khoác cho Thượng Đế một bộ mặt của hung thần (qua hình ảnh
Thượng Đế
của Abraham), cho nên nổi loạn được biểu diễn trong một hành động hung
ác tương
đương: chẳng hạn những “trọng tội” của Caïn. Hoặc trong thượng cổ Hy
Lạp, khi
quan niệm đa thần hãy còn thịnh vượng (và các thần thánh đều có bộ mặt
của hung
thần), ta được chứng kiến những kẻ nổi loạn như Epicure và Lucrère: lý
do chính
vẫn là một ý thức về sự vô ích của số phận nhân loại, cái mâu thuẫn
giữa đau
khổ của thế giới và cái im lặng vô lý và hung ác của thần thánh: do đó,
nhất là
ở Lucrère, sát nhân ở con người là một câu trả lời hùng hồn nhất cho
cái sát
nhân ở hung thần. Nhưng cho đến khi Thượng Đế có một hình thức nhân vị
(Dieu
personal) – kẻ mọi người cho là đã sáng thế và do đó phải chịu mọi
trách nhiệm
về mọi thứ), và có bộ mặt của thiên thần, thì nổi loạn cũng có một hình
thái
mới. Khi Jésus ra đời để cùng chia sẻ nỗi đi đày của nhân loại (theo
Tân ước),
người ta tưởng sự “giáng thế” của Jésus đã trả lời được hai vấn đề: Đau
khổ và
sự chết; và bởi Jésus (le dieu-homme) cũng đã đau khổ và chết, nên con
người
không còn lý gì để kêu ca nữa: chúng ta là những điều kiện cần cho vũ
trụ.
Nhưng mặc dù Thượng Đế (qua nhân vị của Jésus) đã có bộ mặt hiền hậu
đến thế
nào đi nữa, với bước tiến bộ của lý trí, sự nổi loạn bắt đầu tái diễn
sang một
hướng mới mãnh liệt hơn: nó tiến tới hướng của hư vô chủ nghĩa. Còn
Jésus từ đó
được coi là một kẻ vô tội nữa trong những kẻ vô tội khác của trái đất.
Nhưng
cũng từ đó những cuộc
nổi loạn siêu hình theo Camus, vì phủ nhận con người nên cũng đã thất
bại.
Chẳng hạn như ở Sade, một kẻ vô thần ở cuối hậu bán thế kỷ 18, sự nổi
loạn của
con người phi lý hướng tới phá hủy; lý do: nếu Thượng Đế giết con
người, thì
không ai có quyền ngăn cản con người giết lẫn nhau; luật của thế giới
vì vậy là
một luật rừng, luật của sức mạnh cùng với động cơ thúc phát là dục vọng
và ý
chí.
Rồi tới
phong trào hư vô ở
Nga hồi đầu hậu bán thế kỷ 19 với Pisarev, Netchaïev và Bakounine (một
hồi) là
những đại diện chính. Nhấn mạnh sự vô tội của con người, nhấn mạnh sự
bất công
của án tử hình mà Thượng Đế treo vào cổ nhân loại, cùng với những đau
khổ vô lý
mà con người phải chịu đựng, trường hư vô (mà nhân vật Ivan Karamazov
là một
thành phần) lật đổ mọi giá trị cựu truyền của xã hội và tuyên bố: “Mọi
thứ đều
được phép”. Do đó tội ác được biện hộ, do đó Ivan để cho em mình giết
cha, do
đó Netchaïev hô hào khủng bố, do đó mỗi người trở nên một Thượng Đế,
một hung
thần, hay cụ thể hơn, một César.
Sang
đến Nietzsche thì chủ
nghĩa hư vô có một khía cạnh tích cực và hoạt động hơn nữa. Nếu “Thượng
Đế đã
chết” (và những kẻ giết Thượng Đế chính là bọn thầy tu Cơ Đốc), thì
không phải
“Mọi thứ đều được phép”, mà trái lại, “Mọi thứ đều bị cấm”. Lý do: muốn
thực
hiện một hành vi nào, con người ít nhất cũng phải nhân danh một giá trị
nào
cùng một mục đích nào (tương ứng với lý luận của phái hư vô: muốn cấm
một hành
vi nào, ta phải nhân danh một giá trị nào hay một mục đích nào). Hơn
nữa, nếu
nhận cuộc đời là một thực tại độc nhất, con người phải đi tìm một luật
sống
chung: bởi sống chính đã đòi hỏi một lệ luật. Luật lệ này sẽ không do
một đấng
siêu nhiên nào đặt ra, mà chính do những siêu nhân, nghĩa là những
hommes-dieux, những Dionysos. Nhưng những kẻ nào sẽ là siêu nhân?
