Vô
Kỵ giữa
chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung
Trân trọng giới thiệu
độc giả bài viết "Vô Kỵ giữa
chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung", của Đỗ Long Vân. Bài được viết
vào
năm 1967 khi truyện chưởng Kim Dung đang ăn khách ở miền nam Việt Nam.
Sau 1975,
cả một nền văn học miền nam bị nhà nước Cộng Sản coi là đồi trụy, lẽ
tất nhiên,
trong đó có truyện chưởng Kim Dung. Bây giờ, truyện chưởng Kim Dung đã
được cho
xuất bản trở lại, kể cả việc in lại bài viết của Đỗ Long Vân trong cuốn
"Kim Dung, tác phẩm và dư luận", (nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội).
Chúng tôi cho đăng lại bài viết của Đỗ
Long Vân (ông đã mất
tại Sài Gòn vào năm 1997), cùng những lời giới thiệu của Nguyễn Quốc
Trụ, như
những dòng tưởng niệm người đã khuất. Ngày nay, Kim Dung được cả thế
giới, và
Trung Quốc coi trọng, tuy nhiên, khi chưởng Kim Dung vừa xuất hiện, cho
dù ăn
khách, vẫn bị coi là một thứ truyện "phi văn chương", Đỗ Long Vân đã
trân trọng viết về ông.
Đây là một bản văn lạ, đẹp như mơ,
theo nghĩa này: Tất cả
những giấc mơ đều có chút chi huyền bí, và đây là vẻ đẹp của chúng.
Nhưng có
vài giấc mơ quá huyền bí đến nỗi không hiểu nổi, và bạn có thể cho
chúng hàng
trăm lời giải thích khác nhau, đều được cả.
Đỗ Long Vân:
Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng
Kim Dung.
"Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó
có nghĩa gì giữa
cảnh tai biến của chúng ta và tại sao lại có thể xẩy ra? Ấy là những
nghi vấn
mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết".
I
Rất có thể người ta
sẽ ngạc nhiên.
Nhưng một trong những sự
kiện đáng lưu ý nhất của văn học miền Nam trên mười năm nay là cái
phong trào
võ hiệp mà, cứ khi nào hết chuyện nói, người ta lại mang ra lên án như
là
nguyên nhân của sự suy đồi của xã hội. Nó đã bùng lên đột ngột và ồn ào
để xâm
lấn chớp nhoáng những giới thật khác nhau. Những lý do của phong trào
ấy có
nhiều. Có những lý do thường trực như nhu cầu giải trí, sự cám dỗ của
những cái
khác thường, tiếng gọi của phiêu lưu. Lại có những lý do thời cuộc: sự
bế tắc
của tình thế xô người ta trốn thực tại trong một thế giới hoang đường.
Ngoài
những lý do tự nhiên ấy còn phải kể đến một chiến dịch cổ động truyền
khẩu cũng
như trên mặt báo. Thời đại của kế hoạch. Không có gì người ta có thể
tin là tự
nhiên và bộc phát. Ai tuy nhiên đã gây nên phong trào ấy và với mục
tiêu nào?
Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải quyết. Có điều là cái phong trào ấy,
dù ai có
chủ ý gây nên chăng nữa, cũng không thể nào lên tới mức độ như người ta
đã
thấy, nếu những truyện kiếm hiệp được tung ra đã không diễn tả gì tâm
trạng của
người đương thời. Và chứng cớ là trong phong trào ấy, không phải truyện
võ hiệp
nào người ta cũng chạy theo mà người ta chỉ chịu, chỉ chuộng, chỉ mê
thứ truyện
là truyện của Kim Dung. Cho đến nỗi những ai từng để ý tới những tương
quan
giữa văn học và xã hội không thể không coi chúng như một hiện tượng của
thời
đại. Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến
của
chúng ta và tại sao lại có thể xẩy ra? Ấy là những nghi vấn mà cố gắng
của bài
này là tìm ra một đáp thuyết.
Thường thì ai cũng
công nhận rằng
truyện Kim Dung
"hay" hơn những truyện võ hiệp cổ điển. Và để minh chứng cho thiên
kiến ấy, người ta đã viện ra nhiều lý do: nào là tâm lý phức tạp, tình
tiết éo
le, truyện kể hồi hộp; nào là thiện và ác không còn minh định một cách
ngây ngô
như xưa nữa, trái lại, người ta không còn biết ai phải và ai trái, ai
giỏi võ
hơn ai, và ai sẽ thắng…. Những lý do ấy tuy nhiên, xét cho cùng, không
diễn tả
gì hơn là tâm sự của người đọc. Không phải thời nào người ta cũng tìm
trong những
truyện kể cái hồi hộp, sự phức tạp tâm lý và những xung đột khả nghi
không biết
ai phải và ai trái. Ấy là những đặc tính giờ làm người ta đam mê. Sự
đam mê ấy
nói lên rằng lòng người đã thay đổi. Nó không còn có nghĩa là người ta
đã tìm
ra những tiêu chuẩn khách quan của một cái "hay" muôn thuở. Truyện
Kim Dung không hay hơn những truyện võ hiệp xưa. Chúng khác hẳn. Tại
chúng đáp
lại những nhu cầu tâm lý khác. Và công của Kim Dung không phải là đã
cải thiện
nghệ thuật viết truyện võ hiệp. Ông đã sáng tác ra một kiểu truyện võ
hiệp mới.
II.
Quan niệm võ học.
