Chữ người tử
tù
Nhà văn
Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn, để làm một
tuyển tập,
ông nói đùa, mình đúng là một đấng "quân vương", với ba ngàn cung tần
mỹ nữ, và hàng lô con cháu. Muốn đưa vô tuyển tập tất cả. Chẳng muốn bỏ
một “đứa”
nào!
Ông
sinh năm 1904, tại Ba-lan, di cư sang Mỹ
năm 1935, và một thời gian làm ký giả cho tờ báo cộng đồng Jewish Daily
Forward, tại New York City. Chỉ viết văn bằng tiếng Iddish, và được coi
như nhà
văn cuối cùng, và có lẽ vĩ đại nhất của "trường" văn chương
Iddish.
"Vĩ đại"
hơn, ông là nhà văn Iddish đầu tiên, sống nhờ viết văn. Chúng được dịch
ra tiếng
Anh, rồi ông được trao tặng Nobel (1978). Là một trong số những dịch
giả truyện
của mình, với ông, tiếng Anh còn là ngôn
ngữ mẹ đẻ thứ hai, nhưng ông thú nhận, ông viết bằng tiếng Iddish, vì
đây là tử
ngữ, và truyện của ông là để cho những người đã chết, đọc.
Trong
Nhà Văn Hiện Đại,
khi Nguyễn Tuân mới xuất
hiện, Vũ Ngọc Phan đã tiên đoán, văn tài của ông sẽ có ảnh hưởng rất
lớn tới lớp
sau. Có thể mượn ý của Sartre, về chủ nghĩa Marxisme, và nối điêu: Tùy
bút của
Nguyễn Tuân quả đã "không thể vượt được", nhất là chất khinh bạc của
nó, di truyền mãi về sau này, và gần như trở thành những dấu ấn văn
chương của
cả một miền đất: độc, đểu, sỏ lá… nhưng không một ai có thể vượt lên
trên tất cả
những tính chất đặc sản đó, ngoài Nguyễn Tuân ra, bởi vì, như nhìn ra
phần số
khắc nghiệt đó, để bù lại, [để hoà giải với nó: cái ác?], trong truyện
ngắn,
Nguyễn Tuân thường viết về những người đã chết.
Khi đó, chất
khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của ông đẩy tới tột cùng,
biến
thành… lòng nhân hậu.
Cảnh Huấn
Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với
viên cai ngục,
hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như
thế
này phải tìm đất khác để mà tụ lại); chẳng
đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ
chưa khô
mực.
Khó mà thấy
cõi lòng nhân hậu đó, của Nguyễn Tuân, ở trong những trang tùy bút
tuyệt vời
như Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn... Kể cả sau này, trong những bài ký
thời chống
Mỹ cứu nước, như thể ông càng đi nhiều, càng gặp người (sống) nhiều,
tài hoa,
lòng nhân hậu của ông càng hao mòn dần...
Cá nhân người
viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết
đọc, biết
viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia
đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc
vương
vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những
viên ngọc
trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc
như vậy để
đánh dấu những trang Sách Hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng.
Đánh dấu
những trang sách, của một chuyện tình: chúng làm cho những lần chia ly
bớt nặng
nề, thê thảm, có thể chịu đựng được...; của một cuộc chiến: như những
viên đất
ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...
Nhận xét của
họ Vũ về thể văn tuỳ bút, ở Nguyễn Tuân, không ngờ đầy chất tiên tri.
Những bài
viết của ông sau này, là ký, không còn là tuỳ bút. Với tuỳ bút, cái
"tôi" rất quan trọng. Cá nhân người viết, khi đọc Những essays hay nhất
trong năm của Mỹ, The Best American
Essays, thấy chúng rất giống thể văn tuỳ
bút, ở tính tự thuật, ở chất hồi tưởng, và nhất là ở tấm lòng của người
viết,
khi chuyện trò với những hồn ma. Tuyển tập những bài essay hay nhất
(hàng năm)
của Mỹ, có một đặc biệt: mười hai năm hiện diện cho tới nay, mỗi năm
mời một
tác giả làm "guest editor", thường là những khuôn mặt nổi tiếng:
Joyce Carol Oates (1991), Susan Sontag... Gần đây nhất là Jamica
Kincaid
(1995), Geoffrey C. Ward (1996). Tuyển tập 1997, với Ian Frazier lo
việc in ấn
và viết lời giới thiệu, có bài viết của Lê Thị Diễm Thúy, The Gangster We Are
All Looking For. Qua phần ghi chú tiểu sử, chúng ta được biết,
bà là một nhà
văn, và nghệ sĩ trình diễn đơn (solo performance artist). Sinh tại Việt
Nam, lớn
lên tại miền Nam California, hiện cư trú tại phía tây Massachusetts. Đã
từng đoạt
giải thưởng 1997 Bridge Residency của Headlands Center for the Arts.
