Đỗ Long Vân: Vô Kỵ giữa chúng ta hay
là hiện tượng Kim Dung.
(7, kỳ chót)
VII.
"Giấc mộng thanh bình
ấy làm người ta
ngạc nhiên… Ông
sửa soạn đưa nó đến nơi an nghỉ cuối cùng..."
"Thoạt tiên có một sự
suy đốn đã xẩy
ra. Cái đạo lý
truyền thống không còn gì hơn là những giáo điều."
"Những tiêu chuẩn đạo
lý đều bị thủ
tiêu. Tà và Chính
sau cùng đều như nhau."
"Ấy là thế giới của
Tự nhiên mà Vật
lực làm chủ, và
cũng là thế giới của ảo tưởng: người ta giết nhau vì những danh từ."
"Cho nên thực hiện
được sự giải hòa ấy
không phải là
những lý thuyết xuông của Đoàn Dự, mà là Vô Kỵ…"
"Nhưng sự đoàn kết ấy
cũng chỉ bắt đầu
từ sau khi người
ta xô sự xung đột tới cái độ cao nhất của nó. Và sự ngược đời, là nó đã
được
thực hiện từ những nhân vật mà cả võ lâm nguyền rủa".
"Người ta hiểu tại
sao Kim Dung đã lấy
Minh Giáo làm
dụng cụ cho sự tương kết ấy"
"Cái người ta gọi là
tội ác khi ấy lại
xuất hiện như
một cách độ thế, sự lưu vong như con đường về tổ quốc, sự ly khai như
một cơ
hội cho thống nhất".
"Truyện Thiên Long
Bát Bộ có lẽ là
truyện võ hiệp hay
nhất được viết từ xưa tới giờ".
"Người anh hùng Kim
Dung (và ấy là
điểm làm chàng vượt
lên trên những thứ cảnh sát không lương của truyện võ hiệp cổ điển)
thường có
những hoài bão lớn, và đôi khi định mệnh của chàng có kích thước của
một đế
quốc".
"Nhưng người ta không
thể hiểu lầm.
Như tất cả những
nhà văn vượt bực, cái gì ông lên án thì ông mô tả lại càng tài tình. Có
lẽ tại
nó là cái phần xấu xa nhất trong con người ông?"
[Nhưng không bao giờ, không bao giờ
Kiều Phong sẽ được trở
về Nhạn Môn Quan cùng A Chu chăn cừu]. Giấc mộng thanh bình ấy làm
người ta
ngạc nhiên trong một chuyện võ hiệp. Nhưng có lẽ Kim Dung đã không sáng
tạo ra
một thứ võ hiệp mới như người ta tưởng. Ông sửa soạn đưa nó đến nơi an
nghỉ
cuối cùng trong những cuộc sống tầm thường thi vị hóa. Ấy là sự kết
thúc của
một biến trình mà đã có lúc người ta có thể tóm tắt lại trong một cái
nhìn tổng
quát.
Thoạt tiên có một sự
suy đốn đã xẩy
ra. Cái đạo lý truyền
thống không còn gì hơn là những giáo điều. Sự nghiệt ngã của chúng làm
người ta
ghét bỏ, sự hẹp hòi của chúng làm người ta chê cười, sự giả tạo của
chúng làm
người ta ghê tởm. Những cá nhân lớn nổi lên để vượt qua những giới hạn
giả tạo
của chúng. Ấy là thời của sự ly khai, anh hùng xuất hiện ở khắp nơi,
mỗi người
xưng bá một phương, lập ra môn phái riêng, sáng tạo ra một võ công
riêng, theo
đuổi một lý tưởng riêng và xâu xé lẫn nhau. Sự thống nhất không còn nữa
và cũng
không ai có đủ sức khuất phục cả võ lâm dưới uy quyền của mình. Kết quả
là một
cảnh phân hóa cùng cực. Những tiêu chuẩn đạo lý đều bị thủ tiêu. Tà và
Chính
đều như nhau, và những xung đột của võ lâm chẳng có nghĩa gì hơn là
những cuộc
tương tàn của thú dữ. Ấy là thế giới của Tự nhiên mà Vật lực làm chủ,
và cũng
là thế giới của ảo tưởng: người ta giết nhau vì những danh từ. Không ai
thắng
được ai. Nhưng trong cuộc xung đột không thể kết thúc ấy, mọi ý nghĩa
đều sa
đọa. Lý tưởng cũng viển vông như tham vọng. Người anh hùng sẽ tự phế võ
công để
đi tu. Không phải ngẫu nhiên mà ở chỗ cao nhất võ lâm, Kim Dung lại để
những
đạo sĩ và những thiền sư và ông thường mô tả như một cảnh thần tiên
những ngày
thất lạc vào một vùng đất vắng người ta may mắn thoát được những chuyện
thị phi
trong giang hồ. Người anh hùng của Kim Dung sẽ là người chống bạo động.