1. Trong truyền thống hoang đường.
Cái ấy có lẽ người ta
không ngờ rằng
nó đã bắt đầu ngay
trong quan niệm võ học. Ai cũng biết là từ Kim Dung mới thịnh vượng
những
chuyện chưởng và nội lực. Chưởng pháp dựa vào sức của bàn tay, như một
biến thể
của quyền thuật, thật ra không có gì lạ. Nhưng khi lòng bàn tay người
ta có thể
vận ra những luồng khí giết người, thời cái hoang đường nghĩ lại cũng
chẳng
khác gì những truyện kiếm quang. Táo bạo đầu tiên của Kim Dung là đã
nối lại
một truyền thống hoang đường mà truyện võ hiệp có thời đã bỏ dở. Ấy là
thời
được tung ra những truyện võ hiệp được gọi là đứng đắn. Trong những
truyện ấy
người ta cam đoan rằng những thế võ được sử dụng đều là võ thực, nghĩa
là đều có
tên trong những sách chân truyền, và, sợ thế cũng chưa đủ, người ta lại
kèm
theo những họa đồ trình bầy động tác của từng thế một. Những độc giả
thực tế và
nghiêm trang được yên tâm là đã không mất tiền và thì giờ một cách vô
ích. Hơn
thế nữa, họ lại có dịp khoe rằng đã tiếp xúc một cách ích lợi với võ
học chính
tông. Nhưng ai đọc truyện võ hiệp để học võ bao giờ? Võ học trong những
truyện
là một dịp để người ta tưởng tượng, cũng như người ta đọc những truyện
khoa học
giả tưởng không phải để trở thành kỹ sư, mà là để tưởng tượng trên
những có
thể, tưởng là không thể tưởng tượng được, của khoa học. Nhưng người ta
hiểu tại
sao cái hoang đường của những truyện luyện kiếm lại có thể cám dỗ người
ta hơn
tất cả những thứ võ ở những truyện khác.
Một thỏi sắt luyện thành một thanh
kiếm tốt đã khó. Nhưng
khó hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy
người ta
có một diệp kiếm; nhỏ hơn, bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm; nhỏ hơn
nữa, bằng
hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng lực của kiếm càng lớn.
Tất cả
xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao
nhiêu lại
càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hóa ra nước làm
thủy kiếm,
ra hơi làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm thì năng lực được kể
như không
cùng. Tương quan ấy giữa năng lực và thể chất làm người ta nghĩ sao?
Nhưng tôi
không muốn nói rằng những tác giả võ hiệp là những Einstein bị người
đời quên
lãng.
2. Ý nghĩa của nội
lực.
Kiếm tuy nhiên vẫn
chỉ là một vật
ngoại thân. Căn bản của võ
học theo Kim Dung lại ở nội lực. Nội lực là cái nguyên khí tản mác
ngoài thiên
nhiên mà, theo những cách luyện đặc biệt, người ta thâu nạp được trong
người.
Khi giao đấu thì nội lực ấy có thể, từ lòng bàn tay, xuất phát ra những
ngọn
gió lớn có sức đánh gãy cây và đập nát đá. Nói theo kiểu của giới đọc
võ hiệp,
người ta gọi thế là đấu chưởng. Xem như thế thì chưởng phong còn hoang
đường
gấp mấy lần quang kiếm. Uy lực của quang kiếm dẫu sao cũng là thể chất.
Sức của
chưởng phong thì tùy ở nội lực. Và nội lực là một cái gì cũng mơ hồ như
nguyên
khí của thiên nhiên. Người luyện kiếm tiếp tục một truyền thống thợ
rèn, tìm
cách chế hoá thể chất ra năng lượng. Nội lực trái lại, là một sức mạnh
vô hình.
Cũng như tinh thần. Và người ta không thể ngờ rằng võ học Kim Dung cũng
chịu
ảnh hưởng nặng nề của thần bí học. Ấy là một thần bí học duy tự nhiên.
Cho nên
người anh hùng Kim Dung là người nhờ gặp may uống được máu rắn, ăn được
kỳ hoa,
nuốt được dị quả mà tiếp thu những mãnh lực nguyên thủy của vũ trụ súc
tích
trong những vật ấy để trong chốc lát đạt tới một nội lực thượng thừa.
Luyện nội
lực như thế, để nói như các triết gia, là một cách trở lại nguồn.
Thường thường
một nội lực thâm hậu đòi ở người ta một công phu dài mấy chục năm.
Nhưng như
người ta thấy, được một dịp may trời cho thì mấy mươi năm luyện tập
cũng chưa
bằng. Trời trong Kim Dung có những đặc ân như muốn riễu những cố gắng
của con
người. Kể cũng khả nghi. Nhưng không thế thì làm sao võ lâm có thể đổi
mới và
sinh ra những biến cố bất ngờ?
Nội lực đã thâm hậu
thì võ công nào
người ta cũng học được.
Luyện những võ công tinh xảo quá mà thiếu nội lực thì trái lại người ta
có thể
bị tẩu hỏa nhập ma, và dù có luyện được, cũng không thể nào phát huy
được hết
uy lực của nó. Người giầu nội lực thời dùng một thế võ tầm thường cũng
có thể
đạt tới một uy lực siêu phàm và khắc chế những võ công tinh xảo, như
Trương
Quân Bảo lấy mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm mà thắng được
một Hà
Túc Đạo, người mà đời xưng tụng là kiếm khách. Nhưng đặt nội lực trên
cái tinh xảo
của võ công, phải chăng một lần nữa Kim Dung lại đặt tự nhiên trên sức
chế hoá
và công phu của con người? Cũng có lẽ. Nhất là khi người ta nhớ rằng
trong
truyện ông, đạt tới tuyệt đỉnh của võ công không phải là một Hoàng Dược
Sư
chẳng hạn, muốn lấy trí năng của mình để đoạt quyền tạo hoá, mà, những
nhân vật
ác độc như Âu Dương Phong, ngay thẳng như Hồng Thất Công, thật thà như
Quách
Tĩnh, ngây thơ như Châu Bá Thông, sống toàn theo năng tính, nghĩa là
theo con
người tự nhiên của họ. Trở về tự nhiên, trở về nguồn, khi ấy, cũng là
trở về
cái phần nguyên thủy của mình. Và người ta có thể nghĩ rằng lấy nội lực
làm căn
bản cho võ học, Kim Dung đã chẳng làm gì hơn là đặt căn bản võ học
trong lòng
người. Uy lực của người anh hùng từ giờ không ở cái xảo của võ công và
của khí
giới nữa, cũng như cái gì đe dọa chàng trên giang hồ không còn là những
nguy
hiểm của thế giới bên ngoài mà ở ngay chỗ sâu xa nhất trong người
chàng. Nguy
hiểm ngoại tại người ta có thể lấy trí năng để giải hóa. Nhưng đấu nội
lực thì
ai cũng biết chỉ có một mất và một còn. Cả con người mình khi ấy phải
ngưng tụ
để chống trả. Suy tính gì được nữa? Sểnh một cái, tâm hồn giao động,
thế là bị
phân tâm và nội lực ly tán. Khi ấy thì không chết người ta cũng bị
trọng
thương. Và kẻ thắng trận trước hết là kẻ giữ được cái tĩnh của lòng
mình trước
những xôn xao của ngoại giới. Nhưng ý nghĩa của võ học cũng thay đổi
hẳn. Võ
học trở nên một kỷ luật của nội tâm và nội lực cũng giống cái mà, theo
một ngôn
ngữ khác, người ta gọi là đức tin.
