|
@ NMG's
Trong This I
Believe, An A to Z of a Life, Carlos
Fuentes đi một chuơng cho chữ N
[Novel]. Bài viết tuyệt lắm. TV sẽ post
và đi 1
đường “tự kiểm”: Liệu Mít có biết viết tiểu thuyết không, và nhất là,
tiểu thuyết
lịch sử?
Bởi là vì,
theo như câu của em Hilary Mantel, thì tiểu thuyết lịch sử là, tưởng
tượng ra 1
lịch sử khác, khác cái thứ mà mình đếch thích. Sông Côn
Mùa Lũ, và Mùa Biển Động của NMG
là viết về cùng 1 thứ lịch sử nước Mít, về hai cuộc xâu xé, một,
thời Tây Sơn,
và một, thời VC/VNCH.
“Écrire un
roman, c'est accomplir un acte révolutionnaire. Un roman est un acte
d'espoir :
il nous permet d'imaginer que les choses pourraient être differentes
qu'elles
ne sont. » C'est ce qu'affirmait Hilary Mantel dans son essai « Pas de
passeport ou de carte d'identité requis : l'écrivain est chez lui en
Europe! »
"Viết 1 cuốn
tiểu thuyết, là hoàn tất 1 hành động cách mạng. Một cuốn tiểu thuyết là
1 hành
động của hy vọng: Nó cho phép chúng ta tưởng tượng những vụ việc có thể
khác, không
như chúng là". Đó là điều Hilary Mantel khẳng định trong tiểu luận
“Đếch cần thông
hành hay căn cước: Nhà văn thì ở nhà của hắn ta, ở Âu Châu”.
*
Cái cuốn Điều
mà tôi tin Gấu mua cũng lâu rồi. Những
bài ngắn, cũng 1 thứ ABC của Milosz, gồm những entry, theo vần ABC, mà
ông này
nói, nó là đặc sản của Ba Lan.
Bài về
Kafka, ngắn, cực thú, mở ra bằng giai thoại.
“Ông đọc
Kafka chưa”, Milan Kundera hỏi tôi.
“Tất nhiên”,
tôi trả lời. “Với tôi, ông ta là nhà văn thiết yếu của thế kỷ 20”.
K[undera] cười
1 cái cười rất ư là đểu - y chang văn Sến, đệ tử của K[afka]:
“Ông đọc bằng
tiếng Đức ư”?
“Không”.
“Vậy mà dám
nói đọc Kafka ư”?
Viết để tặng
1 ai đó, một sinh viên ban Văn, sau này, giả như mê Sến, và đi 1 đường
“thèse” về
Sến, thì sẽ đụng phải 1 vấn nạn, là, tại làm sao hai sư phụ của Sến là
Nabokov
và… Kafka.
Một ông cực độc, cực ác, và 1 ông cực thiện.
Có cái gì đó,
rất tương tự giữa Nabokov và PD, và làm nhớ đến Vi Bức Vương, con dơi
xanh, cứ mỗi
lần giở khinh công tuyệt đỉnh ra là phải hút máu người.
Đây là 1 đề
tài lớn, làm nhớ đến câu của Walter Benjamin, mọi tài liệu về văn minh
là 1 tài
liệu về dã man.
Câu văn mặc khải của Walter Benjamin đổi hẳn phương thức phát Nobel
những năm gần
đây, theo Gấu.
Trước, chỉ vinh danh những thành tựu lớn lao.
Sau, vinh danh
rác rưởi, nhục nhã, cay đắng, dã man… mà
con
người đã phải chịu đựng, được nhà văn ghi lại.
Mạc Ngôn đợp Nobel là vậy. Ông
nói về cái trường kỳ bất hạnh của dân Á Châu, dưới Cái Ác Á Châu.
Cũng
không phải tự nhiên Nabokov khóc ròng vì không được Nobel, và coi mình
là nhà
văn Chống Cộng, “đầu tiên, trước cả Pasternak”! Ông thèm đau nỗi đau
của
dân Nga,
được Pasternak mô tả, qua cuộc nội chiến giữa Hồng Quân và Bạch Vệ. Một
cách
nào đó, ông giống Steiner, thèm được chết ở Lò Thiêu!
Gấu đọc Lolita
lần đầu, là không làm sao quên nổi,
cái cảnh mở ra Lolita, ở bãi biển,
anh già mắc dịch HH tính làm thịt "tiền thân" của Lolita, dưới sự chứng
kiến của
cặp mắt kiếng màu mà 1 du khách bỏ quên trên mặt cát.
Cuộc làm thịt em thất bại, vì
hai ông "tiền sử" từ dưới đáy biển xuất hiện, hét toáng lên, cổ võ,
"Dzô, Dzô"!
Đâu có phải
tự nhiên mà cuốn sách bị cấm trong bao năm dòng dã.
Khi anh Mít
dịch nó, và bây giờ còn trao giải thưởng cho bản dịch, là Gấu biết,
hỏng rồi.
Cái giai thoại
kể trên, của Fuentes, được kể ra đây, với câu kết khác hẳn:
Độc như thế
mà dám nói đệ tử của Kafka, ư?
Hà, hà!
Trong
văn Nabokov có 1 cái gì rất độc, rất ác.
Điều này Pamuk nhận ra, trong 1 bài viết thần sầu của ông. Pamuk cũng
là 1 đệ tử
của Nabokov, mỗi lần giang hồ vặt, là phải mang theo Nabokov, để gối
đầu.
Trên TV đã
giới thiệu cuốn Điều mà tôi tin
qua bài viết vinh danh đàn bà, đúng hơn, vinh
danh Sister
Benedicta & Anna Akhmatova & Simone Weil (1)
Tribute
to Carlos Fuentes
Ông nghĩ sao
về liên hệ giữa văn chương và chính trị, chúng xà nẹo với nhau?
Thì tất nhiên,
văn chương luôn luôn xà nẹo với chính trị. Đôi khi tốt, đôi khi xấu.
Theo tôi,
văn chương đặt để trên thực tại cơ bản, được thiết lập bởi ngôn ngữ và
sự tưởng
tượng. Trách nhiệm của nhà văn là ở đó: mi làm gì với ngôn ngữ, với
những từ, và
với sự tưởng tượng. Khi ngộ ra điều này, thì là ngộ ra cái nền của sáng
tác văn
học. Nhà văn cũng có thể nói: tôi là công dân, tôi sẽ bầu cho cái này,
ông này,
tôi sẽ chấp nhận ý thức hệ này, nọ…. Nhà thơ Chile Pablo Neruda,
một nhà thơ
lớn, chuyện ông ta là Xì ta li nít, hay Cộng Xít, chỉ là thứ yếu, một
chọn lựa
của công dân. Céline bài Do Thái, thù Do Thái đến phát điên, nhưng
những cuốn
sách của ông mới bảnh sao.
Khốn nạn nhất là bắt văn chương phò 1 chủ
nghĩa, 1 ý
thức hệ. Hầu hết đám VC Liên Xô bắt văn chương phò Xì, phò Cộng xít, và
họ viết ra
toàn thứ cứt đái, là vậy.