Nietzsche trả
lời trong Volonté de puissance: những kẻ hiện thân của sức mạnh ý chí:
những kẻ
chiến thắng, một nòi giống tàn bạo di truyền. Bổn phận mọi “kẻ dưới”
(những kẻ
yếu đuối, không có sức mạnh ý chí, điển hình là những loại Lamartine)
phải quỳ
gối trước siêu nhân. Còn những văn nghệ sĩ sẽ được siêu nhân che chở.
Trong một
xã hội lý tưởng của Nietzsche, đám đông phải hy sinh (bằng cuộc đời nếu
cần)
cho siêu nhân: vì vậy những quan niệm như dân chủ, bình đẳng, bác ái,
những chủ
nghĩa như xã hội, cộng sản, nhân đạo, đều bị Nietzsche gạt bỏ và coi là
“suy
mạt” và “hư vô” [33] .
Trên
bình diện văn nghệ, chủ
nghĩa hư vô còn được thể hiện trong thi ca của Lautréamont, Rimbaud, và
nhất là
trong phong trào siêu thực với những tên như André Breton, Aragon,
Eluard.
Lautréamont,
khởi sự là một
kẻ phạm thượng [34] trong Chants de Maldoror: trả lời sự bất công của
Thượng Đế
bằng hình ảnh hung bạo của Maldoror; bởi nếu không thể xây dựng một
công lý mới
đáp lại cái bất công của vũ trụ, thì còn gì hơn bằng hoà cái bất công
ấy vào
một bất công mới, tổng quát hơn, một thứ bất công để cuối cùng biến
thành sự
thiêu hủy của toàn thể? Maldoror, “một hình ảnh… buồn như vũ trụ, đẹp
như kẻ tự
sát”, hiện thân của Maudit, của đau khổ, coi Thượng Đế là một kẻ thù,
một tội
nhân, đồng thời quay lại phá hủy ngay cả vật đã bị sáng tạo là con
người (“cêtt
bête fauve”). Vì vậy Những bài ca Maldoror đã ca ngợi tội ác như một
thánh thần
(“la sainteté du crime”) và Maldoror gây đau khổ cho loài người để
chính mình
đau khổ. Nhưng sang đến Poésies, thì sự nổi loạn của Lautréamont không
còn nữa:
khởi từ một thái độ hư vô tuyệt đối, Lautréamont đã chấm dứt trong một
thứ chủ
nghĩa hợp thời buồn ủ rũ [35] . Nói khác đi, Lautrémont đã thay thế cái
non
ablosu trong Chants bằng cái oui absolu trong Poésies: cúi đầu im lặng
đi theo
những quy ước cựu truyền.
Và
Rimbaud nữa. Khởi sự thi
nghiệp với ý thức của một kẻ nổi loạn điển hình: ca hát trong đau khổ,
phỉ báng
Thượng Đế, chống lại công lý và hy vọng, manh nha một tình yêu với
trọng tội,
để rồi kết thúc trong những ám ảnh về tiền bạc. Tác giả của Một mùa địa
ngục và
Linh cảm về sau bỏ thi ca đi làm lái buôn, ước ao lấy được một người vợ
“có
tương lai”, quanh năm giắt 8 ki-lô vàng quanh bụng, và lúc gần chết
kêu: “Que
je suis malheureux, que je suis donc malheureux… et j’ai de l’argent
sur moi
que je ne puis même pas surveiller!” [36] .
Và rồi
phong trào siêu thực.
Phong trào này khởi sự bằng một ý tưởng về sự “vô tội tuyệt đối”
(non-culpabilité absolue) của con người, tìm trả lại cho con người tất
cả sức
mạnh của một Thượng Đế, ca ngợi trọng tội như Lautréamont trong Chants,
đồng
thời ca ngợi cuộc đời cá nhân và cái “désir d’être). Hơn nữa, bởi xã
hội là một
tập hợp chuyên để đối lập với hiện sinh cá nhân, cho nên, theo André
Breton
(1933), cái hành vi đơn thuần nhất của một surréaliste là chạy ra ngoài
phố
chỉa súng bắn bừa vào đám đông. Con người chỉ hợp nhất với thiên nhiên,
với
nhân loại, bằng trọng tội: phạm tội là một cách yêu thoả mãn nhất [37]
. Nhưng
rồi phần lớn các thi sĩ siêu thực chấm dứt trong hàng ngũ cực tả và
Cộng sản
(như Aragon,
Eluard, và Breton một hồi), và thái độ này, theo Camus, chính bởi
Mác-xít là
thứ họ ghét nhất: “Không thể tới được cái tốt nhất, họ chọn cái tệ
nhất” [38] .