Sự nội tâm hóa ấy,
tuy nhiên, lại mở
rộng phạm vi võ học.
Xưa, võ học không ra ngoài một nghệ thuật sử dụng quyền cước và khí
giới, thì
giờ, người ta có thể giết nhau bằng một tiếng cười, một tiếng rống, một
tiếng
sáo, một tiếng đàn. Tất cả là làm thế nào cho tinh thần đối phương rối
loạn. À!
Các tác giả võ hiệp đã không sống uổng trong thời đại của tâm lý chiến!
Nhưng
còn gì đẹp và ghê người hơn cảnh một đôi cao thủ, người đàn và người
sáo, một
đêm trăng trên mặt biển, vận nội lực trong những tiếng nhạc thâu hồn?
Tệ hơn nữa,
người ta có thể dùng những điệu thoát y vũ! Nhưng bị võ lâm nguyền rủa
như môn
võ ác độc nhất vẫn là "Hoá công đại pháp" chuyên dùng để phá nội lực
của người. Hình như chạm đến nội lực là chạm đến một cái gì thiêng
liêng. Võ
học chính tông trong Kim Dung tuy nhiên cũng giống như đạo. Ở chỗ tối
cao của
nó thì người ta trở nên "tĩnh" như núi Thái Sơn. Ấy là cái tĩnh của
người đã đạt tới cái chân nguyên của tự nhiên và của lòng mình. Người
và tự
nhiên khi ấy là một. Những xôn xao cũa ngoại giới không còn làm gì được
người
ta nữa. Và trong cái tự do tuyệt đối của tinh thần, người ta có thể,
không
những như Hà Túc Đạo, tay kiếm tay đàn không sợ rối chí nữa, xa hơn
nữa, không
cần xuất thủ, còn có thể ngồi yên lấy ý điều khiển nội lực đánh lại
người.
3. Võ học như một yếu
tố của truyện kể.
Cái tĩnh ấy, lẽ dĩ
nhiên chỉ có thể có
với một nội lực siêu
phàm. Sức mạnh thực không cần phô trương. Ít khi Kim Dung dùng những từ
mỹ lệ
để mô tả cách biểu diễn của võ công. Ông không tìm trong võ công cái
ngoạn mục
của những động tác. Trông thì còn gì tầm thường hơn là những cuộc đấu
nội lực?
Nhưng ấy cũng là những cuộc đấu khẩn trương nhất và tất cả nghệ thuật
giờ là
làm cho người ta tham dự vào sự khẩn trương ấy. Hết làm vui mắt, võ học
trở nên
một yếu tố gây xúc động, nghĩa là để nói với tâm hồn. Xu hướng của nó
là ngày
càng tiết kiệm động tác. Như sự kín đáo ấy đã thành ra dấu hiệu của sức
mạnh
thực. Hãy nhìn thế võ ấy chẳng hạn: xem thật là đơn sơ nhưng thủ có,
công có,
và hàm chứa không biết bao nhiêu cách biến hoá, xem nhẹ nhàng nhưng cực
kỳ lợi
hại, xem chậm chạp nhưng uy mãnh vô cùng. Cây cổ thụ ấy ngang nhiên
đứng thẳng.
Nhưng phất ống tay áo là nó đổ. Khi ấy người ta mới biết rằng những thớ
gỗ
trong cây đã nát. Nó đã trúng "Thất Thương Quyền". Sự ngạc nhiên của
người ta khi ấy, một võ công ồn ào hơn làm gì có thể gây nên? Cái ngoạn
mục bớt
đi, nhưng chấn động tâm lý lại càng lớn. Quãng cách giữa nguyên nhân và
kết
quả, nghĩa là cái phần biểu diễn ấy, được thu giảm đến cùng cực. Và
người ta
như bị đẩy trước một huyền bí. Ấy là cái cảnh, chẳng hạn, "không biết
người khách ấy xuất thủ như thế nào mà đối phương hự lên một tiếng rồi
ngã lăn
ra chết". Võ công gì mà lạ thế? Không ai nhận ra, nhưng như một tia
chớp,
nó vụt loé lên như tiêu ký của bóng tối. Các môn phái thành danh, trong
khi ấy,
đều có những võ công đặc biệt. Và một miếng võ thường là một căn cước.