Mượn câu của
Fuentes áp dụng vô Mạc Ngôn, thật tuyệt.
Cái vấn nạn mà Mạc Ngôn đặt ra là, tại
sao mi chửi ta, trong khi mi viết như kít ấy!
Hà, hà!
"Don't expect friendship.
Friendship is a miracle."
Simone
Weil
Đừng trông mong tình
bạn. Tình bạn là một phép lạ.
Ui
chao đọc một cái là lại thấy nhớ ơi là nhớ mấy đấng bạn quí của Gấu!
Mỗi
ông là một phép lạ!
Simone
& the Godfather:
No, Simone Weil didn't inspire Marlon Brando's famous line, "Make him a
deal he can't refuse." Nor do I think Coppola and Puzo had Weil in mind
when they wrote Al Pacino's memorable line about staying close to those
who are
important to you, "Keep your friends close, keep your enemies
closer." It is true, however, that Simone Weil was just as tough minded
about friendship. These words of hers have always been a lesson to me,
"Don't
expect friendship. Friendship is a miracle."
Simone &
Bố Già
Không,
Simone Weil không gợi hứng cho Bố Già Marlon Brando, khi phán câu tuyệt
cú mèo:
“Hãy nhét kít vô miệng nó!”
“Hãy nhét
kít vô miệng nó!”
Câu này, xin
lỗi của Nguyễn Huệ của NHT, khi ra Bắc. Nhưng câu của Bố Già Marlon
Brando, “Hãy
làm cái deal với anh ta, 1 cái deal
mà anh ta không thể từ chối”; deal, ở đây, chính là
kít - không thể từ chối - mà NH của NHT
nói tới, nếu bạn nhìn lại cuộc "sám hối" vừa qua của Đảng CS, và sau
cùng
“VC tha
cho VC”.
V/v Đồng chi
X.
Dân Mít tỏ
ra rất bực khi anh VC/NPT mập mờ về đồng chí X, mà họ đều nghĩ, là anh
y
tá dạo
Ba Dzũng.
Không phải, anh nào cũng là đồng chí X được hết. Miệng anh
nào cũng có
kít hết. Chính vì thế mà không thể nào có 1 kết thúc khác cho "sám hối
& thanh trừng"!
Nhưng
Akmatova đã từng tiên tri ra được, và gọi, đó là “thời không mặt”.
Như ông già
của Cao Bồi, khi sinh ra Cao Bồi, bèn đặt là “ẩn mặt”.
Không mặt, ẩn
mặt, khuất mặt, đồng chí X… Gọi là đồng chí X còn làm nhớ tới thời
kỳ chiến
tranh, mấy
anh VC nằm vùng, vô bưng họp, nhận lệnh, đều phải che mặt.
Cao Bồi đã
từng làm
như vậy, nhiều lần, như trong Thời gian của
Người, của Nguyễn Khải, viết về nhân vật Quân, 1 hóa thân của PXA.
Fuentes vinh
danh Akhmatova mà chẳng bảnh sao:
[The word
martyr, etymologically speaking, means witness]
Nếu vờ Osip
Mandelstam đi, không tính tới, thì Anna Akhmatova (1889-1966) quả đúng
là nhà
thơ vĩ đại nhất của Nga, thế kỷ 20. Đàn ông mết bà, nhưng họ không hiểu
được
bà. Tất cả đám đực rựa cũng bẽn lẽn thú nhận điều này: Anna kiêu ngạo
hơn, bảnh
hơn, láu lỉnh hơn họ. Bên dưới cái vẻ mảnh mai, mảnh khảnh, là một ý
chí sắt
đá. Sự mảnh mai và ý chí sẽ mang đôi cánh đến cho những dòng thơ tuyệt
vời của
bà.
Nhưng đọc
Simone Weil viết con người, mới tuyệt vời. Cái bài viết của Todorov về
Cambodia,
trong “Hồi nhớ là thuốc chữa cái quỉ ma”, đúng là nằm trong tinh thần
này [TV sẽ
giới thiệu, khi viết về Tô Hoài & Ba Người Khác]:
At the
bottom of the heart of every human being, from earliest infancy until
the tomb,
there is something that goes on indomitably expecting, in the teeth of
all
experience of crimes committed, suffered, and witnessed, that good and
not evil
will be done to him. It is this above all that is sacred in every human
being.
Receiving
the prize, Mantel joked: "You wait 20 years for a Booker prize and then
two come along at once."
“Bạn đợi hai chục năm để đợp giải, và đợp liền 1 lúc, cú đúp”.
Gấu đang đọc
bài viết về bà này trên The New Yorker, Những người đã chết đều có thực,
hy vọng, trong khi đọc, giải ra bài toán hắc búa về Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn
Mộng Giác, 1 cuốn tiểu thuyết lịch sử về 1 thời Mít xâu xé, Đàng
Ngoài rước
Mãn Thanh vô, tính dẹp Ngụy Triều Tây Sơn. Đàng Trong, Anh Hùng Áo
Vải Cờ
Đào Nguyễn Huệ cho binh sĩ ăn Tết trước, đợi vô Thăng Long ăn Tết thực
sự....
Books
N° 351
SEPTEMBRE 2012
BESTSELLERS
Royaume-Uni
DANS LA PEAU
D' ANNE BOLEYN
Des neuf
mois qui précèdent l'exécution de la reine, Hilary Mantel tire un roman
sublime, qui fait revivre les intrigues de la cour d'Henri VIII au plus
près de
l'intimite des acteurs, et plus encore des actrices.
RUTH SCURR. The Times Literary Supplement.
“Écrire un
roman, c'est accomplir un acte révolutionnaire. Un roman est un acte
d'espoir
: il nous permet d'imaginer que les choses pourraient être differentes
qu'elles
ne sont. » C'est ce qu'affirmait Hilary Mantel dans son essai « Pas de
passeport ou de carte d'identité requis : l'écrivain est chez lui en
Europe! »
Bài điểm “Đường
Một Chiều”, của NMG, đợp giải Văn Bút PEN Việt Nam (Miền Nam trước
1975), trong đó Gấu phán, "tay này" không viết được truyện
dài, Gấu chẳng
hề nhớ, cho tới khi gặp Hồ Thành Đức,
anh nhắc,
Gấu vẫn không nhớ, chỉ đến khi hỏi NMG, thì ông xác nhận, có, và theo
ông,
1 bài điểm sách rất đàng hoàng.
Tuy nhiên,
tới lúc đó, thì Gấu lại bực mình tự hỏi, làm sao, cái gì, điều gì khiến
mi phán… khủng như thế?
Bây giờ thì
Gấu lờ mờ hiểu ra, sau khi
đọc hai bài
viết về Hilary Mantel, chuyên gia viết tiểu thuyết lịch sử, đợp liên
tiếp hai
Booker, và bây giờ đang dưới sức ép, đợp thêm lần thứ ba, vì hai cuốn
vừa rồi,
là nằm trong 1 bộ ba.
Hai đã đợp
Booker, thì tại sao không, cả ba?
