*





















 
 


TB Nguyễn Tuân vs TB Võ Phiến

Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng

NGƯỜI BÌNH ĐỊNH

VÕ PHIẾN  

Nguyễn Mộng Giác với tôi cùng một quê, nhưng tôi lưu lạc đã lâu thỉnh thoảng gặp nhau tôi có nhiều điều để hỏi thăm anh: tình hình an ninh ở làng này quận nọ, cảnh sinh hoạt độ này so với độ trước, những chuyện buồn vui đã xảy đến cho ông nọ bà kia v.v... Cứ thế chúng tôi lần lần cùng nhau đi vào những nghĩ ngợi lan man về chỗ quê hương.
Xưa kia, tổ phụ chúng tôi đã đến lập nghiệp tại Bình Định trong những điều kiện không biết khác biệt ra làm sao mà tự dưng tách rời hẳn đồng bào xứ Quảng về nhiều phương diện như thế. Tiếng nói khác: những tiếng răn, rứa, chừ, mô v.v... từ Quảng Bình tiến vào đến Quảng ngãi, bỗng dưng dừng lại tất cả ở chân đèo Bình Đê. Kể từ Bình Định vào Nam: một giọng nói khác, một loạt tiếng nói khác.
Nhà ở khác nhau: người Bình Định đã đem từ đâu đến cái kiểu nhà lá mái? Và tại sao kiểu nhà ấm cúng đẹp đẽ đấy rồi không hề chịu đi đâu cả, không ra ngoài tỉnh?
Thế rồi đến cái khác nhau trong tâm hồn. Nói về đất cách mạng ngoài Trung, người ta thường nhắc đến hai vùng: Nghệ Tĩnh và Nam Ngãi. Sát bên cạnh bà con Nam Ngãi lúc nào cũng sẵn sàng phản kháng, đứng lên, vùng dậy v.v..., người Bình Định tính tình bỗng dương "thàn hậu" hẳn đi. Mặt khác, người Quảng thiên về lý trí, có tài biện luận, "hay cãi": Phan Khôi, Phan Thanh, Phan Chu Trinh v.v...; người Bình Định dường như thiên về tình cảm, tưởng tượng nhiều hơn, trong văn học có nhiều thơ hơn là văn.
Ngoài chuyện người Bình Định khác người các nơi, lại còn có chuyện người Bình Định khác người Bình Định.
Hai thế kỷ trước, lớp người của Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng v.v... ngang tàng lẫm liệt; cuối thế kỷ này, tục ngữ địa phương xác nhận trong người Bình Định "hay lo", nói cách khác là an phận thủ thường, không hay tranh hơn tranh thua, là chín bỏ làm mười.
Từ lập quốc tới giờ, nước ta có bao nhiêu là vua, vua nào rồi cũng chết; vậy mà chỉ có một nhà vua chết được vợ lưu lại hậu thế tiếng than khóc nỉ non: tức vua Quang Trung. Từ hồi nào tới giờ, tướng lãnh vẫn chịu thưởng thức cái hồng nhan lắm; vậy mà chỉ có mấy ông tướng Tây Sơn ra Thăng long chơi bời được thi hào Nguyễn Du khen là có cốt cách. Hai thế kỷ trước, vua quan nhà Tây sơn không biết đã đối xử ăn ở với phụ nữ ra sao mà được yêu đương, thương tiếc, được ngợi khen như thế; cuối thế kỷ này, người Bình Định dường như không còn cái tình tứ ấy: trong vòng bốn năm mới năm nay văn học nước ta từng trải qua những thời kỳ thật mộng mơ lãng mạn, chưa có bao giờ Bình Định đóng góp được một tác giả nổi tiếng về tình yêu, như Xuân Diệu, như Nguyễn Bính chẳng hạn, hay một tác phẩm nào ướt át, ướt át như Vòng tay học trò, Hình như là tình yêu chẳng hạn.
Mất đi cả khí phách ngang tàng (tức cái đáng trọng) lẫn phong cách tình tứ (tức cái đáng yêu): sự mất mát thật là lớn lao. Không biết cái gì đã xảy đến trong đời sống của người dân Bình Định trong vòng hai trăm năm ấy. Có người đã nghĩ đến cuộc trả thù, đến chính sách trấn áp của triều đình nhà Nguyễn Gia miêu đối với vùng quê quán của họ Nguyễn Tây Sơn. Dẫu sao, đó mới chỉ là một giả thuyết.
Người của địa phương này không giống người địa phương khác, đó là cái dị biệt qua không gian; người của thời nay khác người thời xưa, đó là cái diễn biến theo thời gian. Chuyện ấy không có gì lạ thường, đáng nói.
Nhất là khi sự diễn biến lại đưa đến những mất mát thua thiệt thì lẽ ra tôi không dám nói: Phải tránh sự nổi giận của người đồng hương chớ? Khi cả lớp người hiện tại cảm thấy bị chạm tự ái mà quyết hỏi tội thì các lớp tiền nhân được xưng tụng đâu có hiện về để che chở cho mình được.
Tuy nhiên, sở dĩ dám nói là vì chúng tôi không nghĩ trong khoảng hai thế kỷ chỉ có giản dị một sự mất mát: thực ra trong đời sống tinh thần của người địa phương sự diễn biến thật phức tạp. Và sự diễn biến cũng đã đưa tôi những kết quả đáng quí. Chẳng hạn, Quách Tấn.
Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam ông Hoài Thanh có lần thử chia các nhà thơ ra từng xóm. Trong cái "Xóm Bình Định", ông kể vài tên: Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên.
Cả hai vị được kể tên đều không phải là người Bình Định, họ chỉ lớn lên ở Bình Định. Đối với các văn thi sĩ gốc địa phương họ có mối giao tình thâm thiết, có những kỷ niệm sâu dậm, kề cả những kỷ niệm về văn chương nghệ thuật, có thể họ chia xẻ quan điểm sáng tác v.v... Đối với cảnh vật và sinh hoạt địa phương, họ có lòng quyến luyến, lòng quyến luyến đã khiến cảnh vật ấy và sinh hoạt ấy lưu lại nhiều hình ảnh đẹp đẽ trong tác phẩm của họ... Tuy nhiên, trong tâm hồn họ không đồng hóa với địa phương.
Hàn Mạc Tử với Chế Lan Viên, đó là những hiện tượng kỳ dị của một thời. Họ chủ trương trường thơ điên loạn; họ đi tới tận cùng những say mê tôn giáo, siêu hình; họ táo bạo, cực đoan; hoặc họ la:

"Ta cởi truồng ra, ta cởi truồng ra:
Ngoài kia trăng sáng chảy bao la.
(Chế Lan Viên)

hoặc họ kêu:

"Đương cầu nguyện ọc thơ ra dường sữa
Ta ngất đi trong khoái lạc hồn đau."
(Hàn Mạc Tử)

Ở những nhà thơ người Bình Định, đồng thời với họ, bạn thân của họ, như Quách Tấn, như Yến Lan, tôi không gặp những hò hét lớn lối ấy, những cái làm kinh động sững sờ. Và có lẽ cảm tưởng của ông Hoài Thanh cũng không khác. Ông bảo:
"Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù (...) Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông, và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định." Ông lại bảo: "Theo gót nhà thơ (Quách Tấn), tôi đi dần vào một thế giới huyền diệu. Ở đây người ta nói rất khẽ, bước rất êm. Những tiếng khóc rộn ràng, những lời reo vui vẻ đều kiêng (...) Rồi tất cả lại trở lại trong mờ mờ."

Mờ mờ, êm êm, khe khẽ: thế giới thi ca ở đây như vậy đó.

Không thể bảo Quách Tấn hay Yến Lan không có xôn xao, tha thiết: Làm gì có những nhà thơ dửng dưng, bình thản. Tuy nhiên, ở đây bao nhiêu xôn xao đều bị dằn xuống, hãm lại. Quách Tấn cũng sầu cũng nhớ ghê gớm, nhưng:

"Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gửi vào thơ nghĩ tội thơ."

"Nghĩ tội thơ?", cái nhân ái đến rụt rè ấy, ở địa phương gọi nó là đức tính "thàn hậu'. Con người thàn hậu vốn dè dặt, kín đáo, âm thầm trong sự sầu đau thương nhớ; chính con người ấy mới càng "tội" đa!

Ngày Quách Tấn còn là một thanh niên trong tuổi đôi mươi mà ông đã như thế, đã yêu hồ ghét bể (theo lời Chế Lan Viên); càng về già ông càng lặng, càng kín. Trong mấy mươi năm làm thơ ông ngại, ông tránh thế ngũ ngôn vì nó là thứ "âm đoản" không "dễ rung cảm lòng người nghe" (l), thế mà sau này ông làm rất nhiều thơ ngũ ngôn, lại chuyên về thơ tuyệt cú: tình cảm chỉ gói ghém trong hai mươi chữ. Hai tập Mộng Ngân Sơn và Giọt Trăng toàn một loại thơ ấy: nhỏ nhắn, tinh vi như những hài cú Nhật bản. Lúc ôngvề già, tâm hồn ấy và thể thơ ấy đâm ra hợp nhau. Thơ vắn tắt người ít lời; thơ cô đọng, người kín nhẹm:

"Nhân thế nguôi tình thương
Ôm thu nằm Khánh dương
Rừng trăng đôi lá rụng
Lành lạng gió đem hương."

Sao mà đìu hiu, se sét, tịch mịch, cô quạnh quá chừng. Sao mà "tội thơ", tội người quá trời! Ấy, Quách Tấn là vậy, xóm thơ Bình Định là vậy: là tình cảm lịm vào trong, là bề ngoài dè dặt, lim ỉm, nhưng bên trong chất chứa u tình.

Gặp Quách Tấn, rồi gặp những con người hớn hở tưng bừng, ra rít yêu đương, hô hào om sòm như Xuân Diệu, không khỏi chắt lưỡi ao ước:

"Sao mà họ sung sướng vậy?"

