TẠP GHI
|
Tiểu
thuyết lịch sử
Vào
thời mới biết đọc biết viết, hay nói một cách khác, ở
cái thuở chập chững của con người được gọi là "độc giả", tôi cứ thấy
mảnh giấy nào có chữ là dí vào mắt. Rồi lớn lên dần, trước là bằng
những món ăn
dành cho thiếu nhi, một Ông Đồ Bể, một Cái Ấm Đất của Khái Hưng, hay
Lên Bẩy,
Lên Tám (hình như của Tản Đà thì phải)…. Truyện con nít cũng chẳng có
nhiều,
thế là mò tới sách báo tiểu thuyết dành cho người lớn. Cuốn Việt Nam Sử
Lược
của Trần Trọng Kim đã được "thằng bé" thuộc nằm lòng! Ông cậu đi đâu
cũng mang thằng cháu ra khoe, một bữa, bị một ông truy: công chúa Chiêu
Thánh,
truyền ngôi cho chồng là Trần Cảnh hồi mấy tuổi? Chuyện cô con nít khi
đang tắm
đùa giỡn, tạt nước vào cậu con nít thì nhớ, nhưng truyền ngôi hồi mấy
tuổi, là
chuyện đại sự, sao lại hỏi một thằng con nít? Hoá ra chỉ thuộc lòng
những trận
đánh, hoặc những chi tiết lịch sử mang tính "giật gân", nào là Phù
Đổng Thiên Vương về trời, bỏ lại ngựa sắt; ông hoàng nhỏ Quốc Toản bóp
nát trái
cam, sông Hồng nghẹt xác giặc… sau này tôi hiểu ra một điều, trí nhớ
của con
người, dù lớn, dù nhỏ luôn luôn có lỗ hổng, hoặc lỗ đen.
Tôi
đã đọc Ba Người Ngự Lâm Pháo Thủ, bản dịch của Nguyễn
Văn Vĩnh, ngay từ thời còn con nít; và cứ thắc mắc về một chi tiết: tại
sao một
bông huệ khắc trên mình Milady lại làm cho A Tố, rồi Đác Ta Nhan khiếp
sợ, và
Milady chết vì nó, không phải một, mà tới hai lần trong đời?
Rồi
mê mải theo dõi những cuốn tiểu thuyết đăng từng kỳ trên
báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy (có chắc không đấy?), thí dụ như Chớp Bể Mưa
Nguồn,
Ngậm Ngải Tìm Trầm…
Bây
giờ thì quên sạch. Nhưng có một cuốn tiểu thuyết, hồi
đó, không hiểu sao, bám chặt mãi vào trí nhớ của tôâi. Đó là một cuốn
Lá Huyết
Thư, tôi chỉ đọc đâu được vài kỳ, thiếu đoạn kết cục, rồi cứ thắc mắc
mãi cho
tới bây giờ: không hiểu đứa nhỏ trong đó, có gặp lại được người cha của
nó hay
không.
Lá
Huyết Thư, như trong trí nhớ của tôi còn giữ lại được,
hoặc tưởng tượng ra được, là câu chuyện thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh.
Chúa
Trịnh, một lần vào nam, trong một lần vi hành, đã gặp một cô gái quê.