Gặp
đánh nhau ở đâu là họ nhảy vào can gián. Ấy là cái đam mê của họ. Súng
sính
trong bộ áo thư sinh, một Đoàn Dự, tuy chẳng biết tí võ công nào, cũng
mang đạo
lý thánh hiền ra khuyên mọi người buông khí giới. Xa hơn nữa thì Không
Kiến
thiền sư đem mình ra để cứu Thành Khôn khỏi cơn giận của Tạ Tốn. Và A
Chu, để
khỏi phải thấy những người thân yêu của mình giết lẫn nhau, đành chịu
chết dưới
chưởng của Kiều Phong. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng phải kể đến Vô Kỵ. Như
tất cả
những anh hùng võ hiệp, từ nhỏ Vô Kỵ đã mang ý chí trả thù cho cha mẹ
mà chàng
đã thấy ngay dưới mắt những người tự xưng là của Chính giáo bức tử.
Khác là cái
thù ấy chàng lại quên ngay đi. Có lẽ bị trọng thương ngay từ lúc đầu
tiên mới
bước vào võ lâm, chàng đã sống thường trực trong sự trông chờ cái chết
và chẳng
có mấy thì giờ để nghĩ đến việc trả thù. Hơn thế nữa, trên đường lưu
vong chàng
đã thấy và đã chịu quá nhiều lường đảo, bất công, oan uổng nên cái chết
của cha
mẹ chàng còn có một ý nghĩa nặng nề giữa cái ác nhiệp mênh mông như
biển của
giang hồ. Người đời lên án mẹ chàng như một nữ ma đầu, nhưng cha chàng
là người
của truyền thống nghĩa hiệp, và đứa con của mối tình trái đạo ấy như
mang sẵn
trong người những xung đột đang xâu xé võ lâm. Trong tâm hồn chàng vừa
là người
của Tà môn, vừa là người của Chính giáo. Cái lưỡng tính ấy tuy nhiên,
như cái
tên mà Tạ Tốn đã tặng chàng khi mới ra đời, cái lưỡng tính cho phép
chàng nhìn
tất cả với con mắt không thành kiến, không sợ hãi và vô tư của trẻ thơ.
Tất cả
các môn phái chàng đều coi như nhau và một khi đã nhận bạo động như một
định đề
của đời sống võ lâm, ai chàng cũng thấy đáng yêu, đáng trọng và đầy
nghĩa khí.
Những xung đột giữa họ chàng thấy là một điều khó hiểu, vô lý và đau
lòng.
Nhưng cũng vì đã sống trong sự xung đột ấy như một xung đột giữa mình
với chính
mình mà chàng có thể vượt nó để giải hòa võ lâm. Cho nên thực hiện được
sự giải
hòa ấy không phải là những lý thuyết xuông của Đoàn Dự mà là Vô Kỵ, khi
trên
Quang Minh Đỉnh, chàng đứng ra lấy mạng mình đổi lấy mạng những người
của Minh
Giáo đang bị chúng anh hùng uy hiếp. Vô Kỵ đã thành công. Không những
chàng đã
giải hòa các môn phái mà sau cùng lại đoàn kết họ trong công trình giải
phóng
võ lâm. Nhưng sự đoàn kết ấy cũng đã chỉ bắt đầu từ sau khi người ta xô
sự xung
đột tới cái độ cao nhất của nó. Và sự ngược đời, là nó đã được thực
hiện từ
những nhân vật mà cả võ lâm đều nguyền rủa. Ấy là tại khác hẳn những
truyện võ
hiệp cổ điển trong ấy Tà đạo chỉ có một ý nghĩa tiêu cực của một cái gì
trái
với Chính nghĩa thì, trong Kim Dung, Tà và Chính chỉ là hai mặt của một
thực
tại duy nhất, như sai lầm là mặt trái của chân lý.