Thế rồi, non nửa thế kỷ sau Quách Tấn, cũng vẫn không gặp được những người Bình Định sung sướng.

"Theo mây đi một buổi
Trời đất nhẹ phiêu phiêu
Va đầu tưởng đụng núi
Chỉ đụng bóng sương chiều
Một mặt trời lầm lủi
Trên trần gian tiêu điều."
(Đường vô núi)

Võ Chân Cửu, người thi sĩ đồng hương với ông Quách, viết ra những lời thơ ấy cũng trong tuổi đôi mươi. Và cũng như ông Quách giữa thời thanh xuân, Võ Chân Cửu không mấy khi đề cập tới chuyện yêu đương hạnh phúc trong suốt hai thi phẩm đã xuất bản, và dường như cũng không hề hứa hẹn một đề tài như thế trong các thi phẩm tương lai. Tiếng chuông vọng trong mây, chùa cổ bên sông, sương trắng trước thềm, đời như ảo mộng, sinh tử hai bên còn lộn lạo v.v... những cái đó dìm người thanh niên này vào những suy tư triền miên.
Ở Nguyễn Mộng Giác cũng vậy. Ngay từ những thiên truyện ngắn đầu tiên, anh đã có cái phong độ chín chắn, mực thước, đã có cái kín đáo, âm thầm, anh đã lim lỉm vào những suy nghĩ lo lắng.
Tuổi trẻ nào mà không có ái tình? Tiếng chim vườn cũ cũng có tình đấy, nhưng tình ở đây chỉ là cái cớ cho bao nhiêu vất vả ưu tư. Bão rớt cũng có tình nữa, nhưng cũng là cái cớ cho bao nhiêu ẩn ức éo le...
Từ vấn đề nọ đến vấn đề kia, Nguyễn Mộng Giác khổ tâm tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, rồi dựng truyện: không có bao giờ anh được thảnh thơi ung dung viết một câu truyện tùy hứng. Anh không có cái sung sướng đó...
Ơ! Nhưng tôi đang làm gì thế này? Bắt đầu nêu lên nào những anh hùng hào kiệt trong lịch sử, để rồi cuối cùng tôi đi đến... một người bạn? Bất luận là để chứng minh điều gì, sự hỗn xược ấy không thể tha thứ được. Nếu không dừng lại kịp thời. 

Võ Phiến, nhà văn Bình Định vs  Stefan Zweig, nhà văn Âu Châu (1)

Since then, at an uncertain hour,
That agony returns,
And till my ghastly tale is told
This heart within me burns. (1)

Kể từ đó, đâu biết giờ nào,
Cơn hấp hối đó trở lại,
Và cho tới khi câu chuyện thê lương của tôi được kể
Trái tim này trong tôi bỏng rát.

Coleridge: The Rime of the Ancient Mariner.
Bài hát của người thủy thủ già.

Trong bài viết về VP, cho Văn Học, NMG, số đặc biệt về ông, Gấu có tham vọng đặt VP vào vị trí Bình Định, như thế giới đặt Zweig vào vị trí Âu Châu, và từ đó, cả hai đối diện với cơn chao đảo, “chaos”, một đưa đến Lò Thiêu, một, Lò Cải Tạo.
Nhưng cái đám đệ tử cà chớn của ông, cái đám theo voi hít bã mía, làm Gấu cụt mẹ mất cả hứng!
Và VP, cũng có những điều làm Gấu đếch khoái, thí dụ, nhận tiền của Mẽo viết VHTQ, mà cũng đếch dám nói thẳng ra, đổi mẹ cái cơ quan  Mẽo phát tiền cho ông, thành 1 cơ quan Mít!
Rồi thái độ của ông đối với đám Sáng Tạo.
Thế là bèn vờ luôn, một đề tài lớn như thế!


Sự trở về (1)

Võ Phiến, nhà văn chống Cộng nổi tiếng, người được xếp đầu trong quyển Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng, đã có một cú trở về Hà Nội đầy ngoạn mục. Nhà sách Nhã Nam vừa xuất bản tập tùy bút Quê hương tôi, vốn là tập tùy bút Đất nước quê hương và một số bài tùy bút khác của Võ Phiến, dưới cái tên Tràng Thiên. Tràng Thiên được biết là một bút danh khác của Võ Phiến, nhưng không được biết rộng rãi trong công chúng. Tập Quê hương tôi này giấu rất giỏi vết tích của Võ Phiến, hầu như không thể nhận ra, trừ những ai đã từng đọc Võ Phiến. Lời tựa của Nguyễn Hiến Lê vốn có trong nguyên bản Đất nước quê hương, được Nhã Nam trích vào tay sách đầy dấu ba chấm: "Chúng ta gặp lại tài nhận xét tinh vi, miêu tả sắc bén (...). Mấy trang (...) tả cách nấu, rót và uống chè Huế làm ta liên tưởng đến Những chiếc ấm đất của Nguyễn Tuân: nghệ thuật không kém mà (...) có hương vị của quê hương hơn. Nhưng đoạn (...) tả một chủ quán ăn bình dân ở Cần Thơ, đọc mới thấy mê.". Mấy dấu ba chấm này có vẻ là câu khách hay biên tập bóp méo văn phong của Nguyễn Hiến Lê hơn là che giấu gốc tích Võ Phiến. Nguyên văn Nguyễn Hiến Lê viết: "Trong tập Đất nước quê hương này, chúng ta gặp lại tài nhận xét tinh vi, miêu tả sắc bén của ông trong tiểu thuyết. Mấy trang ông tả cách nấu, rót và uống chè Huế làm ta liên tưởng đến Những chiếc ấm đất của Nguyễn Tuân: nghệ thuật không kém mà lại dí dỏm hơn, nhẹ nhàng hơn, có hương vị của quê hương hơn. Nhưng đoạn ông tả một chủ quán ăn bình dân ở Cần Thơ, đọc mới thấy mê.". Nhã Nam cũng cho biết có in 100 bản đặc biệt có chữ ký của tác giả. Như vậy Võ Phiến hoàn toàn biết và ý thức được tập Quê hương tôi được Nhã Nam xuất bản ở Việt Nam.
Sự trở về của Võ Phiến không âm thầm nhưng cũng không ồn ào. Một đặc điểm rất lạ. Chưa thấy những tay chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng vung bút. Nhớ lại mấy năm trước, khi mấy tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu được xuất bản ở Sài Gòn, mấy chiến sĩ canh mặt trận văn hóa tư tưởng có ngay mấy bài đả phá. Lác đác đã thấy có những bài điểm sách giới thiệu về tập tùy bút Quê hương tôi này. Như vậy sự trở về không phải là âm thầm, không phải là "huyền hạc quy lai kỷ cá tri", chỉ chưa đến mức trống giong cờ mở ca khúc khải hoàn, và không biết có phải là một cuộc trở về lớn lao sau những bôn ba và thăng trầm của lịch sử. Hồi ký của Nguyễn Hiến Lê cho biết Võ Phiến, Vũ Hạnh từng cộng tác với nhau ở tạp chí Bách khoa. Sau những thăng trầm đấy, không biết, giả sử như họ gặp nhau thì câu đầu tiên họ nói với nhau là gì? Và có khi lịch sử vị tất đã có những cuộc gặp gỡ như thế. Phôi pha.
Tại sao lại có tên "Quê hương tôi"? Phải chăng đó là một chỉ dấu cho sự đầu hàng vô điều kiện của một kẻ chống Cộng phiêu bạt không quê hương khi đã xế bóng gần trời xa đất? Thương thay cũng một kiếp người / Sống nhờ hàng xứ chết chôn quê người. Không có một quê hương tôi!

Note: Bữa trước Gấu có nhờ 1 anh bạn ở Cali phôn hỏi VP v/v này. Ông lẩn thẩn rồi, không còn nhận ra ai nữa, và đưa điện thoại cho Viễn Phố, tức phu nhân của VP.
Bà cho biết, gia đình không hề biết chuyện VN in sách của ông chồng.
Như vậy, 100 cuốn sách có chữ ký của VP, chắc là chữ ký.... dởm?
Gấu mới check lại. Anh bạn Cali cho biết, VP lãng tai, chưa có lẫn. Nói lại cho rõ.

Tại sao lại có tên "Quê hương tôi"? Phải chăng đó là một chỉ dấu cho sự đầu hàng vô điều kiện của một kẻ chống Cộng phiêu bạt không quê hương khi đã xế bóng gần trời xa đất? Thương thay cũng một kiếp người / Sống nhờ hàng xứ chết chôn quê người. Không có một quê hương tôi!
DA

Đọc mấy dòng trên Gấu bật cười, thương hại cho tên VC ngu si này.
 Bởi vậy mà Gấu mới phán, lũ VC suy luận với 1 nửa bộ não, còn 1 nửa ”phía bên kia”, bị liệt.

Sợ rằng chúng cũng không làm sao hiểu nổi điều này!

*

*

« Il faut se défaire de tout espoir ».

Pour Zweig, le nazisme ne constituait qu'une crise  transitoire. Son ami Joseph Roth, convaincu de l'irréparable, l'exhorta en vain à quitter cet attentisme.
Note: Khi viết cho tờ Văn Học của NMG, số đặc biệt về Võ Phiến, Gấu Cà Chớn đọc ông, song song với Zweig [Nhà Văn Âu Châu vs Nhà Văn Bình Định], nhân đọc số ML đặc biệt về Zweig.
Lần này, cũng đọc VP qua Zweig, cũng nhân số đặc biệt ML, về Zweig, nhung cùng lúc, qua Joseph Roth.
Roth, một cách nào đó, lại gợi ra, không phải Võ Phiến, mà là 1 nhà văn Bình Định, khác, Nguyễn Mộng Giác.
Bởi vì, nếu Roth viết Hành Khúc Radetsky, thì NMG có ngay Mùa Biển Động để chọi lại!


