*

 





*

SN/GCC, ngồi với Du Từ Cà ở 1 quán có cái tên thật dễ ghét, đối với Gấu Cái: Lan Hương!

Requiem

Under the wild and starry sky
Dig the grave and let me die
Glad did I live and gladly die
And let me down with a will
This is the verse you’ grave for me:
“Here he lies where he longed to be;
Home is the sailor, home from the sea,
And the hunter home from the hill.”

Stevension

Kinh Cầu

Dưới bầu trời hoang dại, lia chia sao
Đào 1 cái hố rồi bỏ Gấu xuống
Sướng làm sao Gấu sống, và sướng ui chao Gấu ngỏm
Và nhớ gài 1 câu thơ lên mộ Gấu nhé:
Đây là nơi thằng cha Gấu nằm
Nó thèm được như thế, từ lâu rồi
Nè, đừng có ném thây nó xuống biển nhe!
Nó đếch muốn thây của nó trôi về xứ Mít của VC đâu!
Nhà của tên thủy thủ, sau khi từ giã biển
Nhà của tên thợ săn, từ trên đồi bò về

Những người đã chết đều có thật
Tuesday, June 21, 2005

Câu thơ trên, là của "Ông Số 1". "Ông số 2" bèn chôm, làm của ông.  
“Nhân Dụng” là còn có ý đó, mi là thứ mà để ta chôm, ta sử dụng. "Dụng nhân, chôm của nhân", như...  dụng mộc!

Ông chê thơ của bạn ông là Du Tử Cà, bài thơ đó, ai làm mà chẳng được.
Gấu quê quá, bèn đứng về phe bạn Cà của mình, đi 1 đường chửi cả băng, cả bộ lạc Cờ Lăng.

Ai ngờ bạn quí của Gấu đếch đứng về phe với Gấu, ông đi 1 "trường thiên tụng ca" thi sĩ "Hai Hòn Bi"!
Chán thế!

Tuy nhiên, trong bài viết về tài phân thân của "Ông Số 2", bạn Cà "quơn" một cú thần kỳ, phân thân làm một "diệu thủ thư sinh"
Trời cho ta đủ thứ, chỉ thiếu mỗi một câu thơ!
Một câu thơ, đếch thằng đéo nào làm được, trừ "Ông Số 1", nên đành chôm!

Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

Những người đã chết đều có thật
Tuesday, June 21, 2005

Câu thơ trên, là của "Ông Số 1". "Ông số 2" bèn chôm, làm của ông.  
“Nhân Dụng” là còn có ý đó, mi là thứ mà để ta chôm, ta sử dụng. "Dụng nhân, chôm của nhân", như...  dụng mộc!

Ông chê thơ của bạn ông là Du Tử Cà, bài thơ đó, ai làm mà chẳng làm được.
Gấu quê quá, bèn đứng về phe bạn Cà của mình, đi 1 bài, chửi cả băng, cả 1 bộ lạc Cờ Lăng.

Ai ngờ bạn quí của Gấu đếch đứng về phe với Gấu, ông đi 1 "trường thiên tụng ca" thi sĩ "Hai Hòn Bi"!
Chán thế!

Tính viết “tởm thế”, nhưng nặng quá!
Hà, hà!
GCC bị cú này 1 lần rồi. Khi Người Vịt đăng hình GCC ghé thăm, uý lạo, 1 vị bạn quen, ngạc nhiên quá đỗi, tụi khốn đó không bao giờ làm chuyện đăng hình như thế, nhất là hình anh!
Thế rồi 1 vị bạn khác, đề nghị GCC làm ơn bỏ cái “sự cố” đó đi, nhất là delete tên cái ông nhận xét như thế về băng Cờ Lăng!
Phiền cho tôi lắm lắm đấy!
Chán thế!


Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

Dân khí suy đồi và trách nhiệm con người

Nhà văn Võ Thị Hảo
Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hà Nội

Đây cũng 1 thứ cực kỳ tinh anh, của Bắc Kít, theo GCC. Bà này can đảm hơn mấy tên kia nhiều, nhưng óc vẫn bị thiến mất 1 khúc, hay một mẩu, vẫn theo GCC.
 Hoặc cũng đã từng nhận hàng, miệng cũng có mùi chiến lợi phẩm cho nên không thể nói khác đi được.

Christ and the Devil have changed places.
Chúa Ky Tô và Quỉ đổi chỗ cho nhau.

D.M. Thomas Tiểu sử Solzhenitsyn, chương 2: Demons

D.M nhắc tới bài thơ “The Twelve” của Blok, 12 tên Vệ Binh Đỏ, Red Guards, trong đêm tối St Petersburg, gặp ai giết người đó, tàn phá, hủy diệt tất cả cái gì vướng chân chúng trên đường đi: They lust to drink, have pleasure, and uphold the Revolution, chúng ăn nhậu, chơi đồ chơi thỏa thích, dâng cao ngọn cờ Cách Mạng. Đằng sau chúng, là 1 con chó đói – cái thế giới cũ, the old world, chúng tính đâm cho con chó 1 một mũi bayonet, nhưng quay nhìn về phía xa, về phía trước, một hình ảnh như đang dẫn dắt chúng: Trong tuyết dầy, đặc, là 1 ngọn cờ đỏ, và hình bóng chúa Ky Tô: Bearing the flag, leading the cutthroats, walking lightly above the storm- is Jesus Christ.  

Chúa và Quỉ đổi chỗ cho nhau là vậy.

Cuộc chiến Mít, thay vì Chúa Ky Tô, chính là giấc mơ thoát ra khỏi cái kiếp người thê lương ở nơi “Quê Người”, là xứ Bắc Kít.
Hơn cả hình bóng Chúa Giê Su cầm cờ dẫn đường bọn giết người Vệ Binh Đỏ, trong bài thơ của Blok - là hình ảnh về một thiên đàng ở bên ngoài, ở quá lũy tre làng, ở đâu đó ở một Đàng Trong...

Chính Cái Ác Bắc Kít, nằm nơi trái tim mọi tên Bắc Kít, đã đổi giấc mơ của giống Mít – Chúa cho chúng làm người để thực hiện giấc mơ đó - thành đại ác mộng, là một nước Mít như hiện nay.

What has That to Do with Me?
Số phận của họ mắc mớ gì đến tôi?