Nhưng
trước miếng võ kỳ bí ấy ai chẳng rùng mình? Rắc rối hơn nữa là có những
cao thủ
dùng võ công của môn phái này để giết người môn phái kia. Ấy là một dịp
cho không
biết bao nhiêu nghi vấn, như khi trên thân thể dập nát của Dư Đại Nham
mang ấn
tích của "Kim Cương Chỉ" vốn là một tuyệt kỹ bí truyền của Thiếu Lâm,
làm mọi người hoang mang không biết ai là hung thủ. Chẳng lẽ lại là một
thần
tăng uy đức trấn giang hồ? Nhưng chắc không thể không là một cao thủ
tuyệt luân
và môn "Kim Cương Chỉ" trở nên một ám ảnh nhức nhối để, như một tang
vật của tội ác trong những truyện trinh thám, ngưng tụ quanh nó cả một
không
gian chập chùng đe dọa và bí mật. Ấy là không kể những khi trên giang
hồ xuất
hiện những thế võ thất truyền làm người ta sực nhớ đến cả một dĩ vãng
hoang
đường.
Nói tóm lại thì võ
lực trong Kim Dung
không phải chỉ có
những cái tên rất đẹp. Nó không chỉ là cơ hội cho những vũ điệu ngoạn
mục mà
còn góp phần vào diễn biến và sức dẫn cảm của truyện. Cho nên tuy những
môn võ
quan trọng trong Kim Dung chẳng có mấy và toàn là võ bịa, nhưng đã đọc
qua thì
người ta không thể dễ dàng quên. Ai chẳng còn nhớ đến Nhất Dương Chỉ,
Lạc Anh
Quyền, Đả Cẩu Bổng, Lăng Ba Vi Bộ… Những võ công ấy cứ trở lại, không
những
trong một truyện, mà từ truyện này sang truyện khác, như những thể tài
của một
nhạc tấu. Và sự thường trở lại ấy cũng đủ cho chúng một cá thể đặc
biệt. Hơn
thế nữa, võ công nào cũng gắn vào một nhân vật, nhắc lại một diễn biến
trọng
yếu, có những đặc điểm và lịch sử riêng, như Giáng Long Thập Bát Chưởng
truyền
từ đời này sang đời khác, cho đến khi thất truyền mà kỷ niệm còn chấn
động
giang hồ. Sự có mặt của chúng chẳng khác nào của nhân vật. Ấy là không
kể có
khi một võ công có thể thực sự trở nên nhân vật chính của truyện như
Cửu Âm
chân công mà trong võ lâm ai cũng muốn luyện cho được để xẩy ra bao
nhiêu vụ
tương tàn. Và truyện Đồ Long Đao chẳng hạn, có kể gì hơn là sự phân tán
và tái
thống nhất của võ lâm qua sự phân tán và tìm thấy lại Cửu Dương thần
công?
Truyện võ hiệp của Kim Dung cũng là truyện võ học nữa.
4. Võ học và cơ cấu
luận.
"Và cái nên thơ ấy mà
Kim Dung mang
lại cho võ học là
cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là của những gì phân tích được."
Trong truyện võ hiệp
cổ điển thì võ
học không đặt ra một
nghi vấn nào. Chính phái và tà môn cùng dùng một thứ võ. Ấy là một kiến
thức
chung cho mọi giới trong giang hồ. Những môn phái có thể đánh nhau,
nhưng từ
môn phái này sang môn phái khác, người ta thấy vẫn những miếng võ ấy
được sử
dụng. Võ học khi ấy cũng vô danh như ngôn ngữ, và như ngôn ngữ, chỉ có
giá trị
của một phương tiện. Phương tiện chung. Hơn nhau duy ở kinh nghiệm, tài
và sức
riêng của mỗi người. Truyện Kim Dung bắt đầu, khi võ học đã mất sự
thống nhất
ấy. Mỗi môn phái giờ có một thứ võ. Lẽ dĩ nhiên, người ta vẫn coi Đạt
Ma sư tổ
là ông tổ của võ học Trung Nguyên. Nhưng cái vốn của ông truyền lại,
những kẻ
đến sau, mỗi người chỉ lãnh hội được có một phần. Và cái phần ấy, mỗi
người lại
hiểu theo một cách, tùy tư chất và kiến thức của mỗi người, để từ đó
tham bác,
chế hóa và sáng tạo thêm ra. Thành ra cũng cùng một gốc mà võ công
trong thiên
hạ lại không cùng lịch sử. Những trang đầu của truyện Đồ Long Đao cho
người ta
thấy, từ những đoạn của Cửu Dương chân kinh nghe lỏm được ở miệng Giác
Viễn lúc
lâm chung, Quách Tường và Trương Quân Bảo, tư chất và kiến thức khác
nhau, đã
lập ra hai môn phái khác nhau thế nào. Sự biến hoá ấy của võ học làm
người ta
nghĩ đến sự biến hóa của ngôn ngữ. Cũng một ngôn ngữ mẹ mà tùy theo địa
phương
biến hóa đến nỗi người của địa phương này không còn hiểu được người của
địa
phương kia. Võ học cũng thế, tuy cùng một gốc mà giờ võ công của mỗi
môn phái
lại tuân theo một qui tắc, đòi hỏi cách luyện tập và có một lối phá
giải riêng.
Muốn phá giải một võ công thì trước hết phải biết cách biến hóa, nghĩa
là cái
văn phạm đặc biệt của nó. Cho nên không thể lấy võ công này mà thắng võ
công
khác, cũng như không thể nói là có võ công nào hơn võ công nào. Nhưng
có những
võ công mà văn phạm phức tạp hơn, khó phá giải hơn và biến hóa khó
lường trước
được hơn. Một khi đã biết cái văn phạm ấy rồi thì sự phá giải không còn
là một
nan đề. Lưỡng Nghi kiếm pháp triền miên bất tuyệt như thế mà chỉ cần
biết rằng
sự biến hóa của nó dựa trên một cách chuyển bộ theo Bát Quái là Vô Kỵ
có thể
thoát vòng vây của nó một cách dễ dàng. Cái gì Kim Dung muốn người ta
thưởng
thức trong một võ công, một lần nữa, không phải là cái ngoạn mục của sự
biểu
diễn, mà là văn phạm, cơ thức, nguyên lý, nói tóm lại là sự mạch lạc
nội tại
của nó. Mạch lạc đến nỗi có khi một miếng võ có thể sử dụng ngược chiều
mà vẫn
được như thường. Lẽ dĩ nhiên thế chỉ là một chuyện nên thơ. Và cái nên
thơ ấy
mà Kim Dung mang lại cho võ học là cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa
là của những
gì phân tích được.