*

Wednesday, 1 August 2012
tùy bút Quê hương tôi - Võ Phiến

Sáng nay tạt qua nhà sách HN. Thấy cuốn tùy bút Quê hương tôi, in đẹp quá, bìa cũng đẹp, của tác giả Tràng Thiên. Cứ ngờ ngợ trong đầu, sao từ lâu không nghe tác giả này. Nhìn kỹ lại bìa thấy rõ ràng hình Võ Phiến???, đọc kỹ tác giả tên Đoàn Thế Nhơn, sinh tại Bình Định, có cả lời bình của Nguyễn Hiến Lê. Không lẽ là tác phẩm của Võ Phiến hay tác giả nào khác.
Chỉ còn một cuốn duy nhất, sợ quá cầm theo luôn.
Về tra lại Google thì ra Đoàn Thế Nhơn là Võ Phiến. E hèm
Mới hay Võ Phiến còn các bút danh Tràng Thiên (http://thuykhue.free.fr/stt/v/VoPhien.html). Người ta giấu tiệt cái tên Võ Phiến trong toàn cuốn sách. Ngay cả "Lời tựa" rất hay của Nguyễn Hiến Lê cũng cắt khúc luôn (http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=8342&catid=7).
Dù gì thì "người ta" cũng in sách của ông ở "chế độ mới" này dưới cái tên khác. Hơi muộn màng (không biết còn cuốn nào khác được in rồi mà mình chưa có)
Cảm ơn Nhã Nam :).
Thấy bên vinabook còn
Mua nhanh kẻo họ thu hồi :) (2)

Note: Bức hình Võ Phiến, lấy từ tờ Văn Học, của NMG, số đặc biệt về ông, nếu Gấu nhớ không lầm.
Như vậy là phải có sự đồng ý của VP chứ, nhỉ?
Nhảm thực, ông tiên chỉ, thủ lãnh đám Chống Cộng Điên Cuồng về được, vậy mà thằng em về thì bị đá đít, không phải 1 mà tới 2 lần!

Note: Một bạn văn ở Cali, mới liên lạc với VP, cho biết, ông không còn được minh mẫn như trước nữa, do tuổi già, và nhường phôn cho vợ, bà nói, gia đình không hề biết chuyện in sách ở Việt Nam.
NQT

Trong Nhà Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất hiện, Vũ Ngọc Phan đã tiên đoán, văn tài của ông sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới lớp sau. Có thể mượn ý của Sartre, về chủ nghĩa Marxisme, và nối điêu: Tùy bút của Nguyễn Tuân quả đã "không thể vượt được", nhất là chất khinh bạc của nó, di truyền mãi về sau này, và gần như trở thành những dấu ấn văn chương của cả một miền đất: độc, đểu, sỏ lá… nhưng không một ai có thể vượt lên trên tất cả những tính chất đặc sản đó, ngoài Nguyễn Tuân ra, bởi vì, như nhìn ra phần số khắc nghiệt đó, để bù lại, [để hoà giải với nó: cái ác?], trong truyện ngắn, Nguyễn Tuân thường viết về những người đã chết.
Khi đó, chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của ông đẩy tới tột cùng, biến thành…  lòng nhân hậu.

Cá nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những viên ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh dấu những trang Sách Hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng. Đánh dấu những trang sách, của một chuyện tình: chúng làm cho những lần chia ly bớt nặng nề, thê thảm, có thể chịu đựng được...; của một cuộc chiến: như những viên đất ném theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...

Nhận xét của họ Vũ về thể văn tuỳ bút, ở Nguyễn Tuân, không ngờ đầy chất tiên tri. Những bài viết của ông sau này, là ký, không còn là tuỳ bút. Với tuỳ bút, cái "tôi" rất quan trọng. Cá nhân người viết, khi đọc Những essays hay nhất trong năm của Mỹ, The Best American Essays, thấy chúng rất giống thể văn tuỳ bút, ở tính tự thuật, ở chất hồi tưởng, và nhất là ở tấm lòng của người viết, khi chuyện trò với những hồn ma. Tuyển tập những bài essay hay nhất (hàng năm) của Mỹ, có một đặc biệt: mười hai năm hiện diện cho tới nay, mỗi năm mời một tác giả làm "guest editor", thường là những khuôn mặt nổi tiếng: Joyce Carol Oates (1991), Susan Sontag... Gần đây nhất là Jamica Kincaid (1995), Geoffrey C. Ward (1996). Tuyển tập 1997, với Ian Frazier lo việc in ấn và viết lời giới thiệu, có bài viết của Lê Thị Diễm Thúy, The Gangster We Are All Looking For. Qua phần ghi chú tiểu sử, chúng ta được biết, bà là một nhà văn, và nghệ sĩ trình diễn đơn (solo performance artist). Sinh tại Việt Nam, lớn lên tại miền Nam California, hiện cư trú tại phía tây Massachusetts. Đã từng đoạt giải thưởng 1997 Bridge Residency của Headlands Center for the Arts. Văn xuôi và thơ của bà đã xuất hiện trên The Massachusetts Review, Harper's Magazine, và Muae. Tác phẩm trình diễn: Red Fiery Summer  và the bodies between us. Hiện đang viết cuốn sách với nhan đề Gã Găng-tơ... nêu trên, sẽ do Knopf xb.

Có điều, cả Nguyễn Tuân lẫn Vũ Ngọc Phan không thể ngờ, thể văn tuỳ bút lại trở thành một địch thủ lợi hại của thơ ca và giả tưởng, như trong bài Tựa của Robert Atwan, cho Tuyển tập 1997 kể trên: "Sự thay đổi của thể essay ngày hôm nay làm cho thi ca và giả tưởng trở thành tù đọng: essay là một dạng văn chương năng động nhất hiện nay của chúng ta. Nào là essays kể (narrative), như của Lê Thị Diễm Thuý, rất gần gụi với thể truyện ngắn. Essays khảm (mosaic) giống như thơ xuôi. Rồi phê bình văn chương mang dạng tự thuật. Thể văn báo chí mang giọng bi kịch, cộng thêm ẩn dụ, suy tưởng, với một liều lượng rất nặng tay, những thông tin. Một vài nhà essayists viết tranh luận (polemic) "cứ như thơ"! Trong bài giới thiệu, Ian Frazier lại coi essay là một hành động, (thì "đi" không phải là một hành động hay sao?, tôi như nghe Nguyễn Tuân, Vũ khắc Khoan, tuyết ngưu "gầm gừ" từ phía bên kia đời sống vang vọng qua). Ông định nghĩa thêm: Một bài essay là một người đang nói. Câu này thật đúng với tuỳ bút Nguyễn Tuân. Đây là sự khác biệt giữa hai Nguyễn Tuân, giữa tùy bút và ký. Có thể nói khinh bạc là tuỳ bút Nguyễn Tuân. Với ký, con người biến mất, chỉ còn "chúng ta", một khối vô danh đáng ghét, đáng sợ. Có thể có người bắt bẻ, trong truyện ngắn, trong tiểu thuyết, luôn luôn vẫn thấy, vẫn nghe người nói, nhưng người ở đây chỉ là giả tưởng, cái tôi trong tiểu thuyết, truyện ngắn là một tôi đeo mặt nạ. Khác hẳn cái tôi "bắt buộc", như chất khinh bạc, ở trong tuỳ bút Nguyễn Tuân. Khi nào quá chán cái tôi khinh bạc, ông viết về những người đã chết...
Chữ người tử tù

Nguyễn Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân!

Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay phút đầu tiên bị văng ra khỏi vườn Địa Đàng. Tôi đã viết về Nguyễn Tuân thứ xịn này: Cảnh Huấn Cao phán, những con người như ông, những chữ như thế này, phải tìm đất khác để mà tụ lại, chẳng thèm nghe viên cai ngục lí nhí, xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.

Sẽ có người bực mình, đã đọc Chữ Người Tử Tù, đâu có thấy những dòng chữ bịa đặt trên? Thiển nghĩ, đọc là mô phỏng, là tưởng tượng, là thêm thắt... Nếu như bạn muốn trung thành với văn bản, xin thưa đây: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, theo như kể lại, là cuốn họ Nguyễn đắc ý nhất, đắc địa chỉ có mỗi một câu: "Xuyến người bên lương hay người bên giáo?" Ôi chao, phải đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao nhiêu lần tiếng cười ở nơi cổ họng cái chết (6) phải tàn bao nhiêu ngọn đèn dầu lạc, phải tu tận hoan (7) bao nhiêu lần, bỉnh chúc (8) bao nhiêu phen, phải để cho nhân vật của mình ngã ngửa ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình, rồi cứng đơ người, rồi á khẩu, sau khi "lụy" một nước cờ, mới có thể phán một câu nhẹ nhàng như vậy: "Xuyến người bên lương hay là bên giáo?"
Một chuyến đi

7.7.2010

 “Mot chuyen di" cua GNV hay qua. Nguoi trong nuoc cung dang viet hang loat ve Nguyen Tuan, nhung khong hieu sao, doc ho cu co cam giac nhu dang nghe mot nhom nguoi noi chuyen voi nhau trong mot... dam gio^~.

*

Đỗ Minh Tuấn:

Tay này rất quí Gấu, và tình nguyện chở đi yết kiến mấy vị chức sắc, như Hoàng Ngọc Hiến, Dương Tường…
Gấu trước đó, đã đọc 1 bài viết của anh về hoa, về Nguyễn Du, nhớ đại khái, trên tờ Văn Học của NMG, và còn nhớ bài gây ấn tượng. Bữa đó, Gấu cũng nói ra ý kiến của Gấu về bài viết trên. Anh thú lắm, vì, hình như cũng có nghe giang hồ truyền tụng, Gấu chưa từng khen giả đò ai cả!

Làm gì có chuyện trước 1975 Gấu nhắc tới những đại gia như Mai Thảo, Võ Phiến!
Bởi thế mới quên bài viết về VP nhằm trám lỗ hổng trên trang VHNT, tờ Tiền Tuyến, do Gấu phụ trách!

