|
@ NMG's
Note: Mấy bài
về Coetzee thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của con người, là, khi nó
nghĩ nó bảnh
hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án, Kafka cho
K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K nhìn hai ông cớm VC [l'accusé
regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi dao vô tim, như thể nỗi tủi
hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ
"Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie
d'un jeune garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự
thuật, Coeztee đã nhận ra, tủi hổ là vấn đề trung tâm, la question
centrale, của
Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có thể làm cho nó sống động.
Chỉ 1 khi lũ
Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền
Nam, và đẩy
xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng.
Hà, hà!
Bài trả lời
phỏng vấn của 1/10 tiếng nói lớn của văn chương ngoại [so với Tẩy],
Mario
Vargas Llosa, một bậc thầy kể chuyện, về cuốn mới nhất của ông, với
nhân vật có
thực ở ngoài đời, là Casement, cũng tuyệt. TV
sẽ đi mấy đường này, cũng là 1 cách tưởng
niệm ông chủ chi địa một thời của GCC, là nhà văn NMG, và “nhân vật”
của ông, là
Nguyễn Huệ.
Trong cách
viết, trong cái nhìn, của “một vài tên” Bắc Kít di cư 1954, sau chạy
thoát ra hải
ngoại, về trong nước, có cái sự "tủi hổ" khốn kiếp này.
Ngồi ở Quận
Cam, nhấp ngụm Starbuck, và viết, ở Sài Gòn có người chết đói, ngay bên
hông chợ
Bến Thành!
Hay viết về
Cái Đại Ác VC, huỷ bia tưởng niệm thuyền nhân ở những trại tị nạn Đông
Nam Á, bằng
1 cái tít, chôm của Ông Số 1, mà Ông Số 2 chịu ơn:
Nguyễn Mộng Giác đã giúp
tôi trở về với
chuyện thơ và tiếng Việt. Sau khi tập
sách in rồi, tôi còn đăng mấy bài khác cũng Nói Chuyện Thơ trên tạp chí
Văn Học;
đó là những bài tôi thích nhất, nhờ chúng mà tôi có dịp gặp lại, trò
chuyện với
Thanh Tâm Tuyền để chia nhau những cảm xúc thi ca. Tôi sẽ còn nợ Nguyễn
Mộng
Giác và Thanh Tâm Tuyền, sẽ phải san nhuận lại để in tập Tìm Thơ Trong
Tiếng
Nói để tưởng nhớ hai anh lần nữa. (1)
Chính là do
không chịu nổi đám này mà TTT bỏ Cali. Ông có nói với GCC qua điện
thoại, và tỏ
ra rất ân hận, vì cầm hai ngàn đồng tiền nhuận bút tập Thơ Ở Đâu Xa, của tay Trầm
Phục Khắc, và, nhờ số tiền đó, mà có chuyến đi.
Tao đâu có
biết thơ ở hải ngoại đếch có ai đọc!
V/v sự khôn
ngoan của Ông Số 2.
Có lần, GCC được hầu chuyện 1 ông Cựu Chủ Bút, hay Cựu Tổng Biên Tập
cái con mẹ
gì của tờ Người Vịt. Anh ta cho biết, Bác Tê, sau bao lần
chỉnh lý, đảo
chánh... ở băng Cờ Lăng, và ở tờ Người Vịt, "bèn" không đứt 1 sợi lông
chân, và nay
trở thành Thái Thượng Hoàng!
Kể cũng hơi
bị lạ, khi hai vì “ơn nhơn” còn sống nhăn răng, không thấy Ông Số 2
“kám ơn”,
bi giờ, chắc là tính đi 1 đường tái bản kiệt tác Tìm Thơ
Trong Tiếng Nói, bèn đi 1 đường Pê E [PR], bằng cách "kám ơn"
những kẻ không may chết trước Người chăng?
Tởm thật!
GCC chưa từng đọc kiệt tác
Tìm Thơ Trong Tiếng Nói
của Ông Số 2, nhưng cái tít
thì nghe thật quen, vì có nhiều người sử dụng rồi, thí dụ Paroles của Prévert,
hay Tiếng Nói Một Người, bài
tựa của TTT cho tập thơ của Trần Lê Nguyễn.
Vả chăng,
có thứ thơ tự nhiên như lời nói, cái thứ thơ mà Henri Lefebvre, một
triết gia Tẩy
đã từng nói tới, theo nghĩa, thơ là bề mặt của cuộc sống, bề mặt [lại]
theo nghĩa, những
thắc mắc, băn khoăn siêu hình, phải nhoi lên đó để mà thở. Ngay từ
trước 1975,
GCC đã từng viện hình ảnh trên, để viết về 1 đấng nhà thơ nào đó, nay
cũng chẳng còn
nhớ.
Có ghê gớm
chi đâu.
Nếu có, thì là lòng biết
ơn trời biển của Ông Số 2 đối với đại ân nhân
đã chết rồi của ông ta:
Nguyễn Mộng
Giác đã giúp tôi trở về với chuyện thơ và tiếng Việt
Chúng ta cứ
giả như đếch có NMG, thì Ông Số 2 thành
cái giống gì, mũi lõ hay mũi tẹt, nói cái thứ tiếng gì?