Cái huyền bí mà những
võ công của Kim
Dung thoạt cho người
ta thấy chợt tiêu thất. Và sự sáng sủa bắt đầu của những lý do và số
lượng. Cái
văn phạm khúc chiết của mỗi võ công không kể, mỗi võ công lại chia làm
nhiều
chiêu, mỗi chiêu lại gồm nhiều thức, mỗi thức lại chia nhiều thế. Hơn
thế nữa,
lại có thể tính xem mỗi võ công người ta luyện được mấy thành hỏa hầu,
và được
sử dụng với mấy thành công lực. "Thành" là đơn vị để ước lượng mức
thành đạt của người luyện võ cũng như uy lực của mỗi đòn tung ra. Nói
tóm lại
thì tất cả đều đo được, tích giải được, phân chiết được. Và người ta
vào thế
giới của những phức thể. Ấy là cơ thể con người chằng chịt những huyệt
đạo và
kinh mạch như một cái lưới tinh vi; những độc dược mà thứ nào cũng là
một pha
trộn theo những phân lượng bí truyền, giữa rất nhiều dị thảo; những
kiếm pháp
chung đúc cái tinh hoa của không biết bao nhiêu môn phái khác nhau; sự
phối hợp
ảo diệu giữa hai cao thủ, người này sử dụng võ công vốn tương khắc với
võ công
của người kia, thành một thế liên hoàn không có gì phá nổi; môn Phân
thân Tâm
pháp cho phép người ta mỗi tay dùng một tuyệt kỹ để biến một người duy
nhất
thành hai cao thủ… Phân tích, phối hợp, ấy là những tác động căn bản
của cơ cấu
luận. Nhưng có lẽ không chỗ nào ấn tích của cơ cấu luận lại rõ ràng hơn
trên
những môn võ dựa vào thư pháp, như Đồ Long công chẳng hạn, mà mỗi đòn
là một
nét chữ. Mỗi chữ khi ấy trở nên họa đồ của một chiêu số. Không những
đọc được
mà, như người ta thấy, cái văn phạm nội tại của môn võ lại có thể vẽ ra
được
nữa! Ai làm thế nào để một người không biết võ, không cần giải thích
dài lời,
có thể thấy và thông đạt những cơ thức của một võ công một cách dễ dàng
hơn?
Nhưng lại còn chuyện Cửu Âm chân kinh….
Cửu Âm chân kinh là
một võ học kỳ thư.
Và các cao thủ ai
cũng muốn cướp nó cho được để luyện những võ học tuyệt luân mà nó ghi
trữ. Khốn
nỗi tự bản duy nhất của nó đã bị hủy và chỉ có Quách Tĩnh là người đã
học nó
thuộc lòng. Người ta còn nhớ Âu Dương Phong đã tìm cách buộc Quách Tĩnh
phải chép
lại bản kinh ấy cho y như thế nào. Không thể làm khác, Quách Tĩnh đành
y lời,
nhưng khôn ngoan, lại cố ý chữ "tác" đánh ra chữ "tộ", chép
cho sai. Lẽ dĩ nhiên Âu Dương Phong đọc không hiểu, nhưng nhũn nhặn
nghĩ rằng
ấy là tại văn của Cửu Âm chân kinh uẩn súc quá và cái óc thô bạo của
mình không
nhìn thấy chỗ tinh tế của nó. Y bắt Hoàng Dung, người yêu cực kỳ thông
minh của
Quách Tĩnh, giảng cho vỡ lẽ. Hoàng Dung cũng nói dựa và giảng bừa, cốt
cho xuôi
tai thì thôi. Âu Dương Phong cứ theo những lời giảng ấy mà luyện, thấy
rất khó
nhưng vẫn tự cưỡng. Là người khác thì đã "tẩu hỏa nhập ma" mà chết.
Nhưng nội lực của Âu Dương Phong đã tới mức siêu phàm. Y không chết
nhưng tất
cả kinh mạch trong người đều chạy ngược, y phải đi bằng hai tay, chân
chổng lên
trời và rốt cuộc không còn nhớ Âu Dương Phong là ai. Võ công của y,
trong khi
ấy, lại trở nên vô địch. Ấy cũng là võ công của Cửu Âm chân kinh. Những
chiêu
thức tuy nhiên đều đảo ngược, và cách biến hóa của chúng tuân theo một
sự mạch
lạc mà người ngoài không thể hiểu: ấy là sự mạch lạc của người điên.
Hóa ra
người điên cũng có lý của họ và không có gì, dù tạp loạn đến đâu, mà
người ta
không thể đưa tới một thế tương tất. Chỉ cần một luận lý khác! Nhưng
mẩu chuyện
ấy không đủ chứng tỏ tinh thần nhân bản của Kim Dung. Cái gì người ta
còn thấy,
xô đến tận chỗ nghịch lý, là cái nên thơ của cơ cấu luận.
5. Sự tương đối hoá
võ học và thế đa
nguyên của võ lâm.
"Toàn thể là bố láo"
Adorno
"Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy, tuy
nhiên, cái gì
người ta thấy, là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất"
ĐLV
Một cơ cấu là một cá
thể độc đáo.
Nhưng nó cũng định một
giới hạn. Cái độc đáo vốn là cái không phổ biến thì những gì, ở chỗ này
là
những ưu điểm, ở chỗ khác lại có thể xuất hiện như những khuyết điểm.