Cái thiếu nhất
của NMG là trí tưởng tượng. Chính vì thế, mà ông bệ đời thực vô đời
giả. Tất cả
những nhân vật của ông, thì đều có trong đời thực, hoặc hiện tại, hoặc
quá khứ.
Điều này còn
giải thích, ông viết 1 câu văn, chỉ 1 lần, là
xong, không cần sửa. Ông viết cả 1 bộ Sông
Côn Mùa Lũ theo kiểu này. Gấu đã từng chính mắt nhìn thấy bản thảo,
do ông đưa
cho coi, và sợ đến toát mồ hôi!
Đó là sự thực!
Đọc cái câu
phán ở trên, của Hilary Mantel, thì lại ngộ ra thêm 1 điều, với bà này,
cũng
như với Kundera, với Lukacs… tiểu thuyết là sản phẩm của Âu Châu.
Thành thử Thầy Đạo bực mình, tụi mũi lõ, đọc Á Châu cứ tìm Faulkner,
Rabelais, con hoang của Sartre…
như thế là quá đểu, quá chua chát [chữ của Thầy], là đụng tới danh dự
của Á Châu!
Không phải. Á Châu trước đây đếch có, cái gọi là tiểu thuyết!
Bản đồ tiểu thuyết, lại càng không!
Kundera
có phán, đâu đó [trên TV], Gấu kiếm hoài không
ra, tiểu thuyết là sản phẩm của Âu Châu, và dân Âu Châu, những đứa con
của
tiểu thuyết.
Nhưng
kiếm ra khúc này:
Le
roman est né avec les Temps modernes qui ont fait de l'homme, pour
citer
Heidegger, le « seul véritable subjectum», le «fondement de tout».
C'est en
grande partie grâce au roman que l'homme s'installe sur la scène de
l'Europe en
tant qu'individu. (2)
Tiểu
thuyết sinh ra cùng với Thời Hiện Đại, và nó làm cho con người, nói
theo
Heidegger, trở thành le « seul véritable subjectum», cái “thành lập,
nền tảng của
tất cả”. Phần lớn nhờ tiểu thuyết mà con người ngồi bảnh tỏng trên sàn
diễn Âu
Châu, như là 1 cá thể.
Lukacs phán
mới bảnh:
Tiểu thuyết
là để diễn tả về cõi không nhà siêu việt
(The form of
the novel is, like no other one, an expression of transcendental
homelessness)
G. Lukacs, Lý thuyết về Tiểu thuyết.
(1)
Kundera nhắc
tới Heidegger làm Gấu nhớ đến Thầy Đạo và cuốn trường thiên tiểu thuyết
về
Heidgger của Thầy, trên Gió O!
Thú thực, vì
là dân ngoại đạo, không phải khoa bảng, nên Gấu đọc Heidgger theo kiểu
ghé mắt xem
chơi, và, với Gấu, ông này có hai cuốn “đường được”, theo nghĩa, hợp
với Gấu,
là “Những con đường chẳng đưa tới đâu”, lèm bèm về Thơ, và cuốn “Thơ”
của ông.
Trong “Chemins qui ne mènent nulle part” thì hai bài bảnh nhất là Tại
sao Thi
Sĩ, “Pourquoi des poètes”, và bài “La Parole d’Anaximandre”
The Dead Are
Real
Thứ người nào
viết giả tưởng về quá khứ?
Mối liên hệ
của nhà văn với một nhân vật lịch sử, theo cung cách nào đó, không thân
mật, riêng
tư, thầm kín bằng, nếu so với một nhân vật thuần giả tưởng: nhân vật
lịch sử thì
lảng tránh, khó nắm bắt, xa thật xa, thành thử có 1 quãng cách giữa họ.
Nhưng cũng
có nhiều sự bình đẳng giữa họ, và nhiều ước ao; và khi người đó chết,
sự tưởng
niệm thực sự có thể có.
Receiving
the prize, Mantel joked: "You wait 20 years for a Booker prize and then
two come along at once."
“Bạn đợi hai chục năm để đợp giải, và đợp liền 1 lúc, cú đúp”.
Gấu đang đọc
bài viết về bà này trên The New Yorker, Những người đã chết đều có thực,
hy vọng, trong khi đọc, giải ra bài toán hắc búa về Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn
Mộng Giác, 1 cuốn tiểu thuyết lịch sử về 1 thời Mít xâu xé, Đàng
Ngoài rước
Mãn Thanh vô, tính dẹp Ngụy Triều Tây Sơn. Đàng Trong, Anh Hùng Áo
Vải Cờ
Đào Nguyễn Huệ cho binh sĩ ăn Tết trước, đợi vô Thăng Long ăn Tết thực
sự....
Những người đã
chết đều có thực
Hilary
Mantel’s imagination.
Trí tưởng tượng
của Hilary Mantel
by Larissa
MacFarquhar
Hilary
Mantel viết về Cách Mạng Pháp.
Em Hồng Mao này, thuổng
cái tít của TTT, đã từng bị Ông
Số 2 thuổng,
để viết về thuyền nhân. (1)
Gấu đang cực cần
bài viết này, để đọc/viết song song về tiểu thuyết gia/sử gia/nhà giáo
VNCH: NMG & Thời Của Gấu
Of “Wolf Hall,”
Mantel
says, “I knew from the first paragraph this was going to be the best
thing I’d
ever done. It began to unscroll before me like a film.”
Mantel phán, về “Wolf
Hall”
của mình: "Ngay từ đoạn mở ra là tôi đã biết, đây đúng là đại tác phẩm
của ta, và
nó cứ thế mở mãi ra, như 1 cuốn phim"
NMG
nhìn lại SCML: "Một thời đại mà tất cả biến động của lịch sử và cái
phức tạp của đời
sống
hiện ra trọn vẹn, giống như những phức tạp hiện ra trong thời kỳ cộng
sản ở Việt
Nam vậy, giống nhau lắm. Và vì giống như vậy, thay vì trực tiếp viết về
cộng sản,
tôi chuyển qua hai thế kỷ trước viết về thời Tây Sơn. Có nhiều hoàn
cảnh mà tôi
suy từ thời mình bây giờ sang thời trước."
Giống nhau
lắm, là như thế
nào?
Thời Tây
Sơn, Mãn Thanh
vô Đất Bắc, ngoài mặt phò Lê, nhưng thực sự là xực Mít
Thời CS, Bắc Kít ngoài mặt thì chống Mỹ Kíu Nước, nhưng sự thực là ăn
cướp Miền
Nam. (1)
Cái mà NMG cực thiếu, theo Gấu, là trí tưởng tượng.
*
le thi tham
van viết:
Tôi không có
cái “duyên may” như những nhà văn (Nguyễn Thị Thảo An, Nguyễn Thị Hoàng
Bắc,
Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Thơ Thơ, Phùng Nguyễn…) là được nhà văn kiêm
chủ bút
tạp chí Văn Học Nguyễn Mộng Giác chiếu cố văn chương của họ một cách ưu
ái tận
tình.
Truyện ngắn
và trích đoạn tiểu thuyết của tôi gửi đến tạp chí Văn Học đều bị thẩy
vào xọt
rác.
lê thị thấm
vân (1)
Note: Tuyệt!