Bị ám ảnh bởi câu nói của HPA, khi đám bạn văn VC chưa từng gặp, lũ lượr kéo nhau tới nhà ông cậu - ông tỏ vẻ ngạc nhiên, cả 1 nửa thế kỷ mới về mà sao nhiều bạn kéo tới thế - và khi 1 trong họ đề nghị ngày mai đi ăn, Gấu bèn gật dầu, và sau đó bèn lắc đầu, mời các bạn ghé nhà ông cậu làm bữa hàn huyên của đứa con hoang đàng, còn bữa tiệc kia tính sau, và bà chị ruột, cứ nghĩ thằng em được bữa ăn free, bạn VC mời, bèn ngã ngửa ra, mặt một đống, bảo thằng em, tao đã bảo mà, chẳng đứa nào dám bỏ tiền ra mời mày đâu!
Đúng lúc đó, bạn NQT từ dưới cầu thang đi lên, và có thể, có nghe loáng thoáng.
Gấu ngượng chín người, khi khách về, kêu bà chị sạc 1 trận, bà giận bỏ về quê luôn, mấy ngày sau mới lại xuống, vì chuyến đi trở về làng cũ, tiện thể ghé quê hương nhà chồng của bà.
Chả là, Gấu có tật, rượu vào lời ra, sợ ra quán, thất thố.
Sau bữa hàn huyên, le retour de l’enfant prodigue, thấy mọi người thật tình, thật tâm, Gấu bèn nhận lời ra quán.
Gấu đãi!
Nhưng cái cú ăn quán tiếp theo, do NBD đãi, mới hoành tráng, sang trọng, và mới đáng nhớ, vì Gấu được gặp nữ sĩ, và mết liền.
Thì cũng dân Sơn Tây nhà mình!

Khi Thảo Trường chưa đi xa, một lần gặp anh ở Cali, khi đó anh chưa biết gì về trang Tin Văn, Gấu khoe được nhiều người đọc, nhất là ở trong nước, và đề nghị, chỉ có cách đó để ra mắt độc giả trong nuớc, khỏi bực mình vì kiểm duyệt.
Anh gật gù hài lòng, và cho đăng gần như toàn bộ tác phẩm của anh trên TV, chỉ có tí bực mình nhỏ, khi Gấu chọn cái tên, "Quán Thảo Trường", và bèn chỉnh, tôi có bán cái chó gì đâu mà... Quán?

Cái vụ Tràng Thiên ra sách ở trong nước thật quá sức tưởng tượng của Gấu.
Một anh bạn giải thích, có thể người nhà, bà con ở trong nước, chứ không phải VP.
Đếch được.

Thứ nhất, cái tên Tràng Thiên, vốn VP chỉ sử dụng để dịch, chưa hề dùng cho sáng tác. (1)
Khi trong nước dùng cái tên đó, là phải có ý kiến của VP.
Làm sao mà phải đổi tên của chính mình?
Võ Phiến là từ Viễn Phố thân thương mà ra mà!
Y chang cái vụ dịch cái tên Mẽo ra cái tên Việt, khi ký tên lãnh tiền Mẽo viết VHTQ!

Note: Cái vụ này phải viết ra liền, ông VP mà đi xa là đếch viết được nữa!
Chỉ là đồ chơi

Trong cuốn tạp bút “Cuối Cùng” xuất bản năm 2009, nhà văn Võ Phiến hạ bút viết một câu mà khi đọc tôi phải giật mình. Ông bảo, “Chuyện sáng tác có gì đáng nói?”
Một nhà văn với tuổi đời như ông, lừng lẫy với sự nghiệp văn học đồ sộ trên dưới năm mươi tác phẩm để lại cho đời sau, nói câu nói như thế, thoạt nghe qua tưởng như có cái gì khinh bạc, nghịch lí nằm bên trong. Nó như tiếng sấm nổ giữa đồng không mông quạnh.
Chưa hết, ông bảo tiếp, “Tôi e những món thơ thẩn với tuỳ bút nọ kia đều phải xếp về phía đồ chơi. Những cái mình miệt mài mãi bấy lâu, khi đầu bạc nhìn lại là đồ chơi cả. Không riêng mình, bao nhiêu người miệt mài vẽ tranh, soạn nhạc, hát xướng, bao nhiêu hình vẽ ở các hang động tiền sử, các tranh dân gian (nào gà lợn, nào đô vật, nào đánh đu), các câu ca dao, hát ví, quan họ . . . một thời, các món nghệ thuật là cùng chơi thôi.”
Nhưng có thật đấy chỉ là lời nói suông của một Cristoforo Colombo, sau khi khám phá ra Tân Thế giới, nhún vai, bĩu môi, bảo kẻ thán phục đứng bên cạnh, “Hey, man. It's no big deal”? (1)
TYT
*
Về già, hết còn chơi được, mà còn ngộ ra văn chương chỉ là đồ chơi thôi, quả là tiếng sấm nổ giữa đồng không mông quạnh thật!
Nhưng đọc kỹ, Võ Phiến hình như muốn nói, văn chương, thì cũng chỉ cuộc chơi, trò chơi, trò đùa cả!
Ông không định nói, "chỉ là đồ chơi"!
"về phía đồ chơi", khác "chỉ là đồ chơi"?

Viết mới chả lách!
No big deal!
NQT

(1) Thú thực, chuyện khám phá Mỹ Châu thì ăn nhậu gì ở đây? Từ VP qua Kha Luân Bố, rồi trở về với em nhí ngồi thả thuyền khóc nức nở vì mất cả thơ, đúng là 'tẩu hoả nhập ma' mất rồi!

Không ‘chơi’ được thì đừng có cố!
*

Năm hổ, nói chuyện hổ.
Bất giác Gấu nhớ một câu chuyện trong Liêu Trai, về một ông hổ, một bữa buồn quá, hóa thành một anh học trò, và gặp một danh sĩ. Ông hổ này được nghe những lời vàng ngọc, mê quá, cứ lẽo đẽo theo hầu, cho tới một bữa, danh sĩ gặp bạn, hình như tại...  "Blog Voilà" gì đó!

Thế là một bàn tiệc được bầy ra, thi nhau mà nhả ngọc phun châu, ông hổ nghe một hai câu, còn cố chịu được, nhưng nghe mãi hết chịu nổi, bèn năn nỉ, thôi, thôi, đủ rồi. Mấy thằng khùng kia, nhất định không chịu thôi viết, thôi dịch, thôi diệt. Ông hổ phát điên lên, thế là bèn rùng mình một cái, biến lại thành hổ, làm sạch đám khùng, rồi cúi lạy danh sĩ nhảy vọt vô rừng!
*
Gấu chưa được đọc "Cuối Cùng" của Võ Phiến, nhưng qua trích dẫn, có vẻ như ông đã ngộ ra, một sự thực về cõi văn của ông, sau những thăng trầm của nó, từ  khởi đầu, với những truyện ngắn chấn động cả hai miền đất Trung Kỳ và Nam Kỳ của nước Mít, cho đến khi bị lu mờ vì cuộc chiến, rồi, ra hải ngoại, lại sáng rực lên như ngọn hải đăng, để cho đám Mít lưu vong nhìn về phía ngọn Thái Sơn Bắc Đẩu, thấy mình vẫn còn, nền văn chương Miền Nam vẫn còn.

Một bạn văn, khi đọc những gì Gấu viết về Võ Phiến, nhận xét, Gấu viết chậm quá, giá sớm hơn một chút, có lẽ Võ Phiến hiểu ra được, và có thể, trả lời.
Đúng như thế.
Nhất là sau khi Gấu đọc bài của Trùng Dương, viết về lần mới ghé thăm vợ chồng ông trên Blog VOA.
Bà cho biết, Người có vẻ lẫn rồi.
Cũng qua anh bạn cho biết, khi VP dọn về Tiểu Cali, và khi thấy Gấu qua vùng này thăm bạn bè, đã nhắn anh, mời Gấu ghé nhà ông chơi, nhưng do ham chơi quá, Gấu quên mất.
Phải viết ra chi tiết này, khi VP chưa đi xa, để cho thấy, chính ông không hề giận Gấu, hay nghĩ Gấu này có gì thù hằn ông.
Trong VHTQ ông nhắc tới Gấu rất đàng hoàng. Chẳng có lý do gì để mà Gấu 'mạ lỵ' ông.
Nhưng thà viết về ông khi ông còn sống.
Khi ông đã mất, không làm sao viết ra được nữa!
*
Gấu ra hải ngoại, đọc lại Võ Phiến, lần thứ nhất, qua một bài viết trên tờ Làng Văn. Ông rao giảng về bài “hành” nổi tiếng, "Đưa người ta không đưa qua sông", với người bạn văn của ông là Nguyễn Hữu Nhật, và nhân đó, bàn về dịch thuật, mà theo ông, thơ bất khả dịch. Một độc giả có đưa ra một ý riêng gì đó, về bài thơ, và về dịch, và xin được chỉ giáo.
Chỉ có thế, mà ông bực lắm, rõ ràng là như vậy, gắt ngậu lên, mi không biết gì thì câm đi, để yên cho ta và bạn ta bàn về thơ!
Tất nhiên, lâu ngày quá, không nhớ rõ, nguyên văn câu của ông, nhưng ý thì rõ như vậy. Gấu đã từng nhắc tới chuyện này một lần rồi, nay nhắc lại, chỉ để lấy đà viết tiếp.
 
Viết về tập truyện mới xb bản của Primo Levi, A Tranquil Star: Unpublished Stories, [Ngôi sao trầm lặng: Những chuyện chưa xb], của Primo Levi, dịch từ tiếng Ý, Anita Desai tự hỏi, liệu có thể dùng từ "playful" [dzui thôi mà] để nói về những tác phẩm của Primo Levi, như Sống sót Lò Thiêu, Liệu đây có phải một người ?, về cuộc đời mà ông đã trải qua, nhưng không thể nào, chẳng bao giờ bỏ lại phía sau mình.
Và bà trả lời, playful, đúng là cái tính từ "ấn tượng", "chót", mà một nhà phê bình có thể nghĩ ra được, khi "đọc" Lò Thiêu, khi đang đi trên Đại Lộ Kinh Hoàng, khi đang hứng những trận mưa hỏa tiễn của VC giáng xuống đầu dân Sài Gòn…, bởi vì, đọc tập truyện, quả là bà chỉ nghĩ đến "một góc trời chỉ biết rong chơi", của TCS!