Trong bài The
Telling of the Tale, trong tập This Craft of Verse,
Jorge Luis Borges cho rằng,
người xưa, khi nói tới thi sĩ, thì không phải là 1 người nhả ngọc phun
châu,
the utterer of those high lyric notes, nhưng còn như là 1 người kể 1
câu chuyện,
the teller of a tale. Một câu chuyện mà ở trong đó tất cả những tiếng
nói của
nhân loại có thể tìm được – không chỉ có tiếng nói trữ tình, the lyric,
ước muốn,
khao khát, the wistful, buồn rầu, the melancholy, nhưng còn những tiếng
nói của
can đảm, của hy vọng. Và ông tiếp, ông đang nói về cái thể cổ nhất the
oldest
form, của thi ca: sử thi, the epic.
Vẫn Borges:
Và có lẽ người đầu tiên chúng ta nghĩ tới, thì là Andrew Lang, người đã
dịch
tuyệt vời Câu chuyện thành Troy, The Tale
of Troy. Và ngay ở dòng rất đầu, in the very first line, chúng ta
có 1 điều
gì như là: “Tell me, muse, of the anger of Achilles”, hay ngắn gọn hơn,
một người giận dữ, đó là đề tài của tôi,
“An angry man –
that is my subject”, theo cách dịch của Professor Rouse.
Mít chúng
ta, cũng có “câu chuyện thành Sài Gòn”, nhưng thiếu 1 sử thi cho cả 1
miền đất.
Chúng ta không có sự giận dữ, mà chỉ có những lời chửi rủa, hận thù.
Và tất nhiên,
chúng ta có thi sĩ, nhiều lắm, trong có Ông Số 2, thí dụ, quảng cáo cho
tập thơ
sắp tái bản, bằng cái sự biết ơn hai người ơn đã chết của ông.
Hà, hà!
Trước 1975,
Ông Số 2 hoạt động hăng lắm, nào đọc thơ cho đồng bào tôi, cho lính
VNCH nghe,
nào làm show, bàn tròn văn học trên Đài Số 9, nào CPS, nào tham dự Đêm
Thơ Phản Chiến....
Gấu, mê Cô Ba, chẳng thèm
để ý.
Cũng chưa từng coi ông đóng trò hề, chỉ có 1 lần ngồi Quán Chùa nghe 1
ông bạn quí nói, tối
hôm qua, có nghe ông số 2 nói về “Bà” Maria Remarque!
Lần đầu tiên
Gấu đọc ông, là khi đã ra được hải ngoại, 1 bài viết trên tờ Thế Kỷ 21,
ông cho
biết, Sài Gòn có người chết đói, ở ngang hông Chợ Bến Thành!
Hilary
Mantel: how I came to write Wolf Hall.
Như thế
nào
tôi viết WH.
'It wasn't
that I wanted to rehabilitate him. I do not run a Priory clinic for the
dead'
“Tôi đâu có
tính “phục hồi nhân phẩm” ông ta. Tôi đâu có điều hành một bịnh viện
Priory dành
cho người chết”
Nếu không nhờ
có Nguyễn Mộng Giác thì chắc tôi chẳng bao giờ viết xong tập Tìm Thơ Trong Tiếng Nói. Đó là vào đầu
thập niên 1980, tôi đang ở Montréal, với không khí sinh hoạt nghệ
thuật, trí thức
khích động trong tinh thần cởi mở nhất, một thành phố đẹp và đáng yêu
nhất,
theo kinh nghiệm tôi sống 37 năm ở Bắc Mỹ. Nhưng tôi sống và làm
việc, kết bạn
phần lớn với những người không nói tiếng Việt Nam.
Source
Cuốn NMG và
bạn bè, PPM ra cóp xe lấy cho GCC, mang về, ông chủ nhà, lật ra
đọc vài
dòng, phán, Ông Số 2 này viết về ai thì cũng là về Ông Số 2.
Quả thế thực.
Tưởng nhớ ơn, quý mến NMG ra sao, hóa là nhờ NMG mà viết xong tác phẩm,
không
phải của NMG, tất nhiên, mà của Ông Số 2!
Nhưng có lẽ, không chỉ Ông
Số 2 tưởng nhớ, biết ơn NMG, mà toàn thể lũ Mít hải
ngoại mới đúng, vì nếu không có NMG thúc vào đít Ông Số 2, thì hải
ngoại làm
sao được thưởng thức kiệt tác Tìm
Thơ Trong Tiếng
Nói?
Đểu giả nhất,
là dòng chót khép lại đoạn mở ra ai điếu bạn văn: Nhưng tôi sống và làm
việc, kết
bạn phần lớn với những người không nói tiếng Việt Nam.
Nào những
LH, HDN, ST, Vua viết ”Phén”, võ công Ba Tư, Càn Khôn Đại Nã Di gì gì
đó, như Du Tử Táo
thổi,. ...
đọc, nghĩ sao?
Brodsky coi
ai điếu là thuốc thử đạo hạnh của lũ viết văn - đa số - trước thiểu số,
là kẻ
không may chết trước họ, nhưng ông quên, nó còn là thuốc thử chính cái
gọi
là tình
bạn giữa những kẻ còn đang sống sờ sờ!
Rắn độc
cắn phải lưỡi, độc giả tự hỏi, cái thứ tiếng nói, mà ông số 2 này tìm
ở trong
thơ, là tiếng gì?
Tiếng của lũ
mũi lõ, không nói tiếng Mít, bạn của ông số 2, hẳn thế?