Đó là khía cạnh điển hình nhất của một chủ nghĩa hư vô, và do đó sự
thất bại
của chúng: đi từ thái cực nọ (đề cao cá nhân, tự do tuyệt đối) sang
thái cực
kia (đề cao đoàn thể, kỷ luật tuyệt đối).
Nếu
trên bình diện văn hoá,
chủ nghĩa hư vô, như ta vừa thấy, đã là một mầm mống triệt hủy cuộc đời
con
người, trên bình diện chính trị ta có tìm thấy một khuynh hướng tương
đương nào
không? Camus trả lời: có, và còn nguy hiểm hơn nữa. Khuynh hướng phá
hủy ấy để
thể hiện trong chủ nghĩa bạo sát với hai khía cạnh chính: cá nhân và
đoàn thể.
Lịch sử
mọi cách mạng từ thế
kỷ 18, theo tác giả, là lịch sử một sát nhân có lý luận (meutre de
raisonnement), lịch sử một mưu sát. Hơn nữa, nếu mọi cách mạng trong
lịch sử đã
bắt đầu bằng một ý chí đi tìm tự do và giải phóng, thì chúng ta đã chấm
dứt
trong một khí hậu mất tự do, hết giải phóng. Những kẻ mở đường cho chủ
nghĩa
bạo sát của thế kỷ 20 bắt nguồn ở những kẻ sát vương (régicides) và
những kẻ
sát thần (déicides). Những kẻ sát vương của thế kỷ 18 Pháp (như nhóm
Jacobins,
Saint-Just) đã mắc bệnh không tưởng khi có tham vọng xây dựng một thứ
tôn giáo
trên căn bản những thiện tính của con người, bởi như vậy họ đã cố ý bắt
mọi
người phải theo một tiêu chuẩn đạo đức có sẵn, trong khi bản tính con
người còn
phức tạp hơn họ tưởng. Họ đã viện đến bạo lực, đã hy sinh cuộc đời cá
nhân vì
quá tin tưởng vào những nguyên lý đạo đức hình thức suy đồi, vì vẫn còn
hoài
vọng cái giai đẳng giá trị đã chết đi cùng với Thượng Đế.
Những
kẻ sát thần, tuy khởi
hành từ một tiền đề trái ngược hẳn với nhóm Jacobins (nghĩa là cho rõ
ràng cá
nhân không có thiên tính, rằng thế giới mở đầu bằng một thảm kịch hơn
là một
bản tình ca), nhưng rồi cũng gặp nhau ở một điểm: bạo động. Mọi sự bắt
đầu với
Hegel. Tên triết gia độc đoán, thiếu độc đáo, thiếu thành thực, đầy bịm
bợp này
[39] đã giảng nghĩa mọi hiện tượng – thiên nhiên, xã hội, lịch sử –
bằng phương
pháp biện chứng từ Socrate; giảng nghĩa những tương quan giữa người và
người là
những tương quan giữa chủ và nô lệ, vì vậy lịch sử nhân loại là lịch sử
cá nhân
đấu tranh. Hắn còn cho rằng lịch sử của thế giới là lịch sử tiến hoá
của “Ý
Tưởng Tuyệt Đối”, cũng theo cái chuyển động bộ ba đó, đi từ trạng thái
thô sơ
nhất (thể hiện ở Đông phương: Trung Hoa), qua tới thời kỳ tương đối
hoàn hảo (ở
hai nền văn minh Hy, La) và tới trạng thái phức tạp và hoàn hảo nhất (ở
nền văn
minh Đức quốc, dưới triều đình Phổ!). Cái Ý Tưởng Tuyệt Đối ấy, đồng
thời trong
cái thuật dùng chữ trừu tượng và vĩ đại của Hegel, cũng là Lý tính
(Raison), là
Chân Lý Tuyệt Đối, là Vĩnh Cửu, là Bản Thể, là Ý Chí và là Tự Do. Nhưng
cái Ý
Tưởng Tuyệt Đối ấy được thể hiện dưới hình thức nào và những kẻ phàm
tục có thể
tìm thấy ở đâu? Hắn trả lời: nó được thể hiện trong một chính thể. Một
chính
thể quân chủ. Và là quân chủ chuyên chế! (hiển nhiên là để bợ đỡ
Frederick
Wilhelm III). Do đó, một cá nhân trong một xa hội chỉ là một con số vô
nghĩa,
không có tự do mà chỉ có bổn phận tuyệt đối tuân lệnh triều đình [40] .