Ít ra phải có
1 lời ai điếu như vầy.
Áo thụng vái hoài thì chán chết!
Gấu bị chửi, là vì cứ nói thực hoài, về bạn văn!
Nhưng, theo
Gấu Cà Chớn, vứt thùng rác có cái lý của nó.
Bởi vì
nếu
đăng LTTV, thì phải vứt cả cái đống kia vô thùng rác!
Bà Vân này phải mừng, mới phải.
Khó thế!
@ NMG's 1998
27 TẾT
Ngày lạnh
giá. Mặt trời mùa đông. Hơi thở trắng
Nhưng vào Thứ
Sáu này chúng ta không biết
Ăn mừng cái
gì, và than khóc cái gì –
Đó là ngày
Tưởng Niệm Lò Thiêu
Và sinh nhật
Mozart.
Trí nhớ của
chúng ta lúng túng.
Trí tưởng tượng
trật đường rầy
Ngọn nến nơi
cửa sổ khóc
(chúng ta được
yêu cầu thắp nến)
Nhưng nhạc
êm dịu của Mozart khi còn trẻ
tới lỗ tai
chúng ta từ mấy cái loa, cổ lỗ sĩ,
thời tóc giả
màu bạc, không phải tóc xám
mà chúng ta
biết từ Lò Thiêu,
thời quần
áo, không phải khỏa thân
Hy vọng,
không phải thất vọng.
Trí nhớ của
chúng ta lộn tùng phèo,
Trí tưởng tượng
của chúng ta lạc lối về.
Năm nay nhà
nước VC chơi nhiều đòn thật là ngoạn mục, và “băng” VH không biết nên
buồn, vì 100 ngày NMG ra đi, hay là nên vui, vì sách của VP được in ở
trong nước, và
SCML của NMG
được trao giải tiểu thuyết hay nhất trong năm, xứng đáng đứng bên Trăm Năm Cô Đơn của Garcia Marquez!
(2)
Chưa kể cú mời
KL về hát "Người di tản [hết] buồn"!
ON
PASTERNAK
SOBERLY
Về Pạt, thật
nhã
Với những ai
quen thuộc với thơ của ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải
Nobel
ban cho ông vào năm 1958 quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một
nhà thơ mà
thế giá ở Nga, người ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca
Akhmatova;
một đại gia về dịch thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt",
[hai từ đều thuổng cả!], thì mới dám đụng vô Shakespeare, vậy mà phải
viết một
cuốn tiểu thuyết to tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây
chấn động
giang hồ, cả Ðông lẫn Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một
best-seller, [có lẽ
phải thêm vô, phải có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc đó, những
thi sĩ của
những xứ sở Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được Uỷ Ban Nobel ở
Stockholm,
thương tình để mắt tới.
Giá như mà
ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì thế mà mùi
vị
Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng chứng về
một sự
quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn học Ðông
Âu, và
điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Sau khi được
Nobel, Pạt mới hiểu ra được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một
đại ác
mộng về sự hồ nghi, chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng
khẳng định
với chính mình, tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ
gẫy vì
những hoàn cảnh.
Nhân dân
Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi, mi được
Nobel vì
1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm đọc….
Tôi không kiếm
thấy trong tác phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự chống đối triết học
của ông,
với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái sự ngần ngại khi phải đối đầu
với những
trừu tượng – và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông,
là đồng
nghĩa – và đây là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công
dân Xô Viết
là cuộc sống của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi
trò chơi
chân thực. Ông chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga
Xô.
Dr Zhivago
là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên chẳng thấy có tí dấu vết nào của thứ
khẩu khí
làm nên sức mạnh của Dos, về 1 quan điểm con người chống-Ky-tô.
Ky Tô giáo của
Pasternak là vô thần, [atheological]. Pasternak là 1 người bị hớp hồn
bởi thực
tại, đối với ông, thực tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông
chấp nhận
khổ đau vì ở nơi thâm sâu của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết
chóc và
tái sinh. Và ông coi [treat] nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Czeslaw
Milosz
Đọc lại những
dòng trên, quái làm sao Gấu nhớ đến giải thưởng VC trao cho NMG. Có cái
gì tiếu
lâm, và hơn thế nữa, thê lương, ở trong. Rõ ràng là, vào những ngày
tưởng niệm
100 ngày ra đi của ông, chẳng ông bạn quí nào hân hoan nhắc tới sự kiện
trọng đại
trên!
Cuốn Sông Côn
Mùa Lũ cũng có 1 số phận ly kỳ
chẳng kém Dr Zhivago, và nếu như thế,
nó có thể đứng giữa cả hai cuốn cùng được Nobel văn chương là Dr Zhivago và Trăm Năm Cô Đơn!
Trước khi được
bà vợ NMG lén VC mang ra hải ngoại, thì nó đã được VC [Vũ Hạnh, đúng
hơn], cho phép xb, và
NMG đã đi
1 bữa tiệc nhỏ, với vài chai bia ăn mừng, cùng với một số bạn văn,
trong
có NTV.
Bằng 1 cú
ngoạn mục, vượt biên trước mắt hải quan VC, qua hành động can đảm cứu
sách của
bà vợ NMG, trong chuyến xum họp cùng chồng nơi xứ Mẽo, những
tưởng số phận của nó, là được viết ra, để được cất tiếng gáy sang sảng,
ở thế giới tự
do, oái oăm làm sao, NMG lại khệ nệ mang về xin phép
Hà Nội, “lần
thứ nhì, chính thức”, và được phép xb, “không bỏ 1 chữ”, được VC o bế
hết cỡ thợ
mộc, nào đọc trên đài phát thanh, nào làm phim, nào, nào… và bây giờ,
đợp giải
thưởng VC.
Bác sĩ Zhivago so với nó, đâu bằng?
Bác sĩ
Zhivago bị nhà nước Liên Xô lên án, tác giả bị làm nhục, không
dám đi
lãnh
giải, vì sợ không về được Đất Mẹ, trong khi SCML thì lại được VC nâng
niu, dù tác
giả viết nó, để chơi một phát, chết hai con chim, Tẫu và Bắc Kít
VC Bắc
Kít ăn cướp
Miền Nam vs Mãn Thanh làm thịt nước Mít!
Giải thưởng
Sách hay về Văn học năm 2012:
Trăm
năm cô
đơn và Sông Côn mùa lũ
Lịch sử đếch
đón chúng ta như Ngày Hội Lớn của Mít
Nó ném kít
vào mặt chúng ta!
Dù khác nhau
về tầm vóc, Trăm năm cô đơn và Sông Côn
mùa lũ cùng thể hiện những chủ
đề lớn về dân tộc và thời đại trong ngôn ngữ sống động của tiểu thuyết. Trăm năm cô đơn trở thành mẫu mực của
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, một trào lưu văn học đặc sắc nửa cuối thế
kỷ 20. Sông Côn mùa lũ là một đóng góp mới cho
thể loại tiểu thuyết trường thiên ở Việt Nam, sau những Dòng
sông Thanh Thủy của Nhất Linh, Cửa biển của Nguyên
Hồng và Vỡ
bờ của Nguyễn Đình Thi… Hai tác phẩm được Giải thưởng Sách hay năm
nay chắc
chắn sẽ còn tiếp tục chinh phục nhiều thế hệ độc giả nước ta trong
tương lai.