Tất cả những truyện ngắn trong đó đều gợi nên cái sự rong chơi, vui đùa, cười cợt!
Ấn tượng thật!

What if, liệu, nếu, giả như, chú chuột giảo thử tối nay đi dự dạ tiệc? Liệu, nếu, giả như cuộc vui tối nay là một cuộc tử chiến giữa người và xe hơi?
*
Thật sự mà nói, Primo Levi có quá ít, để được những nhà chuyên săn tìm tiểu sử chú ý tới. Ông sống một cuộc đời "nhà nghề" chẳng có gì đặc biệt (một chuyên viên ngành hóa), một cuộc sống riêng tư "một mầu". Ông sử dụng những cuốn sách của ông để kể và miêu tả cuộc đời mà ông đeo đuổi đó. Nếu bạn muốn biết ông đã làm gì, nghĩ gì, ông cảm nghĩ ra sao, bạn chỉ phải đọc ông. Như một hậu quả, bất cứ một kể lại (retelling) "cuộc đời và tác phẩm" sẽ chịu rủi ro: một cố gắng thất bại tự thân (self-defeating effort) nhằm tái sắp xếp và đảo qua đảo lại (paraphrase) những bản viết của ông. Và theo Tony Judt, trên tờ The New York Review of Books (May, 20, 1999), đây là thất bại của "Bi kịch của một người lạc quan", cuốn tiểu sử mới nhất về Levi của Myriam Anissimov (bản Anh ngữ, dịch từ tiếng Pháp, của Steve Cox, nhà xb Overlook, 452 trang, $37.95). So với bản tiếng Pháp, hoặc tiếng Ý, bản tiếng Anh đã sửa lại cho đúng, một số sự kiện, và tuy không hấp dẫn, nhưng đọc được và chứa đựng nhiều thông tin hơn. Điều tai hại ở đây là, tác giả cuốn sách đã thất bại không giải thích cho độc giả hiểu được một điều: tại sao Primo Levi lại hào hứng hấp dẫn đến như thế? Nhưng ít nhiều bà đã cho người đọc nhận ra, Primo Levi "đứng được" với "thời gian", như là một thế giá văn chương và hồi ức về Lò Thiêu: Một người diễu cợt (ironist) và hài hước (humorist) đã đi đi lại lại - như là một cách chơi - qua những nấc thang âm thanh, đề tài, giọng điệu... Primo Levi được trình bầy ở đây: như là một con người lạc quan, một Do-thái đã hội nhập vào một người Ý trong cơn đọa đầy ở Auschwitz. Có thể so sánh với Dante, bằng cách diễn tả Ulysses - một hình tượng văn chương mà Levi ưa thích, và cũng là một hóa thân của ông - như một người lính già trên đường qui cố hương kể lại một vài vấn đề khi rong chơi nơi Lò Thiêu.
Đây có phải một người


Note: Khúc trên, trong 1 trang TV, server cho biết, đang hot! (1)
GCC đoán mò, độc giả TV đang gõ Google những cụm từ liên quan tới Võ Phiến.

*

Những tác phẩm lớn nhất của ông là những ác mộng của đắn đo, ngại ngùng, được ghi lại bởi một tay tiếu lâm, và bởi 1 ông vua ngụ ngôn, bằng cái giọng của một biên bản tòa án
Alexandre Vialatte: Kafka của tôi

Kafka, cũng có gì tương tự với Primo Levi: cái chất tếu.

"Vào năm 1926 (...) tôi tưởng mình lăng-xê một trong những ông hoàng hóm hỉnh. Hoá ra là một Sa Tăng [Prince des ténèbres]."
Alexandre Vialatte, người đầu tiên dịch Kafka ra tiếng Tây, tuyên bố cách đây 20 năm.

Nhà văn người Prague này là một con chuột viết, un rat de l'écriture, chỉ cần một ngọn bút và một ngọn đèn, để sống còn.
Roland Jaccard (3 Tháng Hai, 1989).
[Trích Le Monde, Hồ Sơ &Tài Liệu Văn Học, số Tháng Giêng, 2005.]

Ernst Pawel, ở cuối cuốn tiểu sử Kafka của ông, [1984], nhận xét, "văn học bàn đến Kafka và tác phẩm của ông vào lúc này đã có cỡ chừng 15 ngàn bài viết, chỉ trong số những ngôn ngữ được sử dụng nhiều trên thế giới". Kafka đã được đọc, bằng đủ thứ kiểu: văn học, ám dụ, chính trị, tâm lý.... Những cách đọc như thế, vẫn là thiểu số, so với con số những bản văn, đưa tới một phát giác rất ư là kỳ cục của chuyện đọc sách, rằng, cùng một bản văn, mà, có người đọc thì cười, có người thì chán. Con gái tôi, là Rachel, đọc Hoá Thân vào năm nó 13 tuổi, và thấy "tếu lâm" [humorous]; Gustav Janouch, bạn Kafka, coi đây là một ngụ ngôn tông giáo, đạo hạnh. Bertold Brecht đọc nó như là một tác phẩm "của một nhà văn Bôn sê vích thứ thiệt". Nhà lý luận Mác xít người Hung, G. Lukacs, thì lại coi đây đúng là sản phẩm suy đồi của một tên trưởng giả. Borges đọc nó như là một cách kể lại [retelling] những nghịch lý Zeno. Nhà phê bình người Pháp, Marthe Robert coi đây là một thí dụ về tính trong sáng bậc nhất của ngôn ngữ Đức. Những câu chuyện kể của Kafka, được nuôi dưỡng bởi kinh nghiệm đọc của ông, dâng hiến, và lấy đi, cùng một lúc, toan tính đọc để hiểu, tức ảo tưởng hiểu, nắm được ý nghĩa của bản văn, như thể, những bản văn của Kafka đó, chúng giống như những bản nháp, của một nhà văn tên là Kafka, nhằm thoả mãn một người đọc tên là Kafka.
Alberto Manguel: Một lịch sử về chuyện đọc sách [A history of reading]

Thành thử, khi Sến Cô Nương cho biết, Kafka là tác giả gối đầu giường của Sến, Gấu thực sự ngạc nhiên.
Văn Sến, độc, lạnh, gây sốc, thí dụ, “ngửi khói hàng xóm đủ no”… nhưng không tếu.

Ai, ngoài Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Grossman: Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

Trong Chết như là Cách Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.
Grossman: Tôi không nghĩ, người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu.
(2)

Cứ như câu trả lời của David Grossman, thì quả là Sến gối đầu Kafka thiệt!:

A belief like a guillotine – as heavy as light.
Franz Kafka: Reflections on Sin, Suffering, Hope, and the True Way
[Niềm tin thì cũng giống như cái máy chém. Nặng như thế. Mà nhẹ, cũng như thế]. 

Hai Lúa tin rằng nhà thơ VC Phạm Tiến Duật phải đã từng đọc Kafka, nhất là câu trên, mới nẩy ra hứng sáng tác, câu thơ thần sầu:
Đường ra trận mùa này đẹp lắm!

Cái máy chém đó. Niềm tin đó.
Nhẹ và đẹp, như câu thơ của họ Phạm.
Nặng, là cái chết của ba triệu người, ở cả hai miền, kể cả thường dân và binh sĩ.
Bằng con số nạn nhân Lò Thiêu. 

One reads in order to ask questions.
Kafka [ Alberto Manguel trích dẫn, trong A history of Reading]
Người ta đọc, để hỏi. 

Yet any translation, however influencial, harbors its own dissolution. Literature endures; translation, itself a branch of literature, decays.
Cynthia Ozick: The Impossibility of Being Kafka, Sự Không Thể Là Kafka. In trong Quarrel & Quandary, tập tiểu luận, nhà xb Vintage, 2001.
Dịch, cho dù ảnh hưởng tới cỡ nào, cũng chỉ là trò thả mồi bắt bóng, nghĩa là, lấy cái tâm sự nát tan - hay như người ta nói, sự phản bội kia - như là niềm cưu mang của chính nó:
Giật mình, mình lại thương mình xót xa!
Văn, như gừng, càng già càng cay.
Dịch, như củi, càng lâu càng mục.

.*

Cuốn “Những phê bình gia của thời chúng ta và Kafka”, Gấu mua trong đống sách bán xon của tiệm bán sách Tây độc nhất, nhưng đã sập tiệm, ở Toronto, Champlain
Gần như đủ hết những tên tuổi lớn, đều có tiếng nói về nhà văn, sách hân hạnh được Sến gối đầu giường, và, đã từng tuyên bố, Cáp Ca là người Mít, khi được hỏi, liệu có tí mùi Kafka trong văn của bà....

*

Librairie Champlain: A French Bookstore - CLOSED

City's lone French bookstore to close

Ui chao Gấu có không biết là bao nhiêu kỷ niệm với tiệm này. Cuốn Lý Thuyết Tiểu Thuyết, La Théorie du Roman, của G. Lukacs, mua ở đây, khi nó vừa được tái bản.
Mua gửi NN, giữ cuốn cũ lại, của 1 ông bạn, quen qua NTV, ở Montreal, tặng. Ông này mua cuốn này cùng thời với Gấu, mua ở Sài Gòn, những ngày mới làm quen với Lukacs.
Cả một bộ Ðệ Nhất Kỳ Thư, Dits et Écrits mấy ngàn trang của Foucault, gồm 4 tập. Cuốn Bịnh Nhân Anh, bản tiếng Tây, mua chỉ vì cái bài giới thiệu bản tiếng Pháp.
Ðó là thời gian đọc sách. Khi có internet, kể như không còn ghé tiệm nữa. Tiệm đóng cửa cũng chẳng hay. Ðệ Nhất Kỳ Thư là nick của NTV gọi bộ sách của Foucault. Trong tiệm cũng có 1 khu trưng bày sách cũ. Gấu vớ được 1 cuốn về Kafka, gồm gần như toàn thể những phê bình gia hách xì xằng nhất thế giới, viết về ông. Có những quầy thật dặc biệt, dành cho từng nhà xb, từng tủ sách, Gallimard, Point, Policier... Tất nhiên làm sao thiếu khu dành cho sách mới ra lò, sách được giải thưởng...


Nguyễn Tuân nổi tiếng với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân, nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó. Những người viết sau này, không thể nào tới được cái chất khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi Tây, đi Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés... Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể "hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây" bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương. Nó ngấm vào ông Adam và bà Eva, ngay phút đầu tiên bị văng ra khỏi vườn Địa Đàng. Tôi đã viết về Nguyễn Tuân thứ xịn này: Cảnh Huấn Cao phán, những con người như ông, những chữ như thế này, phải tìm đất khác để mà tụ lại, chẳng thèm nghe viên cai ngục lí nhí, xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.

Sẽ có người bực mình, đã đọc Chữ Người Tử Tù, đâu có thấy những dòng chữ bịa đặt trên? Thiển nghĩ, đọc là mô phỏng, là tưởng tượng, là thêm thắt...
Nếu như bạn muốn trung thành với văn bản, xin thưa đây: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, theo như kể lại, là cuốn họ Nguyễn đắc ý nhất, đắc địa chỉ có mỗi một câu: "Xuyến người bên lương hay người bên giáo?" Ôi chao, phải đốt bao nhiêu nhân sinh hệ luỵ, phải nghe bao nhiêu lần tiếng cười ở nơi cổ họng cái chết (6) phải tàn bao nhiêu ngọn đèn dầu lạc, phải tu tận hoan (7) bao nhiêu lần, bỉnh chúc (8) bao nhiêu phen, phải để cho nhân vật của mình ngã ngửa ra giẫy đành đạch ngay giữa sân đình, rồi cứng đơ người, rồi á khẩu, sau khi "lụy" một nước cờ, mới có thể phán một câu nhẹ nhàng như vậy: "Xuyến người bên lương hay là bên giáo?"

"Nguyễn Tuân hỏi tôi
:-Có nhớ Két không?
-Tay Két trinh sát tiểu đoàn 54?
-Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao.
Thì ra cái đầu đường đêm hôm chẳng thú vị chút nào, chính Nguyễn Tuân mới đang hồi tưởng..."
(Cát Bụi Chân Ai, trang 12. Tô Hoài, nhà xb Thanh Văn, Cali, không ghi năm).

 Mắt xanh hay mắt trắng (To be or not to be?). Văn là người, nhưng văn cũng để giấu người: chất khinh bạc vốn lồ lộ trong Nguyễn Tuân, là để giấu con người thực của ông. Người đọc sướng điên lên, vỗ đùi bành bạch, vì nét tài hoa, vì con mắt trắng dã của Nguyễn Tuân, nhưng để lọt mắt xanh của ông, phải là độc giả của những câu văn nhẹ khôn kham: "cứ đến ngồi đây là mình lại nhớ đến nó. Không hiểu sao."
Một chuyến đi

Cái mà Võ Phiến thiếu, nhất, là 1 cõi lòng nhân hậu, khi viết về bạn văn.
Thí dụ, nhiều lắm:
Ông viết về nhóm Giao Điểm: Không "làm cách mạng" được, thì "làm dáng":
Viết về nhóm Sáng Tạo: hoa hòe hoa sói, kiểu cách, ưỡn ẹo, hoặc tối tăm rối rắm.
Thua cả đàn em của ông, cũng dân Bình Định, là Nguyễn Mộng Giác: Chưa bao giờ VP dám khen 1 tay nào viết bảnh hơn ông, NMG thừa sức làm điều này. Tham vọng văn học của NMG cũng bảnh hơn, trường thiên tiểu thuyết, nhân vật trùm xứ Mít: Nguyễn Huệ.
NMG về với VC Gấu tiếc hùi hụi, còn VP, never!

Hà, hà!

Làm sao mà VP viết nổi câu văn bình thường: Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu sao.

Nguyễn Tuân buông một câu: Không hiểu sao, tôi cứ loay hoay tìm cách giải thích "vấn nạn này", và đành phải mượn Levi, mượn Kim Dung. Bằng một cách nào đó, Nguyễn Tuân đã giữ thân nhiệt của mình không bị môi trường Mùa Thu làm thay đổi. Và nếu ông nghĩ đến Két, thực ra là (còn) nghĩ đến bạn mình. Ở đây, ta lại thấy vị thiền sư xén tóc, và anh chàng võ sĩ dế mèn hăm hở với giấc mơ trừ hết ác ôn tề nguỵ. Và cái câu "Cứ đến ngồi đây..." đâu có khác gì hành động của vị sư già chuyên việc quét dọn Tàng Kinh Các, khi thấy hai ông sư giả cầy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn xào xáo lung tung kinh kệ tìm cho đủ 72 tuyệt kỹ võ công Thiếu Lâm, đã cố nhét những kinh Phật xen vô, để hy vọng cải hóa...

Nhân đang viết về Nguyễn Tuân vs Võ Phiến, gặp khúc này trong Blog VTN (1)

- Phải công nhận là Nguyễn Tuân có cái sòng phẳng của ông, ông không giấu cái tật mê thanh, mê sắc hồi xưa, song những duyên nợ dềnh dàng ấy, nay cái gì thấy cần phải dẹp đi, là tự ông dẹp đi liền. Một chuyện như thế này, không phải tự mồm Nguyễn Tuân nói ra, thì ai mà biết được. Đầu tháng 10-1954, ông có chân trong bộ phận cán bộ về tiếp quản thủ đô. Địa điểm tập kết là Hạ Hồi, Hà Đông. Trong khi những anh em khác chờ xe ô tô thì Nguyễn Tuân mượn bằng được chiếc xe đạp của ông chủ nhà trọ để đạp về Hà Nội. Về đến Bờ Hồ ông đang đi quanh quẩn thì nghe có tiếng chào : “Kìa, ông đã về”. Thì ra một bà chủ cô đầu. Bà hẹn ông đến chơi. Nhưng từ bấy đến khi ông qua đời, cái hẹn ấy ông vẫn chưa trả.