Yiyun Li, đã tự hỏi mình như vậy, khi viết văn, kể ra những câu chuyện về những con người mà bà chẳng thể nào quên nổi, “You were not who you were, but what you were rationed to be” [Yiyun Li, Hope in a thin shell, Hy vọng ở trong 1 cõi nhân gian bé tí: Xứ Bắc Kít], Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn. Có thể, đất nước Mít, nhất là xứ Bắc Kít, suy đồi đến như hiện nay, là vì họ đã quên đi thời tem phiếu. The day you were lucky enough to get a basin of eggs, you also watched a long line of strangers eyeing you with jealousy, even hatred. Ngày mà bạn nhận hàng Miền Nam, bạn vẫn nhìn thấy cả một dẫy người sắp hàng, nhìn bạn với con mắt ghen tuông và thù hận.

*


*

Note: Đây cũng là 1 cuốn sách gối đầu của GCC [em NT gọi là sách gối mông, và mông của em thì đang bị VC lột ra, để đánh đòn! Take care, please! NQT]. Đọc đến quăn tít mấy góc sách. Có những chương thật thần sầu. D.M. Thomas là 1 nhà văn, thứ bảnh nhất, tôi là tiểu thuyết gia, thi sĩ, không phải nhà viết tiểu sử. Ông nhận viết tiểu sử Solz, như là 1 thách đố, với chính mình. Tin Văn sẽ giới thiệu 1, 2 chương, thí dụ, chương III: Quỉ [Demons]; chương về Pasternak, cái chết của 1 thi sĩ.
Prologue, Lời mở đầu.

*

Người lén đem tác phẩm của Solz qua Tây phương

Khi DT chê NHT, thứ nhà văn vô học như ông ta, có cả đống, ở nước ngoài, để bênh vực bạn văn VC, Gấu bèn lôi tổ sư phê bình Mác xít ra.
*
Trong bài viết trước, khi viết về sự xuất hiện của những truyện ngắn, thay vì truyện dài, của một NHT, Gấu có nhắc tới trường hợp Solzhenitsyn và sự xuất hiện "Một Ngày trong Đời Ivan Denisovich", như một xuất hiện ở vào cuối một giai đoạn. Đây là sự cần thiết của chính văn học, khi nó bị đẩy vào đường cùng, và cùng tắc... biến.
Nên nhớ, Nước Nga Đỏ chưa hề vơ Một Ngày vào dòng chính, chưa từng hợp thức hoá cho nó. Nhà nước cần nó, không có nghĩa, nó thuộc vào dòng chính.
Nói rõ hơn, với NHT, không có "đổi mới", mà có sự lại làm mới văn học, renouveau, như là một thử thách, một rủi ro bắt buộc, nếu muốn thoát ra khỏi bế tắc, nếu nhà văn không muốn chết ngạt.
G. Steiner, khi điểm cuốn "Alexander Solzhenitsyn: A Century in His Life", của D. M. Thomas, (583 trang, New York, nhà xb St. Martin's Press 1998)  trên NY Times Book Review, March 1, 1998, cũng đã nhấn mạnh đến sự kiện này:
"Khi Khrushchev bật đèn xanh cho "Một Ngày trong Đời Ivan Denisovich", với ông ta, đây là một hành động mang tính chính trị giai đoạn: Anh tù Ivan là một nông dân, không phải một trí thức. (Khruschev cho rằng khẩu phần nhà tù như trong cuốn sách mô tả là vượt định mức). Nếu ông ta tiếp tục làm cho xong, việc tẩy uế chủ nghĩa Stalin, cuốn sách cũng chẳng thể kéo dài, và nhân lên mãi, niềm vinh quang ngây ngất của nó. Cùng với sự xuất hiện của "Một ngày", chỉ trong "một đêm", Solzhenitsyn trở thành nổi tiếng. Ông tới gặp Anna Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất khi đó hiện còn sống của nước Nga. Bà hỏi: "Liệu anh chịu được lâu, vinh quang?... Pasternak chịu, thua. Thật khó kéo dài vinh quang, nhất là thứ đến muộn." Một lời cảnh cáo nóng bỏng"
[Một linh hồn lưu vong]
Bây giờ với Tuổi Bụi, NHT cũng làm một toan tính như vậy.
Không phải ăn theo, không phải kiệt cạn, như Đoàn Cầm Thi nhận định, như ông Tây trích dẫn trong bài viết.
Ở đây, chúng ta cần phân biệt  một số thuật ngữ như "lại làm mới", "đổi mới", "cởi trói" và hoàn cảnh lịch sử khi chúng xuất hiện, và chúng ta nhận ra, có gì tương tự, giữa câu cảnh cáo của Akhmatova, và lời cầu chúc đừng thuận buồm xuôi gió của Hoàng Ngọc Hiến.
Sự xuất hiện của truyện ngắn NHT đúng là một cách ăn theo hiện tượng cởi trói trong văn học. Lợi dụng nhà nước ra lệnh, hãy cởi trói... sơ sơ cho tụi nó, nhờ đó xuất hiện những Cù Lao Tràm, Đứng Trước Biển, Ly Thân... , Nguyên Ngọc bèn nhét kèm thêm, cho ăn theo, một hai truyện ngắn của NHT.
Gấu tôi bỗng nhớ tới vị sư già ở Tàng Kinh Các, trong Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung, thấy mấy thằng ngu chỉ say mê giết người, toàn lựa những sách dậy giết người để mà đọc, để mà học, bèn nhét xen vô những cuốn kinh Phật...
Một cách nào đó, phải đọc NHT theo tinh thần đó, tinh thần giải độc.
Câu cảnh cáo NHT, của HNH là phải hiểu theo cách đó:
Này đừng có thuận buồm xuôi gió, rồi lại trở thành một thứ Trần Mạnh Hảo, một thứ...
*
Khi phải so sánh giữa hai ông khổng lồ, một về văn, và một về thơ, ở thời tận cùng của chủ nghĩa cộng sản ở Liên xô, thiên hạ nói, sự xuất hiện của Solzhenitsyn, là để tố cáo Lò Cải Tạo Nga, và đồng thời chấm dứt nó. Còn Brodsky, như Coetzee nhận xét, là người đánh cái dấu chấm hết to tổ chảng, cho cái gọi là văn học Xô Viết.