Truyện Kim Dung dẫn
người ta từ một sự
sụp đổ đến một trật
tự mới. Ấy là truyện của một cuộc giao thời: thời của phiêu lưu, của
sáng tạo,
của khám phá, nhưng cũng là thời của nghi vấn, của bất trắc, của lưu
vong; thời
của mâu thuẫn, của xung đột và của sự bùng nổ của tất cả những năng lực
cá
nhân. Kỳ vọng của Kim Dung là cái trật tự mới sẽ duy trì trong nó tất
cả những
chinh phục của giai đoạn tổng ly khai và thực hiện sự thống nhất võ lâm
trong
sự tương kết của mọi khác biệt. Người ta hiểu tại sao Kim Dung đã lấy
Minh Giáo
làm dụng cụ cho sự tương kết ấy. Tại Minh Giáo – cũng gọi là Ma Ni giáo
– chính
là một chi nhánh của cái truyền thống lưỡng nguyên, gốc ở Ba Tư, chủ
trương Tà
và Chính là những nguyên lý căn bản muôn đời cùng có và cùng xung đột
nhau của
thế giới. Một chủ trương như thế không thể nào dẫn đến một chính sách
độc tôn.
Nhưng sang Trung Hoa, trở thành một thiểu số và là môn phái bị truy
bức, đương
nhiên là Minh Giáo, trong sự đảo lộn ấy của những vai trò, khi nó tập
trung tất
cả những môn phái chống lại mình, sẽ là cơ hội để biến sự xung đột giữa
Tà và
Chính ra một thế đồng minh và tương đối hóa những tiêu chuẩn cổ truyền
của đạo
lý võ lâm. Cái người ta gọi là tội ác khi ấy lại xuất hiện như một cách
độ thế,
sự lưu vong như con đường về tổ quốc, sự ly khai như một cơ hội cho
thống nhất.
Không còn Tà và Chính nữa mà [là] những vai trò khác nhau trong cái
trật tự của
thế giới, những mãnh lực của tự nhiên mà sự trường tồn của Toàn thể đòi
hỏi sự
tương kết.
Cái nên thơ của trật
tự mới là cái nên
thơ của một cơ cấu.
Và người ta có thể coi truyện Kim Dung, khi nó tập trung trong một
truyện kể vô
cùng phức tạp không biết bao nhiêu định mệnh cá nhân mà chẳng định mệnh
nào
giống định mệnh nào là cái mẫu tương xứng nhất của cái nên thơ ấy mà
Kim Dung
đề cao trong truyện ông: trong quan niệm bách khoa về võ học, trong tổ
chức
phức tạp của những môn phái lớn, trong mối tình của những nhân vật
thuộc những
truyền thống đối lập, giữa Dương Tiêu và Kỷ Hiểu Phù, giữa Vô Kỵ và
Triệu Minh,
giữa Quách Tĩnh và Hoàng Dung – đứa con của sa mạc và đứa con của biển
xanh. Và
lẽ dĩ nhiên phải kể đến Vương Nạn Cô chuyên chế độc dược bỏ cho những
nhân vật
giang hồ để chồng nàng là Hồ Thanh Ngưu mang cái y học uyên thâm của
mình ra
cứu chữa. Nhưng thực hiện được sự tương kết giữa những đối cực ấy để
trở thành
nơi giao hội của tất cả những xu hướng của võ lâm, người ta hiểu tại
sao không
thể làm một nhân vật của một truyền thống nào sẵn có mà là một người
như bất cứ
ai. Mình là ai không biết, nhưng cái vô định tính giống như sự có thể
và sự
ngây thơ tựa hồ một trí thức uyên thâm.