HUỲNH NHƯ
PHƯƠNG
Dòng Sông Thanh Thuỷ, là câu chuyện tụi VNQDD
làm thịt VC
đấy! (1)
Báo cáo
đồng
chí HNP
GCC!
NMG
nhìn lại SCML:
"Một
thời đại mà tất cả biến động của lịch sử và cái phức tạp của đời sống
hiện ra
trọn vẹn, giống như những phức tạp hiện ra trong thời kỳ cộng sản ở
Việt Nam vậy,
giống nhau lắm. Và vì giống như vậy, thay vì trực tiếp viết về cộng
sản, tôi
chuyển qua hai thế kỷ trước viết về thời Tây Sơn. Có nhiều hoàn cảnh mà
tôi suy
từ thời mình bây giờ sang thời trước."
Giống
nhau lắm, là như thế nào?
Thời
Tây Sơn, Mãn Thanh vô Đất Bắc, ngoài mặt phò Lê, nhưng thực sự là xực
Mít
Thời
CS, Bắc Kít ngoài mặt thì chống Mỹ Kíu Nước, nhưng sự thực là ăn cướp
Miền Nam.
(1)
Chúng ta đã
biết tác giả có ghi trên bản thảo Giòng
sông Thanh Thủy rằng bộ truyện này bắt
đầu ngày 28-11-60, viết xong ngày 28-1-61: Hai tháng. Bộ truyện gồm ba
cuốn: cuốn
đầu (Ba người bộ hành) dày 192
trang, cuốn sau (Chi bộ hai người) 135
trang, cuốn
chót (Vọng quốc) 147 trang. Non năm trăm trang
sách ấy viết trong một hoàn cảnh
đặc biệt: Trước khi Nhất Linh bắt đầu bộ sách 17 hôm là ngày xảy ra
chính biến
11-11-60. Truyền đơn Mặt trận Quốc Dân Đoàn Kết do ba nhân vật đứng
tên: Phan
Khắc Sửu, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tường Tam. Mặt trận thất bại, Nhất
Linh bỏ
nhà trốn lánh, hơn một năm trời nay đây mai đó, gia đình không rõ tung
tích. Xóm Cầu Mới là
sách viết chạy, Giòng sông Thanh Thủy
là sách viết chui. Tình cảnh
cùng gian truân cả. Cuốn sách viết nhanh lại là cuốn được tác giả thích
ý. Ông
ước mong sách được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Trên trang đầu của
bản thảo,
ngoài bốn chữ Giòng sông Thanh Thủy
ông còn tự mình dịch sẵn nhan sách ấy ra ba
thứ tiếng khác: Thanh Thủy Hà
(chữ Hán), La rivière claire
(Pháp) và Limpid
water river hay Clear water
river, hay Clear river (Anh).
Về Nhất
Linh, Gấu có 1 kỷ niệm thần sầu vì thê lương, cực thê lương. Khoảng
thời gian
trước khi ông tự tử ít lâu, ông ghé thăm ông anh của Gấu, là Nguyễn
Hoạt, ở hẻm, gần Cổng xe lửa số 6, Trương Minh Giảng.
NH không có
nhà, ông đứng ngần ngừ 1 lúc, rồi run rẩy [đúng là run rẩy] viết mấy
chữ vô 1
miếng giấy, đưa cho bà vợ NH, đi ra, chừng được mươi bước, ông quay
lại, xin lại
miếng giấy.
Sau đó thì đọc
báo.
Khủng nhất,
là về già, nhớ lại, Gấu không làm sao mà nhớ ra được, lúc đó, Gấu đứng
ở chỗ nào,
mà được nhìn ra hết 1 xen thê luơng như thế
Trong bài viết
về Kẻ Xa
Lạ, nhân cuốn sách được dịch lại qua tiếng Anh, người viết
có dùng 1 từ
thật là tuyệt, và áp dụng thật là thú, vào trường hợp của Gấu, khi đọc
Camus,
hay nói chung, 1 số tác giả thời mới lớn:
Existentialism
had its great theorist in Sartre and its great novelist in Camus, and
this is
still the book students turn to when they need a fix of
me-against-them. (1)
Chủ nghĩa hiện
sinh có lý thuyết gia lớn của nó, trong Sartre, và tiểu thuyết gia lớn,
trong
Camus, và vẫn là cuốn sách đó [Kẻ Xa Lạ], những sinh viên viện tới khi
họ cần
"xác định mình chống lại họ".
Cụm từ “fix
of me-against-them”, quá đúng, nếu áp dụng cho Gấu, theo nghĩa, Gấu đọc
họ để
hiểu Gấu.
Sartre cũng
có 1 câu tương tự ý trên, Gấu đọc thời mới lớn, và bèn nhập tâm liền tù
tì. (1)
Cả 1 đời Gấu sống [chiến
đấu, học tập theo gương Bác H vĩ đại], là để biến câu trên thành hiện
thực!
XHCN!
Nhưng chỉ đến
khi đọc Steiner, thì hiểu thêm được 1 điều, thời của chúng ta là Thời
Chung Cuộc,
khác hẳn mọi thời. (2)
(1)
Vào
mỗi thời đại, con người nhận ra mình khi đối diện với tha nhân, tình
yêu,
và cái chết.
A chaque époque l'homme se choisit en face d'autrui, de l'amour et de
la mort.
Sartre, Situations.
Câu đó, và một câu nữa, của Camus.
Tôi lớn lên cùng với những người cùng tuổi, cùng với những tiếng trống
inh ỏi của
cuộc thế chiến thứ nhất, và lịch sử, từ đó, chỉ là không ngừng những
sát nhân,
bất công, và bạo động.
(2) Nous qui
vivons à l' "ère de l'Épilogue", sur les ruines de
l'Auschwitz et du Goulag, devons-nous "réapprendre à être humain"?
Faut-il inventer un nouvel humanisme?: Chúng ta sống thời kỳ Chung
Cuộc, trên
những điêu tàn của Lò Thiêu và Lò Cải Tạo, liệu chúng ta phải lại học
làm người?
Phải phát kiến ra một chủ nghĩa nhân bản mới?
Francois L'Yvonnet phỏng vấn Steiner, trong Man Rợ Dịu Dàng, La Barbarie Douce, thực hiện tại Paris,
ngày 3 Tháng Hai, 2000.
Tôi nghi
rằng Steiner cũng tiên đoán ra được sự xuất hiện của con bọ
VC, hay hiện
tượng Chúa Sẩy Thai. Ông viết, chủ nghĩa Marx không giản dị chỉ là một
lầm lẫn,
mà nó còn là một đánh giá quá cao, hơi bị quá chắc mẩm có tính cứu thế
[une
surestimation messianique], về những khả năng của con người, [đúng theo
cái kiểu
của mấy ông VC: Với sức người sỏi đá cũng thành cơm]. Theo ông đây là
từ tư tưởng
Do Thái giáo mà ra. Người Do Thái đã từng lầm lẫn với Chúa Ky Tô, [Le
Juif
s'est trompé avec le Christ], như nó lầm lẫn với Karl Marx... Nó cứ
luôn luôn lầm
lẫn, tất cả là do, nó đánh giá quá cao con người.
Cái họa con bọ VC theo Gấu là do những "chúng ông" đánh giá quá cao
"chúng ông", chứ không phải đánh giá quá cao con người, hay nói
riêng, con người Việt Nam.
Một cách nào đó, chúng tôi đã không "ôm lấy" cuộc chiến đó, cả trong
ý nghĩa, "chống lại" nó.
Chúng tôi tởm nó, trong khi chúng tôi chỉ có nó, như là phần đời đáng
thương nhất,
và cũng đáng yêu nhất, của chúng tôi.
Thử tính lại đi, bao nhiêu bạn thân, người thân, đã nằm xuống, vì nó?
NQT: Thư gửi bạn ta
2
Lần đầu qua
Cali, 1998, do chưa quen NMG, nên vợ chồng Gấu tính tá túc nhà Khánh
Trường,
và vì vậy, bèn
phải viết cho Hợp Lưu, trước
đó chưa từng viết!
Và cái bài
viết cho Hợp Lưu, là hình như
cũng lờ mờ đoán ra, tờ Văn Học
sẽ
không chịu nổi Steiner!
KT khác, ông
bạn này mù tịt về văn học, cứ thấy tên tuổi nào hách, là đăng thôi!
Đúng như thế!
Và cái bài đầu
tiên giới thiệu Steiner với độc giả Mít, là bài Nhà Văn và Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Một nữ văn sĩ
ra đi từ Miền Bắc, sau này kể lại, trong mail, đọc, cứ nắc nỏm, hay
quá, đến
khi đọc đến tên người dịch thì bèn “Vòa là”, tưởng ai, phải là ông
này, thì
mới dịch được như thế này!
Tks. NQT
Gặp KT, anh
cho biết, mới mua 1 tấm nệm, dành cho ông bà.
Tuy nhiên, do chẳng quen biết ai ở
Cali lúc đó, và do đang viết cho Tạp
Chí Thơ, mà ông chủ nhiệm, chủ biên, Trùm,
Giáo Chủ Tân Hình Thức, thì lại nghe nói “bạn” của TTT, tức ông anh,
thì như vậy,
cũng chỗ người nhà, bèn nhờ đón, dù cả hai chưa từng gặp.
Gặp, anh cho biết, ông bà ở nhà Lê Giang Trần là
tốt nhất.
Mobile Home, sống 1 mình, chẳng phiền hà ai.
Thế là vợ chồng
Gấu bèn cám ơn KT, qua LGT.
Sáng hôm
sau, gặp NMG tại tiệm phở Nguyễn Huệ
Anh mời tới ở nhà anh.
Và vợ chồng Gấu lại dọn nhà!
Bé Ký &
Thảo Trần @ NMG's, 1998
Quà tặng của
Khánh Trường, lần gặp đầu tiên, tại Cali, 1998
Đứng
trước
giá [tủ?] sách, toàn tiếng Tây, hình như
đều do ông “Ê Khánh Trường” dịch, Gấu nhỏ nhẻ, ông giữ cái này
làm gì, để tôi mang về Canada đọc, viết, giới thiệu trên Hợp Lưu.
Chàng nghe,
khoái quá, OK liền.
Bữa sau, nghĩ
sao, chàng tặng có 1 cuốn, là cuốn tính tặng vợ chồng Ngài Tiên Chỉ,
nhưng Ngài
đếch chịu ghé lấy, chắc thế!
VHQ chứng kiến trò hề, cười hề hề, buông 1 câu, nó phải trưng bày Hợp Lưu, và bịp
thiên hạ, làm sao cho ông được!
Ha, hà!
NMG là 1 độc
giả tri kỷ của GCC. Khi Gấu viết cho Văn Học, báo tăng độc giả, ông
phán, bây
giờ chân ông chạm đất rồi, hết còn viễn mơ, và nói thêm, tôi không ngờ
ông viết
mà lại ăn khách! Khi nghe tin MT sắp đi xa, Gấu vội viết bài cho ông
đọc kịp,
NMG cũng vội mang vô bên giường ông, đọc, ông gửi lời cám ơn, và phán,
bây giờ
nó viết dễ đọc, hồi xưa không làm sao đọc được!
Có vài kỷ niệm
viết, khi viết cho Văn Học, cũng thú vị, xin kể ra đây.
Lần Gấu viết
bài tạp ghi về Nguyễn Tuân, NMG mê lắm, ông biểu Gấu, ông sáng tác bằng
viết tạp
ghi. Tôi không viết được như ông.
Gấu coi lại
bài viết, và nghĩ, chắc là cái chi tiết thần sâu sau đây, hợp ý ông:
Chữ người tử
tù
Cá nhân người
viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết
đọc, biết
viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia
đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc
vương
vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những
viên ngọc
trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc
như vậy để
đánh dấu những trang Sách Hồng, Ông
Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng.
Đánh dấu
những trang sách, của một chuyện tình: chúng làm cho những lần chia ly
bớt nặng
nề, thê thảm, có thể chịu đựng được...; của một cuộc chiến: như những viên đất
ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...
Đó
là kỷ niệm thực, lần đứa em trai mất
Alexandre Đại Đế!
Par Veronika
Dorman
Alexandre
Soljenitsyne en Suisse en 1975, après avoir été déchu de sa citoyenneté
et expulse
d'Union soviétique.
Solz ở Thụy
Sĩ, 1975, sau khi bị mất quyền công dân và bị tống khỏi Liên Xô
Alexandre
Soljenitsyne, Lioudmila Saraskina, traduit du russe par Marilyne
Fellous, éd.
Fayard, 938 p., 39 €.
Tiểu sử
Solz, bản tiếng Nga, in tại Nga, đầy đủ nhất, được dịch qua tiếng Pháp.
Bao giờ thì
có “tiểu sử của GNV”, được Hà Nội chính thức cho in, "không bỏ một
chữ"!
(1)
(1) Gấu chôm của NMG, phát
biểu sau khi tác phẩm SCML của ông được VC cho phép
xb ở trong nước, không bỏ 1 chữ so với bản phu nhân của ông lén lút
mang ra hải
ngoại, và xb sau đó!
Hà, hà!
Note: TV là
trang nhà, GNV có huênh hoang bốc phét, thì kệ cha nó, đừng ghé mắt
coi, rồi lại
chửi, xin nhắn đám đệ tử của Thầy Cuốc như thế nhé!
Cái cú ‘trải
đệm’ là bắt buộc, sau bao ngày đêm suy tư đến… bạc
tóc, vì chỉ có cách đó, may ra mới thay đổi
diện mạo của văn học hải ngoại được.