Gấu tôi nghĩ, với Việt Nam, có vẻ như cả hai, Bảo Ninh thì tố cáo và chấm dứt huyền thoại cuộc chiến và cùng với nó, huyền thoại Phù Đổng về người lính cụ Hồ, còn Nguyễn Huy Thiệp, chính là người đánh dấu chấm hết cho văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, của miền Bắc, thứ văn học đến liền sau thất bại của Tự Lực Văn Đoàn, chính nó mới là cái nền đẻ ra cuộc chiến, đẻ ra anh bộ đội cụ Hồ. Thiệp bị nhập nhằng, bị gán bậy vào đổi mới là vậy, theo nghĩa, văn học hiện thực miền bắc đưa đến chiến thắng miền nam, còn Thiệp là người, khi cái văn học hiện thực đó bị "lão hoá", bèn "đổi mới" nó!

Bởi vì rõ ràng là, thiếu một ông Thiệp, thì cả một đống những nhà văn của trào lưu đổi mới đó, đều là hàng giả, đồ cuội. Một cách nào đó, chính họ mới ăn theo NHT. Điều này giải thích, cả đám ôm lấy Thiệp, coi như là thần tượng của họ, nhưng khi thần tượng không chịu a dua, cá mè một lứa với họ, khi Thiệp cố gắng đổi mới thực sự, chính mình, thì cả bọn la lên, thằng này hết thời rồi!
[Trường hợp DTH, xin để riêng ra, như một số nhà văn nhà thơ khác, đã thực sự tin vào chủ nghhĩa CS, gia nhập cuộc chiến với lòng hăng say, sau vỡ mộng, bèn chống lại nó].
Thiệp không hề tin vào văn học hiện thực, càng không tin vào đổi mới. Nông dân, thứ thiệt, của miền đất đó, nhưng ông không bị hớp hồn bởi chủ nghĩa Cộng Sản, như một quỉ, hoặc như một cứu rỗi. Khác hẳn bất cứ mọi trường hợp khác. Ngay cả Pasternak, ngay cả Solzhenitsyn, suốt cả một thời trẻ trung của họ, đều đã từng tin tưởng, và chiến đấu cho chủ nghĩa đó.
Bởi vì Demon, và Savior, chỉ là một. Trước 1975, là Savior. Sau 1975, biến thành Demon. Vẫn chỉ là một thứ.
Nên nhớ, không phải Dos là người đầu tiên nhắc tới Demon, Quỉ. Quỉ của Pushkin - viết năm 1830, một trăm năm trước cơn phẫn nộ của Stalin, giáng xuống đầu nông dân Nga - mô tả một chiếc xe ngựa bị bão tuyết làm mất phương hướng, mấy con ngựa kéo xe bị quỉ xúi giục và cứ thế lao vào địa ngục. Tới thời Dos, Những Con Quỉ [thường được dịch là Lũ Người Quỉ Ám, 1871], Quỉ biến thành Kẻ Cứu Rỗi, Vị Cứu Tinh. Hãy tưởng tượng, 1921, ông Hồ đói rét, run lẩy bẩy ở Paris, đọc Lênin, và sảng khoái la lên, cứu tinh đây rồi, đây là tri âm tri kỷ, kẻ đồng điệu, người đồng hành...
Bởi vì tầng lớp trí thức miền bắc đã đón nhận quỉ sứ như kẻ cứu rỗi, như thế đó. Họ thực sự tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ là cơ may, cơ hội đổi đời. Chính niềm tin này là nền tảng của, thí dụ, "Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm", của những cảnh tượng thật bi hùng, bi tráng, bi thương, trai tráng làng, người người trích máu tay, làm đơn tình nguyện xin đi chiến trường miền nam.
Nhưng 1975, tất cả đều chưng hửng. Đều vỡ mộng. Hãy tưởng tượng tâm trạng của DTH lúc đó.
Như một nhà tiên tri, Kafka đã nhìn ra từ bao lâu cảnh này, trong Y sĩ đồng quê. Độc giả Việt, đọc ông, mà cứ nghe ra giọng của DHT, vào đúng cái ngày cay đắng nhục nhã đó:
"Ta đã bị bội phản! Bội phản!"



Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

Dân khí suy đồi và trách nhiệm con người

Nhà văn Võ Thị Hảo
Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hà Nội

Đây cũng 1 thứ cực kỳ tinh anh, của Bắc Kít, theo GCC. Bà này can đảm hơn mấy tên kia nhiều, nhưng óc vẫn bị thiến mất 1 khúc, hay một mẩu, vẫn theo GCC.
 Hoặc cũng đã từng nhận hàng, miệng cũng có mùi chiến lợi phẩm cho nên không thể nói khác đi được.

Vấn đề suy đồi cái con mẹ gì của xứ Mít, là do ăn cướp Miền Nam gây ra. Đơn giản chỉ có thế. Và nó là như thế.
Bắc Kít có 1 giấc mơ đổi đời, từ khi lập nước, làm sao chống được thằng Tẫu, để … sống sót!
Thế là, phía Bắc chặn ngoại xâm, nhờ núi rừng phần lớn, phiá Nam mở mãi ra, làm cỏ sạch những dân tộc khác bé mọn, yếu ớt, và sau cùng thành cái thế Đàng Trong, Đằng Ngoài, và cuộc thôn tính đầu tiên của Bắc Kít là cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn.
Cuộc nội chiến thứ nhì là cuộc chiến vừa qua. Giả như nó đúng như giấc mơ thống nhất, thì không xẩy ra những tội ác sau đó.
Sự suy đồi của Mít, là sau 30 Tháng Tư, nó đẻ ra 1 thứ chính quyền khốn kiếp như hiện nay, và chỉ còn có 1 cách là huỷ nó đi, thì mới có sự thay đổi.

Hồi Thảo Trường chưa đi xa, ông đọc Gấu viết về cuộc “hoá thân” của anh VC Bắc Kít, từ Savior, Thiên Sứ, trở thành Quỉ Sứ, Demon, ông thú quá, phán, đúng quá, đúng quá.

Anh VC nằm vùng ĐH mà chẳng phán cũng như thế ư? Không hiểu “chúng” ăn phải cái gì mà đổi gien, biến thành ròi, thành bọ hết.
Ăn phải cái gì, thì rõ ràng quá: chiến lợi phẩm chứ cái gì nữa.

*

Nổ lớn mừng 1 ngàn năm Thăng Long

Theo truyền thuyết, Lý Công Uẩn dời đô, rồng bay lên chào mừng, bèn đổi tên kinh đô nước Mít là Thăng Long, Rồng Lên.