Sự tương kết ấy tuy
nhiên, Kim Dung
biết là rất mong manh.
Những môn phái vừa mới thống nhất xong thì ngay trong Minh Giáo sự
khủng hoảng
nội bộ bắt đầu: Vô Kỵ bị Chu Nguyên Chương loại và người ta thừa đoán
rằng
những cuộc thanh toán khác sẽ tiếp theo. Xung đột giữa người và người
cũng phi
lý như là không thể tránh được. Cho nên Tạ Tốn mới tự phế võ công để
vào chùa
đi tu, Vô Kỵ từ giã giang hồ để tô son cho người yêu, và Đoàn Dự mới
nhất quyết
không chịu học võ công mà chọn cái đẹp làm tôn giáo duy nhất. Truyện
"Thiên Long Bát Bo"ä có lẽ là truyện võ hiệp hay nhất được viết từ
xưa đến giờ. Nhưng trong truyện ấy cám dỗ của võ công là của một kiến
thức
thuần túy, và bắt đầu trong cảnh tưng bừng của thần thoại, nó kết thúc
giữa một
cảnh sụp đổ lâm ly: Kiều Phong chết, Mộ Dung điên và Cưu Ma Trí, sau
một đời
khổ luyện, đành chịu mất hết võ công để tiếp tục cuộc đời của một tu sĩ
tầm
thường. Tình yêu trở nên một cuộc chạy đuổi: Đoàn Dự yêu Vương Ngọc
Yến; Vương
Ngọc Yến lại yêu Mộ Dung Phục, và Mộ Dung lại đắm mình trong giấc mơ
phục quốc.
Cũng như thế, trong khi Du Thản Chi yêu A Tỷ thì A Tỷ lại yêu Kiều
Phong và
Kiều Phong lại chỉ biết có kỷ niệm của A Chu. Ấy là không kể Đoàn Chính
Thuần,
sau khi đã yêu và được không biết bao nhiêu người yêu lại, rốt cuộc lại
để ngần
ấy mối tình dang dở và trước khi chết mới khám phá rằng đứa con duy
nhất của
ông cũng không thực là của ông và đành bó tay nhìn người ta lần lượt hạ
sát tất
cả những người yêu của mình. Người yêu giết người yêu, đồng bạn giết
đồng bạn,
tham vọng và ân ái, tất cả đều tan thành mây khói. Người anh hùng Kim
Dung (và
ấy là điểm làm chàng vượt lên trên những thứ cảnh sát không lương của
truyện võ
hiệp cổ điển) thường có những hoài bão lớn, và đôi khi định mệnh của
chàng có
kích thước của một đế quốc. Nhưng còn gì tham vọng của Thiết Mộc Chân
trong cơn
mê sảng của Mộ Dung Phục? Sự tan vỡ của những ảo tưởng rực rỡ là đề tài
của
"Thiên Long Bát Bộ": từ nhan sắc thần tiên của Vương Ngọc Yến đến uy
danh lừng lẫy của Mộ Dung Phục, tất cả đều dẫn đến tiếng cười gằn của
một thực
tại nham nhở và tầm thường. Pho tượng ngọc dưới đáy hồ sau núi Vô Lượng
mà
người ta trông chờ như cái chìa khóa của tất cả những nghi vấn của
truyện sau
cùng vẫn giữ nguyên cái bí mật của nó và từ khuyết điểm ấy, cơ cấu ly
tâm của
truyện lại xuất hiện rõ ràng.