Trong phim Lã Sanh Môn, chỉ vì ăn cắp con dao mà người tiều phu đã nói sai đi một chút về sự thực cái chết của tay võ sĩ đạo. Cũng thế, là mọi nhân vật, từ tên cướp cho tới bà vợ, và luôn cả tay võ sĩ đạo, khi được triệu hồn. Nhưng, cũng người tiều phu, khi thấy không thể bỏ đứa con nít, thì lại đành nhận để nuôi, dù quá nghèo khổ.
Cái cú, nhờ nó, nhân loại sống sót, chính là cái cú ăn năn, “cũng đành” đó!
Mít chúng ta, trong văn chương, lẫn trong đời sống, chưa hề tỏ ra “ăn năn”, “cũng đành” như vậy.
Cú này, Gấu gọi là đòn “hồi mã thương”, nhân đọc truyện ngắn Võ Phiến, rồi lần ra sư phụ của ông, là Zweig. Nhân vật Võ Phiến gục ngay cú đầu, không làm sao gượng lại được. Trong khi chính cái cú hồi mã thương mới là cú làm cho nhân loại.... sống sót!
*
Tôi đọc Võ Phiến rất sớm, một phần là do ông anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông lúc đó cùng bạn bè chủ trương tờ nhật báo Tự Do, và sau đó, còn làm nhà xuất bản, nơi đã từng in cuốn Kể Trong Đêm Khuya (?) của Võ Phiến. Tôi đọc VP trước đó ít lâu, khi ông anh mang về nhà mấy tờ báo mỏng dính, in ấn lem nhem, như tự in lấy, tờ Mùa Lúa Mới, phát hành đâu từ miền Trung. (1) Tôi chỉ nhớ cái thuở ban đầu làm quen những nhân vật của ông, không còn nhớ đã từng viết về ông, một phần là do, thời gian sau đó, tôi mải mê, ngấu nghiến đọc những tác giả, mà tôi hy vọng họ giúp tôi giải thích tại sao sinh ra, tại sao sống, tại sao chết, tại sao có cuộc chiến khốn khổ khốn nạn đó...
  Lý do tôi không đọc Võ Phiến nữa, chính là nhờ ông, tôi lần ra một tác giả khác, giải quyết giùm cho tôi, một số câu hỏi mà những nhân vật của Võ Phiến không thể vượt qua được. Đó là  Stefan Zweig....
  Nhân vật của Võ Phiến rất giống nhân vật của Zweig. Tôi không hiểu ông đã từng đọc Zweig, trước khi khai sinh ra những Người Tù,  Kể Trong Đêm Khuya, Thác Đổ Sau Nhà... với những con người phàm tục, bị cái libido xô đẩy vào những cuộc phiêu lưu tuyệt vời, khi thoát ra khỏi, lại nhờm tởm chính mình, nhờm tởm cái thân thể mình đã dính bùn, sau khi bị con quỉ cám dỗ.... Nhân vật của Zweig cũng y hệt như vậy, trừ một điều: họ đều muốn lập lại cái kinh nghiệm chết người khủng khiếp đó. Và cú thử thứ nhì, lẽ dĩ nhiên là thất bại, nhưng nhờ vậy, họ vẫn còn là người, vẫn còn đam mê, vẫn còn đủ sân si... (2)
  Cái đòn thứ nhì này, tôi gọi là đòn gia bảo, gia truyền, không thể truyền cho ai, bất cứ đệ tử nào, như trong Thuyết Đường cho thấy, Tần Thúc Bảo không dám dạy La Thành cú Sát Thủ Giản, mà La Thành cũng giấu đòn Hồi Mã Thương...
  Trong truyện Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng, anh chồng biển lận khiến cô vợ quá thất vọng bỏ đi làm gái. Anh chồng tìm tới nơi, lạy lục, than khóc, cô vợ mủi lòng quá, bèn quyết định từ giã thiên thai, trở về đời. Trong bữa ăn  từ giã thiên thai, anh chồng không thể quên tính trời cho, tóm tay anh bồi đòi lại mấy đồng tiền tính dư, cô vợ chán quá, bỏ luôn giấc mộng tái ngộ chàng Kim.
  Hay trong Người Chơi Cờ, nhân vật chính, nhờ chôm được cuốn thiên thư dạy chơi cờ, mà qua được địa ngục. Về đời, thần tiên đã căn dặn, chớ có chơi cờ nữa, nhưng làm sao không? Chơi lần sau, là đi luôn!
  Nhân vật của Võ Phiến, sau cú đầu là té luôn, không gượng dậy được nữa. Thí dụ cái cô trong Thác Đổ Sau Nhà, gặp lại Người Tình Trong Một Đêm, bỗng tởm chính mình: Cớ sao lại ngã vào một tay cà chớn tới mức đó!
  Hay nhân vật Toàn (?) yêu cô gái, con một tay công chức (?), thất tình, anh bỏ đi theo kháng chiến, thay cái "libido" bằng "cách mạng", cuối cùng chết mất xác, không thể trở về đối diện với chính mình, với người yêu đầu đời...
  Ông bố cô gái, nếu tôi nhớ không lầm, thường viết thư sai con đưa tới mấy ông bạn cũ, để xin tiền. Lúc rảnh rỗi, hai cha con không biết làm gì, bèn đóng tuồng, con giả làm Điêu Thuyền, bố, Lã Bố...
  Võ Phiến còn một truyện ngắn, không hiểu sau khi ra hải ngoại, ông có cho in lại không, đó là truyện một anh CS về thành, được trao công việc đi giải độc. Giải độc mãi, tới một bữa, anh nhận ra là thiên hạ chỉ giả đò nghe anh lảm nhảm  tố cộng, nhưng thật sự là đang lo làm việc khác... Tôi không hiểu có phải đây là một thứ tự truyện hay không.
  Lần trở lại đất bắc, tôi gặp một ông rất có uy tín, cả trong giới văn lẫn giới Đảng, (đã về hưu). Ông cho biết, vụ VP bị CS bắt là hoàn toàn có thiệt. Nhưng chuyện ông được tha, không phải như Tô Hoài cho rằng mấy anh đưa người ra bắc trong chiến dịch tập kết năm 1954 đã bỏ sót, mà do một tay tỉnh ủy (?) có máu văn nghệ, đã ra lệnh tha, cho về thành....
  Sở dĩ tôi không thể nhớ đã từng viết về VP, một phần là do lớp chúng tôi chờ mong ở ông cái cú hồi mã thương, tức là cái kinh nghiệm ăn ở với người CS của ông, nó ghê gớm ra làm sao. Sau này, chúng tôi đọc, ở những tác giả khác, Koestler chẳng hạn... Có thể, khi giữ trang VHNT cho Tiền Tuyến, do cần bài, tôi đã viết về ông, và sau này, NXH đã đăng lại trên Văn. Nguyễn Hưng Quốc, trong bài viết "Có mấy NQT", trên Talawas, nhận định, ông không coi những bài viết về VP trước 1975 có giá trị [... của Phan Lạc Phúc, Mai Thảo, Ðỗ Tấn, cô Phương Thảo, Huỳnh Phan Anh, Viên Linh, Nguyễn Quốc Trụ, và Nguyễn Ðình Toàn.... tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng], những tác giả khác, không dám nói, nhưng với của tôi, cái dở đó có thể còn vì  lý do, là VP đã ở ngoài những thắc mắc văn chương của lớp chúng tôi. 

Cái sự kiện Ông Số 2 ngồi ở tòa soạn đại nhật báo, đại cơ sở báo chí của ông, ở Mẽo, bùi ngùi (?) phán, ở Sài Gòn, có kẻ chết đói, ngay bên hông Chợ Bến Thành, cho thấy, tấm lòng của ông đối với xứ Mít.
Cái sự kiện, ông chửi VC thoải mái, chẳng có tí mặc cảm, và trong khi chửi VC đập phá miếng đá tưởng niệm thuyền nhân tại 1 trại tị nạn, đã chôm 1 câu thơ, hay 1 cái tít, của "ông số 1" làm cái tít cho bài viết của ông ta, cho thấy, có 1 cái gì đó liên quan đến đòn…  Hồi Mã Thương!

Ðến điều gọi là sự sống sót của giống Mít, sau cú 30 Tháng Tư 1975. (1)

Thái độ của VP trong vụ gây nên nỗi buồn lớn trong đời viết của NMG, cũng quá tệ. Với cương vị của ông, chỉ cần vài dòng, phân biệt đâu là thực, đâu là giả, trong tiểu thuyết, là NMG hết buồn liền. Thay vì vậy, sợ Mặt Trận Khiến Chán quá, chắc thế, ông đếch cho NMG viết bài thanh minh trên tờ VHNT do ông làm Trùm [cái này là Gấu nghe kể lại thôi nhe, hình như cũng có đọc đâu đó, nhưng không nhớ].

Sở dĩ Gấu, bị băng đảng NS/DA nện "đau ra trò", dòng dã cả năm trời, khi Gấu dám chê tập truyện ngắn Mây Bay Đi của NS, ngay cả khi NS viết bài trên báo Sống, “Thưa Nguyễn Quân” yêu cầu trả lời, ấy là vì Gấu rất sợ đòn đâm sau lưng chiến sĩ của “phe ta”, thí dụ như khi VP lắc đầu, đếch cho NMG trả lời.
Ngay từ hồi “đó đó”, là Gấu đã hiểu ra rằng, mi muốn trả lời "thằng nào con nào", là phải sử dụng diễn đàn của mi. Hờ hững, hay không hờ hững thì Gấu cũng “đâu thèm” trả lời Thầy Kuốc/Sến Cô Nương, 1 phần là vậy, ngay cả khi Sến "xúi dại", sao anh không trực tiếp trả lời, mà cứ để cho độc giả talawas đỡ đòn giùm.
Phải đến khi lập trang Tin Văn, không còn tá túc nơi VHNT của PCL, và khi đi xong 1 đường tố cáo Cái Ác Bắc Kít, và chờ quá thời hạn “Phép Lạ Bí Ấn” mà Thượng Đế ‘grant” [ban cho], tức là chờ quá 70, thất thập cổ lai hy, thì lúc đó Gấu mới ra đòn đáp lễ!

Mà đáp lễ ra trò!
*


Cuốn sách được mong đợi nhất hiện tại, không phải là "Em làm ơn im đi được không":), mà là cuốn “Quê hương tôi” của Tràng Thiên. Tất nhiên là Tràng Thiên là Tràng Thiên, một trong hai người viết tùy bút hay nhất Việt Nam, theo ý tôi, tất nhiên. Mà tôi còn thích người này hơn người kia nữa. Nghe đâu “Quê hương tôi” đã có mặt ở Sài Gòn. Nói chung với những cuốn đặc biệt như thế này thì nên vơ lấy ngay khi có thể. (1)

Note: Không lẽ VP cũng… “hồi chánh” ư?
Lạ quá!

NQT

Làm sao mà so Tuỳ Bút Võ Phiến với của Nguyễn Tuân được. Nếu coi TB VP hơn TB NT thì có thể là do tuổi tác, đúng là còn trẻ. Thứ nữa, do thời của NT qua rồi, cùng với những thú vui của nó. Những Tàn Đèn Dầu Lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua chẳng hạn, cũng là tùy bút vậy. Tùy bút NT tới được chiều sâu của con người, còn VP láng cháng trên mặt. Về chiều sâu của con người thì truyện ngắn của VP bảnh nhất, khó ai hơn được ông. Tôi đang viết về đề tài này.

NQT

Trên TV, có tệ lắm hai bài về tuỳ bút Nguyễn Tuân. Tùy bút của VP là cũng từ tùy bút của NT mà ra, nhưng do không tới phần sâu của nó, nên chỉ khen lia chia cái phần hoa hoè hoa sói, thí dụ VP khen cái đẹp của 1 em “cong vút người”, như “cái roi đánh trống chầu”, trong 1 bữa hát cô đầu, nhằm  tránh cái hôn thô bạo của 1 vị khách. [Gấu không nhớ rõ chi tiết].
Nguyễn Tuân thần sầu ở những câu rất ư bình thường, thí dụ câu “Xuyến người bên lương hay bên giáo?": Viết cả 1 cuốn sách về cõi sa đọa, chỉ để phạng ra 1 câu rất người như thế, làm sao mà VP nhận ra được!

Nghe thấy rồi!

Nhất Linh, khi viết Đôi Bạn, lăm lăm với ý tưởng, phải làm bật lên hai nhân vật chính là Loan và Dũng, cùng với nó, là một thế giới cũ, mà hai người bị nó nghiền nát, đưa tới một cô Loan giết chồng sau đó. Cứ tạm coi, “nghĩa chính” của cuốn chuyện là Loan. Nhưng về già, khi viết Viết và Đọc tiểu thuyết, ông nhận ra, nhân vật phụ là Hà lại nổi lên lấn át nhân vật chính. Cái cảnh từ giã giữa người yêu và cô khép lại cuốn truyện mới tuyệt vời làm sao! Anh chàng tới từ giã người yêu, để đi làm cách mạng, nghĩ trong bụng, chắc là căng lắm. Nàng tuy căng lắm, nhưng cứ tỉnh như không. Chàng ra về, trên đường, bóp chuông xe đạp leng keng, như một nỗi vui nho nhỏ, rằng cuộc chia ly đã không thê thảm như là chàng nghĩ. Tiếng chuông vọng tới tai người yêu, nàng “đau” lắm, đau hơn cả nỗi đau chia ly [Hà bị bịnh lao, nghĩa là chẳng bao giờ có cơ hội gặp lại người yêu], bĩu môi, buông một câu:
 -Nghe thấy rồi!
 Đây mới là “nghĩa chính” của Đôi Bạn, mà đến chót đời Nhất Linh mới nhận ra!
 Chiếc Lư Đồng Mắt Cua của Nguyễn Tuân cũng kết thúc bằng một câu cà chớn như vậy:
 -Xuyến người bên lương hay là bên giáo?
 Hay câu kết của Bếp Lửa, nói lên ý nghĩa của bếp lửa:
-Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
 Câu nói đó, là câu nói của bao nhiêu năm sau này, của bao nhiêu con người sau này, đã sống sót cuộc chiến, sống sót cuộc bỏ chạy, sống sót biển cả, sống sót cuộc hội nhập nơi xứ người - như tiếng chuông xe đạp leng keng vọng về Quê Nhà.
  -Nghe thấy rồi!

Chúng ta tự hỏi, có gì nối kết những câu nói tưởng như bình thường, vô nghĩa đó? (1)
 

Còn ở hải ngoại này thì không một ai dí súng vào màng tang bắt viết, thì hà cớ gì phải vừa viết vừa cảnh giác đề phòng cộng đồng biểu tình chống đối?
Hoàng Khởi Phong, trả lời Trần Văn Thuỷ: Ở hải ngoại này có tự do sáng tác hay không? 

Theo tôi, quả là có nỗi sợ bị "dí súng vào màng tang", ở một số nhà văn hải ngoại, ở những thời điểm nóng bỏng của nó.
Trong những năm chiến tranh, Gấu tui may mắn có được một vài dịp bỏ chạy cuộc chiến, nhưng có thể, bởi vì nó dai như đỉa đói, cho nên, cuối cùng đều hỏng cả.
Có lần, vào phút chót, tưởng đi mười mươi, lại khựng lại. Lý do khựng lại, không phải do ngoại cảnh, mà như thể có một người nào, ở bên trong Gấu, xúi bậy xúi bạ, này đừng, ra đi là... hết rồi, là khốn nạn đấy con ạ, đi là không thể nào trở về được đâu, mà có trở về, thì cũng chẳng còn gì nữa. Có nhớ chàng Lưu, chàng Nguyễn không? Đến Thiên Thai làm gì cho khốn khổ khốn nạn, khi trở về là hết đời của mình rồi! [Đào thơm đâu cần phải đến Thiên Thai mí có!]
Như thể đời của lũ chúng tôi, chính là cuộc chiến khốn kiếp đó.
"Đời của mi đâu rồi, hôm nay sao không đi đón mi?"
Gấu tôi chợt nhớ Bông Hồng Đen, và câu nói đùa của bạn cô, những lần Gấu tôi bận việc sở không thể đi đón, khi tan trường...

Trở lại với vấn đề dịch, một truyện ngắn, thí dụ như Em Yêu Anh Không của Khánh Trường, ra tiếng ngoại.
Nó đòi ít nhất là hai điều kiện, cần và đủ, cho một định lý có tên là "Sống Cái Chết Việt Nam."
Thành thử mấy ông bỏ chạy cuộc chiến, đã có tí mặc cảm, dịch là vứt đi!

Và phải đọc truyện đó, hơn cả tác giả của nó, khi viết nó.

Với tôi, KT tuy là người viết truyện, nhưng chỉ là thứ "thừa hành". Chủ nhân đích thực của truyện ngắn, chính là cuộc chiến tại miền nam, với "người hùng" thảm hại của nó - một thứ phản anh hùng. Đây là lý do tại sao Thanh Tâm Tuyền bỏ dở hai truyện dài viết về cuộc chiến vừa qua: Ông cố tạo ra một thứ anh hùng, nhưng sau cùng nhận ra, không thể... 

Tác phẩm văn học, theo tôi, luôn có một nhan sắc thầm, như để dành riêng cho một bạn tri âm của nó. Bạn phải ở một tuổi nào, đó, sống một cuộc đời, như thế nào, đó, thì mới đọc được, nó. Tôi muốn nói mới nhận ra được cái nhan sắc thầm kia.

Thí dụ, như mọi người đều biết, Nguyễn Tuân, một con người rất tài hoa, với những dòng văn rất tài hoa. Nhưng cái nhan sắc thầm của ông, lại là những câu văn rất mộc mạc, như thể những tài hoa nhất mực như thế, là chỉ để làm bật ra cái mộc mạc kia. Hoặc giấu biệt nó, trước những cặp mắt phàm phu tục tử. Có lần tôi đã sử dụng huyền thoại mắt xanh, mắt trắng để nói về hai cái đẹp, một sắc sảo, một mộc mạc của văn Nguyễn Tuân. Với độc giả, bất kỳ độc giả, là cặp mắt trắng dã, là nét đẹp tài hoa, nhưng với một tri âm, ông lôi cái món ăn ông thích nhất, thí dụ, món cơm nắm ăn với muối vừng, tức cái mộc mạc giản dị, của một nhà văn miền bắc. 

Cuộc chiến Việt Nam, nó giống như một thai đố, mà những mật hiệu, clues, cho thấy, nó "bắt buộc" phải như vậy. Bất thình lình, ngày 30 tháng Tư cho thấy, nó không phải như vậy.

Cũng thế, nếu nói về mặt văn học: Văn học xã hội của miền bắc. Nó y hệt như chủ nghĩa Cộng Sản, là cái nền khổng lồ mà nó dựa vào đó. Nó khổng lồ như là chủ nghĩa CS khổng lồ. Đùng một cái, ngày 30 tháng Tư, nó đụng vào một bức tường mềm, là cuộc sống thực của miền nam, nó gặp kẻ thù của nó, là nền văn học chẳng ai thắng ai, nó gặp "văn hữu" của nó, những nhà văn suốt đời chỉ mơ được làm một phó thường dân. Nhân vật tiểu thuyết, những Sài những Mía, những Núp... đột nhiên nhận ra, mình có những phần giông giống họ, tôi muốn nói, giống những nhân vật ở trong Ngoại Ô Dĩ An Và Linh Hồn Tôi, Dọc Đường, Em Yêu Anh Không...  nhưng cứ cố tình vờ đi, để viết... dưới ánh sáng của Đảng.

Norman Manea đã từng tự hỏi, tại sao, một ông khổng lồ như thế, đột nhiên té chỏng khu: Cuộc sụp đổ nhanh chóng của đế quốc Đỏ. 

Thế nào là bỏ chạy cuộc chiến? 

Có khi bạn sống ở Sài Gòn, trong những ngày tháng cay nghiệt như thế đó, mà vẫn chỉ là một thứ bỏ chạy cuộc chiến.
Linda Lê, rời Việt Nam năm 14 tuổi, mang theo được gì, từ cuộc chiến, từ cái gia tài của mẹ, vậy mà bà vẫn sống, tôi muốn nói, luôn đối đầu với Cái Chết Việt Nam?
Bà lấy ở đâu ra, cái xác chết, là đứa trẻ Việt Nam, mà bà luôn cưu mang đó?
Cái xác chết, như tôi hiểu được, cũng là cái bản đồ Việt Nam tỉ lệ xích 1/1 rách nát, mà người Việt cố mang ra ngoài này để vá víu lại.
Văn chương Việt Nam hải ngoại, theo tôi, là một toan tính làm sống lại một đứa trẻ đã chết, mà Linda Lê luôn cưu mang ở trong bà. (2)

Hãy yêu người bằng một thứ tình yêu cũ xì, cằn cỗi vì thương hại, cáu kỉnh và cô đơn.
"Aimer les hommes d'un vieil amour usé par la pitié, la colère, et la solitude".
C. Milosz: Hành Trình qua Tây Phương.

Theo như GCC mới được biết thì đây là cuốn Đất nước quê hương (1973. VHTQ), được đổi tên là Quê hương tôi. Có thêm vài bài viết lẻ tẻ. Nhã Nam xb.
Chúc mừng Võ Phiến, sắp đi xa còn được về thăm quê hương!
[mượn ý Brodsky, “Cái phần đẹp nhất của tôi, thì đã có ở đó rồi: Thơ của tôi.”]

Hà, hà!

Trong tiểu sử của VP, trong VHTQ, ông viết, "bút hiệu khác: Tràng Thiên". Như thế, không thể có chuyện Vũ Hạnh cũng sử dụng bút hiệu này, vì nếu có, thì VP sẽ viết, "dùng chung với VH."
Cô Phương Thảo là bút hiệu của Vũ Hạnh, như Gấu được biết, nhưng không biết, VP có dùng bút hiệu này hay không. Chắc là không, theo như trên. Gấu chưa từng tới tòa soạn BK lần nào, chưa từng gặp VP, trước 1975.
Ra hải ngoại, lần ở nhà NMG, ra mắt sách tại gia, cuốn Lần Cuối Sài Gòn, NMG cho biết, có mời VP, nhưng ông không tới. Khi đó, ông ở Los Angeles.
Khi ông dọn về Little Sài Gòn, có lần, qua 1 bạn văn, ông mời Gấu ghé nhà chơi, nhưng Gấu ham chơi quá, không ghé được.

Cái vụ in sách... Tràng Thiên, chắc là VP phải biết chứ, nhỉ?
Chắc là Người... gợi ý, để tên Tràng Thiên, giống như lần Người dịch tên cái sở gì của Mẽo cho Người tiền để viết VHTQ?
Thơ không thể dịch được, nhưng tên sở Mẽo dịch ra tiếng Việt thì lại được!
Tính viết về truyện ngắn VP, nhưng nghe tin Người hồi chánh, cho kịp chuyến sắp đi xa, mừng quá, đếch viết được nữa!

NQT