Cũng vì
thế mà bất cứ h vi nào chống lại triều đình đều bị lên án, và mọi cuộc
nổi loạn
nông thôn ở Phổ hồi ấy đều bị đàn áp bằng bạo lực.
Chính
từ Hegel mà chủ nghĩa
bạo sát, theo Camus, đã phát triển sang những hướng kinh khủng nhất.
Trên bình
diện cá nhân ta đã thấy có nhóm hư vô xã hội ở Nga, chịu ảnh hưởng từ
Phénoménologie de l’esprit giữ lại phần đầu của nhị luận: “Giết, hay
bắt làm nô
lệ”, tự coi mình là nô lệ của Thượng Đế cũng như của vua chúa; nhưng nô
lệ đòi
hỏi phải cúi đầu hay nổi loạn, phái hư vô Nga chọn giải pháp thứ hai:
phương
tiện là bạo động, khủng bố, ám sát.
Trên
bình diện đoàn thể, bộ
ba Marx-Lénine-Staline giữ phần đầu của nhị luận trong thời kỳ tiền
cách mạng
và cách mạng, và giữ lại phần hai của nhị luận trong thời kỳ hậu cách
mạng (và
chỉ chấm dứt khi nào cách mạng đã thành công trên toàn thế giới). Quả
vậy, với
giai cấp đấu tranh (ở Hegel: cá nhân, rồi quốc gia đấu tranh) là động
cơ thúc
đẩy, lịch sử nhân loại chính là lịch sử tiến hoá của những phương tiện
và
phương pháp sản xuất, và cũng có một chuyển của nó đi. Bệnh dịch tượng
trưng
cho tình trạng bị đô hộ của Pháp hồi thế giới chiến tranh thứ hai. Hay
nó còn là
một phi lý trên bình diện cá nhân, biểu diễn sự yên lặng vô lý của
Thượng Đế,
trước những cái chết vô lý cả những kẻ vô tội; và trên bình diện đoàn
thể, sự
nổi loạn của một người lập tức kéo theo ý thức về tinh thần trách
nhiệm, liên
đới, tình yêu giữa người và người, những kẻ cùng sống trong một hoàn
cảnh và
chia sẻ cùng một nỗi phi lý.
Trong
La Peste, Camus nhận
rằng con người có một bản tính tốt, và đau khổ bắt nguồn từ ngoại giới
(thiên
nhiên), hoặc từ những tư tưởng sai lầm của một số người (nhân tạo). Khi
ta đã
có một quan niệm mới về nổi loạn, ta sẽ ý thức được những bổn phận mới:
cứu vớt
nhân loại bằng tình yêu (như nhân vật Grand), bằng lý trí (như Rieux và
Tarrou), tin tưởng vào sức mạnh con người, bảo vệ cuộc sống khỏi những
tai hoạ
thiên nhiên và những áp bức xã hội. Con người phi lý muốn trở nên, như
Tarrou,
một vị thánh không Thượng Đế. Đó là những nét chính của chủ nghĩa nhân
đạo của
Camus. Nó có tính cách thực chứng (positif) bởi nó không dựa lên một
quan niệm
tiên thiên nào về chân lý, về giá trị, về bổn phận, nhưng trên một giá
trị cụ
thể (đời sống), đi cùng với tình yêu là công lý, từ thiện và bác ái.
*
Ta nghĩ
gì về lý luận cùng
thái độ đạo đức của Camus? Riêng tôi, tôi nhận thấy Camus thiếu thành
thực trí
thức khi viết L’Homme Révolté. Trước tiên, nó chỉ là một lời cãi (không
khéo
cho lắm) cho lý luận của Mythe, và chính vì vậy mà nó biểu diễn một mâu
thuẫn
căn bản mà tôi chắc mọi người cũng đã nhận thấy: làm thế nào vừa bênh
vực cho
Thành Cát Tư Hãn hay cho Napoléon, (trong Mythe), là những “maitres
terrestres”, lại vừa bênh vực cho những kẻ khác, là “esclaves”? Ngay
cái ý muốn
bênh vực cho quan niệm mới về nổi loạn của mình, muốn nhấn mạnh sự nhất
trí của
tư tưởng mình từ Mythe sang L’Homme Révolté đã nhốt Camus vào một lồng
mâu
thuẫn.