Như những
ngôn ngữ, mỗi võ công chỉ đáp ứng một số nhu cầu nhất định. Không thể
có võ
công toàn năng. Lạc Anh chưởng chẳng hạn, có mau nhưng không mạnh. Hàm
Mô công
mạnh nhưng thân pháp lại khó coi. Nhất Dương chỉ thì chỉ có bọn đồng tử
mới học
được. Thất thương quyền lợi hại bao nhiêu! Nhưng muốn luyện được thì
trước hết
phải tự đả thương tạng phủ đến bẩy lần. Trong khi ấy thì Lăng Ba vi bộ
chỉ là
phép tránh đòn nhưng cũng đủ để Đoàn Dự có thể buộc một hung thần ác
sát lạy
mình làm sư phụ. Nhưng đem bộ pháp ấy đối phó với cảnh loạn đả không
theo qui
tắc nào của những người không biết võ lại bằng thừa. Cái khéo của Kim
Dung là
đã chia những ưu điểm và khuyết điểm như thế nào để vừa giữ cái bản sắc
đặc
biệt của mỗi võ công, vừa duy trì sự diễn tiến của truyện trong một
tình trạng
bất trắc thường xuyên. Thử tưởng tượng một nhân vật có một võ công cứ
giở ra là
ai cũng thua thì truyện sẽ chán biết mấy! Cái thú với Đoàn Dự chẳng
hạn, là
không ai có thể biết trước khi nào Lục Mạch thần kiếm của chàng ta
"chạy" và khi nào không. Nhưng nó chỉ có trong chừng nào kiến thức võ
học của Đoàn Dự còn đầy khuyết điểm. Khuyết điểm chính là cái độc đáo
và một
dịp cho mọi bất ngờ. Cho nên trong Kim Dung nhân vật nào cũng có sở
trường và
sở đoản. Giỏi võ công thì không có nội lực. Người có nội lực thượng
thừa thì
không biết võ công. Có người giỏi ám khí. Có người tài khinh công. Có
người
sành độc dược. Nhưng được một đằng thì mất đi một nẻo. Võ công nào
trong thiên
hạ mà Vương Ngọc Yến không biết? Nhưng nàng lại không biết dùng võ
công. Mưu
trí như Hoàng Dung nhưng môn Song thủ Hổ bác đòi hỏi một tâm hồn chất
phác thì
nàng lại không tài nào học được. Tưởng một Tạ Tốn thì cái gì chẳng hơn
người!
Thế mà lại thua Trương Thúy Sơn ở thư pháp, cũng như Vương phu nhân đã
thua
Đoàn Dự ở kiến thức về hoa trà. Ngược lại thì một Trương Quân Bảo chỉ
có mấy
miếng quyền nhập môn mà làm cho Côn Luân tam thánh liểng xiểng ôm hận
thề không
bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Và để kết luận, người ta bảo nhau
rằng thật
là ngoài trời lại có trời. Có Ỷ Thiên Kiếm thì có Đồ Long Đao; có Cửu
Âm chân
kinh thì có Cửu Dương chân kinh; có độc dược của Vương Nạn Cô thì có
giải dược
của Hồ Thanh Ngưu; có kiếm pháp của Tuyết Sơn thì phái Kim Ô cũng có
đao pháp
để phá giải. Không có gì sau cùng không có khắc tinh của nó. Cao thủ
này lại
dẫn người ta gặp cao thủ khác tài hơn. Người ta càng đi. lại càng thấy
kiến
thức của mình chật hẹp. Võ lâm trở nên một thế giới vô cùng và đã mất
trung
tâm. Mỗi phương xuất hiện một anh hùng. Khi Anh Hùng Xạ Điêu bắt đầu
thì Vương
Trùng Dương, con người duy nhất có thể xứng ngôi minh chủ đã tạ thế, để
môn
phái của ông ngày càng suy đốn và các bạn ông, những người còn sót lại
trong Võ
Lâm Ngũ Bá, cứ năm năm một lần, lại trở về Hoa Sơn tiếp tục những cuộc
luận võ
không ai được, ai thua. Cũng như thể cái chết của Dương Phá Thiên làm
cho những
anh hùng của Minh Giáo phân tán, không ai phục ai, mỗi người theo đuổi
một cuộc
phiêu lưu riêng ở một góc trời. Võ lâm sa vào cảnh chia năm xẻ bẩy.
Xưa, các
cao thủ đều nhìn về Thiếu Lâm như cái nguồn của võ học. Cái nguồn ấy
bây giờ ở
chỗ nào? Thiếu Lâm chỉ còn là một môn phái như các môn phái khác. Và võ
học
cũng như Thượng đế của Pascal, là một tinh cầu trung tâm ở khắp nơi,
nhưng
không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ, và võ
công
nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế nào có
thể thu
cái thế giới nát vụn ấy vào một mối? Ai cũng muốn làm bá chủ võ lâm.
Người ta
giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể cho phép
người ta
khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường chỗ cho cuộc
tranh
cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên, cái gì người
ta thấy,
là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.
(còn tiếp)
****
Ghi chú:
Đỗ Long Vân, đã mất ở Sài Gòn, viết
bài này trước 1975, khi lý
thuyết Lỗ Đen, Big Bang chưa ồn ào như hiện nay, khi cơ cấu luận đang
hợp thời,
khi cuộc chiến đang ác liệt… Bài viết được in lại trong "Kim Dung, tác
phẩm và dư luận", do Trần Thức sưu tầm và tuyển chọn, nhà xuất bản Văn
Học
Hà Nội, 2001.
Những câu trích từ bài viết làm đề từ,
là do người giới
thiệu bầy đặt ra, như một cách hiểu, hoàn toàn mang tính cá nhân, tức
chủ quan,
bài viết của Đỗ quân, và những vấn đề mà bài viết đặt ra.
Về đoạn liên quan tới Cửu Âm chân kinh
"giả" mà
Quách Tĩnh viết lại cho Âu Dương Phong, theo như người viết còn nhớ
được, và
hiểu được, tất cả là do Hoàng Dung mà ra.