Trong sự xung đột
giữa con người và
thế giới, sự thắng trận
sau cùng trong Kim Dung bao giờ cũng thuộc về thế giới. Thế giới sẽ
thường
xuyên vượt khỏi vòng tay ôm của con người. Con người Kim Dung đã biết
tất cả
những cám dỗ: của đạo lý nghiêm khắc, của ý chí thống trị, của tinh
thần cứu
rỗi. Tiếng gọi lớn nhất tuy nhiên sẽ là tiếng gọi của cuộc đời xuất
thế, nghĩa
là của sự trở về. Khi xét đến võ học trong Kim Dung, người ta thấy rằng
ông rất
ngờ vực trí năng và sức sáng tạo của con người. Ấy theo ông là mầm của
mọi ly
tán. Cho nên không có gì lạ nếu sau cùng, mặc dầu tính chất lãng mạn,
một Vô Kỵ
sẽ kết thúc những phiêu lưu của mình như Candide của Voltaire. Sự thất
bại ấy
của người anh hùng thật quá êm đềm để không có vẻ khả nghi. Nhưng người
ta hiểu
rằng trong Kim Dung cái lãng mạn ấy chỉ có giá trị giai đoạn: ông đã
lấy cái
mênh mông của thế giới để thoái chí anh hùng, lấy một nhân loại đa sắc
ra làm
đảo lộn những ý nghĩa đạo lý, lấy cảm động làm ý thức suy vong, lấy
ngây ngô
chống lại tài mưu trí, nói tóm lại lấy tự nhiên chống lại cái nhân văn,
và kết
quả là sự thất bại của người anh hùng trước cuộc đời như thế. Hơn ai
hết, Kim
Dung đã biết làm sống lại trong tiểu thuyết, ở cái thời mà tiểu thuyết
đã mất
hết tiểu thuyết tính để chỉ còn những cơ hội cho những luận án triết
lý, một
không khí lãng mạn dễ làm người ta say mê. Nhưng người ta không thể
hiểu lầm.
Như tất cả những nhà văn vượt bực, cái gì ông lên án thì ông mô tả lại
càng tài
tình. Có lẽ tại nó là cái phần xấu xa nhất trong người ông?
VIII.
"Kỹ thuật không vô
tội. Ấy là điều
những kỹ thuật gia
chưa chịu thừa nhận. Người làm văn tuy nhiên đã biết thế từ lâu."
"Trở lại Kim Dung, và
để tóm tắt câu
chuyện trong một
câu, người ta có thể mượn ý của G. Lukacs để nói rằng ông đã mang
truyện võ
hiệp từ thể anh hùng ca sang thể tiểu thuyết."
"Khi truyện Kim Dung
bắt đầu thì cái
thời sáng tạo đã
hết và những cá nhân lớn như Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Tạ Tốn vv…
chỉ còn
là những tiền bối đã về già, để lại sân khấu võ lâm cho những thiếu
niên ngu
ngốc, giằng co giữa Tà và Chính, cố vá víu lại một di sản tan hoang."
"Do những mâu thuẫn
cam go ấy mà sự
can thiệp võ trang
của người ngoại quốc lại gia tăng gấp bội; chúng ta thường tự hỏi là
chúng sẽ
dẫn chúng ta tới đâu. Nhưng có những xã hội sống bằng sự nhất trí thì
cũng có
những xã hội dựa trên sự mâu thuẫn của nó để trường tồn."
"Xu hướng tư tưởng
Kim Dung là một cố
gắng để trả cho
tự nhiên những xung đột giữa người và người. Ấy là một điểm tiến bộ."
"Người ta cũng nhớ
rằng Marx muốn thủ
tiêu những mâu
thuẫn xã hội ngay trong nguyên nhân của chúng là những tương quan sản
xuất bằng
một cuộc cách mạng bởi và cho quần chúng vô sản. Nhưng thời đại này là
của quần
chúng bị đóng khuôn và của những mâu thuẫn có tổ chức."
"Người làm văn vào
đời như xướng ca."
ĐLV
"Errors grow more
unbearable as they
become
irreparable."
G. Steiner (Errata)
(Lỗi lầm thật khó
kham, khi vô phương
sửa chữa)
"… Paul Celan’s
attempt at reinventing
a language
‘north of the future’."
G. Steiner (Errata)
(… toan tính của P.
Celan, tái phát
minh một ngôn ngữ ‘phía
bắc của tương lai’).
Truyện Kim Dung lưu ý người ta trên
hơn một quan điểm. Như
một tài liệu văn học, nó làm chứng cho một thứ văn cổ truyền là văn võ
hiệp.