Viết lách như
kít, chẳng làm sao nhập vô được dòng chính của thiên hạ, rồi cứ áo
thụng vái
nhau, nhà văn nhà thơ nhà phê bình số 1 Mít hải ngoại, rồi theo nhau bò
về trong
nước,
xin xỏ VC kiểm duyệt, cầu cạnh “bạn văn VC” viết cho 1 bài, tổ chức cho
1 buổi
nói chuyện ra mắt sách… Nhục đến như thế mà cũng chịu được… Vậy mà
không chửi ư?
Đâu có cần
phải viết bằng tiếng nước ngoài, nhưng rất cần đọc tụi mũi lõ, nhất là
những tác
giả liên
quan tới Mít, rồi viết, từ kinh nghiệm đọc đó, là có thay đổi.
Ngay
những
ngày đầu ra hải ngoại, bị cú “Lò Thiêu” choảng trúng đầu, GNV đã muối
mặt cầu
thân với “cả một lũ” tên tuổi, nào Ngày Mới,
báo của Mặt Trận Khiến Chán, nào báo Vịt của lũ nhóc con Hậu Vệ, nào
Chợ Cá của
Sến, nữ thủ lãnh Bắc Kít…. đủ nơi, đủ thứ mặt mũi, bị chúng chửi, mà
vẫn “cố đấm
ăn… oản”, sao lại có thể coi GNV phách lối, kiêu ngạo, cho được?
Hiền
đi rồi
lẳng lặng mà đi tầu suốt, mà chuồn, thì… dễ quá!
(1)
Thế
Giới Bốn Thôi
Thế giới
truyện ngắn Võ Phiến
@ NMG's 1998
Cái lầm lẫn
vô cùng lớn của NMG, là ông coi đời thực như đời trong tiểu thuyết.
Nếu không, ông không bệ nguyên con những nhân vật ngoài đời vô
trong tiểu
thuyết của ông.
Khi trả lời vị độc giả/tác giả rất quí cả hai, NMG và GCC (1) Gấu đã chỉ rõ ra điều
này, khi viện dẫn Nabokov (a)
Với ông này, như những người đã từng đọc ông, đời thực
đếch có, hay dùng từ của ông, thực tại nếu có, thì phải để trong
ngoặc kép.
Nhưng đời
chơi lại ông ta 1 cú khá thú vị, như Vargas Llosa chỉ ra:
Nhưng chỉ đến
sau 1958, khi ấn bản ỡ Mẽo ra lò, cùng với cỡ trên chục ấn bản khác,
trên toàn
thế giới, thì cánh bướm của em nhí Lô mới tỏa rộng ôm choàng lên quá cả
con số
những độc giả của cuốn sách. Trong khoảng một thời gian ngắn, cái từ
mới
“Lolita”, vẫn như 1 cánh bướm [hai mới đúng chứ nhỉ], mở ra một khái
niệm mới:
người đàn bà-con nít, được giải phóng mà không cần nhận ra, một biểu
tượng vô
thức của cuộc cách mạng đã xẩy ra trong xã hội đương thời. Tới một
chừng mực
nào đó, thì Lolita chính là cái mốc lịch sử đó, cái cột cây số đó,
milestone,
và là một trong những nguyên nhân của một thời đại dễ dãi, khoan dung
cho cái
bướm, thằng cu, con hĩm, sexual tolerance, thách đố, coi như pha, những
cấm kỵ,
của tầng lớp thanh thiếu niên tại Mẽo, và Tây Âu, và trào lưu này lên
đến đỉnh
cao vào thập niên 1960.
Nàng “nymphet” không ra
đời với nhân vật của Nabokov. Nàng có, hẳn nhiên, chẳng
chút nghi ngờ, ở trong những giấc mơ của những tên “dâm loàn, đồi bại”
[chữ của
TTT, trong Một Chủ Nhật Khác, đúng ra, chữ của bà vợ Trung Uý
Kiệt, chửi...
Cô Hiền, người đàn bà chỉ có thể làm tình nhân, không thể làm vợ], và ở
trong sự
mù lòa và những xao xuyến run rẩy của những cô gái ngây thơ, và sự thay
đổi khí
hậu đang bắt đầu đem đến cho nó sự tin cậy. Nhưng, nhờ cuốn tiểu
thuyết, nó
mang một cái dáng riêng, rũ khỏi sự hiện hữu giấu diếm nóng nẩy, bồn
chồn của
nó, và thâu đoạt chùm chìa khoá của thành phố. Điều lạ thường, là, cuốn
tiểu
thuyết của Nabokov đã gây ra cơn cuồng phong, địa chấn, ồn ào, náo
nhiệt đó, thấm
vào, ảnh hưởng tới, cách cư xử, thái độ, sự nhạy cảm của hàng triệu
triệu con
người, và trở thành một phần của huyền thoại học hiện đại.
Bởi vì thật khó mà tưởng
tượng, một ông nhà văn Nga, lưu vong, chuyên mê bướm
[bướm thiệt nhe], như là Nabokov, một nhà văn trong số những nhà văn
của thế kỷ,
chẳng bao giờ thèm để ý đến những vấn nạn, những giải pháp phổ thông,
đương thời,
lại tạo ra cơn địa chấn đó, một nhà văn đếch thèm để ý đến, ngay cả cái
gọi là
thực tại: thực tại là cái chó gì, như ông ta viết, nếu nó không được
đặt ở
trong mấy cái ngoặc kép.
Vargas Llosa: Lolita
Thirty Years On (1)
Bữa nay, tiếp
tục tưởng nhớ ông chủ chi địa một thời của GCC, mà, nếu không có ông,
có thể
GCC chẳng có dịp tái xuất giang hồ, sống cuộc đời văn học của mình
lần thứ
nhì, TV giới thiệu bài viết của Pamuk, cũng liên quan đến đời thực và
đời giả,
trong cuốn Nhà tiểu thuyết ngây thơ và tình cảm, The Naive
and The Sentimental Novelist.
(a) Sến Cô Nương
cho biết, hai tác giả gối đầu giuờng của cô nương, là Kafka và Nabokov.
Thú thực,
đọc văn Sến, Gấu không thấy 1 tí Kafka, và Nabokov ở trỏng.
Thành thử Gấu mới
nhớ ra trường hợp NMG, và sư phụ của ông, là Dos.
Và Dos, cũng
có 1 thời là… người yêu của Sến, khi cô
nương mới lớn, vừa mới mê đọc.
Quả là những
giai thoại thú vị của cõi văn Mít.
Nhân nói
chuyện giai thoại, ảnh hưởng, gối đầu. GCC mới đọc trên net, một giai
thoại thú
vị, liên quan tới sư phụ của Gấu, trong 1 bài viết về ảnh hưởng của
Faulkner lên một
tác giả được Booker; khi được hỏi, ông này trả lời:
“Tôi rất ngưỡng
mộ Faulkner, và hiển nhiên là có những tương tự giữa hai giọng kể - tuy
nhiên,
tôi có cái bình đựng tro cốt của tôi, còn Faulkner có những xác chết
thối rữa
của ông ta…”
"I admire Faulkner very much, and there are
obvious
similarities between the narrative – although I have my jar of ashes,
Faulkner
has his rotting corpse, and the setting is clearly very different. So
without
my having begun the book – or continued writing it – with that novel
constantly
in my mind, I think there is a little homage at work." (1)
NMG vs LV [lưu vong]
Tôi nghĩ HL
dường như có thành kiến về... cá nhân NMG
Ý kiến nhỏ
Hai Lúa xin
trích lại một đoạn đã viết về NMG, và sau đó, xin hầu chuyện thêm.