Thứ
hai, ngay trong cuốn sau,
Camus đã khôn ngoan chỉ chọn những đề tài nào có thể biện hộ cho lý
luận của
mình, mà quên hẳn những cách mạng khác, không những không có tính cách
“nhớp
máu” hay “bạo sát” Camus thù ghét, mà còn tương đối thành công: chẳng
hạn những
nổi loạn của nhóm Chartists Anh hồi thế kỷ 19, của Robert Owen, hay của
những
nghiệp đoàn lao động ở Âu châu suốt dọc thế kỷ 19.
Thứ ba,
Camus đã nhầm tưởng
rằng mọi cách mạng đã chỉ khởi sự bằng một lý tưởng trừu tượng, bằng
một ý thức
hệ siêu hình. Sự thực, nhân loại không quá triết lý như Camus tưởng, mà
rất
nhiều cuộc nổi loạn đã bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế thiểu não,
và quả
cũng đã chỉ nhân danh con người ở đây và bây giờ hơn là cho một mẫu
người trừu
tượng nào. Hơn nữa, cái thái độ ôn hoà của Camus sự thực rất mơ hồ, và
đôi khi
không thể thực hiện được. Mơ hồ bởi nó không xác định đâu là giới hạn:
thế nào
là ôn hoà? Là tuyệt đối không sát nhân, hay chỉ giết “có chừng mực”?
Nếu tuyệt
đối không giết, thì làm thế nào bảo vệ được con người vô tội khi hắn
cũng sắp
bị giết? Nếu không thì độ bao nhiêu nhân mạng thì “có chừng mực”? Tôi
rất đồng
ý với Camus khi ông lên án những vụ sát nhân luận lý của Hegel cùng
phái tả
Hegel, của Hitler, Mussolini, Franco, Staline, nhưng tôi nghĩ rằng vô
tình hay
hữu ý, đã là cách mạng thì ít nhiều cũng phải kinh qua những vụ bạo
sát: lý do
thời gian là một, tình trạng hỗn mang là hai, để bảo vệ chính những
người đang
sống hơn là những người sắp ra đời. Bởi vậy cái “ôn hoà” của Camus
không thể
thực hiện được, đúng hơn nó là một cớ để mọi người khoanh tay, nhất là
hàng ngũ
bảo thủ. Có lẽ vì vậy mà khi La Peste và Homme Révolté ra đời, những kẻ
hoan hô
Camus phần đông là những thầy tu Cơ Đốc, những đại diện cho phái hữu,
và những
kẻ muốn tìm một thứ comfort trong giấc ngủ.
Thứ tư,
Camus cho rằng con
người bẩm sinh có thiện tính, và đồng thời cho rằng con người đau khổ
vì những
tư tưởng sai lầm, độc ác, nhưng có lẽ ông ta đã quên rằng những tư
tưởng sai
lầm đó chỉ là những sản phẩm của con người? Có thể hắn vừa tốt vừa xấu!
Vậy thì
nhân danh con người vô tội, con người có thiện tính để lên án Mác-xít
và
Phát-xít? Nhưng nếu bảo vệ hắn, thì không những cái tiền đề của Camus
bị lung
lay, mà nhận định về solidarité humaine cũng bị sụp đổ nốt. Hoặc là hy
sinh tình
liên đới để chống lại Mác-xít và Phát-xít (vì chính cái hành vi chống
lại họ đã
có nghĩa sự tan vỡ của solidarité), hoặc là giữ tình liên đới và đầu
hàng họ.
Luận lý của Camus đã không vững ở chỗ ấy (mặc dù tôi không nghi ngờ
thiện chí
cao cả, nếu có, của ông).
IV. Hai
quan niệm về nổi loạn
trên đã đưa Camus đến đâu? Mọi người chắc cũng đã thấy rằng khi viết
xong mấy
quyển trên, Camus tất phải không còn điều gì nói nữa. Ở chu kỳ đầu, ông
dùng
phi lý để đánh lại những tư tưởng về phi lý của thời đại; ở chu kỳ hai,
ông
dùng nổi loạn để đánh lại những tư tưởng về nổi loạn của thời đại; đó
là những
phương pháp để tự kiếm cho mình một originalité, tuy phải trả với một
giá hơi
đắt là hy sinh luận lý và bóp méo thực tại.