Với một bài thơ tầm
thường, chúng ta
có thể sẵn sàng mang ra để bình luận hay giải thích. Nhưng nếu là một
bài thơ
hay, không cách gì chúng ta có thể bình luận được. Bởi vì những bài thơ
hay là
những bài thơ vượt ra ngoài ngôn ngữ thông thường. Nếu chúng ta dùng
ngôn ngữ
thông thường để nói, tức thị chúng ta đã làm hỏng bài thơ đó.
Source
Với 1 bài thơ
tầm thường thì chúng ta vứt vô sọt rác chứ sao lại sẵn sàng mang ra để
bình luận
hay giải thích?
Với một bài
thơ hay, không cách gì chúng ta có thể bình luận được.
Thật vậy ư?
Nếu thế làm sao biết nó hay?
Quan niệm ấu
trĩ, “mưa rơi không cần phiên dịch”, thơ hay đếch cần bình luận, "Xưa
quá rồi, Ông… Diễm ơi"! [Sẽ lèm bèm về cú
phán nhảm của "Năm Bờ Two"
sau].
Đấy là một bài thơ mà tôi
rất cảm động.
Ý thơ rất đẹp, lập trường tốt nữa. Nhưng nếu bảo bài thơ đó tuyệt diệu
hay
không thì tôi thành thật nói rằng nó cũng không có gì là tuyệt diệu
lắm. Đó là
một bài thơ bình thường. Ai cũng có thể làm được. Tôi nghĩ cái đó không
khó.
Source
Thơ mà…. lập
trường tốt?
Có… thép ở
trong đó không? Có xúi Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước không?
Khen cũng đểu:
Đó là một bài thơ bình
thường. Ai
cũng có thể làm được. Tôi nghĩ cái đó không khó.
Sao Ông Số 2
không làm 1 bài "bình thường, ai cũng có thể làm được" như bài của DTL?
Bắc Kít có
ba bồ, đểu, độc, và tên nào cũng tưởng mình là bố thiên hạ, Ông số 2
chiếm cả 3.
Hết!
Từ “hết” cực
bảnh này, Gấu chôm của thầy Kuốc!
Tác phẩm đầu
tiên của Dos mà GCC “tấn công”, là Tội
Ác và Hình Phạt, lý do là, biết đến nó, đầu
tiên, qua hình ảnh của Thanh/Sonia trong Bếp Lửa, của TTT.
Đọc Tội Ác
song song với những La Nausée, Le
Mur, Kẻ Xa Lạ, trong những quán Tầu đặc biệt
của Sài Gòn hồi mới lớn, sau 1954, của Gấu. Đọc một mình, với 1 ly hồng
xà, ngồi
suốt buổi, chẳng ai làm phiền, chủ quán có khi còn thú vị, giống như 1
cái "đề
co" của quán!
Và sau này, đọc
trong khi chờ BHD.
Trong số
báo
ML Tháng 10, 2012, Điều mà văn
chương biết về khùng điên, có 1 bài về Dos, đúng
hơn về Anh Khờ, thần sầu: Anh
Khùng, ở đỉnh cao chói lọi của chứng thần kinh phân
liệt Nga, "L’Idiot, au plus haut de
la schizophrénie russe". Trong bài viết có 1
câu phán thần sầu về văn học Nga: Nhà thơ Nga Alexandre Blok
(1880-1921) phán,
một cái “note” khùng [….] chạy suốt văn chương Nga thế kỷ 19, và sau
cùng trở
thành gay gắt, tả tơi, [bởi là vì] qua nó, nhà văn diễn tả nỗi sợ hãi
cơn điên
khùng của chính anh ta/chị ả và của thế giới. Pouchkine, Lermotov,
Gogol,
Tourgueniev, Gontcharov, Tolstoi, Garchine, Tchekhov, Andreiev,
Lesskov,
Boulgakov,
Nguyễn Khải by TDA
“Mọi phê bình
phải được đi trước bằng một phê bình tôn giáo”, “Toute critique doit
être précédée
d’une critique de la religion”. Marx phán [trong Crit. de la Phil. Du
Droit de
Hegel, Henri Lefebvre trích dẫn trong Duy vật biện chứng, Le
Matérialisme dialectique, tr. 53].
Câu trên có
thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Khải.
Ðọc NK là phải đọc trong
cái tinh thần đó,
đúng như ý của ông, trong 1 bài viết có tính tự kiểm, (1) không có
Ðảng là
tôi đã
trở thành 1 vị linh mục, khi ông nhớ lại một lần tà tà đi mua thuốc lá
tại một
cái quầy chắc là gần Nhà Chung Hà Nội, và vị chủ quán đã lầm ông với 1
vị linh
mục.
Hai cú đánh khủng khiếp trong đời NK, là đánh vào mật khu Ky Tô ở đất
Bắc
là Phát Diệm, và những tác phẩm viết về nó, khi ông được Ðảng tin cậy
vì đã chọn
Ðảng, thay vì Nhà Thờ, những ngày sau 1954, sau khi một nửa đất nước
thuộc VC.
Cú thứ nhì là sau 30 Tháng Tư, đánh vào mật khu Cao Ðài, Tây Ninh.
Nên nhớ, lại
nên nhớ, gốc gác của NK, là con quan, thuộc dòng thứ, và suốt đời ông
bị mặc cảm
bị bố bỏ rơi, nên đành chọn Ðảng. Ðó là cái thế 3 ngôi trong đời ông:
Bố Bắc Kít,
Ðảng VC, và Chúa Ky Tô [theo trật tự đại khái!]