Một thế giới của những ý nghĩa rõ ràng chuyển mình sang một thế giới
của nghi
vấn. Tất cả cũng chuyển mình theo cách kể truyện, cách dàn cảnh, cách
cấu tạo
nhân vật. Ngay quan niệm võ học, như người ta thấy, cũng đã chịu ảnh
hưởng sâu
xa. Tham vọng duy nhất trong bài này là trình bày sự mạch lạc của sự
chuyển
mình ấy, theo một giả thuyết mà giờ ai cũng thừa nhận, rằng một văn thể
không
phải là một cái bình rỗng có thể chứa bất cứ một thứ nội dung nào mà tự
nó đã
có một cách tổ chức thế giới để cho thế giới nghĩa, cũng như dụng cụ
của người
sưu tầm đã bao hàm những kết quả có thể của sự sưu tầm của ông; như
ngôn ngữ mà
người ta dùng đã qui định trước những tư tưởng người ta có thể có. Kỹ
thuật
không vô tội. Ấy là điều những kỹ thuật gia chưa chịu thừa nhận. Người
làm văn
tuy nhiên đã biết thế từ lâu. Một văn thể là một hệ thống diễn tả mà
tất cả
những yếu tố gắn liền nhau trong một thế tương biến, nghĩa là người ta
không
thể biến đổi một yếu tố mà không làm những yếu tố khác cùng biến đổi
theo một
chiều. Trở lại Kim Dung, và để tóm tắt câu chuyện trong một câu, người
ta có
thể mượn ý của G. Lukacs để nói rằng ông đã mang truyện võ hiệp từ thể
anh hùng
ca sang thể tiểu thuyết.
Trong anh hùng ca,
truyện võ hiệp cổ
điển, ngoài cái nhân
loại anh hùng, có những ý nghĩa cố định, cái cơ cấu đường thẳng, cái
trình bày
ngoại tại, nói tóm lại, một thế giới rõ ràng trong ấy không có gì xảy
ra mà
người ta không thể đoán trước là sẽ kết thúc ra sao. Nhưng sự bất trắc,
sự bất
ngờ, sự trông chờ là cái thú của tiểu thuyết. Lẽ dĩ nhiên tiểu thuyết
không
phải chỉ có thế, và người ta có thể cho rằng Kim Dung không phải là
tiểu thuyết
gia mà là một người kể chuyện tài tình. Nhận xét ấy không phải là không
có lý:
càng ngày ông càng làm chủ nghệ thuật của mình thì người ta thấy nhân
vật của
ông càng trở nên sơ sài như không có trọng lực nào hơn là những con tốt
trong
một thế cờ cực kỳ biến hóa mà sự giải quyết chỉ còn là một thú trí thức
thanh
cao. Nhưng làm sao phủ nhận được rằng, ngoài những cám dỗ thông thường
của
phiêu lưu, Kim Dung, ở khắp nơi trong truyện ông, đã mang lại một sức
sáng tạo
tâm lý mà văn võ hiệp chưa từng có. Cái tâm lý phức tạp ấy, sự bất trắc
ấy,
những xung đột ở bên kia đạo lý ấy là tiểu thuyết. Người ta đã đón tiếp
những
đặc tính ấy ở truyện Kim Dung như là một cái gì thật mới. Nhưng cái mới
của Kim
Dung là đã làm mới lại tiểu thuyết tính bằng cách đưa nó vào văn võ
hiệp. Vì
tiểu thuyết – nếu người ta có thể định nghĩa thứ văn không biên giới ấy
– đã
bắt đầu khi những ý nghĩa cố định sụp đổ, thế giới trở nên một huyền
bí; con
người không còn là một vai trò mà phải tự làm ra mình, giác ngộ mình
như một cá
nhân mà định mệnh thường xuyên bị nghi vấn hóa.