Thế là
một cuộc tình xẩy ra giữa "chàng trai xâm lược", và cô gái "bản
địa". Cô gái có thai, được Chúa Trịnh để lại "lá huyết thư"
(huyết này không biết lấy ở đâu ra, chắc là của cả hai), và dặn dò, nếu
ta
chiếm được miền nam, sẽ đón nàng, còn trong trường hợp ta thua chạy về
bắc,
nàng và con ra gặp ta…
Thế
rồi lớn lên, theo với cuộc chiến, ở miền nam, tôi cứ bị
ám ảnh hoài, bởi câu chuyện đọc từ hồi còn nhỏ, ở miền bắc. Rồi tôi tự
hỏi, tại
sao tác giả cuốn tiểu thuyết lại "tiên tri" được biến cố sau đó, ngay
từ hồi còn thực dân, chưa hề có một "điềm triệu" nào cho thấy cuộc
chiến "người chết hai lần, thịt da nát tan", mãi sau này…
Phụ
trang văn học (Dossiers & Documents Littéraries),
của tờ báo Pháp, Thế Giới (Le Monde), số 28, tháng Bẩy 2000, là về tiểu
thuyết
lịch sử. Gồm nhiều bài viết, về những bậc thầy lớn; những thời kỳ lớn:
cổ đại,
trung cổ, và lịch sử hiện đại…
Trong
số báo, tác giả Jacques Cellard, trong một bài viết
(25 tháng Một 1983), định nghĩa, tiểu thuyết lịch sử đối với văn
chương, giống
như món xốt may-on-ne đối với bếp núc (Le roman historique est à la
littérature
ce que la mayonnaise est à la cuisine). Người ta xịt trong khi quay đều
đều,
tia (xốt) lịch sử lên mầu vàng của cuốn tiểu thuyết (on verse, en
tournant
régulièrement, le filet d’histoire dans le jaune du roman.) Phải có
thêm tiêu
muối nữa chứ, lẽ dĩ nhiên. Tôi (tác giả bài báo) muốn nói: phải có tí
sexe, tí
máu. Nhưng đừng nhiều quá! Vẫn theo ông, thể loại tiểu thuyết lịch sử
không
được giới hàn lâm, cũng như giới phê bình đánh giá cao: cho dù ký tên
Flaubert,
hay Hugo, những cuốn như Salammbô, hay Nhà Thờ Đức Bà thua xa Bà
Bovary, hay
Những Kẻ Khốn Cùng. Theo ông, đó là do sự cài đặt (installation, thuật
ngữ này
tôi mượn của giới điện toán) một tay tự sự (narrateur) vào trong một
quá khứ
không phải của anh ta (một ông Nguyễn Huy Thiệp của thế kỷ 20 biến mình
thành
Nguyễn Huệ, Gia Long chẳng hạn), chính điều này đã làm tê liệt chức
năng tiểu
thuyết, và trong bất cứ trường hợp, làm tê liệt luôn hạnh phúc viết (le
bonheur
d’écrire). Nói theo Florence Mothe, có hai ông "không ưa nhau" nhưng
lại cứ phải sống chung dưới một mái nhà là cuốn tiểu thuyết lịch sử:
một ông
nhà văn và một nhà nghiên cứu, tìm tòi (le chercheur). Vẫn theo Jacques
Cellard, một cuốn tiểu thuyết lịch sử không thể, và không được quyền
"lơ
tơ mơ", nếu nói về hình thức (của cái gọi là tiểu thuyết), và ông nhà
văn
lại càng không được quyền để cho ông nghiên cứu gia kia bóp cho nghẹt
thở! Sở
dĩ hiện nay, không có tiểu thuyết lịch sử lớn, so với những "muôn đời
đại
thụ" như của Walter Scott, hay Alexandre Dumas, đó là do thiếu dấu ấn
của
tiểu thuyết thứ thiệt, và dấu ấn này lại nằm ở bên dưới cái nền gọi là
lịch sử.
Những
đại tác gia của môn phái tiểu thuyết lịch sử.
Alexandre
Dumas: Quá khứ như là đam mê và như là phiêu lưu.
Theo
phụ trang văn học, báo Thế Giới số 28 tháng Bẩy 2000,
trong thiên hạ chỉ có ba… đại sư thuộc môn phái tiểu thuyết lịch sử,
theo
nghĩa, đã đẩy thể loại này tới mức thượng thừa. Đó là (nhà văn người
Scotland)
Walter Scott, (nhà văn người Pháp) Alexandre Dumas, còn người thứ ba,
thuộc
loại ẩn sư, nghĩa là ít được người đời biết tới: một nhà văn người Phần
Lan,
Mika Waltari (1908-79). Ba ông chiếm ba bồ chữ: phiêu lưu thuộc Dumas,
nghiên
cứu (analyse), Scott, và tưởng tượng (imaginaire), Waltari.
Bài viết (1 tháng Giêng 1971), "Quá khứ như là đam mê
và như là phiêu lưu" (Le passé comme passion et comme aventure), của
Jacques Goimard, được đăng lại trên số báo đã dẫn, là về Alexandre
Dumas. Ông
này thì độc giả người Việt quá quen biết, nào là Ba Người Ngự Lâm Pháo
Thủ, Hai
Mươi Năm Sau, Bá tước Kích Tôn Sơn … Giới bình dân còn rành cả ông
Dumas con,
qua vở tuồng cải lương nổi tiếng, Trà Hoa Nữ.