(1)
Tôi cô độc bẩm
sinh. Nếu không có cách mạng, chắc tôi là tu sĩ. Một lần tôi đến tìm
ông cha
tìm hiểu về Vatican 2 để viết sách tôn giáo. Trong lúc chờ, tôi ra mua
thuốc
lá. Người bán thuốc nhìn tôi hỏi: "Cha mua loại nào? Con biếu cha bao
diêm". Chắc mặt tôi giống linh mục.
[NK trả lời
phỏng vấn, NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI thực hiện, Tuổi
Trẻ online]
Bây giờ chúng
ta có thể hình dung ra được, đi tìm cái tôi đã mất của NK, là đi tìm
một "cái tôi
thần học", qua hình dáng nhập thế của 1 vì linh mục. Hai cú đánh vô tôn
giáo của
NK, là hai cú thất bại, có thể cuối đời ông ngộ ra điều này. Ông bị ông
Bố Bắc
Kít bỏ vô Nam, Chúa bỏ vô Nam, và đành chọn Ðảng. Nhưng Ðảng cũng chỉ
coi ông
là 1 thứ
con rơi, con hoang, không thuộc giai cấp bần cố nông [đọc những gì ông
cà khịa với đám nhà văn được Ðảng tin cậy,
thuộc loại
nồng cốt, chúng viết như kít, có đứa nào bằng tôi đâu!]. Ðó là bi kịch
của nhà
văn NK.
Ông chưa từng
viết về con người, mà là về “một thứ con người” nào đó, “một thứ nhân
danh con
người” nào đó.
NK làm Gấu
nhớ tới Graham Greene, nhất là, câu phán nổi tiếng của ông, nhớ đại
khái: Suốt
đời tôi đi tìm một đấng Thượng Ðế để cho Con Quỉ ở trong tôi uýnh lộn
với ông
ta!
Ðây cũng là
bi kịch của NK, nhưng ở tầm mức thấp hơn, một phần có thể là do mặc cảm
bị bỏ
rơi của NK mà ra. Greene thanh thản hơn, theo nghĩa, bi kịch của ông là
của
chung con người.
Văn của NK độc. Và rất
giống văn VP. Ðiều này do NMG nhận ra, không
phải Gấu.
Ông còn cho biết, hai đấng rất quí tài, và độc, của nhau. Ðiều này thì
NMG,
trong 1 lần đi tour văn học ở trong nước, có tuyên bố.
Nhân vật của
NK hình như không có 1 tay nào lâm vào đường tự tìm cái chết như của
Greene.
Cũng không
phải tự nhiên mà NK viết về PXA, qua nhân vật Quân, trong Thời gian của người.
Tuy nhiên
cái chết ngắc ngoải, không làm sao đi được của PXA ở ngoài đời, NK
không làm sao
tiên tri ra được!
Gấu đã từng
có vinh dự được “nhìn thấy” nhà văn Nguyễn Khải, thời gian lui tới nhà
xb Văn Học,
bộ phận phía Nam, khi nhà này tính tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc bản
dịch của NQT
trước 1975.
Tạ Duy Anh, người dám “bước qua
lời nguyền” viết về Nguyễn Khải:
Nguyễn Khải, một người được
theo nghiệp đèn sách từ bé, không thể
không biết thực tế đó. Bài học về Cải cách ruộng đất, về nhóm Nhân Văn
Giai
Phẩm… buộc ông phải nhớ lại lịch sử. Và vì thế, giống như số đông những
người
được coi là trí thức cùng thời ông ở đất nước này (chỉ tính riêng miền
Bắc, vì
trí thức miền Nam có một số phận riêng), ông đã tìm thấy lý do vô cùng
chính
đáng để vờ quên bản thân mình, đó là lý tưởng vì tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội.
Lý tưởng đó không hề xấu và không hề ít tính chất thiêng liêng, nếu
người tin
theo nó thật lòng. Nó chỉ đáng trách với những kẻ vờ vịt. Mà những kẻ
đó phần
lớn lại rơi vào thành phần trí thức. Bi kịch mang màu sắc hài kịch của
trí thức
Việt (tất nhiên không tính bọn giả danh trí thức), từ cổ chí kim, chính
là luôn
phải vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không phải vậy, nhưng lại cứ
phải làm ra
rằng mình hiểu nó như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung
tận tụy,
vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ
thán
phục, vờ yêu… và những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ
chỗ
nào, làm bao nhiêu cũng không sao ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ
không hề
vờ, ấy là sự khinh ghét, thì phải nén lại, giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ
biết là
tàn đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công thì nhiều như ruồi, ngay
trong
giới trí thức); phải luôn tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu, quên
đi được
thì càng phúc. Còn sống là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa đời, nếu
còn
lòng tự trọng, còn thấy hổ thẹn thì viết nó ra để thanh minh và sám hối.
TDA
Ðọc như thế
là chưa nhìn ra thế 3 ngôi [Bố Bắc Kít, Ðảng VC, Chúa Ky Tô], ở Nguyễn
Khải,
và, “có một liên hệ tam giác giữa nhà văn
Nga, độc giả
của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện
vào
nhau, trong một sự đồng lõa quyết định”, như Steiner viết, trong
UNDER EASTERN EYES:
Lịch
sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao
hiểu được,
hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì
hèn hạ -
nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái
gì độc
nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển
dịch
vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là,
Nga là một
xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể
có 1 xứ
nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi
Người trở lại
với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa
thế tục
thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC
Trần Bạch
Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá
của CS về
một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý
tuyệt đối
cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp.