Liệu một ngàn năm sau, kỳ tích trên được lập lại?

Quái làm sao, đây là nội dung Chương 2 của cuốn tiểu sử Solz, “Savior biến thành Demon”, Thiên Sứ, Ông anh ruột thịt Bắc Kít biến thành Quỉ Đỏ, “Christ và Devil, Chúa và Quỉ Sứ, đổi chỗ cho nhau", D.M. Thomas, tác giả cuốn tiểu sử Solz, sử dụng ẩn dụ trên, để giải thích Cách Mạng Tháng 10 Nga, và GNV bèn chôm, áp dụng vào thực tế nước Mít, “Vương Đạo biến thành Bá Đạo", ông anh ruột thịt, hay 'ăn cắp vặt', [từ này của viên đại sứ Nhật ở Hà Nội], biến thành tên ăn cướp!
Khi còn Thảo Trường, anh mê lắm cái kiểu giải thích cà chớn của Gấu, mail, khen, được, được!

Akhmatova giải thích ẩn dụ trên, về năm 1913, bằng những dòng thơ:

Liệu những ngày sau cùng đang phủ lên chúng ta…?
Những tên văn sĩ chuyên môn viết khẩu hiệu, những tiên tri dởm…
Như người ta nói, chính là trong quá khứ mà tương lai trưởng thành
Và nếu như thế, thì quá khứ đang rữa nát, thối hoăng ra ở tương lai
Một cuộc đại hội khủng khiếp của những chiếc lá chết

Bài thơ không có Nhân vật, Poem without a Hero

Trong lời mở ra cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, D.M. Thomas nhớ lại cảnh tượng, ngồi uống vodka với một tay mật vụ, cựu đại tá KGB, đã về hưu, và được nhà nước ban cho nhiệm vụ 'đánh bóng' hình ảnh đất mẹ, ở hải ngoại.
Cả hai ngồi tại khách sạn Helsinki, nhìn ra biển đóng băng phía bên ngoài. Khi được hỏi, ông nghĩ sao về một hình ảnh mở ra cuộc cách mạng Nga.

"Hình ảnh nào ư?", ông ta gật gù, nhìn ra Vịnh Phần Lan.

Vài tuần trước đó, con tầu phà Estonia đã chìm ở ngoài đó, đem theo cùng với nó hàng ngàn người. "Crắc" một cách, rồi cứ thế chìm xuống, nhẹ nhàng, êm ru bà rù. Cả hai cùng đồng ý, đó là hình ảnh tuyệt vời, để diễn tả sự tận cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Hình ảnh khởi đầu?
(1)

Hình ảnh mở ra Cách Mạng Nga chính là cái chết của Rasputin, Đại Ác Tăng, mần thịt cả nữ hoàng Nga, qua bình chọn của tay cựu mật vụ KGB.
Hình ảnh mở ra Cuộc Cách Mạng Mùa Thu, của dân Mít, có lần Gấu đề nghị, là cái chết của Đỗ Đức Phin, dưới tay nhà thơ, nhạc sĩ, kiêm đao phủ thủ Văn Cao.

Và Thiên Thai bặt tiếng kể từ đó (2)

V/v Chiến lợi phẩm.

Joseph Brodsky có 1 bài viết thần sầu về nó, về những chiến lợi phẩm mà Hồng Quân đem về cho nước Nga, hay đúng hơn, cho những đứa trẻ Nga như ông, khi chiến tranh chấm dứt: Phim ảnh. Chính là trong bài viết này, Spoils of War, Chiến Lợi Phẩm, ông đã nhắc đến tiếng hú của người rừng Tarzan, và khẳng định một điều, vào những năm đầu thập niên 1950, loạt phim Tarzan đã "đọc bài ai điếu cho chủ nghĩa Stalin" (de-stalinization), còn hơn tất cả những bài diễn văn của Khrushchev ở Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên xô, và sau đó.

Chúng ta tự hỏi, cái gì tương đương với tiếng hú Tarzan, đối với đám Bắc Kít, khi "giải phóng" Miền Nam, chấm dứt cuộc chiến, mở ra 1 tương lai cho cả nước.
Văn Học Miền Nam.

Đúng ra là phải như thế. Nhưng cả 1 lũ tinh anh Bắc Kít, 1 tay ăn cắp, chôm chĩa [thí dụ rõ nhất, VTH chôm liền cái tít của cuốn Darkness at Noon, được dịch ra tiếng Mít, và sau này lôi ra, dán vô cuốn sách, tố cáo VC của ông, chỉ như là 1 cái hồi ký, nhằm vinh danh bản thân ông, và gia đình, do chống Đảng mà đi tù, sự thực là do tranh ăn giữa lũ VC với nhau], 1 tay viết bài, viết sách tố cáo nọc độc Mỹ Ngụy.

Văn học miền Nam: ngay sau đó

Góp mặt trong văn học sử Việt Nam có những quyển rất đặc biệt. Dưới đây là một số ví dụ. Về sau này, khi nhiều thời gian đã trôi qua, đây lại chính là những tài liệu quan trọng lưu lại chứng tích về một nền văn học.

 

Văn học Miền Nam, mảng dịch thuật, quá cần thiết cho Miền Bắc. Phải đến bây giờ chúng mới nhận ra, và mới bắt đầu, nhưng vẫn không thoát kiểm duyệt. Một bài viết, 1 luận án văn học, cố đặt vấn đề thật nghiêm chỉnh, gói gọn trong văn học, vậy mà cũng bị lũ khốn kiếp lôi ra hạnh họe, và đập bể nồi cơm của 1 gia đình. Ghê tởm đến mức đó, làm sao mà khá cho được.

Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

Qua Sông & Nước

Theo tin từ gia đình, nhà thơ Hà Thượng Nhân, (tức Trung tá Phạm Xuân Ninh, nguyên Giám đốc Nha Vô tuyến truyền thanh thời kỳ Đệ nhất VNCH, nguyên Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến của Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị), đã từ trần tại San Jose, Califonia lúc 7 giờ 45 phút chiều Thứ Ba, ngày 11 tháng 10, 2011, thọ 91 tuổi. (Tin VHA.)
Blog DTL

GCC có 1 kỷ niệm với Hà Chưởng Môn, là cái lần cận Tết, được ông cho tháp tùng, cùng 1 số anh em thuộc tòa soạn TT, đi ăn món tái chó, do 1 đệ tử của ông trổ tài nấu nướng.
Nhớ hoài.
Lạ thế.