Hoàng Dung, do quá thông minh, nên trở
thành "lý
lắc" - hơi khùng, nếu có thể nói như vậy, theo nghĩa, cực điểm của
thông
minh là khùng điên, bởi vì, người thông minh là người nhìn ra những nét
tương
đồng ẩn giấu giữa những sự vật, còn người điên thì nhìn mọi vật đều
tương đồng
với nhau hết! Đây là quan niệm của Michel Foucault, trong "Chữ và
Vật", khi ông phân biệt giữa "Le Même", hay là những con người
bình thường như chúng ta, và "L"Autre", hay người điên - và
"ang ác", đã từng bị Hồng Thất Công đe nẹt; chính vì vậy Hoàng Dung
đã xúi Quách Tĩnh đảo ngược văn bản, lại còn dậy Quách Tĩnh cách ngồi
viết văn
bản, ngô nghê như thế nào, vắt óc nhớ lại bản chính ra sao… để đánh lừa
Tây
Độc. Nên nhớ, Tây Độc, vốn rất độc, và cũng rất thông minh (trong thế
gian thật
khó có người độc mà không thông minh!), không dễ gì đánh lừa; nhưng văn
bản đảo
ngược lại có mạch lạc của riêng nó: đây là cái mà cả Hoàng Dung lẫn Tây
Độc đều
nhận ra. Nhưng Hoàng Dung, do là người bình thường (Le Même), nên đã
không dám
đẩy sự tương đồng đến tận cùng, nhưng lại mơ tưởng một điều: nếu có một
người
nào tập luyện bí kíp Cửu Âm đảo ngược như vậy, không hiểu kết quả sẽ ra
sao.
Tây Độc vì quá mê bí kíp – bản văn gốc, ngôn ngữ mẹ của võ học… - nên
đã tập
luyện và kết quả là trở thành điên, nhưng với một võ công thượng thừa!
Đoạn Tây
Độc và Bắc Cái sau cùng ôm nhau cùng chết trên ngọn núi cao, không có
con người
nào khác, cho thấy, có thể Kim Dung tin tưởng rằng, thiện ác đi tới tận
cùng,
là một.
Tưởng tượng thêm chút nữa: hãy giả dụ
Cửu Âm đảo ngược là…
chủ nghĩa toàn trị, và không phải chỉ một mình Tây Độc, mà là quá nửa
nhân loại
đã luyện tập môn võ công đảo ngược này, vốn một thời "tự coi" là
"đả biến thiên hạ vô địch thủ, bách chiến bách thắng"… thì sao?
Michel Foucault suốt đời băn khoăn về
sự khùng điên, và cái
ác của nhân loại, khi đẩy người điên vào trại tù hoặc cưỡng bức lao
động. Sự
thắng thế của chủ nghĩa toàn trị và những trại tập trung cải tạo của nó
cho
thấy một tình trạng đảo ngược: người bình thường (Le Même) phải đi tù,
người
không bình thường (L’Autre), làm… quản giáo!
Tuy được coi là một trong những trụ
cột của trường phái cơ
cấu luận, M. Foucault không cho rằng ông là một người trong nhóm. Trong
bài
tựa, dành cho bản tiếng Anh tác phẩm "Chữ và Vật" ("The Order of
Things", Luân đôn, nhà xb Tavistock, 1970; ở đây người viết sử dụng bản
dịch tiếng Pháp bài tựa này, in trong "Nói và Viết", tập II, nhà xb
Gallimard, 1994, tủ sách Nhân Văn), ông xin được gửi tới độc giả tiếng
Anh lời
"khẩn cầu" (une prière), rằng, ở Pháp một số "nhà bình
luận" thiển cận đã gán cho ông cái nhãn "cơ cấu". Và ông không
làm sao nhét vào cái đầu nhỏ hẹp của họ, một ý nghĩ là … "tôi
(Foucault)
không hề sử dụng bất cứ một phương pháp, một quan niệm, cũng như một từ
ngữ
nào, của cơ cấu luận. Tôi rất biết ơn một tầng lớp công chúng cẩn trọng
hơn,
một khi giải phóng cho tôi ra khỏi sự gán ghép, rõ ràng là vinh danh,
nhưng tôi
không xứng đáng được hưởng. Có thể là, có những đồng dạng nào đó giữa
công việc
làm của tôi với của những nhà cơ cấu luận…. Nhưng thật quá dễ dãi khi
giản lược
một công trình làm việc như thế đó, bằng cách dán cho nó một nhãn hiệu,
nghe
thì thật rổn rảng, nhưng không thích đáng."
Nhận xét của Foucault, về tác phẩm của
chính ông, cũng có
thể đem áp dụng cho trường hợp Đỗ Long Vân, nhưng, nếu hệ tư tưởng của
Foucault
được coi là một cơ cấu luận không có cơ cấu (un structuralisme sans
structures,
chữ của Jean Piaget, khi giới thiệu cơ cấu luận, trong tủ sách phổ
thông
"Tôi biết gì?" ("Que sais-je?"), "… tác phẩm của M.
Foucault là thí dụ gây kinh ngạc, về một văn phong sáng chói đầy những
tư tưởng
bất ngờ và trí tuệ, một sự uyên bác lạ thường…", họ Đỗ cũng đã sử dụng
thuyết cơ cấu, như một phương tiện "tiện tay, đương thời" - hay nói
theo Piaget, "cơ cấu luận là một phương pháp hơn là một lý thuyết, và
trong chừng mực nào, nếu nó trở nên một lý thuyết, thì nó sẽ đưa đến
nhiều chứ
không phải chỉ một lý thuyết…" - để viết ra những tác phẩm sáng tạo,
với
một văn phong đầy chất thơ và cũng thật khác thường, như ‘Truyện Kiều
ABC’,
‘Nguồn nước ẩn trong thơ Hồ Xuân Hương’…
***
"Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang
lại cho võ học, là
cái nên thơ của cơ cấu luận, nghĩa là của những gì phân tích được"(Đỗ
Long
Vân).