Nguyễn Mộng
Giác, ở ngoài đời, là một người rất chí tình với bè bạn. Tôi sở dĩ viết
lại được,
và lại có được tí tên tuổi, là nhờ “bạn ta”, qua tờ Văn Học của ông.
Thời gian giữ
mục Tạp Ghi, tình trạng của tôi rất khó khăn về nhiều mặt, vật chất,
tinh thần,
và sức khoẻ. Khi đó, tôi ở Vancouver, sau một thời gian làm công nhân
cho một
hãng chế biến đồ biển, do suốt ngày ngâm hai chân trong nước lạnh, tôi
bị bịnh
tim, phải nghỉ việc, ăn trợ cấp xã hội, và... viết
tạp ghi cho VH. Căn hộ tôi mướn, thuộc một
building đa số là dân
nghiền, hở một chút là mất cắp, hộp thư chung của building, không hiểu
làm sao,
bọn đó mở được, và chôm hết thư từ, ngân phiếu..
Ngân phiếu,
money order, của ông Giác gửi cho tôi, một lần lọt vào tay chúng, cho
dù tôi
thường xuyên ở nhà, mỗi ngày mỗi đợi nhân viên bưu điện ghé building,
ông ta vừa
đi là bèn mở hòm thư riêng trước khi kẻ cắp họp chợ.
Lần đó, NMG
đã phải gửi một ngân phiếu thứ nhì.
Tức là trả
tiền bài viết tới hai lần.
Thư gửi
bạn
ta
Ông bạn quí
của Gấu chắc là không biết cái chuyện NMG trả tiền nhuận bút,
và có thể, ông cho rằng Gấu viết chùa cho VH,
cùng
lúc viết chùa cho Văn, bèn ra
lệnh, mi không được viết cho VH của
NMG, mà chỉ
được viết cho Văn thôi.
Chả là, VH,
"nhờ Gấu viết", lên quá, đến nỗi NMG phải xoa đầu Gấu khen, ông kéo
không biết bao nhiêu là độc giả cho VH, và bi giờ tôi đếch cần phải năn
nỉ mấy
thằng tài phiệt xin chúng đăng quảng cáo trên VH nữa.
Còn bà xã của
ông thì phán, anh phải viết thế nào thì nhà tôi mới trả tiền chứ!
Tks all of U
- I mean VH's clan-
And take
care
NQT
Sự thực lúc đó,
Gấu, không có tiền, là không thể viết được, còn mấy đấng bạn, như Trúc
Chi, Tạ
Chí Đại Trường, Thạch Hãn... họ đâu cần đến tí tiền nhuận bút, và coi
tờ VH như
là 1 góc trời chỉ biết rong chơi của họ.
V/v "Gấu
viết VH, báo lên quá". Một lần NMG phôn viễn liên cho Gấu, mừng rỡ
thông
báo, và kể mấy cas "feedback" rất thú vị, Gấu kể ra rồi, đâu đó trên
TV. Ông còn gửi cho Gấu những bức thư feedback nữa, nhưng mấy “bạn
ghiền” của
GCC, ở building trên, xé thư lục tiền, ngân phiếu, dục bỏ hết cả.
Tiếc thật
"Nhà
văn nào nổi bật nhờ sự khác biệt của chế độ chính trị thì thường không
bền...".
Nguyễn Mộng
Giác
[trích bài
viết "Tản mạn", của Nguyễn Khắc Phê, trên talawas]
Bền, chịu được
sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian, theo một nghĩa nào đó, có nghĩa
là trở
thành cổ điển.
Nhưng thế
nào là đương thời, thế nào là cổ điển?
-Là một nhà
văn đương thời, có nghĩa là, sẽ có hai nhà phê bình, nếu ngồi cùng bàn,
một
khen hết lời, một chê chẳng kém, cuốn sách bạn vừa mới xuất bản, trong
khi cả
hai đều mê Truyện Kiều của Nguyễn Du, hay gần hơn, tuỳ bút
Nguyễn Tuân.
Tôi không
dám nghĩ tới trường hợp, cả hai ông đều chửi um lên!]
- Cổ điển,
có nghĩa là sống sót được cả hai thằng cha phê bình đó!
Ý trên, mô
phỏng Virginia Woolf, trong How it
strikes a contemporary. Riêng về cụm từ
"chê chẳng kém", bà nữ sĩ Anh này cay độc hơn nhiều: cái thứ đó chỉ
đáng giấy chùi đít (waste paper), và nếu lửa đốt không cháy, thì phải
dí vào tận
đáy lò.
Ý dưới, từ Coetzee,
trong What is a Classic?
Nhà văn Nam
Phi này nhắc tới một bài diễn thuyết cùng tên, của T.S. Elliot, vào
tháng Mười
1944, tại London, khi Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại đất liền
(Âu Châu).
Về cuộc chiến, ông chỉ nhắc tới, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng chỉ
là tai nạn
của hiện tại (accidents of the present time), một cái hắt hơi, xỉ mũi,
đối với
cuộc sống của Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo cho bài
nói
chuyện.
"Nhà là
nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts from], "Trong cái bắt
đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning is my end], nhà thơ
[Eliot]
cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải trở lại với nhà thơ
lớn lao
nhất, "cổ điển của chính thời đại của chúng ta" (the great poet of
the classic of our own times), tức nhà thơ Ba Lan, Zbigniew Herbert.
Với Herbert,
đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ. Với nhà thơ Ba
Lan, viết
từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng quần thảo với những láng
giềng man rợ,
không phải cứ có được một vài tính cách quí báu nào đó, là làm cho cổ
điển sống
sót man rợ.
Nhưng đúng
hơn là như thế này: Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ nghĩa
man rợ,
và cứ thế sống sót, đời này qua đời khác, bởi những con người nhất
quyết không
chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất, (at
all
costs), cái mà con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển.
Như vậy, với
chúng ta, cuộc chiến vừa qua, cũng chỉ là một cái hắt hơi của lịch sử.
Không phải
viết từ những đối nghịch chính trị, như một hậu quả của cuộc chiến đó,
mà trở
nên bền. Muốn bền, là phải lần tìm cho được, cái gọi là nhà, liệu có
đúng như
Eliot nói đó không: Nhà là nơi một người bắt đầu.
Hay nhà là
nơi cứ thế sống sót những xấu xa của chủ nghĩa Man Rợ, đời này qua đời
khác, bởi
những con người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt
lấy, với
bất cứ mọi tổn thất...
Câu trên,
Nhà là nơi một người bắt đầu, có vẻ như áp dụng cho một nhà văn Việt
nam ở hải
ngoại.
Câu dưới, có
vẻ như dành cho nhà văn trong nước.
|
|