Quả
vậy, cho đến khi La Chute
thì người ta không thể hiểu được Camus đã muốn hướng tới đâu. Có người,
như
Quentin Lauer [41] cho rằng đó là dấu hiệu quay trở về với Cơ Đốc giáo
của
Camus, rằng tình yêu nhân loại của kẻ nổi loạn chính là tình yêu Thượng
Đế trá
hình, rằng quan niệm cho rằng lòng tự ái của thánh Augustine. Thậm chí
có kẻ,
như Donat O’Donnel [42] , cho rằng chính cái tên Jean-Baptiste Clamence
cũng đã
gợi cho ta hình ảnh của thánh Jean-Baptiste, hay một tiếng nói “de
celui qui
crie dans le désert” (Jean, III, 28) và do đó La Chute (có lẽ là Chute
de la
Grâce: xem Galâte V, 4) biểu diễn tình trạng tội lỗi của nhân loại
trước khi
“Grâce” tái xuất!
Có kẻ,
như Thody, lại bảo
rằng cuốn sách là một loại trào phúng mỉa mai: tên Clamence gợi cho ta
chữ
“clémence” (khoan hồng) mà chính Clamence không khoan hồng chút nào cả,
và như
vậy hắn chỉ là một faux prophète. La Chute muốn mỉa mai cái mặc cảm
phạm tội
của giai cấp trí thức tiểu tư sản, một thứ mặc cảm dẫn tới đầu hàng
Cộng sản
hoặc Cơ đốc.
Theo
một câu thường dùng của
dân Anh, “your guess is as good as mine” thì tôi cũng muốn đoán già một
câu.
Tôi cho rằng La Chute có thể chỉ là một câu hỏi. Sau khi đã tốn công
phu bảo vệ
con người, bấy giờ Camus mới bắt đầu nghi ngờ thiện chí của mình và
chợt nhận
thấy rằng những lý do hành động của mình có lẽ cũng không thuần tuý cho
lắm:
làm thế nào có thể thương người được nếu hắn không xứng đáng với lòng
thương
ấy? Và đến lúc mà ông phải lẩn thẩn tự hỏi: Con người tốt hay xấu?
Nó chỉ
là một vấn đề bỏ ngỏ,
bỏ ngỏ như chính hai quan niệm về nổi loạn của Camus vậy.
Chú
thích:
[1]“Nhưng
tôi xin hỏi, Camus,
ông là ai là lại có những hành động đơn độc ấy?” – Sartre, Réponse à A.
Camus
(Les temps Modernes, Th. 8, 1952, tr. 338).
[2]Xem
L’Homme en procés:
Malraux, Sartre, Camus, Saint-Exupery (A la Baconnière, Neuchâtel,
1950), và
Témoins de l’Homme (A. Colin, 1951).
[3]Những
tài liệu đặc biệt về
Camus tôi đã lấy từ những cuốn sau đây: T. Hanna, “The Thougth and Art
of A.
Camus (Henry, Rengery, Chicago, 1958); P. H. Simon, op. cit.: Neraud de
Boisdeffre, A. Camus on l’expérience tragique (Etudes, Th. 12, 1950);
A.
Maquet, A. Camus ou l’invineible été (Debresse, Paris, 1955); P. Thody,
A.
Camus: A Study of His Work (Hamish Hamilton, London, 1957); và những
sách sẽ kể
dẫn sau.
Những
sách của Camus, tôi đã
dùng của nhà Gallimard, collection blanche.
[4]Câu
này, tôi đã tự ý đặt
để đối chiếu với câu: “Je me révolte, done nous sommes” trong Homme
révolté,
tr. 36.
[5]“Je
ne me sens pas philosophe
pour un son; ce qui m’intéresse, c’est savoir comment il faut se
conduire”. Xem
Boisdeffre, Métamorphose de la litterature (Alsatia, Paris 1951, tr.
275).
[6]“Sartre
et moi nous avons
publié tous nos livres, sans exception, avant de nous connaitre. Sartre
est
existentialiste, et le seul livre d’idées que j’ai publié (Mythe de
Sisyphe)
était cargié contre les philosophes dits existentialistes”. – Câu này
lấy trong
Thody, op. cit., tr. 149.