Người ta biết rằng
tiểu thuyết bắt đầu
khi, tiếp theo sự
phát triển của thương mại và của kỹ nghệ, nghĩa là của văn minh thành
phố, cuộc
đời hết bị qui định bởi những giáo điều và những nghi lễ truyền thống
của một
xã hội nông nghiệp, xô cá nhân vào một thế giới của nghi vấn, của phiêu
lưu và
của sự tranh sống. Sự bùng nổ của tiểu thuyết tính trong Kim Dung có lẽ
cũng
phản ánh một xu hướng tương tự trong xã hội đương thời của chúng ta.
Nhưng sự
mở mang của những thành phố của chúng ta đã không phải là một sự kiện
phát
triển từ trong ra mà đã diễn tiến theo những kế hoạch với tài nguyên
của tư bản
quốc tế để phụng sự cho quyền lợi của họ. Nhất là cái tư bản ấy lại là
thứ tư
bản độc quyền mà ưu tư tiên quyết là tập trung, tổ chức, và kế hoạch.
Ấy là cái
lý do người ta có thể tạm lấy để giải thích tại sao trong Kim Dung giai
đoạn
anh hùng lại quá ngắn và sự nổi loạn lãng mạn trong truyện sao sớm bị
thâu hồi
trong trật tự. Cách tổ chức theo kiểu truyện trinh thám của truyện ông
cũng đủ
cho người ta thấy rằng xã hội tiêu thụ những truyện ấy không phải là
một xã hội
sống trong sự lo sợ ngày mai. Nếu tôi không lầm thì truyện trinh thám
đã ra đời
dưới thời nữ hoàng Victoria, ở giai đoạn phát triển tối đa của đế quốc
Anh. Khi
truyện Kim Dung bắt đầu thì thời của sáng tạo đã hết và những cá nhân
lớn như
Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Tạ Tốn vv… chỉ còn là những tiền bối đã
về già,
để lại sân khấu võ lâm cho những thiếu niên ngu ngốc, giằng co giữa Tà
và
Chính, cố vá víu lại môt di sản tan hoang.
Xung đột giữa Tà và
Chính ấy có lẽ đã
diễn tả một mâu thuẫn
chính yếu trong những xã hội còn ở trong tình trạng bán thuộc địa như
xã hội
chúng ta. Một đằng thì những xã hội ấy, mà những điều kiện lịch sử
không cho
phép sự hình thành một giai cấp tư sản đủ sức tự lập, trong chừng nào
nền kinh
tế của họ còn thiết yếu dựa trên sự tự do doanh thương thì dường như
khó tránh
được một sự phụ thuộc chặt chẽ vào cái tổ chức liên lục địa của Tư bản
chế, và
đằng khác cũng không thể để sự phụ thuộc ấy trở nên một sự lệ thuộc
mới, người
ta thường thấy họ thường xuyên phải duy trì áp lực của một ý thức hệ
quốc gia
cực đoan. Ấy là điều dễ hiểu. Nhưng tai họa bắt đầu khi ý thức hệ ấy
lại trở nên
một dụng cụ để đàn áp những thành phần khác của xã hội, và dưới những
nhãn hiệu
khác nhau người ta gọi là phi dân tộc để biến những thành phần khác
thành những
dụng cụ để bảo vệ chính cái phi dân tộc của chế độ tư bản. Do những mâu
thuẫn
cam go ấy mà sự can thiệp võ trang của người ngoại quốc lại gia tăng
gấp bội;
chúng ta thường tự hỏi là chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu. Nhưng có những
xã hội
sống bằng sự nhất trí thì cũng có những xã hội dựa trên sự mâu thuẫn
của nó để
trường tồn. Sự mai mỉa là tất cả xảy ra như trên sự đổ vỡ của quê hương
những
mâu thuẫn của chúng ta càng ngày càng làm chúng ta trở nên phì nộn. Cho
nên
không có gì lạ nếu sau cùng Tà và Chính, Thiện và Ác, Phúc và Họa, Kim
Dung coi
như Âm và Dương, nghĩa là những sức mạnh của tự nhiên, có khi thuận và
có khi
nghịch nhưng không thể tách rời nhau, điều cần thiết cho sự tiến hóa
như chiến
tranh thuộc địa cần thiết cho sự phồn thịnh của thương mại.