Một cảm
quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính
Nga, với
thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một
liên hệ
tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu
đâu cũng
có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết
định. Lần đầu
tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô,
đâu đó
sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái
sự sống
sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan
nào thực
sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng
câm nín
đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế
vi. Dùng
cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế,
tếu thế! Họ
không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt
xoa, ui
chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban
cho, được
một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý
rằng, chỉ
cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan
Bạo Chúa
là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo
của số mệnh,
Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng
tư, cá
nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp
ứng bằng 1
thái độ sẵn sàng, dễ dãi.
Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư
bực mình
của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và
rất ư là
chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng
một thái
độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ
phía bên
trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên
tri. Nhà
thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ
cảnh sát
truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên
hệ có
tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm.
Cái sự
kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút
lẫn nhau
giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát,
để mà xác
định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với
sự ngây
thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại
nhất
giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả
cái chết,
nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu
trầm,
may lắm thì mới có được sự sống sót.
Với
đám cầm bút Bắc Kít, vấn nạn nghiêm trọng hơn nhiều.
Hơn cả “Dưới cái nhìn Ðông Phương” của Steiner!
Ðằng sau tất cả những cay đắng nhục nhã như thế, là giấc mộng
thống nhất đất
nước.
Cơn mộng đời dẫn tôi tìm lại
Koestler, qua bản dịch tiếng Pháp, những
ngày học Chu Văn An, khi nhà trường còn nằm phía sau trường Pétrus Ký,
miếng đất
sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Đọc và gần như thuộc lòng một số câu
văn, để
trau giồi ngoại ngữ, thâu thập tri thức, tập tành suy tưởng. Rồi dần dà
theo tuổi
học, tuổi đời, tôi lần tới những câu của Camus, con người nổi loạn,
những khẩu
hiệu làm rung động loài người (Bí mật của Vô sản là cái chết của Tư
bản, thí dụ
vậy), những trang nhật ký của Roquentin...
Cùng với những cuộc phiêu lưu
của những tác phẩm lớn ở trong tôi,
Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn.
Thành
phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St.
Petersbourg thời
Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc
bàn tại một
tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến
đổi thế
giới, làm lại loài người.
Hay một London của Dickens, một
buổi chiều đầy sương mù, chú bé
Oliver Twist đói lả người, như tôi, một ngày trong chuỗi ngày cắp sách
đến trường,
đêm đêm làm bồi bàn, thời người Mỹ chưa đổ quân ào ạt vào Việt Nam.
Thành phố
chưa có xa lộ, chưa có cầu Sài-gòn. Và tiệm chả cá Thăng-Long nơi tôi
tối tối
bưng xoong mỡ sôi đổ lên dĩa chả cá, nghe tiếng mỡ kêu xèo xèo, chưa
biến thành
nhà hàng Kontiki ở ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng, nơi dành riêng cho
đám quân
nhân Hoa Kỳ.
Ngày mai trời sẽ mưa trên thành
phố Bouville
Demain il pleuvra sur Bouville
(Sartre, La Nausée)
Ôi Sài-gòn, một Sài-gòn hư
tưởng, một Bouville, một London, của
riêng tôi đó!
Lần
Cuối Sài Gòn
Như vậy là
anh cu Gấu đọc Tội Ác, ở Sài
Gòn, trong khi chờ BHD!
Dostoievski
L’Idiot
Le prince
Muichkine arrive à Saint-Pétersbourg. Idiot de naissance parce
qu'incapable
d'agir, il est infiniment bon. Projeté dans un monde cupide, arriviste
et
passionnel, il l'illumine de son regard. Par sa générosité, tel le
Christ, Léon
Nicolaievitch revelera le meilleur enfoui en chacun.
Dostoievski
voulait représenter l' homme positivement bon. Mais que peut-il face
aux vices de la
société, face à la passion?
Récit
admirablement composé, riche en rebondissements
extraordinaires, L'Idiot est à l'image de
la Sainte Russie, vibrant et demesuré.
Manifeste politique et credo de l'auteur,
son ceuvre a été et restera un livre phare, car
son héros est l'homme tendu vers le bien mais
harcelé par le mal.
Nhân ghé tiệm,
“tiện tay” GCC cầm cuốn này về, vì chưa có, vả cũng muốn tụng lại Dos,
để giải ra "nan
đề" NMG chọn thầy là Dos, cũng còn là Thầy của Sến.
Với Sến thì em nói thẳng, mới
tuổi teen là đã mê bộ râu thật là rậm, của Dos.
Còn NMG, chắc chắc không mê râu Dos rồi, nhưng ông cũng không cho biết
mê Dos, tại
sao,và mê cuốn nào, Tội Ác,
hay Chàng Ngốc, hay Lũ Người Quỉ Ám, hay
Anh em nhà
Karamazov?
Đây cũng
là
câu hỏi của ông, để lại cho lũ chúng ta, những bằng hữu của ông.
Bản PPM đưa
Gấu.
Đọc, thì thấy
chẳng ai nhắc tới Gấu cả - theo nghĩa, Gấu đã từng cộng tác với tờ Văn Học hai
năm trời, khiến tờ báo, theo như lời của NMG trong 1 bài “ê đi tô”, báo
cáo với
độc giả, Văn Học đếch thèm xin lũ có tiền đăng quảng cáo nữa, và khi
Gấu xin
thôi việc, thì 1 vị độc giả và còn là 1 nhà văn, viết mail riêng cho
Gấu, phán,
như vậy là tờ VH bị thiến mất một nửa!
Nhưng đọc
cái đoạn NMG viết về mình sau đây, thì Gấu lại nhớ đến 1 số báo Tây
tưởng niệm
Camus, trong đó cho biết, sở dĩ cuốn Kẻ Xa
Lạ đứng đầu thiên hạ, trong giới học sinh, sinh viên thế giới,
chỉ là vì nó mỏng
quá, và viết bằng 1 thứ tiếng Tây "ai cũng đọc được".
Và Gấu lại
nghĩ đến Gấu, khi đánh vật với nó, thay vì đọc, và mê... Dos, những
ngày mới lớn!
Nhớ cả “giai
thoại”, 1 vị phê bình Tẩy mừng cho dân Tẩy, được đọc Dos qua tiếng Tẩy,
bởi vì
nguyên tác khủng hơn nhiều!
Đọc bài Ông
Số 2 thì ông chỉ viết về ... Ông Số 2!
Quả là thuốc thử đạo hạnh của lũ cầm bút, cái trò ai điếu, tưởng niệm,
đúng như
Brodsky
phán!
NMG nổi tiếng
vì viết văn 1 lần là chung quyết, không cần sửa. Nhưng câu văn trên,
cần phải sửa
theo Gấu.
Sau 1954 tiếp
tục việc học [không phải đi học,
vì ông đã đi học ở các trường
trong vùng quốc gia bao giờ đâu], tôi gặp trở ngại về ngoại ngữ, trình
độ yếu
hơn so
với lớp mình theo học. Nhưng có thể nhờ yếu nên phải cố, để bắt kịp…
Câu văn trên,
sự thực Gấu không phải là người đọc ra, mà là ông bạn vong niên NDB.
Bạn “Bạn” đọc,
và phán, ông nhà văn kiêm nhà giáo này làm như chỉ có 1 mình ông ta
học… ngoại
ngữ!
Và sau đó, ông
kể học tiếng Tẩy như thế nào.
Y chang GCC.
Cũng học tại
trường, tại lớp, và học… thêm, tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp, và cũng bệ
bộ "Classes de Francais" của Phạm Tất Đắc, ông cụ thân sinh
BHD. Ông, do ít tuổi hơn, học sau GCC vài năm.
Gấu hơn ông, chỉ ở
cái khoản, ngoài bộ sách học tiếng Tẩy, còn bệ thêm ái nữ của Thầy, về
tụng!
Nhận xét về
bài viết của Ông Số 2 cũng không phải của Gấu, mà của ông bạn "Bạn".
Lại nói chuyện
tiếng Tẩy. Trong bữa tiệc rượu đêm chót, sáng hôm sau rời Cali, giữa
GCC và ông
bạn mới quen Trần Minh khố chuối, NDB và NDT, cũng xổ toàn tiếng Tây:
Lý do là
ông bạn TM này, công tử Bạc Liêu, được gia đình cho đi Tây học, chẳng
học gì,
ngoài học nhảy đầm, và quá khứ Paris chỉ còn tí tiếng Tẩy. Thế là ông
xổ ra, rồi
tới NDB đáp lại, rồi tới GCC, tới NDT!
DC sau khi về nhà gọi phôn NDT, cám ơn, và nhắn, xin lỗi giùm hai ông
NDB
& GCC, vì không tham gia những bữa rượu được.
Nhưng kỷ niệm về rượu lần này, “bèn” bù vô, bằng sự xuất hiện của “Sad
Seagull”,
và nhà thơ trong nước VCC!
TM
mang chai Remy tới, chê Cordon Bleu - cũng
nòi Martin - thua xa Remy!
GCC gặp NDB
đúng lần Nguyễn Tôn Nhan qua Mẽo, 2008, tới bây giờ, 2012, mới tái ngộ,
dù GCC
qua Cali sau đó cũng vài lần, vì chàng bận làm ăn ở xa, ở nơi quê
hương
nghìn trùng xa cách. Có lần, từ quê hương nhắn NDT, nói ông ta
qua đi, nếu
kẹt, tôi sẽ gửi giấy máy bay cho, nhân tiện tôi mua giấy về lại Cali!
Ui chao, giấc
mơ “giấy máy bay” quả trở thành hiện thực, nhưng tuyệt vời hơn nhiều,
như 1 phép
lạ!
Giả như phép
lạ xẩy ra, tớ lại về Nga sống, và chỉ còn trần có một thứ tiếng để mà
lảm nhảm,
thì cũng chán lắm đấy!
[Were a
miracle to occur and I were to return to Russia permanently, I would be
extremely nervous at not having the option of using more than one
language.]
Tolstaya,
trong bài tưởng niệm Brodsky, viết, Nga là một
xứ sở đáo để, càng rẫy ra, nó
càng bám chặt. Riêng về trường hợp Brodsky, bởi vì ông không thể đến
với nước
Nga, nước Nga đành đến với ông.
Tương tự, bởi
vì Vi Xi không cho nước Việt đến với các bạn ta, cho nên các bạn ta
đành về với
... Vi Xi vậy! (1)
Xẻ dọc Trường
Sơn đi cướp nước!
Lời nguyền của chữ S giáng lên dân Mít:
The Revenge of Geography: Sự trả thù của Địa lý
hay là:
Ma Hời đòi mạng!
Maps &
Massacres: Can geography explain history?
Trên tờ Người
Nữu Ước số mới, Oct 28 & Nov 5, 2012, có 1 bài, của Adam
Gopnik, “Những tấm
bản đồ và Những cuộc tàn sát”: Liệu địa lý giải thích lịch sử? Sự tái
sinh của lịch
sử địa lý.
Bài viết gãi
đúng chỗ ngứa của Gấu, đang loay hoay hì hục viết về Sông Côn Mùa Lũ & Mùa
Biển Động & Nguyễn Huệ & NMG & NHT & Bình Định!
TV sẽ giới
thiệu, cùng với 1 số bài viết về tiểu thuyết lịch sử, qua hiện tượng
nóng hổi Man Booker, bài
của Susan Sontag về Kis và vùng đất Đông Âu & Blood-lands….
Điều gì tiểu
thuyết có thể nói mấy thứ khác không thể nói?
What can the novel say that cannot be said in other manner?
Câu hỏi trên của Hermann Broch, theo Fuentes, trong bài viết “Tiểu
thuyết” của ông.
Ông đồng ý với
ông bạn lớn lao của mình, là Milan Kundera, khi cho rằng tiểu thuyết là
một sự
tái định nghĩa hoài hoài con người như là 1 vấn đề: The novel is a
perpetual
redefinition of the human being as problem.
Vưỡn chuyện
lịch sử:
Liệu trận
đói “Trời cho VC”, do Nhật Lùn gây ra, năm Ất Dậu, châm ngòi nổ cuộc
chiến Mít,
đưa Đảng VC lên đỉnh cao?
China
Millennial
madness
A shocking
Chinese account of Chairman Mao’s great famine
"Don't expect friendship.
Friendship is a miracle."
Simone
Weil
Đừng trông mong tình
bạn. Tình bạn là một phép lạ.
Ui
chao, đọc một phát, là lại thấy nhớ ơi là nhớ mấy đấng bạn quí của Gấu!
Mỗi
ông là một phép lạ!
Đám trí thức
Miền Nam, lớp bỏ chạy, khỏi nói, đám còn lại, học là để trốn lính,
thành thử
sách đọc, là cũng nằm trong chương trình học, lấy cái bằng, đi dạy học,
thoát
kiếp lính.
Gấu may mắn hơn nhiều, học sớm, đỗ đạt sớm, ra trường sớm, đi làm sớm,
được hoãn dịch vì lý do công vụ, chuyên viên tối cần thiết!
Bởi thế, đọc là đọc
những tác giả mình thích, mình quan tâm, đa số liên quan đến, hoặc văn
chương,
hoặc cuộc chiến, hoặc Mạc Xịt, hoặc hiện sinh.
Mấy đấng Thầy, đậu đạt, lấy bằng,
ra trường làm Thầy, là xong. Đâu có ai đọc
được tiếp nữa. Do không đọc, mà cũng chẳng mê viết, thành thử đâu có
tác phẩm?
Khó nhất là
mê viết, mê ngôn ngữ. Ông nào thì viết 1 câu văn tiếng Mít cũng không
nên hồn.
Đọc Thầy Đạo
viết về Heidegger, khổ nhất là không luận ra câu văn tiếng Việt, hoặc
biết rõ,
nó có thể viết 1 cách khác dễ hiểu hơn, dễ đọc hơn.
Chưa nói
chuyện tư tưởng của Heidegger!
Thầy Giác
thì cũng thế. Trong 1 lần nhìn lại những trang viết cũ, Thầy cho
biết, hồi
nhỏ, mê đọc truyện quá, mướn về đọc, lớn lên, bèn nghĩ, người
ta viết được, thì mình cũng viết được.
Thế là viết.
Đâu phải như
thế. Rõ ràng là có những thứ, người ta viết được, mình không không thể
viết được!
Nói rõ hơn,
bạn phải mê viết, thì mới viết được!
NMG viết như thế, để giải thích ông đến với
văn chương hơi muộn, nhưng giá đừng đến thì lại hơn.
Những gì ông trải qua,
trong cõi văn, chỉ gây cho ông những bực mình. Nào là vụ HPNT, vụ cái
tai người,
và sau cùng, vụ đợp giải của VC. Qua bên kia mà vẫn còn bực mình!
Một anh bạn ở
Cali, trong những ngày ông nằm nursing, ghé thăm, và gặp một NMG khác.
Một ông
thầy giáo. Ông nói, tôi quả là chỉ “tham gia” cõi văn thôi. Và ký ức
những ngày
sau cùng của ông, là của 1 vị thầy giáo, nhớ trường, nhớ lớp, nhớ học
trò cũ.
Có người sẽ
thắc mắc, nếu không mê viết, làm sao có hai trường thiên tiểu thuyết?
NMG viết hai đại tác phẩm, không phải vì mê văn chương. Ông mê cái gì
khác, vượt
ra ngoài, ở ngoài cõi văn, đúng hơn, và nó liên quan đến câu của Susan
Sontag
viết về Kis: “Địa lý là định mệnh”.
Nói rõ hơn NMG viết hai đại tác phẩm đều
là lịch sử tiểu thuyết, là vì ông là người Bình Định, quê hương của
Nguyễn Huệ.
Hai cuốn, nhưng tuy hai mà là một, chúng bổ túc cho nhau. Cái tay rể
quí của Râu
Kẽm, lạ làm sao, lại nhìn ra điều này, như trong bài viết của anh, trên
VOA.
Sông Côn Mùa Lũ là tác phẩm có Nguyễn
Huệ.
Mùa Biển Động, không có Nguyễn Huệ,
và thay vì NH, thì là HPNT!
Gấu có nhiều
kỷ niệm với NMG, thời gian viết cho Văn
Học của ông. Có lần ông tỏ ra rất ngạc
nhiên, vì cái chuyện Gấu đem độc giả cho Văn Học, và phán, ông bây
giờ đặt chân xuống đất rồi, không còn viễn mơ nữa.
Quả có thế, suốt cuộc chiến
Gấu ở trong cõi mơ, gọi là địa ngục, là thiên đường gì cũng được. Trong
cõi đó,
có 1 cõi gọi là cõi bạn quí. Ngủ dậy, một phát, là đã thấy mình đang
ngồi Quán
Chùa, giữa đám bạn quí rồi!
Và Nguyễn Huệ.
Một nhân vật, một anh hùng mà tôi nghĩ tác giả muốn gói ghém tất cả
những gì
cao đẹp nhất cần phải có ở một nhà lãnh tụ quốc gia trong thời loạn
lạc. Ông là
một tướng giỏi nhưng hơn hết ông là một nhà chính trị gia đại tài. Ông
khoan
dung nhưng dứt khoát. Biết là xã hội nào cũng cần phải có nề nếp, kỷ
cương
nhưng vẫn sẵn sàng gạt bỏ quá khứ để hướng đến tương lai.
Và đó cũng
là thông điệp được gửi gấm qua trên 1500 trang giấy của bộ trường thiên
tiểu
thuyết ‘Sông Côn Mùa Lũ’ mà tác giả đã bắt đầu nghiên cứu để viết lại
trong suốt
những năm tháng đầu tiên tại Sài Gòn sau năm 1975 trước khi ông vượt
biên sang
Mỹ định cư. Đó là thái độ các nhà khoa bảng, của giới trí thức, của các
nhà nho
ngày xưa khi có những cuộc tranh chấp, thay đổi giữa các triều đại lúc
hưng
suy. (1)
Rể quí của Râu
Kẽm viết về Nguyễn Huệ của NMG trong Sông
Côn Mùa Lũ.
Gấu tự hỏi,
khi anh viết như thế, liệu hình ảnh của một Râu Kẽm có hiện ra trong
trí tưởng
tượng của anh?
Bởi vì Râu Kẽm
có thể làm được những việc NH làm.
Người chẳng đã
lái máy bay ra Bắc bỏ bom là gì?
Và, giả như
có 1 Nguyễn Huệ đúng ý của anh ta, thì liệu thằng Yankee mũi lõ có tha
không làm
thịt?
Câu hỏi này
căng thật.
Vì thằng Mẽo
không cần 1 NH như thế, mà chúng chỉ những tên như Râu Kẽm thôi!
Mẽo không cần
NH, nhưng Bắc Kít lại cần lũ HPNT, TCS, TDBC, DH...
Chán thế!
Cái kinh
nghiệm Mẽo chỉ cần những tên như Râu Kẽm thôi, Gấu trải qua rồi, và
hình như cũng
đã từng lèm bèm trên TV, và… talawas nữa!
Xin kể lại ở
đây:
Vào cái thời chủ nghĩa
thực dân đang cực thịnh, chuyện học tiếng Tây tiếng U chỉ
là để "tồn tại", theo nghĩa của câu "bây giờ ông đổi lông ra sắt,
cách kiếm ăn đời có nhọn không?" Nhìn rộng ra, cả một nền văn chương
dịch
thuật, hoặc "bảnh" hơn, viết văn bằng tiếng Tây tiếng U, trước đây, đều
qui vào chuyện "cách kiếm ăn đời có nhọn không". Thời Tây thuộc còn
khá, vì còn có những bậc tiền bối dám mầy mò tới cõi văn Tây. Thời Mỹ
thuộc thì
thật quá tệ. Nhưng đây là do quan thầy chứ không phải do đầy tớ: Người
Mẽo chỉ
muốn có những thằng đầy tớ biết nghe răm rắp lời của chủ: tao là thằng
chi tiền!
Tây thì còn muốn "làm bạn" với một tên cô lô nhần nào sáng sủa một
chút.
Lần đó,
Dirck Halstead mới qua làm Sếp phòng hình UPI. Oai lắm. Anh ra lệnh cho
Gấu gửi
hình. Gấu đếch làm theo, nhưng làm theo ý Gấu. Hình gửi đi đẹp hơn
nhiều, so với,
nếu gửi như anh ta ra lệnh.
Anh gật gù khen Gấu, và phán:
-Lần sau tao biểu mày làm sao thì làm y như vậy. Mày làm theo ý của
mày, là tao
đá đít ra khỏi UPI!
Râu Kẽm sở
dĩ còn có ngày lèm bèm với rể quí, và còn có ngày về lạy lục VC, là vì
ngoan
ngoãn làm theo ông chủ chi địa Mẽo!
Đám DVM, Mẽo ra lệnh đảo chính, làm thịt Diệm, đâu có dám cãi?
|
|