[7]Tôi
nói “phái hiện sinh”
trong cái nghĩa rộng nhất của nó, và có lẽ cũng không đúng mấy. Bởi ai
cũng
biết rằng 4 triết gia đại diện cho “trường” này hiện nay (Marcel,
Jaspers,
Heidegger, Sartre) không những đã bất đồng ý kiến với nhau ở nhiều điểm
quan
trọng, mà còn khác hẳn những kẻ tiên phong như Pascal, Kierkegaard,
Dostoievsky, Nietzsche, Kafka v.v… Về điểm này, xem W. Kaufmann,
Existentialism: from Dostoievsky to Sartre (Meridian, Y.Y., 56), ch. I.
[8]“Dès
l’instant ou l’homme
soumet Dieu au jugement moral, il le tue en luimème… Dieu… n’est plus
et ne
garantit plus notre être; l’homme doit se déterminer à faire, pour
être”, H.R.,
tr. 84.
[9]“Je
disait que le monde
est absurde, et j’allais trop vite. Ce monde en lui même n’est par
raisonnable,
c’est tout ce qu’on en peut dire”, Mythe de Sisyphe, tr. 27.
[10]“Mais
ce qui est absurde,
c’est la confrontation de cet irrationnel et ce désir, éperdu de clarté
dont
l’appel résonne au plus profond de l’homme. L’absurde dépend autant de
l’homme
que du monde” Ibid. tr. 37.
[11]Cf.
Nietzsche: “Sự thật
đáng buồn là chúng ta tất hữu phải mãi mãi là những kẻ lạ mặt với chính
ta, ta
không hiểu nổi chính bản thể của ta…; định đề nói rằng “Mọi người xa
cách nhất
với chính mình” sẽ là một chân lý cho ta đến vĩnh cửu”. Tựa cho Thế hệ
luận về
đạo đức (bản dịch tiếng Anh của F. Golffing – The Genealogy of Morals –
Anchor,
N. Y., 1965), tr. 149.
[12]L’Etranger
xuất bản trước
Mythe mấy tháng (1942), như vậy, như Sartre nói, để giới thiệu với ta
cái “khí
hậu” phi lý; và tập triết luận đến sau cốt để “soi sáng” cái khí hậu
đó. Xem
Sartre, Explication de l’“Etranger”, in lại trong Situations I
(Gallimard,
1947), tr. 110.
[13]Mà
Sartre (ibid.) cho là
Camus đã dụng ý mượn của Hemingway.
[14]Ngay
đối với tình nhân,
hắn cũng không biết rõ là mình có yêu không. “Un moment après, elle m’a
demandé
si je l’aimais. Je lui ai répondu que cela ne voulait rien dire, mais
qu’il me
semblait que non” (tr. 55). Hoặc đoạn này: “Le sois, Marie est venue me
chercher et m’a demandé si je voulais me marier avec elle. J’ai dit que
cela
m’était égal et que nous pourrions le faire si elle le voulait” (tr.
64).
[15]Xem
Ph. II, ch. V, tr.
152 et seq.
[16]Những
bạn chưa đọc cuốn
này cũng nên biết rằng toà lên án xử hình Meursault không hẳn vì hắn
giết
người, mà chính vì hắn đã không chịu nói dối về tình cảm của mình hôm
đưa đám
mẹ. Một chi tiết quan trọng nữa là Meursault bắn tên Ả Rập 5 phát, làm
hai lần,
lần đầu một phát vì lỡ tay (“La gâchette a cédé…”, tr. 88), và tên kia
đã ngã
xuống và chết, lần sau 4 phát vì ánh nắng gay gắt làm hắn bực mình và
vì tiếng
động choáng tai của phát thứ nhất đã phá vỡ mất thế “équilibre du
jour”, và cái
“silence exceptionnel d’une plage où j’avais été heureux”. Toà nghi ngờ
về lòng
độc ác của Meursault khi hắn bắn 4 phát này.
[17]“Il
n’y a qu’un problème
philosophique vraiment sérieux: c’est le suicide. Juger que la vie vaut
ou ne
vaut pas la peine d’être vécue, c’est répondre à la question
fondamentale de la
philosophie. La reste, si le monde a 3 dimensions, si l’esprit à 9 ou
12
catégories, vient ensuite”, Mythe, tr. 15.
[18]Epgiraphe
của Mythe.
[19]“…l’absence
totale
d’espoir… n’a rien à voir avec để désespoir”, ibid., tr. 49..