Văn xuôi
và thơ của bà đã xuất hiện trên The Massachusetts Review, Harper's
Magazine, và
Muae. Tác phẩm trình diễn: Red Fiery Summer
và the bodies between us. Hiện đang viết cuốn sách
với nhan đề Gã
Găng-tơ... nêu trên, sẽ do Knopf xb.
Đọc Gã
Găng-tơ Tất Cả Chúng Ta Tìm, chúng ta sẽ thấy hậu quả của cuộc
chiến đè nặng
lên những nhân vật trong truyện, và thật khó mà nghĩ rằng, nó đã chấm
dứt,
không phải với chúng ta, mà với những thế hệ tiếp theo. Câu chuyện bắt
đầu bằng
một tấm hình đen trắng: Việt Nam là một tấm hình đen trắng, chụp ông bà
tôi ngồi
trên những chiếc ghế tre... Khi nhìn bức hình ông bà tôi, ở những năm
cuối đời
của họ, tôi cứ muờng tượng ra một sự khởi đầu. Khởi đầu cho cái gì, và
ở đâu,
tôi không biết, nhưng luôn luôn là một sự khởi đầu... Ký ức của bà mẹ
truyền lại
cho người con (nhân vật xưng tôi): Mẹ tôi có nghe một câu chuyện về một
cô gái
bị chết vì bom na-pan, khi xuống bãi dúng chân vào nước cho mát. Người
ta kiếm
thấy cô nổi lềnh bềnh trên mặt biển. Chất lân tinh của trái bom trùm
lên thân
thể cô, khiến nó lập lòe như một ngọn đèn...
Trên nói
tiên tri, đối với cả thể văn tùy bút, lẫn con người Nguyễn Tuân. Một
cách nào
đó, khi ông phải "từ chối" tác phẩm (Những tác phẩm viết trước cách
mạng
như Tàn Đèn Dầu Lạc, Chiếc Lư Đồng
Mắt Cua, hoặc sau đó, như Phở
chẳng hạn),
tôi nghĩ, có thể ông tin rằng, tuy ông bị ở lại, nhưng thể văn tuỳ bút,
và con
người Nguyễn Tuân ở trong đó, đã "vượt thoát". Đã sống sót, ở một số
nhà văn sau ông. Thí dụ như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo...
Có điều, cả
Nguyễn Tuân lẫn Vũ Ngọc Phan không thể ngờ, thể văn tuỳ bút lại trở
thành một địch
thủ lợi hại của thơ ca và giả tưởng, như trong bài Tựa của Robert
Atwan, cho
Tuyển tập 1997 kể trên: "Sự thay đổi của thể essay ngày hôm nay làm cho
thi ca và giả tưởng trở thành tù đọng: essay là một dạng văn chương
năng động
nhất hiện nay của chúng ta. Nào là essays kể (narrative), như của Lê
Thị Diễm
Thuý, rất gần gụi với thể truyện ngắn. Essays khảm (mosaic) giống như
thơ xuôi.
Rồi phê bình văn chương mang dạng tự thuật. Thể văn báo chí mang giọng
bi kịch,
cộng thêm ẩn dụ, suy tưởng, với một liều lượng rất nặng tay, những
thông tin. Một
vài nhà essayists viết tranh luận (polemic) "cứ như thơ"! Trong bài
giới thiệu, Ian Frazier lại coi essay là một hành động, (thì "đi"
không phải là một hành động hay sao?, tôi như nghe Nguyễn Tuân, Vũ khắc
Khoan,
tuyết ngưu "gầm gừ" từ phía bên kia đời sống vang vọng qua). Ông định
nghĩa thêm: Một bài essay là một người đang nói. Câu này thật đúng với
tuỳ bút
Nguyễn Tuân. Đây là sự khác biệt giữa hai Nguyễn Tuân, giữa tùy bút và
ký. Có
thể nói khinh bạc là tuỳ bút Nguyễn Tuân. Với ký, con người biến mất,
chỉ còn
"chúng ta", một khối vô danh đáng ghét, đáng sợ. Có thể có người bắt
bẻ, trong truyện ngắn, trong tiểu thuyết, luôn luôn vẫn thấy, vẫn nghe
người
nói, nhưng người ở đây chỉ là giả tưởng, cái tôi trong tiểu thuyết,
truyện ngắn
là một tôi đeo mặt nạ. Khác hẳn cái tôi "bắt buộc", như chất khinh bạc,
ở trong tuỳ bút Nguyễn Tuân. Khi nào quá chán cái tôi khinh bạc, ông
viết về những
người đã chết...
NQT
[Bài viết đã
lâu, được “tân trang”, 28 tháng Giêng, 2005]