Sau biến cố 1975, như mọi nhân viên các cấp Quân Cán Chính đã từng phục vụ trong chế độ VNCH, ông phải trình diện để đi “học tập cải tạo”. Thời gian ở trại Long Giao ông đã sáng tác bài thơ “Mưa Buồn Long Giao” như để thay mọi người, nói lên tâm trạng chung của họ lúc đó là chán chường, tuyệt vọng, không lối thoát…
Blog DTL

Phán như thế thì đúng là... nhảm thật.

Nên nhớ là thời gian Long Giao, đám VNCH vẫn còn tin…  VC, chỉ 10 ngày phù du, rồi lại được về với vợ con cùng cả nước xây cái nhà Mít bằng trăm ngàn lần to hơn trước.
Chán chường tuyệt vọng “không lối thoát” cái con khỉ.
Lo lắng cho vợ con ở nhà thì có!

Thời gian TTT làm mấy bài thơ Long Giao, 1975-1976, là cả nước Mít tưng bừng hồ hởi với Cái Nhà Mít tương lai.
Gấu khi đó, ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, vừa cuốc đất vừa khóc ròng, khi nghe những tên "cùng hội cùng thuyền" hát bài Con Kinh Ta Đào, cái gì gì:

Con kinh ta đào chưa có nước chảy qua
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng

Trời trên cao, rất quen và rất lạ,
Cứ xanh thăm thẳm ở trên đầu

Và, tất nhiên, chỉ 1 thời gian ngắn sau đó, cả nước Mít, nhất là Miền Nam, vỡ mộng:

Tổ Quốc ơi, ăn khoai mì chán lắm
Từ trận đánh hôm nay,
Ta ăn độn dài dài

Ông Nhàn, chủ nhà xb Sống Mới, thì cũng thời gian này, đem cả gia đình đi Kinh Tế Mới, 1 buổi sáng sớm lơn tơn vác cuốc ra đồng, hát ư ử, chắc thế - Roméo nhớ Juliette - không nghe tên du kích vườn hô đứng lại, thế là đòm 1 phát, đi luôn!

Nước Nga cũng có thời kỳ như thế, thời kỳ Băng Tan, như trong bài viết The Gift cho thấy.

Mít chúng ta cũng có The Gift, nhưng, cũng thật ngắn ngủi.
Và đó là tội ác lớn lao nhất, của VC.
Chúng lấy của cả nước Mít "món quà" mà Thượng Đế ban cho chúng ta.

Dân khí suy đồi và trách nhiệm con người

Nhà văn Võ Thị Hảo

Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hà Nội

Đây cũng 1 thứ cực kỳ tinh anh, của Bắc Kít, theo GCC. Bà này can đảm hơn mấy tên kia nhiều, nhưng óc vẫn bị thiến mất 1 khúc, hay một mẩu, vẫn theo GCC.
 Hoặc cũng đã từng nhận hàng, miệng cũng có mùi chiến lợi phẩm cho nên không thể nói khác đi được.

Vấn đề suy đồi cái con mẹ gì của xứ Mít, là do ăn cướp Miền Nam gây ra. Đơn giản chỉ có thế. Và nó là như thế.
Bắc Kít có 1 giấc mơ đổi đời, từ khi lập nước, làm sao chống được thằng Tẫu, để … sống sót!
Thế là, phía Bắc chặn ngoại xâm, nhờ núi rừng phần lớn, phiá Nam mở mãi ra, làm cỏ sạch những dân tộc khác bé mọn, yếu ớt, và sau cùng thành cái thế Đàng Trong, Đằng Ngoài, và cuộc thôn tính đầu tiên của Bắc Kít là cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn.
Cuộc nội chiến thứ nhì là cuộc chiến vừa qua. Giả như nó đúng như giấc mơ thống nhất, thì không xẩy ra những tội ác sau đó.
Sự suy đồi của Mít, là sau 30 Tháng Tư, nó đẻ ra 1 thứ chính quyền khốn kiếp như hiện nay, và chỉ còn có 1 cách là huỷ nó đi, thì mới có sự thay đổi.
 


Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà


*

Thời Tập
5.5.1974
Gấu Nhà Văn đọc Tắt Lửa Lòng

Ui chao, sắp đi rồi, được đọc bài viết từ hồi nảo hồi nào, mới ngộ ra là, BHD bỏ anh cu Gấu, thì cũng giống như Lan bỏ Điệp:
Mi đầy sân si, mê ba cái danh hão, nhà văn nhớn, nhà phê bình nhớn, chẳng xứng với ta! (1)

(1) Bây giờ đọc TV chán rồi, N. không thích style chửi nhau, hạ nhục nhau, mắc gì phải phanh phui… cứ thấy ai viết “hớ” là chửi liền, làm dơ trang viết nhiều lắm. Mình nói người ta chợ cá Đồng Xuân mà mình thì chợ Đông Ba. Bỏ mục Dọn đi. Đúng là style thích gây chiến của đàn ông.
Chán khi đọc xong một bài về abc thì bị đọc thêm một câu: Ấy, cái bọn abc ngày xưa không hiểu gì về cái này hết…
Văn là người, một người thích chửi, thích vạch lá thì ai dám đến gần, Bông hồng đen hồng đỏ có sống lại cũng không dám đến gần
Đã qua cái thời ngây thơ hàng me, bây giờ chỉ còn cái tâm mà tâm chửi dù cho chửi người đáng chửi thì ai dám đến gần.
Độc giả TV
*
Đa tạ. NQT

Bài thơ “Khi tôi chết” của DTL, không phải ai cũng làm được, nhưng chỉ những người bò về như DTL thì mới làm được. GCC đã từng giải thích sự kiện này, khi viện dẫn Rushdie và những dòng ghi chú về “nước” của ông. Nói rõ hơn, chỉ những kẻ chẳng hề đau cái đau của cuộc chiến vừa qua, cái nhục mất nước, thì mới làm được thứ thơ đó, và bỏ đi, để lại trở về, gõ cửa xin gặp đao phủ thủ Mậu Thân, "đi và về cùng một nghĩa như nhau".
Đối cực của bài thơ, theo Gấu, là bài Ithaque, của Cavafy. 

*

Khi ta chết hãy đem ta ra biển: Chàng du tử Ulysse trở về Xề Gòn

Từ hoài nhớ, nostalgie, nguồn của nó là nostos, tiếng Hy Lạp, theo Jacques Lacarrière, tác giả bài viết Le Chemin vers Ithaque, về nhà thơ Cavafy, và cũng là dịch giả bài thơ Ithaque của nhà thơ này, trong số báo Le Magazine Littéraire, Janvier 2004, đặc biệt về Homère. Từ này, là từ những tiếng nhấp môi của người Hy Lạ mà ra, và nó bắt chước tiếng thì thầm của biển khi những con sóng của nó chết và tan ra khi đụng bờ.        

L'Odyssée, poème du nostos, ce désir intense de revoir le pays natal éprouvé depuis toujours par tout marin expatrié ou exilé. Quand Ulysse va pleurer sur le rivage dans l'ile de Calypso, il pleure sous la brusque emprise du nostos, ce mot qui revient souvent dans l'Odyssée et qui, des siècles plus tard, a donné en francais nostalgie, terme aujourd'hui banal et affadi mais qui, au temps d'Homère et longtemps par la suite, en fait jusqu'à nos jours, fut toujours synonyme en Grèce d'état quasi visceral de manque,  le privation et de dépossession.
Je me souviens, à Ithaque précisement, où je suis allé dans les années 60 et retourné en 1978, de ma logeuse lisant une lettre de son fils, marin sur un tanker grec. Il était absent depuis trois ans et naviguait alors sur les mers d'Australie et dans sa lettre, il y avait trois fois le mot nostos ! Voilà un phénomene vraiment propre à la langue grecque : des mots vieux de plus de trois mille ans continuent d'être utilisés aujourd'hui dans un contexte presque identique. II suffit qu'un Grec, marin ou non, se sente loin de chez lui pour que sur ses lèvres, en son coeur ou en sa mémoire, surgisse le mot nostos. Je me suis d'ailleurs souvent dit que, par sa consonnance et ses deux consonnes sifflantes, ce mot reproduisait ou imitait le murmure lancinant de la mer quand ses vagues viennent de mourir ou expirer sur le rivage ...

*

Ithaca

When you start on your way to Ithaca,
pray that the journey be long,
rich in adventure, rich in discovery.
Do not fear the Cyclops, the Laestrygonians
or the anger of Poseidon. You'll not encounter them
on your way if your thoughts remain high,
if a rare emotion possesses you body and soul.
You will not encounter the Cyclops,
the Laestrygonians or savage Poseidon
if you do not carry them in your own soul,
if your soul does not set them before you.

Pray that the journey be a long one,
that there be countless summer mornings
when, with what pleasure, what joy,
you drift into harbours never before seen;
that you make port in Phoenician markets
and purchase their lovely goods:
coral and mother of pearl, ebony and amber,
and every kind of delightful perfume.
Acquire all the voluptuous perfumes that you can,
then sail to Egypt's many towns
to learn and learn from their scholars.

Always keep Ithaca fixed in your mind.
Arrival there is your destination.
Yet do not hurry the journey at all:
better that it lasts for many years
and you arrive an old man on the island,
rich from all that you have gained on the way,
not counting on Ithaca for riches.
For Ithaca gave you the splendid voyage:
without her you would never have embarked.
She has nothing more to give you now.

And though you find her poor, she has not misled you;
you having grown so wise, so experienced from your travels,
by then you will have learned what Ithacas mean.

C. P. CAVAFY: SELECTED POEMS

tôi xa người, xa một mùi hương
bãi khuya, hồn ốc lạc thiên đường
nhớ ai buồn ngất trên vai áo
mưa ở đâu về ? - như vết thương.
DTL

Note: Đúng là vua tán gái!
Gấu có lần ngồi ăn phở với đấng bạn quí NXH tại Tiểu Sài Gòn.
Khi đó bạn quí dọn lên San Jose rồi, nghe tin Gấu qua, bèn xuống thăm, hoặc, nhân xuống thăm Tiểu Sài Gòn, nghe Gấu qua, bèn gặp.
Cùng lèm bèm về thơ DTL.
Gấu có phán: Bạn DTL có rất nhiều đòn.
Nếu ra đòn, ‘anh yêu em’ không ăn, thì đánh vào "người chị, người mẹ, cô em gái, hay bậc nữ thánh, nữ bồ tát chuyên cứu vớt kể lầm lạc", ở nơi người phụ nữ, là thế nào cũng gục!
Bạn quí phì cười, gật gù: Đúng, đúng quá!

*

Cali 2/2008
Nghe tụi nó nói, mày phạng tao nặng lắm!
Tao đếch có đọc!

Hồi còn Quán Chùa, DTL cũng là vua 1 cõi, y chang diễn đàn của riêng chàng bây giờ: Toàn 1 lũ lau nhau, đếch có ai biết đến, cứ khen chàng là được đưa vô…  văn học sử.
Do làm UPI, 19 Ngô Đức Kế, con phố nhỏ ở cuối đường Tự Do, 1 đầu đâm ra khu Chợ Cũ, đầu kia đụng quảng trường Mê Linh (?), tượng Đức Thánh Trần, tay chỉ ra hướng sông, hướng biển, sáng nào Gấu cũng phải ghé, coi có hình ảnh cần chuyển đi cho cữ 8 giờ sáng, nếu có, thì mang hình về Đài, chuyển, xong, mới ghé Quán Chùa.
Thường là không, chỉ khi có hình đặc biệt trong đêm, và thế là đi 1 đường xe Honda, dọc con phố Tự Do, ghé Quán Chùa, ghé cái bàn ở 1 góc, phía đường Nguyễn Du. Bồi quen lệ, đem tới ly cà phê, kèm cái croissant… Bàn của DTL kế gần đó, chợ họp cũng sau đó, toàn 1 lũ lau nhau, đệ tử nhà thơ lớn. Bàn của Gấu, sau đó, mấy đấng bạn quí lục tục kéo ra, thường là HPA, NDT – NXH, NND, Mít Butor, đôi khi -  TTT hay MT, hay PLP, nếu có ra, thì ghé bàn Gấu.

Nhưng những kỷ niệm quí, cực kỳ thê lương, của Gấu với DTL, là thời gian cả hai cùng viết cho tờ Thời Tập của Viên Linh, và cả hai cùng đói. Gấu đói cơm đen, DTL đói… gái. Và cả hai cùng đến tòa soạn TT, và cùng chờ VL, cùng phải gặp cho bằng được VL, rồi mới “đi” được.

Bởi thế, khi nhắc lại những kỷ niệm này, chàng giật mình, như chính chàng thú nhận:

DTL đây,
Thấy bài Tx trên Vietbao, tao đọc ngay, không ngờ mày nhắc tới vài kỷ niệm thời Sài gòn. Bị bất ngờ, và xúc động.

GCC quen DTL, nếu trí nhớ không lầm lạc, là từ khi chàng có người vợ đầu, rất nhà quê. Qua đây, khi biết phu nhân của chàng là DN, lúc đầu Gấu ngạc nhiên, đâu phải bà này, hà, hà!

Chàng có nhiều gái, và nhiều vợ, tất nhiên, mỗi em, mỗi bà, là có vài bài thơ!
Toàn bản chính không à!
Khác hẳn GCC, bản chính, viết về Gấu Cái, chưa có! 

Ông số 2, do bất tài, thấy DTL, nổi như cồn chỉ nhờ 1 bài thơ, đánh đúng tâm trạng Mít bỏ nước ra đi thèm bò về, thế là lên giọng hàng thịt nguýt hàng cá [ông ta cũng thi sĩ mà), bài thơ này ai làm mà chẳng được.
Không lẽ 1 tên như thế mà là bạn của "bạn của GCC", là DTL ư?
Ông “Thư gửi bạn ta”, thấy ông bạn thi sĩ DTL viết 1 câu tiếng Anh không nên thân, thay vì phôn, nè, câu đó viết trật, để tao sửa lại nhé, ông ta bèn đi hẳn 1 bài viết, mắng mỏ, DTL, sao mà mi dốt thế.
Trong khi chính ông ta, lầm Nễ Hành với Lao Ái, Gấu phải đi 1 cái mail vô danh, chỉ cho thấy, và ông ta bèn delete liền lập tức bài viết.
Tại làm sao ông ta không làm được như thế với ông bạn thân DTL của ông ta?
Không lẽ DTL, đứng kế bên mấy đấng bạn đó, không thấy ngượng. Hay… nhục?
Chúng làm sao đọc ra thơ DTL, làm sao lọc ra những câu thơ thần của DTL, như là Gấu Cà Chớn?
Hà, hà!

Happy Birthday GCC

Aug 16, 2007 2:04 PM
Cái blog Yahoo của Gấu khai trương đúng ngày 16/8/2007.
Đúng dịp Ông Vua Biếm Văn loan tin NQT ngỏm trên 1 đài phát thanh Bolsa.

Tếu thế!

Tru,
Vay la may con song!
Mung mot thang ban lau doi con song them mot so nam nua!
So dien thoai cua tao la...

Sang nay thang Ham va tao dien thoai cho Little Saigon Radio de hoi BBT ve ten Nguyen Quoc Tru trong bai viet cua no o to Viet Tide thi duoc no tra loi Nguyen Quoc Tru do khong phai la may.
Khi nao may lai co dip qua day choi?
Chuc may khoe manh, song lau (khong toi 100 tuoi la duoc roi).
Bạn mày

Ông biếm gia họ Buồi [từ này của ổng, không phải của Gấu] đã từng viết về cái chết của một ông bạn học CVA trùng tên với Gấu hơn một lần rồi.
Lần trước, trên trang “Thư Gửi Bạn Ta” của ông, và Gấu nhờ vậy, được một vài người bạn quen thăm hỏi, chết chưa, chết rồi hả.
Lần này bạn bè tin nhiều hơn, vì thằng Gấu lâu lắm không thấy phôn, vả nó cũng hơn bẩy bó rồi, ân oán giang hồ nhiều rồi, đi là vừa rồi, chắc nó đấy.

*

Lần gặp ông biếm gia đầu tiên, hình như là vào năm 1998, khi, lần đầu Gấu qua Tiểu Sài Gòn, nhân cuốn Lần Cuối Sài Gòn ra lò. Hình như cũng tại Factory.
Cả một đám ngồi uống cà phê, chờ ông chủ nhà in Văn Mới, chở sách từ Los Angeles xuống.
Gấu mỏi tay ký tặng, bạn, cũ lẫn mới, trong có cả Đào Mộng Nam, tuy chưa quen, nhưng đã từng nghe tiếng, và còn là học trò của ông, qua cuốn Tự Học Chữ Hán.
Lần sau, tại một tiệm phở thì phải, và ông cho biết học CVA sau Gấu. 

Tuy nhiên Gấu đọc ông, từ những ngày ở trại tị nạn, qua tờ Lửa Việt. Cũng những bài Thư Gửi Bạn Ta. Thời gian đó, chỉ có ba tờ báo thường xuyên có mặt ở trại, là tờ Làng Văn, Lửa Việt, và tờ Nắng Mới.

Lần đầu bực, cũng lâu rồi, khi đọc ông phạng bạn của ông, là thi sĩ Du Tử Lê, về một câu tiếng Anh viết sai văn phạm. Gấu thực sự bị sốc. Ông ta chỉ cần nhắc cái phôn, kêu bạn ta, này, câu đó sai, sửa lại đi. Vậy mà ông viết cả một bài dậy dỗ bạn. Tại sao dốt? Tại sao đã dốt, lại không nhờ một thằng rành tiếng Anh, như ông ta, chẳng hạn?

Ông ta có thể chửi bạn của ông ta, công khai, trong trường hợp, cái dốt, cái ngu, cái tầm bậy đó, "la bêtise", của bạn ông ta, có hại cho nhiều người.

Rồi tới cái lần ông ta dốt, Gấu mới hỡi ơi, và hiểu ra rằng, thằng cha này hết xài. Dốt của người, dù là bạn ta, hắn la toáng lên. Còn dốt của hắn, hắn giấu như mèo giấu... dốt!

Nói ông dốt, cũng không đúng. Thực sự ông ta nhớ lộn, và lầm danh sĩ Nễ Hành, cởi truồng đánh trống trước gian hùng Tào Tháo, với Lao Ái, nổi tiếng vì có khúc củi trùm thiên hạ.

Lần đó, Gấu thấy cũng kỳ. Một phần lại thương cho Nễ Hành, thương cho câu nói nổi tiếng của ông, con cu cha mẹ ban cho mình, đâu có gì xấu, vừa phô ra, vừa đánh trống, vừa đọc thơ, vừa chửi thằng quyền lực, gian hùng, còn thú nào bằng, vậy mà lại bị lầm với một Cậu Chó thời Tần Thuỷ Hoàng, cũng lại một tên bạo chúa.

Bèn lấy một cái nick lạ hoắc, vì cũng nể ông họ Bùi, và thấy cũng chẳng có gì phải xưng danh, gửi một cái mail cho ông.

Ông cám ơn. Liền ngay đó, ông delete bài viết. Chẳng cáo lỗi, cáo liếc, về cái sự lầm lẫn của ông. (1)
Gấu Cà Chớn vs Du Tử Cà

*


Rimbaud's renunciation of poetry is a mystery that continues to haunt his fans.
Trường hợp Arthur Rimbaud chối từ, phải nói, ghê tởm thơ, mặc dù được coi như người thành lập, founder, “thơ Âu châu hiện đại”, cho đến nay, vẫn là một bí ẩn và làm nhức đầu fans của ông.

The sixteen-year-old went on to make an assertion that Graham Robb, in his idiosyncratic yet magisterial 2001 biography,
refers to as the "poetic E=mc2”: “Je est un autre” (“I someone else").

Câu phán "Tớ là kẻ khác", của Rimbaud, chẳng thua gì công thức E = mc2, của Einstein

TTT, khi nhìn lại Bếp Lửa, cho biết, trong bản thảo đưa đi xb, ông chơi câu của Rimbaud làm đề từ, nhưng phút chót gạch bỏ.
Vấn đề là liệu chúng ta có thể coi TTT, người tạo dựng thơ Mít hiện đại?

Why not?

Trả lời 1 vị độc giả trên DTL.com, v/v nhà thơ Mít thường chỉ làm thơ được ít lâu, rồi xuội le, TDT, Nobel Thơ Mít Diệm ban cho, có nhắc tới Arthur Rimbaud, ra ý, ông mũi lõ này cũng chỉ làm thơ thuở yêu em, rồi tịt.

TV post bài viết trên tờ Người Nữu Ước, và nếu có thì giờ, sẽ dịch lai lai ba sợi, chơi!

*

Một trong những lý do Rimbaud bỏ thơ, là… “mắn nỳ”, lợi nhuận đếch cần danh dự, profit without honour, như 1 tác giả trên tờ TLS viết.
Vấn đề là, những nhà thơ Mít, thành đạt, như Ông Số 2, TDT, liệu...  cũng rứa?
Rimbaud, đã từng buôn súng.
Mấy nhà thơ Mít, trên, nhờ chiêu bài Chống Cộng?

Một trong những đấng bạn học cũ của GCC, dân Cali, nhân nhắc tới TDT, có đưa ra nhận xét, tay này làm "bi di nét" giỏi lắm, cái cú Viết Về Nước Mẽo là của anh ta đấy.
Sau 1 bà vợ thành đạt, luôn có 1 nhà thơ đảm đang!

Còn Ông Số 2, sau mỗi lần thanh toán nội bộ, là 1 một lần thoát hiểm, vì Người luôn ngửi ra thời cuộc, nếu không muốn nói, là mastermind của “cú độc”, và bây giờ trở thành Thái Thượng Hoàng của bộ lạc Cờ Lăng!

Toàn Bắc Kít, như… Gấu Cà Chớn.
Chẳng thấy có tên nào ngu cả!

Liên hệ giữa Nguyên Sa, Sáng Tạo và, những ngộ nhận.
DTL

Theo GCC chẳng hề có cái gọi là “ngộ nhận” giữa Nguyên Sa và Thanh Tâm Tuyền.  

Gấu còn nhớ, khi NS mất, tờ NV đã để tên TTT trong số những người thương tiếc ông nhà thơ Áo lụa Hà đông, và thi sĩ TTT đã rất ư là bực mình, và sự bực mình này rất ư là có lý.
Bởi vì khi còn sống, NS đã ban cho TTT cái nick "Ðông Phương Bất Bại", với một lũ đệ tử lau nhau, sẵn sàng tung hô “muôn năm trường trị thống nhất giang hồ”!
Cái mục bài viết trang bìa của tờ VÐ, theo Gấu, có, là do TTT đề nghị, và bài viết đầu tiên, là của ông, viết về Bọn Ngốc [chữ này hình như là của Nhượng Tống thì phải, người dịch Mái Tây, và từ này, ông dùng để chỉ đám ngu ngốc không đọc nổi một tuyệt tác như Tây Sương Ký!]

Không chỉ ban cho TTT cái chức giáo chủ giáo phái tà ngụy, do luyện thần công mà phải vung dao tự thiến, NS còn tố cáo luôn băng ST lấy tiền Xịa làm tờ báo này, và, thừa thắng xông lên, tố luôn PCT không có tí bằng cấp…

NS gọi TTT là Ðông Phương Bất Bại là cũng có lý do của nó.

Nhà thơ NS rất ư là bực, và nực, vì đám viết trẻ, kế tiếp thế hệ của ông, coi TTT mới đúng là đàn anh của họ, lúc nào cũng chỉ nhắc tới TTT, thí dụ như thằng cha Gấu, trong khi chính thằng khốn này, ngựa non háu đá, dám coi thi sĩ NS, là nhà văn “dễ dãi, sung sướng, và hạnh phúc”, khi viết những truyện ngắn trong “Mây Bay Ði”.

Nhưng, vượt lên tất cả những lẩm cẩm thuộc về “thói đời” như thế, còn là sự khác biệt, cực, của hai cõi thơ; một, thơ ca tình cảm, ướt át, tán tỉnh, tán gái, nịnh gái…. và một, thơ trí tuệ, thi sĩ dám đối mặt với vực thẳm, chứ không phải chỉ với cuộc đời.

Ngay từ năm 1973, Gấu Cà Chớn đã đọc TTT như vậy rồi.

Cái mà thơ Mít thiếu, cực thiếu, là cái chất đàn ông, viril.
Và cùng với nó, là cái chất trí tuệ.

Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường

thì làm sao mà đặt kế bên:

Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá.


Hai cõi thơ đối nghịch hẳn nhau, làm sao mà có chuyện ngộ nhận được.
Ðỉnh cao của sự "ngộ nhận", là giải thưởng Nobel về thơ của Diệm, ban cho nhà thơ TDT.