Vào
năm 1842, tại Paris, Walter Scott đang là "thần
tượng", và không thiếu những nhà văn thuộc trường phái lãng mạn muốn
thử
thời vận "một lần nữa trong đời", bằng cách "lần ngược lịch
sử", hay nói theo J. Goimard, họ tìm cách "Pháp hóa" (franciser)
thể loại văn chương mà Scott đã sáng chế ra: Vigny với Cinq-Mars; Hugo,
Nhà Thờ
Đức Bà (Notre Dame de Paris); Balzac, Les Chouans; Mérimée, Chronique
du règne
de Charles IX. Nhưng thể loại tiểu thuyết lịch sử cũng khó chơi. Trong
cuốn Les
Louves de Machecoul, Dumas đưa ra hai chị em song sinh. Một cô, tính
tình mơ
mộng, ôm mớ tiểu thuyết; một cô, đam mê cuồng nhiệt, ôm mớ sách lịch
sử. Làm
cách nào "hội nhập" một cách hài hòa, hai khuynh hướng trái ngược
trên? Nói bốn ông nhà văn trên không thành công, khi "Pháp hóa"
Scott, là hơi quá đáng, nhưng vẫn còn một "kẽ hở", ở trong bí quyết
viết tiểu thuyết lịch sử của Scott: ông "làm phiền" độc giả với những
lời mào đầu lòng thòng, trong khi "vấn đề" là: phải "nói về
những nhân vật sau khi cho xuất hiện", thêm nữa, tuy Scott thật đáng nể
qua miêu tả những tập tục, trang phục, và tính tình nhân vật, nhưng ông
không
"quen tay" với cái món: đam mê.
Vả
chăng, Lịch sử vốn là một "thiên đàng", cho
những ông nhà văn fơi-ơ-tông (viết nhiều kỳ cho nhật báo), mà Dumas là
một
"chuyên gia". Lịch sử dâng hiến chất liệu "làm sẵn, cứ thế mà
xài", đúng thứ ông cần: làm sao viết nhanh, viết khỏe, viết ào ào, nếu
không "chôm chĩa", từ lịch sử, từ những hồi ký, những bình luận thời
cuộc? Nó (lịch sử) còn ban cho ông một "thủ đoạn thuận tiện" (alibi
commode) khi xử trí những biến động đảo ngược: chúng trở nên có thể
chấp nhận
được, là bởi vì đã từng xẩy ra trong lịch sử. Và, độc giả tiểu thuyết
không cần
tin, anh ta cần ngạc nhiên. Sau hết, Lịch sử chính là một khung cảnh
"đẹp
như mơ", dễ dàng thoả mãn cơn đói khát của những độc giả ham đọc sách.
Nhưng
tất cả những gì nêu trên, cũng trở thành vô bổ, nếu
Dumas, chính ông ta, không phải là một người say mê lịch sử. Phần lớn
những
"thảm kịch" ông viết ra, đều liên quan tới lịch sử. Nếu những nhà văn
thuộc trường phái lãng mạn say mê những giấc mộng lớn, những tổng thể
(les
sommes), như Trò Đời (Comédie humaine, Balzac), Lịch sử nước Pháp
(Michelet),
Truyền Kỳ Những Thế kỷ (Hugo)…, Dumas cũng đã nghĩ tới một Trò Đời của
quá khứ,
nhưng sau cùng, ông từ bỏ tham vọng này, bởi vì một khi sắp xếp những
tác phẩm
của mình theo một trật tự, tức là đưa ra một ý hướng đạo đức nào đó cho
lịch
sử, như vậy là phản lại nhu cầu thoát ra khỏi nó, làm một con người
được xóa
sổ, như cả một đời cô Kiều đã từng mong ước, và sau bao trầm luân, đã
đạt được:
Đoạn Trường sổ rút tên ra…
Lạ
một điều, như tác giả Lá Huyết Thư mà Jennifer chẳng thể
nào nhớ nổi tên, Dumas đã từng tiên đoán nhân dân Pháp sẽ làm cách mạng
và nắm
quyền lực, ngay từ năm 1833, trong tác phẩm Gaule et France.
Walter
Scott: Một lịch sử nhân bản (une histoire humaine)
-Trí nhớ của tôi chỉ hoạt động một chiều. Tôi chỉ nhớ chuyện
này chuyện nọ, một khi nó đã xẩy ra. Alice nói.
-Thật
đáng thương cho thứ trí nhớ chỉ làm việc giật lùi.