Xu hướng tư tưởng Kim
Dung là một cố
gắng để trả lại cho tự
nhiên những xung đột giữa người và người. Ấy là một điểm tiến bộ. Tại
chỉ trong
chừng nào thế giới hết bị chế ngự bởi những cái thiêng liêng thì con
người mới
tìm thấy tự do và sức sáng tạo của mình. Nhưng cũng không phải ngẫu
nhiên mà
những xu hướng tư tưởng như thế, từ "Thái Hòa Luận" của Leibnitz đến
gần chúng ta hơn, "Cơ Cấu Luận" của Lévi-Strauss thường xuất hiện ở
những thời mà sự bành trướng của Tây phương đã mang lại cho nhân loại
không
biết bao nhiêu đau khổ.
Hai trăm năm trước,
Voltaire, ở thời
đang lên của tư bản, đã
từ chối những lý thuyết cho rằng ác nghiệp ở trên đời là một phần thiết
yếu cho
sự quân bình của cái Toàn thể, và ông trở nên một chiến sĩ tiền phong
trong
cuộc tranh đấu chống lại những giáo điều mà, trong quan niệm của người
thời ấy,
ông cho là một cản trở của tiến bộ và sự thực đã gây ra không biết bao
nhiêu
xung đột đẫm máu. Người ta cũng nhớ rằng Marx muốn thủ tiêu những mâu
thuẫn xã
hội ngay trong nguyên nhân của chúng là những tương quan sản xuất bằng
một cuộc
cách mạng bởi và cho quần chúng vô sản. Nhưng thời đại này là của quần
chúng bị
đóng khuôn và của những mâu thuẫn có tổ chức. Cho nên người ta không
ngạc nhiên
nếu Kim Dung không nhìn thấy một tổng hợp mới, và chủ trương một đạo lý
xuất
thế và của sự từ bi. Hình như ông cho rằng ác nghiệp ở trên đời là một
phần đã
được dự trù sẵn trong trật tự của tự nhiên. Nhưng trên phương diện cá
nhân thì
ông nghĩ rằng ác nghiệp ấy không hẳn là không chữa được như Vô Kỵ đã
chữa cho
Vi Nhất Tiếu khỏi cái bệnh hút máu người đã từng làm cho con người
nghĩa hiệp
ấy mang tiếng là một đại ma đầu của võ lâm. Y học trong Kim Dung giữ
một phần
quan trọng và Vô Kỵ cũng là một thầy thuốc. Cũng như thế, người ta thấy
rằng
tác phong cổ quái của nhân vật trong truyện ông không bao giờ có tính
cách, mà
trái lại ông thường cho nó có một nguyên nhân trong tiểu sử của họ.
Cái đạo lý Thụy Sĩ ấy
không phải là
không cao quí. Người ta
có thể chê nó là đạo lý của một người ngoài cuộc. Ấy tuy nhiên là một
điều dễ
hiểu nếu người ta nhớ rằng Kim Dung là một nhà văn ăn khách nhất của
cái vùng
mà một đồng bào danh tiếng của ông đã gọi là vùng bão tố. Nhưng ở thời
đại của
"những nhà cách mạng có giấy phép", khi những "anh hùng" có
thể sản xuất hàng loạt như xe Ford, khi để cứu những trẻ con nghèo đang
chết
đói ở những vùng chậm tiến, người ta thấy rằng cái việc đầu tiên là
phải tiêu
hủy đồng ruộng của họ, thì ai biết đâu nó đã chẳng là sự trung thực
cuối cùng
của người làm văn? Người làm văn vào đời như xướng ca. Nhưng thế giới
từ nghìn
xưa vẫn thuộc những người có khí giới và những người có của. Ngôn ngữ
cũng của
họ, thì làm văn có nghĩa gì hơn là phải xin vâng lời? "Xin vâng lời,
nhưng
mà". Cái "nhưng mà", theo Roland Barthes, có thể tóm tắt thái độ
của Kafka trước cuộc đời. Cũng chính vì nó mà vẫn có người đang chết.
(Nhà xuất bản Trình
Bày, Sài Gòn, 1967)