[20]“Vivre,
c’est faire vivre
absurde. Le faice vivre, c’est avant tout le regarders, tr. 76.
[21]“Cette
révolte donne son
prix à la vie. Étendue sur toute la longueur d’une existence, elle lui
restitue
sa grandeur”, tr. 78.
[22]Tr.
84.
[23]Loc.
cit.
[24]Tr.
130.
[25]Ludwgi
Wittgenstein,
Tractatus Logico-Philosophicus, bản dịch đối chiếu Đức – Anh của C. K.
Ogden
(Routledge and Kegan Paul, London, 1922) § 6.373 và § 6.374, tr. 181.
[26]Ibid.,
5.6. tr. 151; và
7., tr. 189.
[27]Novelists-Philosophers:
No 8: A. Camus, trong tờ Horizon, Th. 3, 1946, tr. 155 – 168.
[28]Remaque
sur la révolte,
in trong Existence do Jean Grenier xuất bản (Gallimard, 1945), tr. 9.
[29]“Elle
(la révolte) est un
confrontement perpétuel de l’homme et de sa propre obscurité. Elle est
exigence
d’une impossible transparence. Elle remet le monde en question à
chacune de ses
secondes… Elle est cette présence constante de l’homme à luimême. Elle
n’est
pas aspiration, elle est sans espoir” (tr. 77).
[30]“…la
seul question qui
nous paraisse de quelque importance: l’homme peutil seul, et sans le
recours de
l’éternel, créer ses propres valeurs”. Remarque…, tr. 22.
[31]L’H.
R., tr. 36.
[32]“Vis-à-vis
de la
confrontation, meurtre et suicide sont une même chose, qu’it faut
prendre ou
rejeter ensemble”, ibid. tr. 17.
[33]“Hư
vô” theo Nietzsche có
nghĩa: không tin vào thực tại mà chỉ tin vào những điều không tưởng.
[34]Thượng
Đế (trong Cựu ước)
được Lautréamont đặt “trên một bệ đắp bằng phân người và vàng”.
[35]Xem
L’H. R., tr. 113-114.
[36]Ibid.
tr. 117.
[37]André
Breton nói về Sade:
“Certes, l’homme ne consent plus ici à s’unir à la nature que dans le
crime;
resterait à savoir si ce n’est pas encore une des façon les plus
folles, les
plus indiscutables, d’aimer”. Id.,
tr. 121.
[38]“Mais
ces frénétiques
voulaient une “révolution quelconque”, n’importe quoi qui les sortît du
monde
de boutiquiers et de compromis où ils étaient forcés de vivre. Ne
pouvant avoir
le meilleur, ils préféraient encore le pire”, tr. 122.
[39]Karl
Popper, một giáo sư
Đức giảng luận lý ở Đại học Luân Đôn đã khám phá ra rằng Hegel không
những là
một tên nói láo nguy hiểm nhất trong lịch sử tư tưởng Âu châu, mà còn
là một
tên bợ đỡ, nịnh hót và lý tài vô liêm sỉ nhất. Hầu hết mọi tư tưởng
chính của
hắn đã có người nói rồi, như: Héraclite, Platon, Aristote, Ficth,
Schelling,
Schleiermacher, và nhất là Rousseau, Spinoza và Montesquieu. Xem The
Open
Society and its Enemies (Routledge & Kegan Paul, London, 1945) qu.
II, ch.
12.
[40]Tự
do cá nhân theo Hegel,
như Bertrand Russell đã nhận xét có nghĩa là “quyền để tuân lệnh”. Xem
History
of Western Philosophy (Allen & Unwin, London, 1946), ch. XXI, tr.
746.
[41]Xem
Albert Camus: the
Revolt Against Absurdity, trong tờ Thought¸ Xuân 1960, Bộ 35, số 136.
[42]Tài
liệu ở Thody, op.
cit. tr. 77.
Nguồn:
Tạp chí Sáng Tạo, bộ
mới, số 3, ra ngày 1-9-1960, trích từ trang 68 đến 88. Chủ nhiệm: Mai
Thảo.
Quản lý: Đặng Lê Kim. Trình bày: Duy Thanh. Toà soạn và trị sự: 133B Ký
Con,
Sài Gòn. Giá: 15đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Nguồn:
Talawas
Được
bạn: Thanh Vân đưa lên
Nguồn VN thư quán
Thạch
Chương là bút hiệu của Cung Tiến, nhạc sĩ