Hoàng hậu nói.
-Bà
nhớ hay nhất, là về những chuyện gì?
-Ô,
những chuyện (sẽ) xẩy ra vào tuần sau, tiếp theo tuần
sắp tới. Hoàng hậu thản nhiên trả lời.
(Alice
ở trong Xứ Huyền Ảo)
….
Cách mạng… Cách mạng… Cách… Cách… Mạng… Mạng…
(Thanh
Tâm Tuyền, Tiếng Động).
Tác
giả Lá Huyết Thư, một cuốn tiểu thuyết lịch sử về thời
Trịnh Nguyễn Phân Tranh, đã tiên đoán những chuyện "tình bắc duyên
nam" của những năm 1954, hay những cuộc tình "vợ sĩ quan/ cán bộ tiếp
quản" của những năm sau 1975….
Alexandre
Dumas đã từng tiên đoán, nhân dân Pháp sẽ làm cách
mạng.
Cả
hai tác giả trên cho thấy, ngay cả chuyện nhìn lại quá
khứ nhiều khi cũng phải dự đoán.
Nhớ
tương lai. Tưởng tượng quá khứ. Cứ như truyện thần tiên!
Bởi
vì, những cuốn tiểu thuyết lớn là những câu chuyện thần
tiên lớn (Nabokov). Cũng theo nghĩa đó, nhà văn Pháp, Anatole France,
cho rằng:
Lịch sử không phải là một khoa học. Nó là một nghệ thuật. Và người ta
chỉ thành
công ở đó, nhờ tưởng tượng. (L’histoire n’est pas une science, c’est un
art. On
n’y réussit que par l’imagination).
Hay
như nhà văn Pháp, Guizot:
-Bạn
muốn (viết) Tiểu thuyết? Hãy đọc Lịch sử!
Nhưng
thế nào là Tiểu thuyết? Thế nào là Lịch sử?
Hãy
đọc Lịch sử. Nhưng Lịch sử nào? Lịch sử của những ông
vua, bà chúa, hay của thường dân?
Theo
Georg Lukacs, một triết gia Mác xít nổi tiếng, tiểu
thuyết là để diễn tả tính vô gia cư "siêu việt". Nói nôm na, nó diễn
tả thân phận lưu vong của con người, một khi thần thánh đã bỏ đi. Trong
lịch sử
văn chương Âu châu, nó là thể dạng thứ ba sau hùng ca (epic), và bi
kịch
(drama, tragédie). Nó cưu mang (embody) cơn khủng hoảng cảm tính của
Âu-châu.
Cuộc
Cách mạng Pháp và thời đại Nã Phá Luân cho thấy, những
thường nhân - cuộc sống vốn chỉ quẩn quanh xó nhà, hoặc ở bên ngoài
lịch sử -
nhận ra một điều: họ có mắc míu tới lịch sử, hay ngược lại. Đây là
những đòi
hỏi mang tính "toàn trị" (totalitarian claims) đưa đến chủ nghĩa
Marx. (Bởi vậy, thật không có gì là cường điệu khi nói, chủ nghĩa Cộng
sản là
con đẻ của Cách mạng Pháp: lịch sử là "của chúng ta" chứ không dành
riêng cho đám nhà nghề, hoặc giai cấp ở trên. Điều này giải thích tại
sao cuộc
cách mạng vô sản lại bắt đầu ở Nga, mà không ở một nước nào khác: giai
cấp quí
tộc Nga vẫn coi tiếng Pháp mới là thứ tiếng "đáng nói" nhất. Paris
luôn luôn là thiên đàng của đám trí thức Nga, Cộng-sản hay không
Cộng-sản. Nó
cũng giải thích những mắc míu kéo dài tới tận bây giờ giữa những người
Cộng-sản, chủ nhân mới của đất nước Việt Nam, và "ông thầy cũ" là
nước Pháp.)
Không
giống như những đạo quân thế kỷ 18, vó ngựa viễn chinh
của quân đội Nã Phá Luân mang theo thông điệp, suốt Âu-châu: ý thức
chính trị
của cuộc sống hàng ngày, của những con người bình thường. Lịch sử không
còn là
những thư khố, những ông hoàng. Tiểu thuyết của Scott đã manh nha sự
thay đổi,
với một cách nhìn mới mẻ về sức nặng và sự đa dạng của sự kiện lịch sử.
Lukacs
là người đầu tiên nhìn ra điều này.
David
Daiches, trong bài viết "Walter Scott, một lịch
sử nhân bản", (13, tháng tám 1971 đăng lại trên phụ trang văn học báo
Thế
Giới số 28 tháng Bẩy 2000), cho rằng Scott vẫn còn được đọc, bởi vì độc
giả bây
giờ tìm thấy ở ông, một điều khác nữa, chứ không phải chỉ là những câu
chuyện
tình ái lãng mạn, và chiến tranh với những trận đánh. Hầu hết những nhà
phê
bình hiện thời, từ những trường phái khác nhau, đều coi Scott, như là
một tiểu
thuyết gia. Họ nhìn thấy ở ông, một tầm nhìn lịch sử; và cái viễn ảnh
mang tính
lịch sử đó đã nẩy nở cùng với nỗi băn khoăn của ông về những tương quan
giữa
truyền thống và tiến hóa (évolution). Trong mỗi giai đoạn của công việc
tìm tòi
chất liệu lịch sử, Scott chỉ ra, ảnh hưởng do những thay đổi chính trị
và xã
hội, đối với cách hành xử của từng con người riêng tư. Tất cả trở thành
cụ thể:
lịch sử nhập thân (incarnée) bởi những nhân vật bình thường, những dân
quê,
những người lính, những ông lái buôn, những người làm luật. Những nhân
vật nổi
tiếng trong lịch sử cũng xuất hiện, lẽ dĩ nhiên. Nhưng cái nguyên liệu
ròng của
nó, là ở những con người bình thường. Những con người, nói theo như tác
giả bài
viết, bị kẹt cứng ở trong lịch sử, bị lịch sử tóm lấy, chính họ mới là
những
người mang trên mình, ý nghĩa của lịch sử.
Điều
quan trọng nữa ở Scott: ông từ chối bắt lịch sử mang
một ý nghĩa đạo đức. Nếu ông quan tâm tới những tương quan giữa truyền
thống và
tiến bộ, tới những cuộc tranh chấp tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ
khác, ông
còn là một tiểu thuyết gia về một cõi người ta, thật riêng tư, thật
nhân bản,
của từng con người. Ông từ chối chiếu rọi những chuyển động xã hội,
dưới ánh
sáng của đạo đức. Những tay vô địch, những kẻ tiên phong của tiến bộ
trong
những cuốn như Guy Mannering hay trong La Fiancée de Lammermoor.. đều
xấu xa,
"thiếu đạo đức" (moralement mauvais). Nhưng ngược lại, những nhân vật
nổi cộm, đại diện cho tiến bộ ở trong Waverley và Rob Roy là những con
người
tốt. Scott chẳng thèm để ý đến cái gọi là "vì sự nghiệp chung"… qua
những nhân vật của mình. Chính điều này làm cho những nhân vật của ông
cứ thế
sống mãi: họ sống bằng niềm cảm thông, bằng sự nhân ái, như là tác giả,
người
sáng tạo ra họ.
Trên
tất cả, Scott, bằng sức tưởng tượng lịch sử sáng ngời,
được tác giả cứ thế làm cho sinh sôi, nẩy nở mãi ra, qua cái đọc, cái
hiểu, cái
sống, cộng thêm cảm quan sâu đậm về văn học truyền thống dân gian, qua
truyền
khẩu, cộng thêm sự quan tâm của ông, về vị trí của hồi nhớ ở trong
những vấn đề
liên quan tới con người… tất cả đã cho phép ông sản xuất ra những cuốn
tiểu
thuyết vẽ ra một cách thật cảm động, thật độc nhất vô nhị, và cũng thật
dũng
mãnh: cuộc dấn thân của con người vào lịch sử. Cùng với "cuộc chơi chết
người" này, là trách nhiệm, bổn phận, tâm lý, nỗi sợ hãi… của từng cá
nhân
chúng ta trước… gánh nặng lịch sử!
Nhưng
ít có nhà văn dám đẩy tiểu thuyết lịch sử tới mức
thượng thừa như nhà văn Mika Waltari, người Phần Lan. Ông sinh năm
1908, mất
năm 1979. Đây đúng là một ảo thuật gia, với những trò phù thuỷ thoát
thai từ
quyền năng của mộng mơ, đúng như Nabokov định nghĩa, tiểu thuyết lớn là
những
câu chuyện thần tiên lớn.
Cuốn
tiểu thuyết Sinouhé, người Ai Cập của Waltari, được
xuất bản tại xứ sở của ông vào năm 1945, mãi tới năm 1979 mới được dịch
ra
tiếng Pháp, và được hân hoan đón nhận. Cuốn tiếp theo, L’Etrusque, là
câu
chuyện kể của một nhân vật tên Turms - một trộn lẫn giữa nhân vật của
hùng ca Homer
và của tiểu thuyết sau đó. Anh sống ở thế kỷ thứ Năm trước khi Chúa Cứu
Thế
xuất hiện. Chẳng nhớ gì về tuổi thơ của mình. Bị sét đánh, và do đó,
được thần
thánh chọn lựa cho một sứ mạng màchính anh ta phải làm sáng tỏ. Bị thần
thánh
xúi giục, anh ta đốt ngôi đền Cybèle ở Sardes, và vì tội ác này, anh ta
bị kết
án suốt đời phải lang thang, tham dự vào những cuộc phiêu lưu, như
những nhân
vật của Homer. Theo chân cướp biển Dionysios cùng những chuyến ăn hàng
của anh
ta; bị hăm dọa bởi những người Carthage trị vì biển cả; chiến đấu bên
cạnh
những hậu duệ của Hercule, chỉ để giành giật "vương miện của một con
chó", bị người đẹp Aphrodite mê hoặc, bắt cóc nàng rồi sau đó bị nàng
phản
bội… qua bao hiểm nguy, anh sau cùng hiểu được sự bí mật về những quyền
năng kỳ
lạ của mình. Turms chính là một "mutant" (một sinh vật đang trong
dạng phát triển hoặc thay đổi, như trong truyện khoa học viễn tưởng),
giống như
Orphée của thi sĩ người Đức, Rilke. Sự bí mật của anh được ghi lại ở
trong văn
minh và truyền thống mà anh khám phá ra được, ở cuối tiểu thuyết. Đó là
văn
minh và truyền thống của (một xứ sở) Etrurie huyền bí.
Nền
văn minh này trải ra quanh con hồ Bolsena, trên một khu
vực rộng hơn là vùng Toscane hiện giờ. Chẳng có gì làm độc giả ngạc
nhiên, khi
Walrari bị quyến rũ bởi nó. Bởi vì từ xa xưa, từ nhiều đời tiếp nối, nó
đã từng
quyến rũ không biết bao nhiêu giống dân Tây Phương. Những hậu duệ của
một La Mã
đã từng mơ ước một vùng đất, thiên đàng hạ giới, như nhà sử học Hy Lạp
thế kỷ
IV, Théopompe, đã từng mơ ước: một nơi chốn mà "những người đàn bà cứ
khơi
khơi trần như nhộng, trong mọi công ăn việc làm, trong mọi giao tiếp,
thường là
với đàn ông, và đôi khi, giữa mấy bàø "mí nhau", sẵn sàng ngồi bàn,
với bất cứ một người nào vừa mới gặp. Cũng là chuyện bình thường thôi:
họ nhậu
rất cừ, và rất diệu nghệ."
Một
xứ sở như thế, chỉ nhờ quyền năng mộng mơ, mới có thể
tạo ra nổi!
Theo
Philippe-Jean, qua số báo đã dẫn ở trên, không thể có
một thời đại nào mà không có lịch sử tiểu thuyết. Bị chê bai, ghét bỏ
bởi những
"chính chuyên" (puristes): mấy ông sử gia bới lông tìm vết, chi tiết
này sai, chi tiết này đúng, mấy ông nhà văn coi đây là thứ mạt hạng, do
phương
pháp dễ dãi (ở trang mười, Nguyễn Huệ còn hàn vi, tới trang thứ một
trăm, chắc
là ông ta đang ra lệnh cho nghĩa quân may cờ đào, tới trang hai trăm,
đại thắng
quân Thanh, thí dụ vậy!) Nhưng đây đúng là một mảnh đất lý tưởng cho
những nhà
văn muốn… lùi xa thời đại của mình, mà vẫn có thể nói thật đầy đủ về
nó. Một
bức tranh về con người hiện đại trong mặt nạ của "tiền nhân". Một
trong những chiêu thức tuyệt vời của Kim Dung: "cách sơn đả ngưu"!
Nguyễn Quốc Trụ
|