Đây là một khẳng định rất dễ gây tranh
luận, vì nó đối
nghịch với quan niệm "thông thường", khi cho rằng thơ là để "cảm
nhận": Cái cõi nhẹ như tơ, mong manh như sương khói đó, đâu phải là để…
phân tích!
Nên nhớ, cơ cấu luận là từ toán học mà
ra. Người ta không
thể nói về nó mà không khởi từ toán học, theo tính cách lịch sử cũng
như lô gíc
của vấn đề. Lévi-Strauss chẳng hạn, đã tạo nên những mẫu mã cơ cấu của
ông từ
môn đại số đại cương (algèbre générale).
Cho nên, từ định lý "cái nên thơ… của
những gì phân
tích được", chúng ta có thể có được một hệ luận, là:
"Cái gì có thể phân tích được, là thơ."
***
"Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó
có nghĩa gì giữa
cảnh tai biến của chúng ta và tại sao có thể xẩy ra?…
"Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy, tuy
nhiên, cái gì
người ta thấy, là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất."
George Steiner, trong bài viết
"Orpheus với những huyền
thoại của mình: Claude Lévi-Strauss", vinh danh một trong những trụ cột
của trường phái cơ cấu, đã cho rằng, một trang viết của Lévi-Strauss là
không
thể bắt chước được; hai câu mở đầu thiên bút ký "Nhiệt Đới Buồn" đã
đi vào huyền thoại học của ngôn ngữ Pháp.
Hai câu mở đầu đó như sau: "Je hais
les voyages et les
explorateurs. Et voici que je m’apprête à raconter mes expéditions."
(Tôi
ghét du lịch, luôn cả mấy tay thám hiểm. Vậy mà sắp sửa bầy đặt kể ra ở
đây
những chuyến đi của mình).
Bạn hãy thử bắt chước một câu văn của
Đỗ Long Vân. Bạn hãy
thử lập lại câu văn "đã đi vào huyền thoại": "Tôi quá chán cuộc
chiến, vậy mà bầy đặt ngồi viết ‘Vô Kỵ giữa chúng ta’, để nói về mấy gã
đồ tể
đó."
***
"Toàn thể là bố láo."
Trong bài "Work in Progress", điểm
cuốn
"Thương Xá" (The Arcades Project: Dự án về những vòm cung ở thương
xá), của Walter Benjamin, đăng trên tờ TLS (December 3, 1999), Steiner
coi
"chưa hoàn tất" là mật khẩu tới chủ nghĩa hiện đại (incompletion is
the password to modernism). Trích dẫn Adorno, "toàn thể là bố láo"
(totality is a lie), ông chỉ ra, tất cả những tác phẩm lớn sau thời kỳ
Ánh
Sáng, đều chưa hoàn tất: tác phẩm của Proust, Cantos của Pound, Moses
und Aron
của Schoenberg… Tác phẩm "đại diện" cho thế kỷ, của Heidegger, Thời
gian và Hữu thể (Time and Being), thiếu phần ba đầy hứa hẹn. Và Steiner
tự hỏi:
đâu là những toàn thể mang tính hình thái (formal totalities), trong
những tác
phẩm của triết gia Wittgenstein?
Ngoài Đạt Ma Tổ Sư, không ai là người
thông thạo đủ thất
thập nhị huyền công, tức 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Kim Dung mượn lời nhà
sư già
chuyên quét dọn trong Gác Chứa Kinh (Tàng Kinh Các) để diễn ý niệm duy
vật biện
chứng của Marx, khi giải thích tại sao Phật pháp (từ bi), lại rong ruổi
với võ
công (cái ác): trên đường rong ruổi, lý thuyết (Phật pháp) và thực hành
(võ
công) đều quyện vào nhau, rồi triệt tiêu lẫn nhau, để có được con người
hoàn
toàn (l’homme total), theo nghĩa: không còn Phật pháp mà cũng chẳng còn
võ
công. Hoặc nói một cách khác: hết nhị nguyên, không còn thiện ác đối
đầu nữa.
Có một vài chi tiết lầm lẫn trong bài
viết. Về Nhất Dương
Chỉ, không phải chỉ những đồng tử mới luyện được, nhưng nếu là đồng tử
thì mức
thu hoạch cao hơn những người không còn là đồng tử. Lão Ngoan Đồng sở
dĩ muốn
chia rẽ cặp Hoàng Dung – Quách Tĩnh, một phần là vì muốn đứa em sẽ trở
nên đệ
nhất anh hùng, tại Hoa Sơn luận kiếm! Về Thất Thương Quyền, không phải
muốn
luyện là phải làm bị thương bẩy bộ phận trong cơ thể, mà là, khi luyện,
là bị
thương bẩy bộ phận trong cơ thể; võ công càng cao bao nhiêu, đau đớn
càng tăng
bấy nhiêu. "Khuyết điểm" của Hàm mô công không phải là "mạnh mà
thân pháp khó coi", nhưng mà là, phải thất thủ trước Nhất Dương Chỉ.
Chính
vì vậy, Vương Trùng Dương đã phải giả chết, để nện cho Âu Dương Phong
một đòn,
cho Tây Độc không còn độc trong một thời gian, rồi sau đó chia đôi Cửu
Âm Chân
Kinh, giấu ở hai chỗ khác nhau, và lặn lội xuống miền nam truyền môn võ
công
Nhất Dương Chỉ, khắc tinh của Hàm Mô công, cho dòng họ Đoàn. Vì chuyện
này mà
nẩy sinh ra cuộc tình giữa Châu Bá Thông và Thần Toán Tử Anh Cô, một bà
phi của
Đoàn Nam Đế…
Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu