|
30.4.2015
The photo took just a second, but it is timeless. She
races towards the
reader on countless front pages, a little girl in torment.
Nine-year-old Kim Phuc, flees down a highway after napalm bombing.
Associated Press photographer Huynh Cong Ut not only took the photo,
but it also changed his life and that of Kim's.
June 8 1972 and Kim hears a soldier screaming, "We
have to run out of this place! They will bomb here and we will be
dead!" Yellow and purple smoke bombs wreathed a temple where her family
took refuge for three days while North and South Vietnamese forces
battled over their village.
Kim watched a South Vietnamese Skyraider swoop
towards her. Canisters tumbled from it, twisting end over end to
evaporate on the ground in unbearable orange flames that leapt onto her
left arm as her cotton clothes shredded. The pain seared her skin and
muscle. Nearby trees exploded and the ground shook.
Kim's first thought as she brushed her blisters with
her right arm was, "I will be ugly, and I'm not normal any more. People
will see me in a different way." As shock took over she ran screaming
down Highway 1 behind her older brother, unaware of the foreign
journalists in front of her. She passed out.
Ut, the 21-year-old Vietnamese photographer, burst
into tears at the sight and took the picture. He then drove Kim to a
hospital, where he was told she was beyond help. He thought, "If I
don't help her - if something happened and she died - I think I'd kill
myself after that." Using his US. press pass, he implored doctors to
save her. They agreed.
Developing his film in the agency's Saigon office he
stared at the naked little girl. His colleagues worried that AP's
anti-nudity policy would kill it. But legendary photographer and AP
photo editor Horst Faas could see that while this picture might break
the rules its impact transcended such boundaries.
A couple of days later a TV correspondent,
Christopher Wain, who gave Kim water from his canteen and poured it on
her burning back on the highway, tracked her down. He fought to have
her moved to an American unit where her burns could be properly treated
and she would have a chance to live.
Thirty percent of her body was raw third-degree
burns, but her face was unscathed. “I had no idea where I was or what
happened to she said. "I woke up and I was in the hospital with so much
pain, and then the nurses were around me."
Her ordeal worsened. At 8 am each day nurses had to
put her into a bath to cut off her dead skin. She fainted with pain.
Thirteen months and countless operations and skin
grafts later she could leave hospital. She wanted to go home.
She had been shown the photo and knew Ut had won the
Pulitzer Prize.
Kim moved to a small village near the Cambodian
border, occasionally visited by Ut and other journalists. Once South
Vietnam came under northern control in April 1975 life became harder
for her. Painkillers and even treatment cost too much. Shocking
headaches and pain filled her teenage years.
She set herself on a path to become a doctor but was
plucked out by the government as a propaganda tool and returned to her
home province. Her interviews were scripted. "I wanted to escape that
picture:' she said. "I got burned by napalm, andI became a victim of
war ... but growing up then, I became another kind of victim."
She began to wish she died in the bombing, with her
cousin and South Vietnamese soldiers. A journey West Germany in 1982
for medical care with the help of a foreign journalist began to change
her life. Vietnam's Prime Minister was touched by her ordeal and
organised study for her in Cuba.
Photographer Ut was now in Los Angeles. They met in
1989, but were never alone. At school, Kim had met Bui Huy Toan,
who could not be less concerned about her scars. They decided to marry
and honeymoon in Moscow in 1992. Their plane stopped in Canada where
they defected. She called Ut.
She wanted nothing more to do with reporters but she
was found near Toronto. A book and a documentary film followed as now
she took control of her story. She became a U.N. Goodwill Ambassador to
help victims of war, meeting Ut many times. In London she was
introduced to the Queen.
Ut still works for AP. "Today, I'm so happy I helped
Kim;' he says."I call her my daughter." As for Kim Phuc, at the age of
49 she said, "I really wanted to escape from that little girl. But it
seems to me that the picture didn't let me go."
Diệm chết, đúng
như Gấu phán, mi làm bồi Mẽo, Mẽo ra lịnh sao, phải làm theo, đéo làm
theo, là ông
xịt!
Bài viết trên tờ “Our Viet Nam”, cho biết, Mẽo ra lệnh khử vợ chồng
Nhu, làm
sao khử, thế là xong đời Diệm.
Những giai thoại về Nhu cho người ra
Bắc,
gặp Bác
Hồ này nọ, theo Gấu, có thể có, vì cái chuyện Diệm không muốn GI vô
Việt Nam là
có thiệt, ông chết vì cú này, đúng hơn.
Trong số báo mới mang về, có bài viết
về liên hệ giữa Tẫu và Bắc Kít, cho thấy, không có Tẫu, là Mít thoát cả
hai cuộc
chiến.
Điều này cũng
dễ đoán. Bắc Kít phải lệ thuộc Tẫu tới cỡ nào thì mới răm rắp nghe theo
Tẫu khi
chúng ra lệnh phát động cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Chính nhờ nó, phát
động sớm, mà
có vụ di cư. Ngụy phải cám ơn Tẫu, không chỉ một, mà hai lần, vụ di cư
và vụ tù
cải tạo.
Không có Tẫu đếch có Ngụy!
Nếu Bắc Kít
bội ơn người bạn quí láng giềng thì Ngụy cám ơn chúng, vậy!
Không có cú CCRD quá sớm, thì làm sao có cú di cư?
Không có cú dạy cho Bắc Kít 1 bài học, thì lũ sĩ quan Ngụy chết hết
trong trại
tù cải tạo rồi!
Note: Bài viết này, phần
dính dáng tới Nick Út & Kim Phúc, được 1
vị
thân hữu post trên FB, đọc thấy có còm, về cả hai, chắc của những người
không
rành về họ.
Về Kim Phúc,
suốt 1 thời mới lớn, đau cái đau không làm sao dám mặc áo cộc tay, khi
lớn lên
1 chút thì bị VC bắt cởi áo cho chúng tố cáo tội ác Mỹ Ngụy, khi có cơ
may, bỏ
chạy được quê hương, lại được Canada nhận, có 1 quê hương mới, được làm
chí
nguyện viên, thiên sứ của LHQ, mang thông điệp về sự thân ái đi khắp
nơi, đến
những nơi cần nó, được gặp nữ hoàng Anh.
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài viết trên về KP.
Còn Nick Út, anh có về VN
thì cũng là do nghề nghiệp, về gặp lại người
thân, có gì
sai đâu?
Anh cũng có lần tỏ ra ân hận, những bức hình của chúng tôi chỉ có tác
dụng xấu đối với VNCH.
Thì hẳn thế rồi. VC, chúng giấu cái ác của chúng như mèo giấu cứt, làm
sao thấy
mà chụp?
Cả 1 cuộc
chiến khủng khiếp như thế, VC chỉ có phạm độc nhất 1 lần ác, như Gấu đã
từng viết,
là chặt đầu 1 ông xã trưởng VNCH, rồi để cái đầu chặn bản án, trên bụng
cái
thây mất đầu của nạn nhân.
Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân
Những người Cộng sản rất khôn
khéo trong việc giấu diếm những tội ác của họ. Và càng giỏi hơn, khi
chối tội, khi không dám nhận ai là tác giả những tội ác đó. Khi chiến
tranh chấm dứt, họ dễ dàng có được những "Viện Bảo Tàng, Nhà Trưng Bầy
Tội Ác Mỹ Ngụy", phần lớn hình ảnh, tài liệu là do báo chí, giới truyền
thông Tây Phương cung cấp. Nhưng thật khó mà kiếm ra, và chắc là vô
phương có được những hình ảnh về cảnh giết người hàng loạt, trong biến
cố Mậu Thân tại Huế chẳng hạn, khi người Cộng Sản phải bỏ chạy. Đã từ
lâu, dư luận đồn đại, đằng sau tội ác đó có bóng dáng của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Nhưng ông chẳng bao giờ lên tiếng, cho dù chỉ để phủ nhận
(1). Cũng vậy, vụ giết hại những người theo Trotsky. Chẳng ai là đao
phủ. Chỉ có nạn nhân. Ở đây, những người Cộng Sản Việt Nam có vẻ như
không chấp nhận lối của giải thích, về sự dung tục của cái ác (the
banality of evil, chữ của Hannah Arendt khi bàn về tính tình, thái độ
của những tên đao phủ Nazi).
Trước khi chết, tổng thống Pháp, Francois Mitterrand đã "chiến đấu với
chính mình", để có được lời nói cuối, về việc ông đã tham gia trong
chính phủ Vichy, trước khi gia nhập lực lượng kháng chiến. Việc ông cho
tới năm 1986, là bạn thân của René Bousquet, một viên chức trong chính
quyền Vichy theo Đức Quốc Xã, bị kết án năm 1989 về tội ác chống lại
nhân loại, khi đẩy người Do-thái vào lò thiêu. Trong cuốn "Hồi Tưởng
qua hai giọng nói" (Memory in two voices), với người đối thoại là Elie
Wiesel - một nạn nhân sống sót tại lò thiêu người, Nobel Hòa Bình 1986
- khi nói ra những tội ác đó, ông chỉ làm một sửa soạn bất khả tri
trước khi chết, một cái chết không có sự an ủi của một niềm tin. Tôi
không biết tôi có "biết" không. Tôi không biết tôi có "không biết"
không: điều không thể quy định một cách ngay thẳng, công bằng trong từ
"niềm tin", ông nói. Và ông nói thêm, dẫn lời ghi trên bia mộ Willy
Brand, cựu thủ tướng Tây Đức: "Tôi đã làm cái điều tôi có thể làm".
Những người Cộng Sản Việt Nam, tuy không có niềm tin về một Đấng Toàn
Năng, nhưng thừa sức làm điều họ có thể làm.
Nhưng đối với chúng ta, đâu là điều chúng ta có thể làm? Sau này, những
con cháu đời thứ năm, thứ "mười mí" của đám lưu vong, khi phải truy tìm
nguyên nhân bỏ nước ra đi của những ông cố bà cố, họ sẽ hoang mang giữa
đống tài liệu chứa trong thư viện. Và càng hoang mang hơn, giữa đống
hồi ký, được viết ra với quá nhiều niềm tin, của những người quốc gia,
khi phải giải thích vai trò của họ trong biến cố lịch sử, trong việc
làm mất Miền Nam.
Nếu có chăng, một chứng cớ hiển nhiên về tội ác của những ngưòi Cộng
Sản, thì chỉ là một bức hình đăng trên trang bìa tờ Time (Thời Báo)
thời gian sau khi ông Diệm bị giết ít lâu, chụp một ông xã trưởng Miền
Nam bị du kích chặt đầu, rồi đặt cái đầu lên bụng tử thi, bên dưới là
bản án. Bức hình đã làm cả thế giới sáng đó không thể uống cà phê, ăn
điểm tâm. Và đây có thể coi như "niềm tin còn một chút này", đối với
những quân nhân Hoa Kỳ, Đồng Minh, khi họ tham gia cuộc chiến tại Việt
Nam. Nhưng cũng chẳng biết ai là đao phủ. Cũng vậy, thủ phạm hạ sát
những ký giả ngoại quốc trong vụ Mậu Thân tại Chợ Thiếc. Hình như sau
đó, khi được hỏi, Trần Bạch Đằng trả lời không biết, y hệt Trần Văn
Giàu trả lời, trong vụ giết hại Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu.
"Pictures to be killed" (Những tấm hình để giết đi), là một thuật ngữ
được giới báo chí Mỹ dùng, khi gửi những hình ảnh họ biết không thể sử
dụng, ít ra vào thời điểm đó. Trong chiến tranh Việt Nam, đã có những
bức hình chụp cảnh Việt Cộng dùng mã tấu, binh sĩ Mỹ dùng búa, tàn sát
lẫn nhau, như trong một phim, thời kỳ "khai hóa" dân da đỏ. Cảnh tàn
sát ở Mỹ Lai... tất cả những hình ảnh đó, sau này đã được sử dụng, khi
cần một cái cớ để rút khỏi Việt Nam "trong danh dự" đối với tổng thống
Nixon. "Nghe nói", phong trào phản chiến ở Mỹ cũng do CIA bỏ tiền ra,
thuê người đi biểu tình.
Những người Cộng Sản vẫn thường nói, hãy quên quá khứ, xúm nhau lại xây
dựng tương lai. Chúng ta sẵn sàng quên quá khứ, và có khi cũng chẳng
cần điều họ có thể làm, như tổng thống Pháp F. Mitterrand đã làm. Nhưng
chỉ cần họ không quên tinh thần "chống Mỹ cứu nước", không phải của họ,
mà là của những người dân Miền Nam, của những người họ gọi là Ngụy,
giống như những người họ gọi là Tề, ở Miền Bắc, trong cuộc chiến tranh
chống Pháp.
Trong thời gian người Mỹ tham chiến tại Miền Nam, có những gia đình cấm
con em không được làm sở Mỹ, có những công chức, ngày đi làm, tối chạy
xe ôm, nhưng nhất định không để cho người Mỹ vô nhà của họ, với những
hợp đồng thuê mướn thật hấp dẫn. Nghe nói, vẫn chỉ là nghe nói, Ngô
Đình Nhu đã từng cho người ra ngoài Bắc, bảo thẳng với ông Hồ, nếu còn
tiếp tục đánh phá Miền Nam, thì chính ông là người có tội ác với lịch
sử, trong việc đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam, và nếu cần, ông sẽ gửi con
tin, là hai người con ruột của ông, qua một nước trung gian là Thụy sĩ.
Nhiều viên chức Cộng Sản đã cay đắng thú nhận, họ thắng người Mỹ trên
chiến trường, nhưng thua trên thị trường, thua đồng đô la.
Chỉ mong họ đừng bao giờ gây ra cảnh cả nước Việt Nam cay đắng vì Mỹ,
như Miền Nam đã từng cay đắng.
Như các cô gái bán ba đã từng cay đắng khi người Mỹ, bắt chước ông Tú
Vị Xuyên, chơi trò đổi tiền đô la đỏ.
Một
độc giả Tin Văn,
chắc là nữ độc giả, sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không
thể lớn thành người, đã viết mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ
thi sĩ với Kim Phúc được, vì một lý do rất giản dị, không một người phụ
nữ nào muốn cái chuyện, thân thể của mình bị mang ra làm trò, bất cứ
trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn.
For Your Eyes Only, không
nhớ sao, Chú/Bác Gấu? (1)
Trong cuộc
chiến Mít, đám nhà báo quá được ưu đãi, và đó cũng là 1 phần của sự
thất trận của
VNCH.
Gấu đã từng
kể về, tuy là dân sự, nhưng do viết cho tờ Tiền Tuyến, nên được ông chủ bút của nó, là PLP, ban
cho 1 cái thẻ nhà báo. Nhờ cái thẻ mà đêm
trực nào thì cũng giao Đài Liên Lạc VTD cho 1 nhân viên phụ việc, rồi
phóng vô
Chợ Lớn, thăm cô bạn, ngồi tới gần giờ giới nghiêm mới trở lại Đài. Một
đôi lần
bị quân cảnh hỏi thăm, chìa cái thẻ ra, là
được nhìn với ánh mắt kính nể, thôi mời ông đi đi, mà hành nghề nhà báo!
Nhà
tôi ở chân cầu Thị Nghè
Nhà văn
Nguyên Ngọc: 'Chúng tôi đã được gỡ mặt nạ'
"Chúng
tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường,
giản dị,
có thể nói với nhau về những ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên
này và
bên kia".
Bài viết của
tên già NN, cực tởm: Hắn vờ hẳn lũ Ngụy, trong cuộc chiến hắn và tên
Mẽo,
cùng đeo mặt nạ!
Hắn vờ luôn
người bạn láng giềng đã từng trang bị đủ thứ cho anh bộ đội Cụ Hồ,
trong có hắn,
trong vụ làm cỏ lũ Ngụy.
The
destruction of Vukovar and Sarajevo will not be forgiven the Serbs.
Charles
Simic viết
Dân Serb sẽ
chẳng bao giờ được tha thứ, về vụ hủy diệt Vukovar và Sarajevo.
Nếu như thế,
thì lũ Bắc Kít sẽ chẳng bao giờ được tha thứ, vì vụ làm cỏ lũ Ngụy và
đẩy xứ Mít
đến bờ hủy diệt.
V/v Đeo mặt
nạ.
Hầu như mọi
tấm hình của VC về cuộc chiến Mít, thì đều bị chỉnh sửa.
Điện Biên Phủ ư?
Em du kích
nhỏ?
Xe tăng ủi sập
cổng Dinh Độc Lập?
Ngược hẳn Ngụy,
cái đéo nào cũng thực cả, ngu thế!
Đéo chịu đeo
mặt nạ.
Nixon nhìn tấm
hình “em bé na pan”, nè, photoshop hả?
Nick Út
phán, làm đéo gì có chuyện đó!
Bức hình là thực như cuộc chiến chính nó.
Tên NN thì bây giờ cũng
vẫn đeo mặt nạ, cho đến khi nào hắn dám nhìn thẳng vào sự thực, cuộc
chiến thực, nhưng lý do gây nên cuộc chiến, là do chúng ông phịa ra!
THIS IS
CERTAINLY ONE OF THE MOST SEARING IMAGES of the war, along with
Burrows's
"Reaching Out" (please see page 60), Eddie Adams's "General
Loan" (page 64), David Douglas Duncan's "Con Thien" (page 58),
and the work of Horst Faas, Henri Huet and some few others. The
photograph at left
has become known simply as "Napalm Girl," as we have noted, which
serves to demean Phan Thi Kim Phuc and the other children harmed here
during an
attack in 1972. Some newspapers, it was said, hesitated to run Nick
Ut's
Associated Press picture because Kim Phuc's clothes had been burned
off, but
ultimately the image won the Pulitzer Prize. President Nixon said: "I'm
wondering if that was fixed." Ut replied: "The picture for me and
unquestionably for many others could not have been more real. The photo
was as
authentic as the Vietnam War itself. The horror of the Vietnam War
recorded by me
did not have to be fixed." As Ut pointed out, "That terrified little
girl is still alive today." Indeed, she now lives in Canada, and she
and
Ut have visited many times through the years. The photo above of Kim
Phuc with
her son Thomas was taken by Joe McNally 23 years after Ut took the one
at left. LIFE asked McNally to find the subjects of a number of
Pulitzer Prize- winning
images, and in 1995 he made this picture at the family's home in
Toronto.
THE VIETNAM
WARS
Tôi muốn chạy trốn
bức
hình, chạy trốn đứa con nít trong bức hình đó,
nhưng nó... dai như đỉa!
Napalm Girl
The photo took just a second, but it is timeless. She
races towards the
reader on countless front pages, a little girl in torment.
Nine-year-old Kim Phuc, flees down a highway after napalm bombing.
Associated Press photographer Huynh Cong Ut not only took the photo,
but it also changed his life and that of Kim's.
June 8 1972 and Kim hears a soldier screaming, "We
have to run out of this place! They will bomb here and we will be
dead!" Yellow and purple smoke bombs wreathed a temple where her family
took refuge for three days while North and South Vietnamese forces
battled over their village.
Kim watched a South Vietnamese Skyraider swoop
towards her. Canisters tumbled from it, twisting end over end to
evaporate on the ground in unbearable orange flames that leapt onto her
left arm as her cotton clothes shredded. The pain seared her skin and
muscle. Nearby trees exploded and the ground shook.
Kim's first thought as she brushed her blisters with
her right arm was, "I will be ugly, and I'm not normal any more. People
will see me in a different way." As shock took over she ran screaming
down Highway 1 behind her older brother, unaware of the foreign
journalists in front of her. She passed out.
Ut, the 21-year-old Vietnamese photographer, burst
into tears at the sight and took the picture. He then drove Kim to a
hospital, where he was told she was beyond help. He thought, "If I
don't help her - if something happened and she died - I think I'd kill
myself after that." Using his US. press pass, he implored doctors to
save her. They agreed.
Developing his film in the agency's Saigon office he
stared at the naked little girl. His colleagues worried that AP's
anti-nudity policy would kill it. But legendary photographer and AP
photo editor Horst Faas could see that while this picture might break
the rules its impact transcended such boundaries.
A couple of days later a TV correspondent,
Christopher Wain, who gave Kim water from his canteen and poured it on
her burning back on the highway, tracked her down. He fought to have
her moved to an American unit where her burns could be properly treated
and she would have a chance to live.
Thirty percent of her body was raw third-degree
burns, but her face was unscathed. “I had no idea where I was or what
happened to she said. "I woke up and I was in the hospital with so much
pain, and then the nurses were around me."
Her ordeal worsened. At 8 am each day nurses had to
put her into a bath to cut off her dead skin. She fainted with pain.
Thirteen months and countless operations and skin
grafts later she could leave hospital. She wanted to go home.
She had been shown the photo and knew Ut had won the
Pulitzer Prize.
Kim moved to a small village near the Cambodian
border, occasionally visited by Ut and other journalists. Once South
Vietnam came under northern control in April 1975 life became harder
for her. Painkillers and even treatment cost too much. Shocking
headaches and pain filled her teenage years.
She set herself on a path to become a doctor but was
plucked out by the government as a propaganda tool and returned to her
home province. Her interviews were scripted. "I wanted to escape that
picture:' she said. "I got burned by napalm, andI became a victim of
war ... but growing up then, I became another kind of victim."
She began to wish she died in the bombing, with her
cousin and South Vietnamese soldiers. A journey West Germany in 1982
for medical care with the help of a foreign journalist began to change
her life. Vietnam's Prime Minister was touched by her ordeal and
organised study for her in Cuba.
Photographer Ut was now in Los Angeles. They met in
1989, but were never alone. At school, Kim had met Bui Huy Toan,
who could not be less concerned about her scars. They decided to marry
and honeymoon in Moscow in 1992. Their plane stopped in Canada where
they defected. She called Ut.
She wanted nothing more to do with reporters but she
was found near Toronto. A book and a documentary film followed as now
she took control of her story. She became a U.N. Goodwill Ambassador to
help victims of war, meeting Ut many times. In London she was
introduced to the Queen.
Ut still works for AP. "Today, I'm so happy I helped
Kim;' he says."I call her my daughter." As for Kim Phuc, at the age of
49 she said, "I really wanted to escape from that little girl. But it
seems to me that the picture didn't let me go."
It doesn't
sound like much now, but $40,000 from the CIA meant the end of Ngo Dinh
Diem as
leader of South Vietnam. The cash went to some of his generals, with
the
undertaking that the US would not oppose their brutal takeover.
That month the U.S.
ambassador to South Vietnam,
Henry Cabot Lodge, flew into Saigon to tell Diem: "I want you to be
successful.
I want to be useful to you. I don't expect you to be a 'yes man: I
realize that
you must never appear a puppet of the United States." Lodge said Diem
also
had to realize American public opinion had turned against him. Lodge
said the
U.S. favored religious tolerance. Diem's policies were "threatening
American support of Vietnam': Diem had to set his house in order by
removing
Ngo Dinh Nhu, silencing the outspoken Madame Nhu, punishing those
responsible
for the massacre in Hue and coming to terms with the Buddhists.
Washington was
no longer prepared to support his regime unconditionally. Lodge was
ignored and
Diem began to be seen as an obstacle in efforts to unite the South
Vietnamese
against communism. President Kennedy withdrew CIA protection. The
generals
moved early in November, 1963. The plotters promised Diem that he would
be
allowed to leave the country but changed their minds and killed him. He
was 62
and had paved the way for the war to come.
Bốn chục
ngàn đô. Bây giờ thì chẳng đáng gì, nhưng đó là số tiền Xịa chi cho lũ
tướng
lãnh Ngụy để làm thịt ông.
Trong bài viết về Kennedy, “Trong Bịnh Hoạn và bằng
Giấu Giếm, In Sickness and by Stealth”, Christopher Hitchens, điểm cuốn
tiểu sử
của Kennedy, “The Unfinished Life”, của Robert Dallek, phán, đây là đòn
găng tơ
của K. Ông cho biết chính Xịa đốt lãnh sự quán Mẽo ở Cộng Hoà Dominique
để có cớ
xâm lăng nước này.
Đòn Vịnh Bắc Bộ, như Mẽo bật mí, cũng phịa ra để có cớ dội bom Bắc Kít,
phong
toả Hải Phòng, bắt Bắc Bộ Phủ vô bàn hội nghị, chấm dứt cuộc chiến.
Chuyện thường
ngày ở huyện. Tuy nhiên, không có tên nào khốn kiếp như lũ Bắc Kít, khi
chúng
ra lệnh cho đám VC Nam Bộ phịa ra cú đầu độc tù VC ở Phú Lợi, để làm nổ
ra cuộc
chiến: Lấy chính đất nước Mít, dân Mít, xứ Nam Kít làm mồi nhử Mẽo!
VC chuyên
chơi đòn này, suốt hai cuộc chiến. Với Pháp, phải làm thịt Việt Gian,
là lũ đảng
phái quốc gia không theo Vẹm.
Đến bây giờ, chúng vẫn xử
dụng đòn này,
khi cần
làm thịt dân Mít, những ai đòi hỏi dân chủ.
Khi ra lệnh giết Phạm
Quỳnh, cũng là lúc bác Hồ ngồi vô bàn viết, thảo
cái giấy, sau này đưa cho con cái của PQ, ngày sau lịch sử sẽ minh oan
cho cha
cháu!
Những sự kiện trên, bây giờ rõ như ban ngày. Cớm VC vô nhà Bọ Lập,
chúng tớ phòng cháy chữa cháy, đếch phải Cớm.
Không thế, làm sao bắt "quả tang", BL đang.... BL?
Hà, hà!
Thằng em
trai của Gấu, chết lãng nhách, vì 1 viên đạn, trong cả băng AK, bắn từ
bên kia sông,
xuống sông, rồi viên đạn, theo luật khúc xạ chui ra khỏi mặt nước, bay
tới nằm
sau ót cu cậu. Một viên đạn hết đà, giả như đụng bất cứ 1 chỗ nào, thì
chỉ làm
trầy da.
Đang dẫn tiểu đội tuần tra vòng đai phi trường Sóc Trăng, khi
nghe tiếng súng từ phía bên kia sông, do phản xạ, bèn cúi đầu
né, cái
nón sắt, do quên không buộc dây, rớt xuống, phô cái ót trắng hếu cho
viên đạn hết
đà chui vô não, nằm luôn đó.
Đụng chỗ khác, cùng lắm, trầy da!
Viên bác sĩ quân y nói với Gấu, tôi không
lấy nó
ra, sợ nát khuôn mặt.
Kennedy chết,
ngược lại. Do bịnh, ngồi xe trần, ngồi thẳng được là nhờ 1 cái giá, 1
thứ “back-brace”,
như Christopher Hitchens cho biết. Chính vì thế, ông không làm sao xoay
sở,
phản xạ
phản xiệc, khi nghe tiếng súng, và đành ngồi chết trân hứng viên
đạn!
Diệm chết, đúng
như Gấu phán, mi làm bồi Mẽo, Mẽo ra lịnh sao, phải làm theo, đéo làm
theo, là ông
xịt!
Bài viết trên tờ “Our Viet Nam”, cho biết, Mẽo ra lệnh khử vợ chồng
Nhu, làm
sao khử, thế là xong đời Diệm.
Những giai thoại về Nhu cho người ra
Bắc,
gặp Bác
Hồ này nọ, theo Gấu, có thể có, vì cái chuyện Diệm không muốn GI vô
Việt Nam là
có thiệt, ông chết vì cú này, đúng hơn.
Trong số báo mới mang về, có bài viết
về liên hệ giữa Tẫu và Bắc Kít, cho thấy, không có Tẫu, là Mít thoát cả
hai cuộc
chiến.
Điều này cũng
dễ đoán. Bắc Kít phải lệ thuộc Tẫu tới cỡ nào thì mới răm rắp nghe theo
Tẫu khi
chúng ra lệnh phát động cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Chính nhờ nó, phát
động sớm, mà
có vụ di cư. Ngụy phải cám ơn Tẫu, không chỉ một, mà hai lần, vụ di cư
và vụ tù
cải tạo.
Không có Tẫu đếch có Ngụy!
Nếu Bắc Kít
bội ơn người bạn quí láng giềng thì Ngụy cám ơn chúng, vậy!
Không có cú CCRD quá sớm, thì làm sao có cú di cư?
Không có cú dạy cho Bắc Kít 1 bài học, thì lũ sĩ quan Ngụy chết hết
trong trại
tù cải tạo rồi!
Note: Bài viết này, phần dính dáng tới Nick Út & Kim Phúc, được 1
vị
thân hữu post trên FB, đọc thấy có còm, về cả hai, chắc của những người
không
rành về họ.
Về Kim Phúc,
suốt 1 thời mới lớn, đau cái đau không làm sao dám mặc áo cộc tay, khi
lớn lên
1 chút thì bị VC bắt cởi áo cho chúng tố cáo tội ác Mỹ Ngụy, khi có cơ
may, bỏ
chạy được quê hương, lại được Canada nhận, có 1 quê hương mới, được làm
chí
nguyện viên, thiên sứ của LHQ, mang thông điệp về sự thân aí đi khắp
nơi, đến
những nơi cần nó, được gặp nữ hoàng Anh, nếu không biết, thì đừng có
còm bậy.
Còn Nick Út, anh có về VN thì cũng là nghề nghiệp, về gặp lại người
thân, có gì
sai đâu?
Anh cũng có lần tỏ ra ân hận, những bức hình của chúng tôi chỉ có tác
dụng xấu đối với VNCH.
Thì hẳn thế rồi. VC, chúng giấu cái ác của chúng như mèo giấu cứt, làm
sao thấy
mà chụp?
Cả 1 cuộc
chiến khủng khiếp như thế, VC chỉ có phạm độc nhất 1 lần ác, như Gấu đã
từng viết,
là chặt đầu 1 ông xã trưởng VNCH, rồi để cái đầu chặn bản án, trên bụng
cái
thây mất đầu của nạn nhân.
Bác Hồ Iêu
Tờ LRB, Điểm
sách London, 22 Nov 2012 đọc Đỉnh
Cao Chói Lọi của DTH
Đọc bài này cũng thú lắm, thay vì đọc Hanoi's War của nữ sử gia
Mít
Hay Bên Thắng Nhục của tà lọt Osin
Người điểm
sách, Tariq Ali, kể
1 giai thoại, đúng
hơn, kỷ niệm, khi mới ra trường. Rất nhiều năm trước đây, ông có dịp
dùng bữa
trưa với 1 tay làm xb. Ông ta hỏi, ông muốn viết nhất, cuốn gì, What
book would
you most like to write? Lúc đó chiến tranh Mít đang leo thang, cố vấn
Mẽo đổ vô
tới tấp sau cú Ấp Bắc, Tháng Giêng 1963. Bản thân Ali, ông cho biết,
ông đã phá
hoại cuộc thi ra trường của mình, vì với mọi câu hỏi, thì ông đều đưa nỗi đau
vàng, le mal jaune, vô, bringing Vietnam to every answer.
Và chính vì thế, câu trả lời của ông với tay
này, là… Việt Nam:
Tôi muốn viết
1 cuốn tiểu sử về Bác Hồ thân thương của chúng ta!
Nhưng ông có
biết tiếng Tẩy không?
Không.
Tiếng Mít?
Không.
Vậy thì tốt
nhất, ông đi ghi tên liền 1 khóa tiếng Mít trong khi tôi đánh 1 cái
điện cho
Bác Hồ.
Một tháng
sau, Anthony Blond, tay xb, phôn, giọng hứng khởi:
Tớ nhận được
mail (điện tín) của Bác Hồ rồi. Tới ngay văn phòng...
Cái bức điện
của Bác thì mới khiêm nhường, như Bác vẫn hằng hằng khiêm nhường:
Cám ơn ông
quan tâm tới tui. Cái ý nghĩ của
ông viết tiểu sử tui, thì chưa hề đến với tui bao giờ hết.
"Thank you
for your interest. The thought of you writing my biography never
occurred to me.
Ho Chi Minh"
Đúng là Bác
Hồ!
Bảnh hơn cả… Thầy Cuốc, tớ đếch quan tâm
đến chuyện Bác Hồ có mấy vợ!
Hà, hà! (1)
Nhiều người
cho rằng Mẽo leo thang chiến tranh, khi dội bom Bắc Kít.
Không phải.
Mẽo muốn bỏ
chạy. Khi bom nổ trước nhà Ông Lành, thì Ông Lành phải rét thôi.
Lần Gấu gặp
lại ông cậu, Cậu Toàn, ông kể Bắc Kít rất sợ cái kế "không thành" của
Khổng Minh,
được Mẽo áp dụng vào cuộc chiến Việt Nam, nghĩa là, rất sợ, nếu đem hết
VC chủ lực đánh
vô Sài Gòn, để Mẽo, từ Đệ Thất Hạm Đội, lên máy bay, rồi nhảy xuống Hà
Nội, rồi
ăn sáng ở Bờ Hồ, tối ngủ đỡ nhà sàn Bác Hồ!
Ông nói, “ta” bắt được 1 tên Xịa
cao cấp, uýnh nó, hỏi, liệu xẩy ra chuyện đó, nó lắc đầu, Mẽo chuồn là
chuồn, chán
xứ Mít quá rồi! Chỉ đến khi nhận được “mail” của Cao Bồi, “bạn của
cháu”, thì mới
yên tâm, đổ toàn lực luợng vô chiến dịch cuối cùng!
Để bỏ chạy
khỏi Việt Nam, Mẽo phịa ra cú Vịnh Bắc Bộ, rồi, vin vào đó, dội bom vào
đít đám
VC ở Bắc Bộ Phủ, chúng sợ chết quá, bèn ký hiệp định Paris.
Sau đó, Mẽo thú nhận
cú ngụy tạo.
VC cũng làm như thế, để nhử Mẽo vô Miền Nam, ngụy tạo vụ đầu độc tù Phú
Lợi.
Nhưng dân Mít sẽ chẳng bao giờ được nghe lời thú tội của VC!
Tất cả những
tội ác cuộc chiến Việt Nam, như thế, là do VC gây nên.
Nhà văn
Nguyên Ngọc: 'Chúng tôi đã được gỡ mặt nạ'
"Chúng
tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường,
giản dị,
có thể nói với nhau về những ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên
này và
bên kia".
Note: Tên
già này, hết thuốc chữa!
GCC đã
khuyên hắn ta, ra nghĩa trang Ngụy quỳ lạy xin lỗi, sám hối, vì đã sống
bằng
máu của kẻ khác, trong 1 cuộc chiến mà cả hai tên VC và Mẽo đều bị bịp,
từ cú “báo động hoảng”, do Bắc Bộ Phủ ngụy tạo, khi hô hoán Diệm đầu
độc tù ở
Trại Tù
Phú Lợi, lấy cớ tạo ra cái lũ bù nhìn là MTGP, cuộc chiến thảm khốc bắt
từ cú bịa
đặt này.
Gỡ mặt nạ
cái con khỉ.
Bịp bợm
hoài!
Hết bịp người,
bây giờ tự bịp chính hắn ta.
Bịa đặt ra 1
cuộc chiến, cốt nhục tương tàn, bằng cách rước thằng Tẫu kẻ thù muôn
đời vô
nhà, vô đến tận giường ngủ - cái gì gì hộ lý quan Tẫu – để đánh cho
bằng được Mỹ
cút Ngụy nhào, bây giờ lại ve vãn thằng Yankee mũi lõ.
Giáo sư Huệ
Chi nói việc liên minh với Hoa Kỳ hiện nay là một 'mệnh lệnh của lịch
sử'. (b)
Như vậy là
sau khi dâng vợ con cho Tẫu, để chúng trang bị đến tận lông chim anh bộ
đội Cụ
Hồ cũng made in China, để ăn cướp cho bằng được Miền Nam, bây giờ lại
đi với Mẽo,
vì đây là mệnh lệnh của lịch sử.
Graham Greene
đã cảnh cáo cái mệnh lệnh lịch sử này, qua cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng",
mà thế giá
của nó càng ngày càng bảnh, theo cái nghĩa, thằng Mẽo không hề tốt lành
gì đâu,
coi chừng, coi chừng.
Khí giới khủng khiếp mà Mẽo sử dụng, theo Greene, chính là…
thiện ý của chúng, hà, hà!
AFTERWORD
Cuộc
chiến Mít, với những tội ác của nó, con
số người chết, 1 đất nước ngày càng tàn tạ, mất mẹ lương tâm đạo đức,
mất tất cả
"cái gọi là Mít", là do VC phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực, khởi
từ "ý hướng tốt" của anh Mẽo trầm lặng, cố tìm 1 lực lượng thứ ba,
không
theo Tẩy, Tẫu, Mút Ku.... 1 tên Mít đúng là Mít, cho xứ Mít!
Những
tài liệu,
văn kiện, sự kiện liên quan tới cuộc chiến giữa anh Tẩy và Việt Minh,
mới nhất,
từ phía Tẩy đưa ra, mà Gấu đọc, thời gian sau này, cho thấy, cuộc chiến
đó có thể
tránh được, ít ra là về phía Tẩy, nhưng Vẹm, không chỉ cố tình và còn
mong mỏi,
làm đủ mọi cách cho nó xẩy ra, để làm cỏ sạch những đảng phái khác, mà
chúng gán
cho tội Việt Gian, bán nước, chưa kể những nhà ái quốc như Phạm Quỳnh,
thí dụ.
Bởi vì chỉ có cách đó, mới thu gom mọi quyền lực vào tay chúng.
Cũng
thế là
cuộc chiến thứ nhì, với Mẽo, chỉ có cách đó, mới biến cả 1 miền đất
thành thù
nghịch.
Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng
là 1 bằng chứng chết người, của
những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít
bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc
chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ,
lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng
Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít
thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ
nhử Mẽo vô mà thắng!
Reading
Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali
Đầu năm nay, trong khi dậy khóa
MFA ở Đại Học Columnia, tôi có 1 cuộc bàn luận sôi nổi với một nhóm
sinh viên về Người Mỹ Trầm Lặng.
Với một số, ở giữa tuổi đôi mươi thì đây là lần đầu gặp GG, qua sách.
Hầu hết thì coi phim, ấn bản mới, làm lại, với Brendan Fraser là diễn
viên. Ai cũng có nhiều điều để nói, đặc biệt là về tính cách của nhân
vật chính Alden Pyle, và, anh ta là cái gì đối với xã hội văn hoá, và
chính trị Mẽo.
Điều thú vị của buổi nói chuyện, là, nếu có ai tình cờ
ghé qua, và trong đầu chẳng có gì về cuốn sách, hay là có tí ti, thì
cũng đều tỏ ra ngỡ ngàng, tại làm sao mà 1 cuốn tiểu thuyết được xb
cách cả nữa thế kỷ, mà lại "hot" đến như thế
Lẽ dĩ
nhiên,
sinh viên của tôi khó có thể, là những người đầu tiên, nhận ra sự thích
đáng của
những đóng góp, xây dựng trong những giả tưởng của Graham Greene lên
thực tại,
là chính trị của thế giới thực của thế kỷ thứ 21. Phillip Noyce, giám
đốc 2002
film version, đã làm 1 đường so sánh, trong 1 cuộc phỏng vấn với tạp
chí Salon, trước khi xẩy ra cú xâm lăng
Iraq:
“G. Bush đúng là từ cái bóng của anh chàng Mẽo, Pyle, trong Người
Mỹ Trầm
Lặng, bò ra!” Anh ta thật khó mà là người dưng, kẻ xa lạ, kẻ ở
bên lề,
mà đúng "một trăm phần dầu" Mẽo, đi tới đâu là mang đủ hành lý Mẽo,
chật cứng
những
thiện ý, luôn tin tưởng, ta là người đem đến câu trả lời: Anh ta rất ư
là ngây
thơ, naïve, nói cho cùng, đếch phải thứ cực kỳ thông minh, cực kỳ sáng
suốt, thật
sáng ngời, nhưng than ôi, bất hạnh thay, cực kỳ nguy hiểm!”
Monica
Ali
Gấu
phải đi
1 đường dài dòng như vậy, để cánh cáo lũ VC, vào lúc này, chúng mê Mẽo
hơn
bao giờ hết, sau khi dâng vợ con cho thằng Tẫu, để đánh cho bằng được
Mỹ
Cút, Ngụy
Nhào, ăn cướp cho bằng được, Miền Nam, tống cho bằng được lũ Ngụy vô Lò
Cải Tạo.
Trên net, trên
báo chí, cả của VC, lẫn của thế giới, nói rất nhiều về tội ác Mỹ Ngụy.
Cực đau
thương, là những tội ác đó, sẽ chẳng hề có, nếu không có cú nhử Mẽo vô
Miền Nam,
biến nó
thành đầm lầy, để cầm chân đế quốc, giùm cho cả một phe Đỏ. Một công
đôi việc,
vừa ăn cướp được Miền Nam, tức thống nhất đất nước, vừa đúng ý của Lê
Duẩn, chúng
ta đánh Mỹ Ngụy giùm cho TQ, cho Liên Xô!
Cứt một phát,
là chúng hy sinh cả 1 miền đất cho những tham vọng của chúng.
Đọc, nghe những
lời phát biểu của những tên như Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh… mới hỡi ơi,
chúng không
hề “quí” máu của kẻ khác, những tên Mít khác.
Tên già NN
thì cũng rứa.
Đó là ý
câu của Camus: Tư
tưởng lầm lẫn luôn kết thúc trong biển máu, nhưng máu kẻ khác, đếch
phải của 1 tên như NN, thí dụ.
Danh ca
Khánh Ly đã về Việt Nam
Họ Trịnh đã
từng hầu đờn Hồ Tôn Hiến, lấy ly rượu, thì tại làm sao người tri kỷ của
ông
không hầu đờn Bắc Bộ Phủ cho đủ cặp?
Trên TV có kể
chuyện sinh thời, Sáu Dân Hồ Tôn Hiến, mỗi lần rảnh việc triều đình,
thường cho
vời họ Trịnh tới hầu đờn. Và có lần họ Trịnh kéo theo một bạn thơ. Lần
sau, kêu
bạn thơ cùng đi, ông lắc đầu, than, thấy mi gân cổ hạc gầy, hát lấy ly
rượu, thảm
quá, tao thà ở nhà còn hơn nhìn thấy bạn mình bị “Cách Mạng” làm nhục!
Thành thử
cái
chuyện bà này về hầu đờn Bắc Bộ Phủ quả là quá khủng khiếp, hay dùng từ
thường dùng,
áp dụng vô cú Lò Thiêu, đếch nói được!
Cái chuyện hải
ngoại “buồn” chuyện KL về hầu đờn Bắc Bộ Phủ, là có cái lý của nó. Ai
về thì cũng
được trừ KL. Khi PD về, ông ta nói, người ta ghen với sự thành công của
tui. “Không
thành công” mới khó, chứ “thành công”, dễ ợt, với những đầu óc Bắc Kít
cực kỳ
thông minh, như PD, Sến Cô Nương, Nobel Toán, KL….
Với họ, phải “không
thành
công”, theo cái ý của Alain, dậy trò là Simone Weil cơ.
Não của đám này thiếu một
mẩu, như GCC từng nói, là theo ý này.
Weil mà không thông minh sao. Vậy mà bà
không vướng lụy trần, chính là vì bà đứng về phe nước mắt, đúng cái
nghĩa của từ
này, ý này, khi phán, ngày Nazi vô Paris là “Ngày Hội Lớn” của đám cô
lô nhần,
trong địa ngục thuộc địa của Tẩy.
Quái nhất là
Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Bộ Đầu Não Bắc Kinh, nộ não của đám
này cũng
sứt một mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri con người!
Note: Nhân đọc
1 entry trên Blog NL, chê hết lời cái tài viết văn của nữ danh ca KL.
Theo GCC,
chuyện đời KL, sở dĩ “dở” như thế, ấy là vì bà bỏ đi cái phần thực của
nó, tuyệt
vời hơn nhiều, nhưng do bà về với VC, thành ra không thể nào viết ra
được.
Cũng như PD, bà này cũng
sống quá đầy đời của bà, tràn qua đời của người khác,
đời của
hàng triệu con người bỏ mạng trong hai cuộc chiến vô ích.
Bữa trước, trên Blog NL,
có 1 entry về Tự Lực Văn Đoàn, được NL vinh danh tới
chỉ.
TLVD có 1 cái lầm lỡ khủng khiếp, là bỏ qua thời của họ, và không
chỉ bỏ
qua, mà còn nhường nó cho Vẹm.
Câu nhận xét sau đây về
TLVD, không còn
nhớ của
ai, thật đúng: Thứ văn chương của TLVD là của thành phố, của những kẻ
đứng
trên cao
nhìn xuống lũ Mít cùng đinh của xã hội Miền Bắc.
Khốn nạn hơn, còn giả
đò đưa
tay xuống cứu giúp họ, hoặc chửi họ, khi chê bai những hủ tục, những Xã
Xệ, Lý
Toét.
Sở dĩ VC làm thịt sạch đám này, mà không gặp sự kháng cự, những
Phạm Quỳnh,
TLVD, một phần là do dân quê Miền Bắc không nghĩ họ là cùng dòng như
họ, không
mắc mớ gì tới họ.
Đâu có phải tự nhiên, khi
thế nhân gọi những người như
PD, như
KL là "xướng ca vô loài". Bạn thử tưởng tượng, 1 kẻ đi tù VC ở Miền
Bắc,
tình cờ
nghe KL ca, “gửi về cho cha...” cảm khái như thế nào, và nay, nghe khi
nghe tin
bà về hầu đờn Tổng Lú, Y Tá Dạo?
Đâu có phải tự nhiên mà Sáng Tạo khai tử TLVD.
Họ muốn 1 thứ văn học khác.
Và họ đã làm được điều này, với sự trợ giúp của nhiều yếu tố khác nữa,
trong có nhạc vàng, nhạc sến.
Bịp
"Nhưng
thật không công bằng nếu chúng ta quên đi công “biên tập” của ông TBT
báo đã đưa bức ảnh ra công chúng, cũng như chúng ta quên đi người đã
cùng o Lai giải viên phi công Mỹ về.
Theo
tôi nếu không có công biên tập của ông TBT thì bức ảnh O du kích nhỏ dã
không nổi tiếng như thế."
O Du Kích Nhỏ
Lôi về TV,
vì sợ bản chính sẽ bị gỡ xuống!
Bài viết về
nhà thơ Du Tử Táo, về xứ Mít gặp Cớm của tờ An Ninh, nguyên tác đã được
delete,
chắc là do Gấu Cà Chớn dám phán nhảm về ý nghĩa thiêng liêng của nó!
Dầu có muốn
hay không, thì vẫn phải thừa nhận, Du Tử Lê là một tên tuổi. Tôi thích
đọc Du Tử
Lê, những bài thơ mang đậm nét đèn vàng phố thị hay hiu hắt tóc xanh.
Hầu như
trong giới viết lách ở Sài Gòn, ít nhiều đều thuộc vài câu thơ của Du
Tử Lê. Thế
nên, khi nghe nhà văn, nhà báo Đoàn Thạch Hãn buột miệng nói: “Tôi với
Lê thân
lắm”, thì tôi vội vã gửi lời nhờ: “Khi nào chú Lê có dịp về lại Việt
Nam, chú
cho con gặp với”.
Hạnh ngộ, chỉ có
bấy nhiêu.
Dầu có muốn
hay không thì vẫn phải thừa nhận…
Đúng là chơi với… cớm, cớm
liếm mặt!
“Tôi với
Lê thân
lắm”: Câu này phải để đao phủ HPNT nói mới phải, bởi vì bạn ta đã từng
tự động
gõ cửa.. Trùm Địa Ngục Mậu Thân!
Virginia
Woolf có 1 bài viết, chôm đúng từ của anh cớm Vẹm, Ám ảnh phố phường:
Một cuộc
phiêu lưu Luân Đôn [Street Haunting: A London
Adventure], trong đó, bà ngợi ca những buổi tối mùa đông phiêu lưu
trong Luân
Đôn: Đúng như thế, chạy trốn là vĩ đại nhất trong lạc thú, và ám ảnh
phố phường mùa đông, vĩ đại nhất trong phiêu lưu [This is true: to
escape is the greatest
of pleasures; street haunting in winter the greatest of adventures]
GCC sẽ
viết
về ám ảnh phố phường Sài Gòn của GCC.
Ce
qui m'a
le plus choqué dans les grands
procès staliniens, c'est l'approbation froide avec laquelle les hommes
d'État
communistes acceptaient la mise à mort de leurs amis. Car ils étaient
tous
amis, je veux dire par là qu'ils s'étaient connus intimement, avaient
vécu
ensemble des moments durs, émigration, persécution, longue lutte
politique.
Comment ont-ils pu sacrifier, et de cette façon si macabrement
définitive, leur
amitié?
Kundera
Điều làm cho tôi cáu nhất,
sốc nhất, tởm nhất, là thái độ gật gù chấp nhận, nếu không muốn nói
là hài lòng của đám tinh anh Bắc Kít, khi Đảng đưa ra tòa những đấng
bạn quí của
họ, và sau đó, làm thịt.
Họ chẳng đã
từng làm bạn tâm giao ư? Đã từng trải qua những giờ phút căng thẳng,
cay đắng,
gian khổ, trốn chạy, bách hại, cuộc chiến chính kiến dài. Làm sao có
thể họ hy
sinh tình bạn quí hiếm đến như thế, một cách thô bỉ ma cạp đến như thế?
Đó
là năm 1972. Tôi [Kundera] gặp một cô gái tại ngoại ô Prague,
trong một căn phòng người ta cho chúng tôi mượn. Hai ngày trước đó,
trong suốt
một ngày, cô gái bị công an tra hỏi, về tôi. Cô muốn lén gặp tôi, cô
nghi mình vẫn
bị công an theo dõi thường trực, và cô muốn cho tôi biết về những gì
công an hỏi
cô về tôi, và cô trả lời ra sao. Trong những cuộc tra hỏi như thế, đã
có những
câu trả lời của cô trùng hợp với những câu của tôi.
Một cô gái chưa từng biết gì về cuộc đời, có thể nói như thế. Cuộc tra
hỏi làm
cô khốn khổ, và sự sợ hãi khiến cô đau thắt ruột, từ ba bữa nay. Da dẻ
cô nhợt
nhạt, và cứ chốc chốc lại phải chạy vô nhà vệ sinh, để đi tiểu, đến
nỗi, suốt
cuộc gặp, tiếng nước dội cầu trấn át tất cả.
Tôi biết cô gái từ lâu. Cô thông minh, sắc sảo, đầu óc sáng rỡ, rất
rành trong
việc làm chủ những xúc động, cách hành xử, và cách ăn mặc của cô thì
mới tuyệt
vời làm sao, với chiếc áo dài giấu kín mọi nét hở hang. Vậy mà, đùng
một cái, nỗi
sợ khiến tất cả mở toang. Nỗi sợ, giống như lưỡi dao, mở toang thân thể
cô gái.
Cô đứng trước tôi, toang hoác, chẳng che đậy, giống như một khúc thịt
treo trên
cái móc của anh hàng thịt. Tiếng nước dội cầu vẫn âm ỉ, trấn ngự, và
bỗng
nhiên, tôi chỉ muốn hiếp cô gái.
Hiếp, chứ
không phải làm tình!
Bài viết này
mở ra cuốn Gặp Gỡ, khủng
khiếp, rúng động. GCC đọc, tính dịch trọn bài, rồi quên
đi mất.
Lần này chắc là phải làm thịt bài viết thôi, vì nhớ đến mối tình
trong trắng 10 năm trời chỉ hôn thôi của nhà nhạc sĩ lừng danh của xứ
Mít.
GCC cũng có
mối tình 5 năm không dám đụng, mà cũng không dám hôn, với cô bạn thân
của Gấu Cái,
tức cô phù dâu.
Gấu Cái chửi hoài, mày coi nó như thánh nữ, đâu có dám!
Nhưng 1 bà bạn
của cả hai bà, cũng bạn học hồi tiểu học, nghe, bĩu môi, ai mà biết
được chuyện
ma ăn cỗ!
Hà, hà!
Bài báo tường thuật, có
đoạn như sau:
"Tổng cục phó Tổng cục
Cảnh sát phòng chống tội phạm Bộ Công an Đỗ Kim Tuyến (ĐB Hà Nội) lưu ý
thể chế chính trị của ta khác các nước, vấn đề quốc gia đại sự đều do
Trung ương quyết định.
"Cơ chế của ta là Đảng
lãnh đạo, sau khi trưng cầu ý dân rồi thì Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng
phải xem ý dân thế nào, lòng Đảng ra sao, trên cơ sở đó mà quyết định"
- ông Tuyến phát biểu."
Nếu như thế
thì Đảng VC là… Ông Trời, là Quỉ Sứ rồi,
còn đéo gì nữa.
Chắc là Quỉ.
Quỉ Đỏ. Quỉ Đỏ quyết định sao thì dân Mít cứ thế mà chịu đựng!
"Dân chủ
của ta có hạn, dân trí còn rất thấp, số người dân trí cao là thiểu số,
trưng cầu
có khi gây hại, không thể tùy tiện", ĐB Huệ phát biểu.
VC cướp được
nước Mít 40 năm rồi, mà dân trí còn rất thấp, trưng cầu có khi gây họa,
không
thể tuỳ tiện!
…. phải quy
định rõ những điều thuộc vùng cấm, không đưa ra trưng cầu ý dân.
Vùng cấm chắc
là vùng “hai đê”, “đù đù”?
Dã man thật.
Ở Mẽo, thí dụ, 4 năm trưng
cầu 1 lần.
Xứ Mít, mãn đời NO!
Chúng ông
cướp được nước
Mít rồi, là muôn đời của chúng ông!
30.4.2015
Nguyen
Pham Xuan added 7 new photos.
8 hrs ·
Tối qua,
tại nghĩa trang liệt sĩ Tân
Biên (Tây Ninh) bốc mộ em trai, liệt sĩ Phạm Xuân Minh (1964 - 1984),
hy sinh ở
chiến trường K.
Đọc cái này
thì GCC lại nhớ đến thời gian sắp bỏ chạy quê nhà.
Mối lo duy nhất, là mộ thằng
em ở nghĩa trang quân đội [Ngụy] ở Gò Vấp, mà gia đình rất ư tin là,
nếu mà đi
thoát, là chúng sẽ đào mồ vứt xuống cống xuống rãnh, hoặc xuống sông.
Thế là bèn
thuê người bốc mộ, hoả táng “cái còn lại”.
Nhưng chính
cái từ "liệt sĩ" thì lại liên quan tới ông bố của Gấu.
Ông cụ bị mất tích hồi đầu
Cách Mạng, nghe nói bị QDD làm thịt, vậy mà mấy đứa con còn lại ở Miền
Bắc, tức
bà chị và thằng em trai của Gấu không được cấp bằng, con “liệt sĩ”!
Gấu về lại Đất
Bắc, là cũng tính điều tra coi sao.
Hóa ra là ông
cụ Gấu đếch chịu theo Vẹm, dù cả họ theo, mà chỉ được coi là “cảm tình
viên" của
Đảng.
Ui chao, đến
lúc đó, thì Gấu mới hiểu, ông bố của mình cố gắng tránh cho con
cái, cái nhục, là
con liệt sĩ!
Gấu tin là ông bố của mình
đã từng chứng kiến Vẹm làm thịt... Việt Gian, có thể 1à 1 người
như... Phạm Quỳnh?
Tôi vẫn tin
tưởng rằng nước Việt Nam phải có một nước như nước Pháp dìu dắt thì mới
có thể
đi tới văn minh và độc lập được!
Ông này bị chính ông con
trai, là nhạc sĩ Phạm Tuyên, tác giả "Như có Bác Hồ trong ngày vui Đại
Thắng", gọi là... Đại Việt Gian!
NQT
Cái đau, cái
nhục của Tẩy, bị Nazi đô hộ, còn đau nhục thêm, qua cái lời phán của
Simone Weil,
khi nhìn thấy Nazi vô Paris, đây là ngày hội của dân thuộc địa của Tẩy,
rồi cái
đau cái nhục có lại được Đông Dương, nhờ Đồng Minh, làm sao mà chúng
muốn gây
chiến, mà thay vì vậy, cố năn nỉ, thiếu điều quỳ xuống lạy Vẹm đừng
đánh nhau.
Vẹm lắc đầu quầy quậy, không uýnh mày, thì làm sao làm thịt lũ Việt
Gian?
Nên nhớ, cái
nhục bị Nazi đô hộ, đến bây giờ vẫn quên được, chứng cớ là Nobel văn
chương, 2014,
ban cho 1 thằng Tẩy, Patrick Modiano, do không làm sao quên được nó.
Cuộc chiến
chống Mẽo, thì là do Vẹm cố tình gây ra, bằng cách nhử chúng nhẩy vô
Miền Nam.
Chưa từng
thấy
1 đất nước nào như xứ Mít, với lũ quỉ VC.
Chúng “chỉ” cần cướp được xứ Mít, “chỉ”
cho chúng!
Quyền im lặng.
Ngay ở Tây
Phương, dân trí cao, thì cũng không ai rành luật cả.
Đâu phải job của họ.
Thành
ra mới phải có luật sư, thành ra mới phải có quyền im lặng.
Tao đéo nói gì hết,
mày hỏi luật sư của tao.
Lũ VC này thực
tình ngu quá đỗi, và cực độc, cực ác.
Nhưng ai biểu
Mit ngu, Mít mê VC!
Nghiêng
thương
Tản văn
Nguyễn Ngọc
Tư
Một tuần sau
khi người ta đổi cờ trên nóc đồn Nhơn Thành, bà nội nấu bữa cơm mừng
ngưng bom
đạn. Hai mâm dọn dài trên bộ ván giữa nhà, linh đình như đám giỗ. Cơm
này nấu
đãi đằng con cháu tay chân lành lặn trở về, không phải dành riêng cho
người
thua kẻ thắng nào, nội nói với mấy ông con đang nằm lắc võng, hút thuốc
gò. Thằng
anh vừa hỏi em, “ê, giao nộp súng chưa ?”
Nhưng cái
mùi thuốc súng trộn trong máu khô và tóc cháy vẫn lởn vởn trong bữa
cơm, nhất
là chú Tèo Anh bên sông bơi xuồng qua, trật lưng quần chìa cái thẹo rúm
lại bằng
nắm tay hỏi Hai Sang, “Ê, nhớ cái thẹo này không mậy ?
- Sao quên
được. Tôi đâm chớ ai.
- Dì Ba nghe
rồi đó - Tèo Anh kêu vói ra sau bếp - Thằng Sang nó nhận đâm tôi rồi
nghen. Trước
giờ dì toàn bênh nó.
Giọng chú
chói như cái bữa bỏ dở cuộc càn, nằm trên cáng thương áo quần bê bết
máu, tay vịn
cái tô úp vô chỗ thủng cho ruột khỏi vọt ra, dừng trước nhà kêu, “bớ bà
Ba
Quyên thằng quý tử của bà đâm bể bụng tôi, anh em bạn dì ruột mà chơi
vậy mà
coi được ?”. Bà nội xé cái áo may bằng lãnh Mỹ A ra để buộc ngang bụng
thằng
cháu, một người cáng thương phân trần, “ông trời này không chịu băng,
để về nằm
vạ với dì”. Tự thấy giọng đã đủ quả quyết, bà nội nói, “không phải
thằng Sang
đâu, nó ở miết trong rừng, đâu mà ra tận Giồng Cỏ Xước đụng bây”. Nhưng
chú Tèo
Anh khăng khăng nói thằng Sang chớ ai, nó bật nắp hầm dọt lên, trắng
như cục bột.
Bà nội nghe tiếng mình đuối dần về cuối.
- Ờ, có khi
thằng nhỏ quýnh quá đâm lầm.
Nhưng cuộc
nhậu mừng chiến tranh sực tạnh, Hai Sang nói khi đó súng mình hết đạn,
trong
tay chỉ có cây dao mác, và tính trước sẽ đâm vào bụng Tèo Anh. Quãng
đường từ
cái hầm dưới bụi tre chạy tới mé kinh là mười hai bước, cái hỗn loạn
của một
người đổ xuống sẽ được tận dụng để chạy thoát.
- Sao lại nhắm
vô thằng anh mày ?
- Thì anh đứng
gần miệng hầm nhất. Và còn chỉa súng phía tôi.
- Biết là
mày thì tao đâu bắn.
- Tụi đi
cùng sẽ bắn. Chiến tranh mà. Nhưng anh có chết đâu sao cằn nhằn nhức
xương quá.
Chú Tèo Anh
gãi gãi cái sẹo, cười. Ờ hén, phải tay người khác, có khi họ đâm xoáy
ngay tim,
đâu chỉ gây vết thương hú họa vu vơ như vầy.
Buổi đổi cờ
như dấu chấm xuống dòng. Sau cái trống trải im ắng của khoảng trắng,
chiến
tranh lại miết lên giấy câu chuyện đắng cay dai nhách của nó. Hết lửa
ngọn
nhưng không biết chừng nào mới than mới chịu nguội đây, bà nội rên rẩm
trong bụng,
khua đũa leng keng miệng chén, kêu tụi bây ăn đi, cháo vịt nguội ngơ
đông mỡ rồi
kìa.
Hồi còn bắn
nhau, có hai thằng con trong bầy đi theo hai phía chiến tuyến, ông nội
dặn cả
nhà không được nghiêng theo bên nào, “Dân làm ruộng thì cắm đầu làm
ruộng thôi,
cảm tình riêng thì để bụng chớ nói ra”. Nhưng ông nội công khai chở
lúa, gởi tiền
vô rừng cho thằng con lớn. Thằng em hay được tỉnh queo, “có sao đâu,
tía cưng
anh Hai nào giờ ai cũng biết”, rồi lắc võng ngủ khò.
Đứa vắng mặt
thì chỉ cái tên đi lại trên môi người ở lại. Thỉnh thoảng nhận được thơ
viết
tay, nó không xin áo mới thì cũng pin đèn, dầu. Lá thơ nào cũng bắt đầu
bằng
“Con tin thắng lợi đang tới gần rồi”, và lấy “tía má có khỏe không ?”
làm kết
thúc. Bà nội cứ lộn lá thơ hy vọng có dòng nào bí mật rơi ra, một câu
hay một
chữ hỏi tới chứng phong thấp của bà.
Đứa ở gần
ngày nào cũng đảo qua nhà lục cơm cháy. Mùi rượu cuối chiều, tóc tai
phủ gáy
kêu hoài không chịu cắt, nửa đêm huýt sáo chọc chó sủa dậy, có cái áo
mặc hoài
hôi xì mà không chịu thay. Sự sống động đó, tùy tiện đó, bừa bãi đó
khuấy động
bà mẹ, khiến lòng bà trùng trình. Thương lén, thương bằng mắt, bằng cái
điệu bộ
đuổi xua, “cơm chánh phủ đâu sao không ăn, lảng vảng chi trong bếp dân
thường”.
Sau cuộc bãi
khóa, ông anh lớn bỏ học vào rừng, chú Quý cũng trở về Nhơn Thành, vét
sạch hai
bồ lúa mua chức xã trưởng. Ngày nào tân xã trưởng cũng ngồi trước hàng
ba lau
khẩu súng mới được cấp, đuổi dạt mấy người hay tới gặp ông nội hầm hè
chuyện để
con cái trong nhà trốn theo bên đỏ. Một tay ôm con gà nòi chiến, tay
kia xỏ vô
túi quần tây, xã trưởng thả tà tà dài xóm, lâu lâu thò đầu vô nhà ai đó
hỏi,
“Có nuôi chứa ai trong nhà không, thím hai ?”. Chẳng ai dại gì nói có,
nhưng xã
trưởng hết sức hài lòng, “Không hả ? Ờ được”. Rồi huýt sáo bỏ đi, những
nốt nhạc
của bài “nét buồn cuộc chiến” cứ rơi đằng sau gót. Bài hát như nhạc
hiệu của xã
trưởng, chưa thấy bóng Tư Quý đâu người ta đã nghe rười rượi “mắt em
buồn cuộc
chiến quê hương, tóc em buồn màu hỏa châu vương, từng đêm nghe súng nổ,
con tim
mình tan vỡ…”
Thằng con xã
trưởng ở đầu gánh, cân bằng với một thằng con khác ở trong rừng, ông
nội giữ tư
thế người ở giữa, kệ chiến cuộc có nghiêng về bên nào. “Tụi này chỉ
theo đám ruộng”,
ông nội thường nói vậy mỗi khi hai bên tới rủ rê theo họ. Thuyết phục
được ông
điền chủ Năm Tánh, thì coi như giải quyết xong cả xóm Nhơn Thành. Hai
bên đều
nghĩ vậy, nên kẻ thì đẩy cỗng lúc ngày, người gõ vách lúc nửa đêm. Nước
trong
bình trà không quan tâm ai từ đâu tới, cứ đon đả chảy ra mỗi khi khách
tới nhà.
Nhưng tình
thương của bà nội đối với đám con thì khó lòng rạch ròi thế ở giữa. Như
bữa mừng
dứt chiến tranh, ăn uống xong lôi bộ bài tây ra đánh chơi, thấy chú Tư
Quý thua
xiểng liểng, bà nội lén dúi cho mấy chục cắc. Vớ mớ vốn đó chú Tư lội
ngược
dòng, vét sạch túi mấy ông anh. Tàn cuộc, chú phủi đít quần hốt vốc
tiền bỏ vô
túi người anh họ cũng vừa nộp súng xong.
- Đem về mua
gạo cho sắp nhỏ, tụi mình phải đi xa dài ngày mà.
Người đàn
ông nhẹ nhõm với thắng thua ấy, ngày về thành con người khác. Như thời
gian ở
trại cải tạo, người ta đã đánh thức chú giữa giấc ngủ, giữa bữa ăn, lúc
đi tắm
để dí ngón tay giữa trán, nhiếc móc “anh là kẻ thua cuộc”. Là kẻ thua
cuộc. Kẻ
thua cuộc. Thua cuộc. Như thể trong hai mươi lăm ngày lao động cải tạo,
cây cuốc,
cọng rau, và cỏ dại đều day đi day lại, nhét đầy những lằn rãnh những
tia máu
trong đầu chú, “đồ thua cuộc”
Cả tiếng đũa
khua, hôm đầu tiên chú về, cũng rón rén, phập phồng. Cái thằng nhỏ ung
dung,
hay phẩy tay phớt đời của mình đâu rồi, bà nội nghĩ vậy lúc thắp cây
đèn ngồi kế
bên, gắp cá bống kho tiêu bỏ vào chén nó.
Một bữa sớm,
Tư Quý đổ dầu máy cày, rồi lái thẳng ra đồng. Không bao giờ chú quay về
nhà nữa.
Người ta đã lần theo vết máy cày rằn trên đất, đi hết đồng Nhơn Thành
đến Phong
Điền, Trảng Gió, Mù Sương cho đến khi không còn nhận ra dấu hằn của
chiếc máy
cày Tư Quý với những chiếc máy cày miệt khác chạy ngang dọc trên đồng
đất tháng
Năm.
Bằng cách đi
vào mịt mù, chú Tư Quý khiến bà nội nghiêng thương về phía mình, cho
đến lúc
tàn hơi, “Bữa thằng nhỏ đi chỉ đem theo có nắm cơm nếp đậu, nó có thể
đi đâu chớ
?”.
Note/Errata: Làm gì
tới 15 ngày cải tạo?
10 ngày
thui!
GCC, 3 ngày!
Chép lại bản Tư gởi!
NQT
Note: Đọc cái này,
thì lại nhớ tới 1 vị độc giả của TV.
Vị này nói, Tara của Gấu Cái mới thực là Tara.
Tara của Cô Tư có mùi Cách Mạng!
7.4.2010
Ấp Tara ở
đâu xa? Nó ở đây:
Chỉ có ngoại
là nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái chòi sát bên căn
nhà đổ
nát cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người con nhưng cuối cùng
tan nát, mỗi
người mỗi nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình
ngoại, già
nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát.
Đến con đường
dẫn về nhà ngoại, tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi, hai bên
có hai
hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc
hai cậu
cháu lang thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục
thứ dây
leo chằng chịt, quấn quít trên cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy
trong đám
dây leo đó có những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo không rễ, bám vào
cây nào
thì cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ
bước vào nhà ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc
dừa đã
lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị bom chặt gãy vắt lên
gốc. Liếp
sầu riêng của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn
mấy cây ổi
sống dai, xanh um, trái chín vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già,
mốc. Ngày
xưa tôi và dì út thay phiên nhau hành nó, không ngày nào mà hai dì cháu
không
trèo cây, hay lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy
gốc...
Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm thanh
ríu rít
như ngày xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn
cũ. Tôi
ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại đánh
thức...
… Và Gấu có
còn muốn trở về với nó nữa không?
Uyên đã thực
sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển
cả, bởi vì
mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm
thấy được,
con đường trở về...
Kính GNV,
tôi rất thích truyện ngắn của Thảo Trần.
Giọng kể của
bà thanh thản mà gây buồn da diết, đúng là viết mà như không.
Đoạn
"Tara" mà tôi mới trích, hay hơn cô Tư đó, vì nó rất tự nhiên.
Chúc mừng
bà. Xin cảm ơn đã cho tôi được đọc.
Kính,
HÂ
Đa tạ
TT/GNV
10 Questions with Judy Blume
Cuốn
"Cho tôi xin
một chiếc vé đi tuổi thơ" của Nguyễn Nhật Ánh vừa được dịch và điểm
trên
một tờ báo văn học có tiếng ở Mỹ: Anjali
Vaidya on Ticket to Childhood: A Novel (Los Angeles Review
of
Books 28-5-15) - Xin lỗi các nhà phê bình Việt
Nam nha: Tôi ít khi thấy một bài phê bình nào bằng tiếng Việt, về một
tác giả
Việt Nam, mà sâu sắc và có kiến văn rộng rãi như bài phê bình này!
Source
Note:
Phán
như thế, thì ít ra cũng dịch bài điểm sách ra tiếng Mít, để cho độc giả
cùng đánh
giá.
Gấu, tò mò, đọc bài viết, và có ý kiến ý cò, không đúng.
Tờ Điểm Sách
LA thực sự cũng không có tiếng, so với, thí dụ Điểm Sách Nữu Ước, NYRB.
Thứ nữa,
tác giả so “Cho tôi 1 vé đi…. “ của NNA, là cùng dòng với "Hoàng Tử Bé"
của St
Ex.
Cái này thì đại nhảm,
vưỡn theo GCC!
Cuốn của St Ex, tuy viết
cho con nít,
nhưng thực sự là dành cho đám già, và có thể, còn có tí khùng.
Bởi thế Giàng Búi
mới quá mê, và bèn dịch!
NNA đâu có tí nào... khùng?
Tuy nhiên, vấn
đề là, ở xứ Mít như hiện nay, đàn bà con nít thì đều bị nhà nước dùng
vào món hàng
xuất khẩu, đều cực “bất hạnh”, dùng từ của Thầy Kuốc, cái trò “vừa nhắm
mắt vừa
mở cửa”, “cho tớ 1 vé…. đi thiên đàng”, nó giống như nhục mạ họ, và nhà
văn, hoặc
là mù, hoặc là giống như con lừa, thấy con hổ, bèn chúi đầu vô bụi,
chân sau đá
lia lịa. Mê đọc ngôn tình, mê hiện thực huyền ảo, mê sách sex, mê sách
dành cho
con nít, là tự đánh lừa chính mình, theo GCC.
Cái gì gì,
sau Lò Cải Tạo mà còn làm thơ thì thật là dã man. [Văn chương Việt Nam
25 năm vừa
qua là phiên bản nhiệt đới gió mùa của câu văn khét tiếng của Adorno:
"Còn
làm thơ sau Auschwitz thì thật man rợ". Blog NL]
Viết
lại/Đợp Lại "Kẻ Xa Lạ" của Camus/Chủ nghĩa Thực
Dân Thuộc Địa của Tẩy. Phản điều tra Meursault
New Algerian fiction
Stranger and stranger
An biting Algerian response
to French colonialism
Camus vs Meursault, Phản
Điều Tra
FOREWORD
Albert
Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror
Our
twentieth century is the century of fear.... We live in terror.
-ALBERT
CAMUS,
"The
Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)
I have
always believed that if people who placed their hopes in the human
condition
were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there
will be
only one honorable choice: to wager everything on the belief that in
the end
words will prove stronger than bullets.
Tôi
luôn luôn tin rằng,
nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người - khùng,
thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin,
sau
cùng chữ mạnh hơn đạn.
-ALBERT
CAMUS,
"Toward
Dialogue" (Combat, November 30, 1946)
Nadine
Gordimer
chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus
in what began as an underground newspaper during the German of
Occupation of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo,
có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là
những gợi ý
của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành
lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan
tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao
tránh khỏi
cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc
gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra
một lời
giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp
ngựa để thắng
cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh
Miền Nam,
và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng
chẳng ai
cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở
tung, và con
quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết
trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến,
chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương,
trong hồn,
trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe
nanh múa vuốt
xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải
thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi
chuồng
heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của
Gogol, sự xuất
hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu
tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân",
hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào
má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ
gọi anh
là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự
mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng
mảnh
dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai
quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao
đổi ma
quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị
(offering) thân
chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ
lấy đi
còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi
chuyến đi với
cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an
bài"!
Tchekhov
và
Kafka
Bạn
cũng có thể hình dung ra
con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp
cho anh
bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made
in China’,
và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu,
núi đâu,
gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?
Note: Mới đọc một stt của Thầy Kuốc:
Nguyễn Hưng Quốc
9 hrs ·
ĐIỂM NÓNG
Trong nửa sau thế kỷ 20, Việt Nam là điểm nóng nhất trong cuộc chiến
tranh lạnh
giữa hai khối tư bản và cộng sản. Đầu thế kỷ 21, Việt Nam, một lần nữa,
lại trở
thành một điểm nóng nhất trong cuộc chiến tranh lạnh giữa hai nền kinh
tế lớn
nhất thế giới: Trung Quốc và Mỹ.
Nói về vị trí của Việt Nam trên bản đồ
thế giới, hầu hết các cuốn sách giáo khoa về địa lý đều cho đó là một
vị trí
ngã ba của các nền văn minh lớn. Trên thực tế, từ góc nhìn địa chính
trị, chúng
ta chỉ thấy toàn là những bất hạnh. Bất hạnh trong cuộc chiến tranh
1954-75 thì
đã rõ. Còn những bất hạnh sắp tới trên Biển Đông thì chưa ai biết được.
— with Tuan Nguyen.
Theo
GCC, không phải như thế.
Nước
Mít, lúc thoạt đầu chỉ có xứ Bắc Kít, tức đồng
bằng sông Hồng. Rồi ăn hoài, đẻ hoài, bị ngăn chặn ở phía Bắc bởi anh
Tẫu thành
ra cứ phải mở mãi ra phía Nam. Trong lịch sử làm nên cái bất hạnh của
nó, là
lịch sử của không biết bao nhiêu giống dân khác bị giống Bắc Kít làm
thịt.
Đến
khi hết các giống dân khác, thì làm thịt thằng em ruột của
nó.
Cái
bất hạnh nếu có, thì nằm trong máu Bắc Kít.
Thằng Tẫu là kẻ thù ngàn đời của nó. Vậy mà nó dâng cả vợ con cho Tẫu,
để làm thịt cho bằng được thằng em ruột của mình.
Sử gia mũi lõ
coi trường hợp của xứ Mít, sự tạo thành của nó, và kết quả như bây giờ,
là sự… trả thù của địa lý.
Vết thương hình chữ S, với
xứ Mít
*
Karnow,
trong bài viết về Bác Hồ, trong số báo đặc biệt của Time, có nhắc đến câu
trả lời của Võ Tướng Quân, về cuộc chiến Mít. Đánh, kéo dài trăm năm, ngàn năm, vưỡn đánh, chết hàng trăm triệu,
cũng bỏ. Và ông ta cho rằng Võ Tướng Quân, có thể là tướng giỏi, nhưng
đếch tiếc
mạng người!
Gấu cũng
nghĩ như vậy, nhưng sau đó, nhận ra là, VNG, khi trả lời Karnow, không
phải với
tư cách 1 vị tướng, mà chỉ như 1 tên Bắc Kít, với giấc mộng tuyệt vời
của giống
dân này, được ông Trời sinh ra để hoàn thành nó. Đây là cái "thème"
Savior biến
thành Devil mà Tin Văn lèm bèm hoài, thuổng từ D.M. Thomas, khi viết
tiểu sử
Solzhenitsyn.
Tương tự,
khi Bùi Tín trả lời Dương Văn Minh, chúng ông lấy sạch rồi, mi còn gì
mà bàn
giao: từ trái tim “đen thui” của ông bật ra câu này, như ao ước của Võ
Tướng
Quân, chẳng khác!
V/v “chẳng
khác”, D.M. Thomas giải thích, Quỉ và Chúa đổi chỗ cho nhau. Giấc mơ
đẹp giải
phóng thống nhất đất nước biến thành cơn điên khùng ăn cướp Miền Nam,
rồi cứ thế,
cứ thế, ăn cướp cả nước, biến đất Mít cái hậu môn của thế giới, anus
mundi, biến
thế giới thành bãi đánh hàng!
Đâu chỉ một
Võ Tướng Quân, mà bất kỳ 1 tên Bắc Kít đều
mong xả thân vì chiến thắng Miền Nam. Vì giấc mơ tuyệt vời nhờ nó mà có
giống Mít.
Cái kết quả
sau cùng làm 1 tên Mít nào, có lương tâm, là đều nhận ra. Giấc mộng đẹp
chính là
Quả Lừa Lớn, Sự Trả Thù của… địa lý: Vết thương hình chữ S!
Bao nhiêu
giống dân
bị Mít làm cỏ, mới có giấc mộng lớn/quả lừa lớn đó! (a)
Thầy Kuốc
có
biết gì đâu. Gấu đã chứng tỏ nhiều lần, Thầy cực dốt, nhờ số phận run
rủi mà lên
Thầy, cũng 1 thứ Xuân Tóc Đỏ của thời đại. Có lần Thầy phán, gì thì gì,
dân Mít
phải biết ơn VC, nhờ VC mà thắng cả hai thằng đế quốc đầu sỏ!
Đau nhất, là
thắng nó, thành ra đất nước mới ra nông nỗi như vầy. Đau nhất, như Gấu
đã nhiều
lần lèm bèm, vì cả hai thằng đều không muốn gây chiến, mà VC bắt buộc
chúng phải
gây chiến. Làm gì có 1 chế độ chính trị nào thực sự yêu đất nước của
mình, mà lại
như lũ VC.
Gấu biểu tên
già NN ra nghĩa địa Ngụy sám hối, là vì lý do đó. Phải có 1 tên làm 1
việc như
thế, như 1 nghi lễ cầu xin ông Trời tha thứ cho dân Mít, may ra mới có
sự thay đổi.
Tran
Triet added 10 new photos — with DoQuy
Toan
and 2
others.
May 25 at 7:21pm ·
Buổi sáng
trong khu vườn nhỏ, nhưng mở
rộng ra những niềm vui lớn...
*
Bữa trước,
GCC đã biết trước, bộ lạc Cờ Lăng ngửi thấy mùi thuốc lào [Điếu Cày] là
rất
mong được làm quen với anh!
Đúng y
chang!
Blogger Điếu
Cày gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama
Bộ lạc Cờ
Lăng thèm làm
quen anh lắm! (1)
Note: Ngồi kế Ông Số 2 bảnh hơn nhiều!
Thi sĩ bao giờ cũng bảnh hơn nhà chính trị.
Nhất là Ông Số 2, chỉ thua Ông Số 1, một câu thơ!
May quá, chôm được rùi! (1)
Trong lịch sử Việt Nam có
hai vụ ăn cắp thật là tuyệt vời.
Một, là vụ một ông trạng đi xứ Tầu, nhét hột ngô vô bìu mang về Việt
Nam làm giống, cứu đói cho cả một dân tộc.
Một, là vụ ông Hồ chôm một câu trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Mẽo, nhờ
vậy, sau cuộc chiến thảm khốc, hai kẻ thù lại có cơ hội làm bạn.
Liệu, ông Hồ biết trước, cái vụ bắt tay lịch sử tại Nhà Trắng mới đây,
giữa hai kẻ thù?
Chắc là không... tiên tri tới mức đó.
Có điều ông biết, khó mà giấu nổi vụ ăn cắp.
Có khi ông cố tình cho người ta biết ông ăn cắp.
Có khi ông biết rất cần phải ăn cắp. Bởi vì thứ ông ăn cắp còn quí hơn
cả cái hột ngô kia, đối với đất nước của ông.
Nhưng thảm thương thay, cái đất nước mà ông đem hạt giống quí đó về, đã
không trồng nổi nó!
Đúng ra phải nói ông Hồ chôm hai món của thiên hạ, một linh dược, một
độc dược.
Thứ linh dược do không hợp phong thổ nên chết ngay đứ đừ.
Độc dược, gặp thiên thời địa lợi nhân hoà, cứ thế mà phơi phới bung
ra, ăn tới xương tới tuỷ đám đầy tớ của nhân dân, thế là hết thuốc chữa.
Biết đâu, nhờ cú bắt tay vừa rồi, linh dược lại có cơ trỗi dậy?
Cũng khó lắm, vì hai tay mạt cưa mướp đắng gặp nhau, dễ gì mà có được
linh dược?
Ở ta trước đây và ở hầu
khắp thế giới xưa nay đều như thế, tạo
nên một đời sống văn học nhẹ nhõm mà đa dạng, giàu có. Từ sau 1945 ta
lùa tất cả
vào một hội, lại là hội của nhà nước, là phi tự nhiên, chỉ chật chội và
làm
nghèo văn học. Trong chiến tranh, còn chừng nào chấp nhận được; trong
hòa bình
rất không nên.
NN (1)
Đây là cái chết của văn
chương Miền Bắc, như Brodsky phán, một
khi mi “mà cả” văn chương, là nó biến thành kít, là mi tán tỉnh thảm
họa.
Cái vết
sẹo/vết nhục văn chương này vô phương tẩy xoá. Bao nhiêu con người chết
vì còn
“chừng nào
chấp nhận được”.
Phải, đéo bao giờ chấp
nhận được, mới được.
Tên già này, có thời Gấu
cũng có tí tin tưởng, thí dụ, trong
vụ NHT, cũng như Sến, với một “thiên sứ”, vưỡn thí dụ, nhưng sau vỡ ra,
cũng đồ
dởm cả.
Cũng những thứ đã từng tán tỉnh thảm họa - Sến thì lo học giỏi, lo cắm
cờ, NN thì lo xây dựng văn học Cách Mạng - toàn những thứ sống trên máu
của những
kẻ đã chết, đúng ý của Cà Mu, Camus:
Tư tưởng dởm luôn chấm dứt trong
biển máu, nhưng máu kẻ khác!
"Ba mươi năm sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên đầu tăm mà tôi
cắm
vào Bà Rịa trở nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng, 4 triệu
dân thường,
1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa,
hàng chục
triệu người chịu thương tích thể xác và tâm hồn, 76 triệu lít chất độc
hoá học
và 13 triệu tấn bom đạn... là những con số đã thuộc về lịch sử, tôi
không khai
quật những con số. Nhưng các hậu quả trầm trọng nhất của cuộc chiến
tranh đạt
những kỉ lục không thể vượt qua của sự phi nhân tính ấy vẫn còn nguyên,
đơn giản
vì chúng chưa bao giờ được đưa vào danh sách các hậu quả cần khắc
phục."
PTH: Cái
còn lại
Mistaken ideas always end
in bloodshed,
but in every case it is
someone else's blood. This is why our thinkers feel free to say just
about
everything.
-CAMUS (1)
Thành ra tên NN, nhà "tư
tưởng của
chúng ta", tha hồ muốn nói cái đéo gì cũng được hết!
... không thể có hòa giải với chính
quyền cộng sản Việt Nam mà chỉ có thể giải thể chế độ cộng sản này đi.
Một khi
chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì tự dưng sẽ có sự hòa giải giữa
các
quan điểm khác nhau. Bởi vì lúc đó, chế độ sẽ là dân chủ-đa đảng, ai
cũng có
quyền nói lên quan điểm của mình, không còn ai bị coi là thù địch với
ai nữa,
mà đó chỉ là sự khác biệt hay đối lập về mặt chính trị mà thôi.
Cù
Huy Cận’s fils
Đúng như thế. Mà muốn
được như thế, phải có 1 tên ngập máu Mít, như đao phủ Mậu Thân, hay cha
đẻ quái
vật Núp, những tên này công khai thú tội trước nhân dân, thì mới có ép
phê!
*
Không cần viện
dẫn Camus, Adorno. Miền Bắc cũng có người nhận ra điều này.
Máu ở chiến
trường hoa ở đây.
Xuân Sách.
Hoa
ở đây, là hoa Nguyên Ngọc, với Đất Nước đứng lên, thí dụ.
Câu này của Xuân
Sách, theo GGC, mới khủng:
“Điêu tàn ư,
đâu chỉ có điêu tàn?”
Ui chao, làm
sao ông nhìn ra cái xứ Mít như bây giờ: Quá cả điêu tàn!
Như chúng ta
biết, văn học Đức sau chiến tranh, qua những nhà văn của nó, như Boll,
như
Grass, được gọi là văn học, từ điêu tàn, đổ nát mà ra.
Cái gì gì,
con phượng hoàng thò cái mỏ ra khỏi Lò Thiêu.
Mít thảm hơn
nhiều.
Quá cả điêu tàn!
Nhà văn
Nguyên Ngọc: 'Văn học và nhà văn không là công cụ của ai hết'.
Tên già làm ơn
chỉ cho Gấu Cà Chớn thấy, tên Mít nào làm được điều như trên?
Tên đéo nào
thì miệng cũng đầy mùi chiến lợi phẩm, tay sặc mùi máu
Ngụy, ở đâu ra thứ văn học trên?
Đúng là máu kẻ khác , muốn
nói đéo gì cũng được hết! NQT
*
Trước 1975, thời gian phụ trách trang
Văn Học Nghệ Thuật của tờ nhật báo quân đội Tiền Tuyến, trong một bài
giới
thiệu tác phẩm đầu tay của một nhà văn đã có vài tuổi lính, nhớ tới nhà
văn Y
Uyên vừa mới tử trận, tôi có đưa ra một nhận xét: Hãy cố gắng sống sót,
và, nếu
may mắn sống sót, nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ còn phải đụng với một
cuộc
chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém trận đầu: văn chương!
Ý nghĩ này, tôi gặp lại, sau 1975, khi đọc
“Người Mẹ Cầm Súng” của Nguyễn Thi, chết trận Mậu Thân, hình như ở khu
Chợ
Thiếc, Chợ Lớn, Sài Gòn. Liên tưởng tới bạn bè, phóng viên nước ngoài
đã từng
có dịp được quen biết, và đã tử trận, như Huỳnh Thành Mỹ, Sawada... tôi
bỗng
nhận ra một điều, cuộc chiến thật thâm hiểm, tàn nhẫn: nó nuốt sạch
những ai
thực sự dám đương đầu với nó.
Theo cách suy nghĩ đó, tôi nghĩ, Bảo
Ninh may mắn hơn nhiều người: ông may mắn ở cả hai cuộc chiến.
Trong văn chương, ông vượt qua được
khúc nguy hiểm nhất, mà đa số nhà văn Miền Bắc gục ngã. Đọc họ, những
tác phẩm
xuất hiện cùng lúc với Nỗi Buồn, tôi không thấy, cho dù chỉ một chút
thiện cảm,
khi họ viết về Miền Nam.
Có thể, họ chẳng hiểu gì về Miền Nam,
ngoài những gì được Đảng nhồi nhét.
Thượng Đế, trong một cơn giận dữ, tạo
ra con người-con vật chính trị [Merleau-Ponty].
Cố quên đi sự giận dữ của Người, tôi đọc
những tác phẩm của những tác giả Miền
Bắc. Đọc Nguyễn Thi, tôi có được những hình ảnh tuyệt vời của người phụ
nữ Miền
Nam, tình bà con lối xóm, theo dõi bước chân người mẹ đi suốt hai cuộc
chiến,
trong đêm vội tạt về nhà cho con bú trước giờ vào trận. Đọc Nguyễn Huy
Thiệp,
thời gian ông dậy học ở một bản làng miền núi, trong văn ông thấp
thoáng chất
huyền thoại, cái nôi của văn chương, của chuyện kể, chưa vướng mùi lý
luận,
giải thích, lên lớp… vốn là một thói quen không thể bỏ của đa số tác
giả Miền
Bắc. Đến “Tướng Về Hưu”, người đọc nhận ra không khí vất vưởng, cô đơn
bao trùm
lên tính khô khan của nhân vật, tính tàn nhẫn của sự kiện báo hiệu sự
xuất hiện
của những bạo chúa Caligula sau này.
GCC đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của BN (a)
Quá cả điêu tàn: Những tên chính uỷ như
NN, thí dụ, viết tệ quá, đạo hạnh quá ẹ, có thể, chiến tranh, nó tởm
quá, nên
tha.
Nếu không, thì cũng phải như Nguyễn
Thi, thí dụ.
Note: Đọc lại
bài viết, thì lại nhớ Nguyễn Mộng Giác. Ông thích lắm, biểu tên làm
công, mi
may lắm, ra ngoài này trễ, chứ ra sớm, viết như thế này, là tụi nó thịt
rồi!
Baczinski by AZ
It destroys what is individual.
What it worships is
"milieu." Let each person live in a milieu and let him not dare
seek
refuge on the sidelines. After a while a secret police will be
completely
unnecessary. What for, if your milieu knows everything about you
already. There is
more life in death than in the existence to which collectivism condemns
us:
chicken noodle soup and the neighbors' astute glance, the
inextinguishable
reflector of sorneone's curiosity, long hours of common meetings, when
nothing
occurs except that life is consumed and becomes ordinary, gray-similar
to
rationed, skimpily rationed substitute goods. Baczynski was a darling
of the
gods-he died young. He leads a mythic existence in our imagination.
Wislawa
Szyrnborska allowed the absent poet to don the homespun suit of
compromises
made by his less happy counterparts. The ashes of the everyday bury the
wings
of the angel.
Cũng chỉ là
tình cờ, trường hợp chúng ta đang bàn ở đây, về cái gọi là Hội Nhà Thổ,
và cuộc
chiến tàn nhẫn liếm sạch những anh hùng, chỉ chừa lại thứ nhơ bửn, đúng
là trường
hợp của bài thơ của Syzmborska, mà Adam Zagajewski lôi ra bàn.
Krzystof
Baczynski, một nhà thơ trẻ rất có tài, chết trong những ngày đầu cuộc
nổi dậy tại
Warsaw khi anh mới 23 tuổi, vào Tháng Tám 1944.
Trong bài thơ, nhà thơ Nobel
Ba Lan Szymborska giả dụ - như chúng ta giả dụ, với Nguyễn Thi –
Baczynski may
quá, thoát chết, và sống, cái cuộc sống tập thể, cùng với Hội Nhà Thổ ở
xứ… Bắc Kít!
This was a Soviet
invention: writers housed in
one place allowed the authorities to control their
minds,
pens, and wallets. Each person who has ever read about Bulgakov,
Mandelstam, or
Pasternak certainly remembers the stories about literary apartment
houses and
tenements, about houses in which there were more typewriters than gas
stoves.
This same model for a collectivized literature was transferred after
1945 to
all the countries conquered by Stalin. In time, in Poland at least,
this model
lost its distinctiveness. There were fewer "literary tenements";
writers came to live in regular houses, having regular
neighbors-engineers,
laborers, officials. But collectivism did not give up all its
attributes, such
as literary houses and cafeterias, to name two.
Adam
Zagajewski phán, nó - Hội Nhà Thổ - là
phát minh của Liên Xô: những
nhà văn được dồn vào một
nơi, cho phép nhà nước kiểm soát những cái đầu của họ, những cây viết
của họ, và
những cái bóp cũng của họ. Người nào đã từng đọc về Bulgakov,
Mandelstam, hay Pasternak
hẳn là nhớ những câu chuyện về những căn hộ văn chương, trong đó máy
đánh chữ
nhiều hơn là bếp ga. Cũng cùng kiểu mẫu này được điều động,
sau 1945,
tới tất cả những xứ sở được Xì thâu tóm. Sau cùng, ít nhất ở Ba Lan,
cái kiểu mẫu này bớt nặng mùi, bớt đi những “căn hộ văn chương”; nhà
văn tới sống
trong những
căn nhà bình thường, có hàng xóm láng tỏi bình thường.
Nhưng chủ nghĩa
tập thể
vưỡn chưa chịu buông tha những con mồi của nó, không chịu buông xuôi
những linh
vật tượng trưng cho những uy quyền của nó, như “căn hộ, và căng tin văn
chương”,
chỉ nêu ra hai, ở đây.
Tình cờ vớ đúng
bài viết thật thú, liên quan tới Hội Nhà Thổ và Văn Đoàn Văn Vịt Độc
Nập.
Bài viết này, của AZ, lúc đầu Gấu đọc thoáng, hiểu sai đi, cứ nghĩ là 1
bài bình thơ!
Nhảm quá.
Bi giờ đọc lại, hóa ra là 1 bài viết về số phận đám nhà văn VC được nhà
nước VC dồn vào 1 nơi gọi là Hội Nhà Thổ, cho phép nhà nước kiểm tra
cái đầu, cây viết và túi tiền của họ!
Nhưng, 20 tên nhà văn Mít
VC, bye bye HNT,
là do túi tiền bị VC chiếu cố, hay cái đầu, hay cây viết?
Căng, hỉ!
'Văn học và nhà văn không
là công cụ của ai hết'.
Vụ Nhân Văn
xẩy ra liền sau khi cuộc chiến Mít I chấm dứt, đúng như NN phán, “Từ
sau 1945
ta lùa tất cả vào một hội, lại là hội của nhà nước, là phi tự nhiên,
chỉ chật
chội và làm nghèo văn học”.
Như thế thì làm gì thứ 'Văn học và nhà văn không là
công cụ của ai hết', ở Miền Bắc?
Cú gục ngã của Nhân Văn, trước không phải Đảng
mà là trước Tố Hữu đẩy Miền Bắc vào, chỉ có thứ văn chương ăn cướp, mà
với họ,
có cái tên mĩ miều hơn, “văn chương khai hóa”, mở ra những trại cải tạo
Ngụy sau
1975.
Điều này GCC đã viết ra, liền sau khi ra được hải ngoại, trong bài viết
về
Võ Phiến:
Văn Học Tổng
Quan của Võ Phiến, đoạn nói về nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra
Bắc, dưới
những bút hiệu khác nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá
tếu và
không hiểu cả hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?)nhà văn Miền Nam.
Bởi vì, văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh
thần chiếm
đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá, vẫn tự
coi như
là quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và
phải trả
bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một
cách
nào đó, nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng
Pháp, và
chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học
hiện thực
xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn theo
cách thế
đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản kháng
ở trong
nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời nói
lành lặn của
nó... (b)
Nhà văn
Miền
Nam, trước 1975, trừ lũ nằm vùng nhận chỉ thị từ Hà Nội, đúng là thuộc
thứ “văn
học và nhà văn không là công cụ của ai hết”.
Bản thân Gấu, suốt 1 đời viết
lách, chưa từng phải quị lụy một ai, chưa từng phải nâng bi, đội dĩa,
thổi đít
ai, có thể hãnh diện mà nói, tao đúng là thứ nhà văn NN mong ước!
Ở ta trước đây và ở hầu
khắp thế giới xưa nay đều như thế, tạo
nên một đời sống văn học nhẹ nhõm mà đa dạng, giàu có. Từ sau 1945 ta
lùa tất cả
vào một hội, lại là hội của nhà nước, là phi tự nhiên, chỉ chật chội và
làm
nghèo văn học. Trong chiến tranh, còn chừng nào chấp nhận được; trong
hòa bình
rất không nên.
NN
Đây là cái chết của văn
chương Miền Bắc, như Brodsky phán, một
khi mi “mà cả” văn chương, là nó biến thành kít, là mi tán tĩnh thảm
họa. Cái vết
sẹo văn chương này vô phương tẩy xoá. Bao nhiêu con người chết vì còn
“chừng nào
chấp nhận được”.
Phải, đéo bao giờ chấp
nhận được, mới được.
Tên già này, có thời Gấu
cũng có tí tin tưởng, thí dụ, trong
vụ NHT, cũng như Sến, với một “thiên sứ”, vưỡn thí dụ, nhưng sau vỡ ra,
cũng đồ
dởm cả. Cũng thứ sống trên máu của những
kẻ đã chết, đúng ý của Cà Mu, Camus: Tư tưởng dởm luôn chấm dứt trong
biển máu,
“nhưng” máu kẻ khác, đếch phải của cha đẻ quái vật Núp – “Nhưng”, hình
ảnh lá cờ
đỏ của chiến thắng, của chinh phục, mà một cô nữ sinh tiên tiến được
vinh dự cắm
lên một thành phố miền nam, sau trở thành một ám ảnh, ở một nhà văn.
"Ba mươi năm sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên đầu tăm mà tôi
cắm
vào Bà Rịa trở nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng, 4 triệu
dân thường,
1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa,
hàng chục
triệu người chịu thương tích thể xác và tâm hồn, 76 triệu lít chất độc
hoá học
và 13 triệu tấn bom đạn... là những con số đã thuộc về lịch sử, tôi
không khai
quật những con số. Nhưng các hậu quả trầm trọng nhất của cuộc chiến
tranh đạt
những kỉ lục không thể vượt qua của sự phi nhân tính ấy vẫn còn nguyên,
đơn giản
vì chúng chưa bao giờ được đưa vào danh sách các hậu quả cần khắc
phục."
PTH: Cái
còn lại
Mistaken ideas always end
in bloodshed,
but in every case it is
someone else's blood. This is why our thinkers feel free to say just
about
everything.
-CAMUS
Thành ra tên NN, nhà tư
tưởng của
chúng ta, tha hồ muốn nói cái đéo gì cũng được hết!
... không thể có hòa giải với chính
quyền cộng sản Việt Nam mà chỉ có thể giải thể chế độ cộng sản này đi.
Một khi
chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì tự dưng sẽ có sự hòa giải giữa
các
quan điểm khác nhau. Bởi vì lúc đó, chế độ sẽ là dân chủ-đa đảng, ai
cũng có
quyền nói lên quan điểm của mình, không còn ai bị coi là thù địch với
ai nữa,
mà đó chỉ là sự khác biệt hay đối lập về mặt chính trị mà thôi.
Cù
Huy Cận’s fils
Đúng như thế. Mà muốn
được như thế, phải có 1 tên ngập máu Mít, như đao phủ Mậu Thân, hay cha
đẻ quái
vật Núp, những tên này công khai thú tội trước nhân dân, thì mới có ép
phê!
Note: Nhân cái vụ bài toán lớp ba, bèn
post lại bài này.
Dân Mít vốn giỏi toán. Đúng hơn Bắc
Kít, và sự kiện này liên quan tới sông Hồng, mỗi năm mỗi lụt, mỗi năm
mỗi chia
lại đất đai đồng bằng sông Hồng.
Tuy nhiên, do/nhờ đọc Simone Weil, GCC phát giác ra chân lý
chết... Mít:
Phải có một mắc mứu ‘cốt tuỷ, chết chóc, thánh thiện, ma quỉ…’, giữa
Toán Học
và Cái Ác Bắc Kít, từ đó, đẻ ra Cái Đẹp NBC!
Có thể, những tên Bắc Kít cực kỳ thông minh, là thể nào não cũng bị mất
1 tí,
là cũng do... Toán!
Đâu có phải tự nhiên mà Tẫu gọi nước của chúng là... Trung Nguyên!
Và Đức
Phật Sống phán, bè lũ Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, não bị mất 1 mẩu,
là do đó!
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
This was a Soviet
invention: writers housed in
one place allowed the authorities to control their
minds,
pens, and wallets. Each person who has ever read about Bulgakov,
Mandelstam, or
Pasternak certainly remembers the stories about literary apartment
houses and
tenements, about houses in which there were more typewriters than gas
stoves.
This same model for a collectivized literature was transferred after
1945 to
all the countries conquered by Stalin. In time, in Poland at least,
this model
lost its distinctiveness. There were fewer "literary tenements";
writers came to live in regular houses, having regular
neighbors-engineers,
laborers, officials. But collectivism did not give up all its
attributes, such
as literary houses and cafeterias, to name two.
Adam
Zagajewski phán, nó - Hội Nhà Thổ - là
phát minh của Liên Xô: những
nhà văn được dồn vào một
nơi, cho phép nhà nước kiểm soát những cái đầu của họ, những cây viết
của họ, và
những cái bóp cũng của họ. Người nào đã từng đọc về Bulgakov,
Mandelstam, hay Pasternak
hẳn là nhớ những câu chuyện về những căn hộ văn chương, trong đó máy
đánh chữ
nhiều hơn là bếp ga. Cũng cùng kiểu mẫu này được điều động,
sau 1945,
tới tất cả những xứ sở được Xì thâu tóm. Sau cùng, ít nhất ở Ba Lan,
cái kiểu mẫu này bớt nặng mùi, bớt đi những “căn hộ văn chương”; nhà
văn tới sống
trong những
căn nhà bình thường, có hàng xóm láng tỏi bình thường.
Nhưng chủ nghĩa
tập thể
vưỡn chưa chịu buông tha những con mồi của nó, không chịu buông xuôi
những linh
vật tượng trưng cho những uy quyền của nó, như “căn hộ, và căng tin văn
chương”,
chỉ nêu ra hai, ở đây.
Tình cờ vớ đúng
bài viết thật thú, liên quan tới Hội Nhà Thổ và Văn Đoàn Văn Vịt Độc
Nập.
Bài viết này, của AZ, lúc đầu Gấu đọc thoáng, hiểu sai đi, cứ nghĩ là 1
bài bình thơ!
Nhảm quá.
Bi giờ đọc lại, hóa ra là 1 bài viết về số phận đám nhà văn VC được nhà
nước VC dồn vào 1 nơi gọi là Hội Nhà Thổ, cho phép nhà nước kiểm tra
cái đầu, cây viết và túi tiền của họ!
Nhưng, 20 tên nhà văn Mít
VC, bye bye HNT,
là do túi tiền bị VC chiếu cố, hay cái đầu, hay cây viết?
Căng, hỉ!
Về Nguyễn
Quang Thiều. Gấu có 1 kỷ niệm phải nói là tuyệt đẹp về anh, lần về Hà
Nội, lần đầu.
Và người làm hỏng nó, không phải anh, mà là Gấu. Nhưng bây giờ, nghĩ
lại, thì mới
hiểu, cái sự quí mến của anh dành cho Gấu, có một nguyên nhân sâu xa,
và đẹp đẽ
hơn rất nhiều: Hình như đối với anh, và có thể, từ đó nhân ra, một nhà
văn CS,
Bắc Kít, như anh, mà được 1 nhà văn Ngụy, trước 1975, công nhận là 1
nhà thơ, và
thực tình mong được kết bạn, cực kỳ hiếm hoi, và tất nhiên, cực kỳ quí
giá.
Hà, hà!
BVVC
Tết này, diện bộ này,
về
HN gặp "bạn văn", tại
Điểm Hẹn, Chez Rendez-Vous, vào đêm giao thừa,
thì cũng được đấy nhỉ!
Nhưng chỉ sợ, lại phải trầm trồ, "Vĩ đại thay là đồn CA ..." (1)
(1) "Vĩ
đại thay, là đồn Công An!
Đó là nơi tôi có hẹn với Nhà Nước."
'What a great thing is a police station! The place where I have the
rendez-vous with the State'.
[Phu
quân tôi, nhà thơ] Mandelstam thường nhắc câu trên, của Khlebnikov.
Nadezhda Mandelstam: Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng.
Brodsky: Ai điếu Nadya
Great poetry 'hurt' her into prose.
*
Lần về Hà Nội đầu, đầu thiên niên
kỷ, sau hơn nửa thế kỷ xa cách, gặp
những bạn bè chẳng hề quen, trong có NTS, liền tập tức anh làm Hai Lúa
nhớ đến một người bạn thân, cùng học Nguyễn Trãi, mà Hai Lúa bỏ lại khi
nhẩy vội lên con tầu xuống Hải Phòng, chạy một mạch vô Sàigòn.
*
Nhưng mà này, liệu có cái gọi là văn học Việt Nam hải ngoại không đấy,
Hai Lúa nhớ, ông nhà văn ra đi từ miền bắc VTH
đã có lần nham nhở hỏi lại cái tay phỏng vấn ông.
"Nhưng mà này, có còn cái gọi là Hà Nội.... "
Có thể nói, cũng là cảm giác ấy, của tay nhà văn ra đi từ miền Bắc kia,
khi nham nhở như thế đấy, tuy nhiên, bàng hoàng hơn, sửng sốt
hơn, sung sướng hạnh phúc hơn nhiều, khi Hai Lúa gặp một nhà văn ra đi
từ Hà Nội,
cùng với gia đình của bà, lần "ghé thăm" cựu lục địa.
-Ôi chao, những con người Hà Nội, thứ thượng hảo hạng của nó,
sau 1954 cho đến mãi ngày này, mà vưỡn còn, hử?
Thế mình về được rồi! Phải về rồi!
Hà-nội chết theo mối tình đầu. Tình yêu khi đó giống như căn bệnh lúc
trưởng thành, là tiếng khóc chào đời. Nhưng cũng có thể đó chỉ là phản
ứng của cơ thể trước sự thay đổi của thời tiết. Đứa nhỏ tuy đã quen với
nắng ấm Miền Nam nhưng không làm sao quên được những đợt gió bấc lạnh
buốt.
Lần Cuối Sàigòn
*
Hậu quả là gì, thưa ông?
- Sự mất giá.
Ai mất giá?
Hai Lúa sợ rằng phải nói
ngược lại.
Chính cái chợ chiều đó mới là hy vọng của văn chương trong nước. Đó là
cách tốt nhất để huỷ diệt cái giá trị đã từng áp đặt lên những nhà văn.
Thời cơ vàng để bắt đầu viết.
Không có ai, không có bất cứ một thứ quyền lực... nào bảo hiểm cho nhà
văn ngoài tác phẩm của người đó
Hội Nhà Văn, lại càng không.
Nhân đây post lại đoạn Pasternak nói, về ý trên.
18 Tháng Sáu
[1936]: Marxime Gorki ngỏm. Từ lâu, nhiều người tin rằng Staline đã cho
đầu độc nhà văn nhớn, đầu tầu văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa này.
19
và 25 tháng Sáu: André Gide tới Moscow... "Căn hộ sáu phòng thoải
mái tại Métropole. Tắm rất ư thoải mái; ăn với vợ chồng Aragon...
Pasternak tới nhập bọn. Mặn mà lắm, nhất là cái nhìn, nụ cười..."
Tới
30 Tháng Tám 1940, Gide trở lại với đề tài này: "Pasternak, tay độc
nhất tôi "tin cậy được" ở Liên Xô, kể cho tôi, về cuộc nói chuyện của
ông với tay Lounartcharski. Tay này say sưa với những kế hoạch cứu
[sauvegarder] văn hóa, ông ta tin rằng, nó đang gặp nguy.
"Tại
sao lại phải tìm cách bảo vệ nó?" P. quạt lại anh ta. "Cái đám
khốn nạn Hội Nhà Văn Nhà Véo gì đó đang làm cho nó trở thành điêu tàn,
mảnh vụn hả? Thì kệ mẹ tụi nó. Mà này, hãy phụ chúng một tay...", giọng
P. trở nên run lẩy bẩy vì xúc động, "Bởi vì, chỉ sau đó, may ra mới có
được cơ may, từ ba cái rác rưởi, mảnh vụn, điêu tàn...".
André
Gide: Sổ Ghi từ Liên Xô về, Nhật Ký II, 1926-1950, nhà xb
Gallimard, tủ sách Pléiade, 1977, trang 524, trang 727.
Nhật
Ký Tin Văn
Hai Lúa có lần nhắc tới ông anh Hiếu
Chân, và lần ông đi dự hội nghị
Hội Nhà Văn quốc tế, tức PEN, ở Tokyo. Ông là một
trong những người sáng lập ra tổ chức PEN Việt Nam, cùng với những ông
Đỗ Đức Thu, Vũ Hoàng Chương...
Nhân đây cũng xin nói một tí về PEN Việt Nam, và những ngày đầu của nó.
Có Hội, thì có Họp. Muốn họp thì phải có trụ sở. Thế là sau khi thành
lập Hội, mấy ông già nhà văn bèn đi kiếm một căn nhà dựng bảng hiệu,
kiếm một em làm thư ký, đi ra đi vô, và kiếm một ông trong bọn làm ông
Từ giữ đền.
Ông anh HC của Hai Lúa được tổ chức giao cho chức vụ ông Từ. Ông Từ
thấy cô thư ký ngon quá, bèn xáp vô. Cô có bầu, thế là ông Từ phải đi
muớn một căn nhà nho nhỏ cho cô em.
Cả đời ông anh Hiếu Chân của Hai Lúa chỉ mong có tí con
trai, để nối dõi "nghiệp văn", hay nói theo ông, để nối
dõi tông đường!
Còn một cô nữa, hồi ông làm nhiệm vụ đưa đồng bào vô Nam tại
đầu cầu Hải Phòng.
Cái cô ở Hải Phòng đó, Hai Lúa cũng đã kể sơ qua rồi. Trong Ông anh
HC.
Cả hai cô đều cho ông hai cô con gái.
Rõ khổ!
Nhớ, hồi đó, nhà thơ TTT, nghe chuyện, cười ngất, phán: Mấy ông già thì
chỉ kiếm được thứ mấy em đó thôi!
Đâu có bảnh như Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, không thèm đi kiếm mà em
tự động tới?
Nhưng, theo Hai Lúa, Kiệt đau hơn nhiều. Bởi vì cô
học trò mi-nhon, kiếm ông thầy, xin thầy cho em gặp riêng ở nhà thầy
đó, gặp thầy, là chỉ nói một câu, em yêu thầy, rồi.... bye, bye.
Bởi rằng thì là em chỉ cần "kỷ niệm đẹp"!
Bỗng dưng, Gấu nhớ đến một em của nhà văn Durrell. Em này mê viết văn,
mê quá là mê, mà viết chẳng ra gì, em mới đi coi bói, hỏi cõi âm, coi
mình có thành nữ văn sĩ được không. Cõi Âm phán, tại rằng là vì em còn
nguyên, chưa có "vết thương dậy thì" [tên tác phẩm đầu tay của nữ văn
sĩ miền nam trước 1975]. Thế là em đi gặp một ông trùm văn nghệ, năn
nỉ, anh giúp giùm em, để em làm nhà văn!
Bố lếu bố láo thiệt!
*
@ nhà BNT tại Hải
Phòng.
Lần gặp BNT, bi giờ
nghĩ
lại, cũng thật là ly kỳ, và thú vị.
Như bức hình cho thấy, đó là ngày 15 Tháng Sáu, 2001. Lần về thứ nhất.
Trước khi về, NTV, chủ nhà xb Thời Mới, nơi in cuốn Chuyện Kể Năm 2000,
nhờ, gặp BNT giùm.
Trong câu chuyện, giữa đám bạn mới quen ở Hà Nội, Gấu vô
tình nói, cần phải gặp ông này một tị. Thế là chuyến đi được soạn thảo,
ở đâu đó, Gấu không biết, nhưng đã được thực hiện. Gấu nghi, đây hoàn
toàn là do lòng tốt của mấy "bvvc" mới quen. Nhưng bi giờ, nhớ lại, và
tự hỏi, lỡ ra mà Gấu này vô tình buột miệng, muốn yết kiến nhà văn DTH,
không hiểu sự tình sẽ ra sao!
Gặp được BNT cũng coi như là quá vui rồi.
Ngay câu đầu, ông gửi lời cám ơn, và hỏi thăm tới gia đình LMH.
Ấy là
vì LMH có đi một bài điểm cuốn CKN2000.
Nhưng, lời cám ơn đó, chỉ có... một nửa dành cho LMH.
Nửa kia nó như thế này:
Tớ có đọc bài cậu viết về cuốn của tớ rồi. Cám ơn cậu, tuy cậu đập tớ
một cú thật ra trò!
Đọc
CKN2000: Cái Đẹp và Con Thú
BVVC: Bạn văn VC
huyvespa
viết:
Dear tác giả,
Tôi có một chi tiết nhỏ muốn note ở
đây:)
“Chúng ta đi mang theo quê hương” đúng
ra là tên 1 bức tranh của họa sỹ PHẠM TĂNG vẽ cho nhật báo Tự Do xuất
bản tại
Saigon năm 1956.
Câu này MAI THẢO đã dùng lại trong “QUÊ HƯƠNG
TRONG TRÍ NHỚ” trên báo SÁNG TẠO
– 1958 – SỐ ĐẶC BIỆT HÀ NỘI:
“Kẻ thù không sợ chúng ta ở xa hay về gần. Điều nó sợ là ở xa hay gần
mỗi chúng
ta vẫn cứ là một khối sống rực rỡ. Cho nên đi hay ở đã không thành vấn
đề. Đi
không phài là tỵ nạn là mất gốc. Những cái mà tôi, mà anh, những người
Hà Nội
hiến dâng, góp phần vào cho sự sống ở Sài gòn, ở khắp nơi hôm nay mới
chính là
Hà nội, cái phần tinh hoa, cái phần quý giá nhất của Hà nội. Chúng ta
đi mang
theo quê hương, chúng ta đi mang theo Hà Nội là vì thế. Mà cũng chính
là trong
lối sống mà chúng ta đang chiến đấu, đang bảo vệ cho Hà nội, để vẫn là
những
người Hà nội…”
Thanks,
Lần Cuối Sài Gòn
Viết, một cách
nào
đó, là chết. Hà-nội, tuổi thanh xuân, mối tình đầu... mòn dần theo
những chữ.
Khi gặp Lan Hương, cô bé mới 11 tuổi, học trường Kiến Thiết, trong một
con hẻm
bên kia đường Phan Đình Phùng, bên kia nhà cô bé, một tiệm sách theo
chủ nhân bỏ
chạy vào Sài-gòn nhưng vẫn cố giữ cái tên có từ Hà-nội, những chả cá
Thăng
Long, bánh cuốn Tây Hồ, những điểm xuyết của một Hà-nội trong một
Sài-gòn sau
được họa sĩ Phạm Tăng ghi lại bằng những cảnh chăn trâu, thổi sáo trên
bờ đê,
hát trống quân, đánh đu... trên bìa một tờ báo Xuân năm nảo năm
nào,"Chúng
ta đi mang theo quê hương".
Nguyễn Đức Tùng viết:
Rất cám ơn anh (chị) Huyvespa. Bổ túc
của anh thật quý báu. Chúng
ta cần tìm hiểu và ghi nhận nhiều hơn về
lịch sử.
Chúc anh một tuần lễ vui vẻ.
Nguyễn Đức Tùng.
Note:
Tôi nhớ trước ngày 30 tháng
4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn,
tôi
đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh
như tôi
thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà
tôi được
học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý,
các
chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
(1)
Một con người
bình thường, khi độc giả góp ý, thì cám ơn, giản dị như vậy. Không có
ai lên giọng dậy lại người góp ý theo
kiểu tên này, nó chứng tỏ sự vô lễ, giống trường hợp ông thi sĩ đất
Thần Kinh,
sau khi đi 1 cái còm góp ý, bèn “mấy lời”.
Viết như thế là tự làm nhục mình, vì
tất cả độc giả của diễn đàn bị ông ta lôi ra phủ dụ “mấy lời”.
Mỹ là mẹ đạo
hạnh, Brodsky phán.
Quả đúng như thế.
Đạo hạnh đếch có mà viết lách cái gì!
Thử để ý coi, lũ trở về bợ
đít VC, có
tên nào viết
ra hồn, là do đạo hạnh là con số không
Quyết định gạch tên những nhà văn tham gia
Văn đoàn Độc lập
của Hội nhà văn Việt Nam là một cơ hội tuyệt vời cho những nhà văn chân
chính,
những người từ lâu đã muốn rời bỏ cái hội “hữu danh vô thực” để
trở về với
nhân dân, về với không gian bao la và tự do. Chúng ta dễ dàng nhận thấy
sự vui
mừng, sung sướng đến vô hạn của những nhà văn, nhà thơ vừa bị khai trừ
đó trên
FB của họ. Họ đã chờ đợi quá lâu và thời gian đã làm xong phần việc của
mình. Một
cuộc chia tay và đoạn tuyệt cần thiết đã đến. Đã đến lúc “ngô ra ngô,
khoai ra
khoai”. Không thể vàng thau lẫn lộn mãi được.
Một chuyện thường ngày ở huyện VC như
thế, mà tại làm sao phải đợi gạch tên mới mừng phát điên lên được?
Đợi quá lâu nữa chứ!
Mà ra khỏi Hội Nhà Thổ, vô hội Độc Nập thì có
gì ghê gớm?
Nhà văn thì phải viết, mà viết thì phải một mình, cần đéo gì Hội?
Tao là nhà văn, và cái job của tao là cô đơn. I am a writer, it's my
job to be
alone, như 1 em Ái nhĩ lan, Anne Enright, phán. (1)
Vô Hội,
cũng được đi, nhưng phải có tác
phẩm.
Nhìn
đám Văn Vịt coi, có tên nào viết
ra hồn đâu!
Tởm
nhất câu "trở về với nhân dân"! NQT
Sứ mệnh
lớn
nhất và cao cả nhất của người trí thức là “hướng dẫn và lãnh đạo quần
chúng”
chứ không phải chạy theo quần chúng, và nhất là chạy theo một thể chế
chính trị
đã lỗi thời và mục ruỗng như ĐCSVN.
Bài viết
của tay này, chắc
là đệ tử của NGK, nên mục đích của
nó, là cũng tính "hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng", thay VC!
Khi viết câu, tởm nhất là "trở về với nhân dân",
trên, GCC, như trong trạng thái bị
bí đái, bí ỉa lâu quá, bèn phọt ra!
Đọc lại cứ ngẩn ngơ vì….
sướng quá!
Tuy nhiên chưa sướng bằng,
tình cờ, cầm cuốn Hai Thành Phố, Two
Cities,
của Adam Zagajewski, đọc được đúng 1 bài thần sầu giải thích “tại sao”
nỗi sướng
của GCC. Nói rõ hơn, tại sao lại có “cái gọi là” Hội Nhà Thổ ở những
nước CS.
Adam Zagajewski phán, nó
là phát minh của Liên Xô, this was a Soviet invention:
writers housed in one place allowed the authorities to control their
minds,
pens, and wallets. Each person who has ever read about Bulgakov,
Mandelstam, or
Pasternak certainly remembers the stories about literary apartment
houses and
tenements, about houses in which there were more typewriters than gas
stoves.
This same model for a collectivized literature was transferred after
1945 to
all the countries conquered by Stalin. In time, in Poland at least,
this model
lost its distinctiveness. There were fewer "literary tenements";
writers came to live in regular houses, having regular
neighbors-engineers,
laborers, officials. But collectivism did not give up all its
attributes, such
as literary houses and cafeterias, to name two.
Bài viết của AZ, thực sự, là minh giải 1 bài thơ của Szymborska, viết
về 1 nhà
thơ Ba Lan.
GCC đã từng đọc “thoáng” nó, và bỏ qua, không nhận
ra chủ ý của AZ.
Không hiểu sao lần này, lại chú ý đến bài viết, như thể chính
bài viết bực quá, mi ngu quá, không đọc nổi ta, đọc lại ta đi!
BACZYNSKI
It destroys
what is individual. What it worships is "milieu." Let each person
live in a milieu and let him not dare seek refuge on the sidelines.
After a
while a secret police will be completely unnecessary. What for, if your
milieu
knows everything about you already. There is more life in death than in
the
existence to which collectivism condemns us: chicken noodle soup and
the neighbors'
astute glance, the inextinguishable reflector of sorneone's curiosity,
long
hours of common meetings, when nothing occurs except that life is
consumed and
becomes ordinary, gray-similar to rationed, skimpily rationed
substitute goods.
Baczynski was a darling of the gods-he died young. He leads a mythic
existence
in our imagination. Wislawa Szyrnborska allowed the absent poet to don
the
homespun suit of compromises made by his less happy counterparts. The
ashes of
the everyday bury the wings of the angel. One should consider another
possibility, however: it is possible that Baczynski, had the German
bullet
chosen a different course, would have been proud, bold, and internally
pure.
Perhaps he would not have made a single compromise and perhaps this
would even
have expressed itself in his noble face, not destroyed but merely
sculpted by
time.
Hội Nhà Thổ
huỷ diệt cái gọi là cá nhân. Nó thờ phụng cái gọi là "môi trường".
Cái gọi là tập thể. Chỉ 1 thời gian, cái gọi là cớm văn học cũng đếch
còn cần
thiết!
In Broad
Daylight
He would
vacation in
a mountain boardinghouse, he would
come down
for lunch, from his
table by the
window he would
scan the
four spruces, branch to branch,
without
shaking off the freshly fallen snow.
Goateed,
balding,
gray -
haired, in glasses,
with
coarsened, weary features,
with a wart
on his cheek and a furrowed forehead,
as if clay
had covered up the angelic marble - he wouldn't
know himself
when it all happened.
The price,
after all, for not having died already
goes up not
in leaps but step by step, and he would
pay that
price, too.
About his
ear, just grazed by the bullet
when he
ducked at the last minute, he would
say: "I
was damned lucky"
While
waiting to be served his noodle soup, he would
read a paper
with the current date,
giant
headlines, the tiny print of ads,
or drum his
fingers on the white tablecloth, and his hands would
have been
used a long time now,
with their
chapped skin and swollen veins.
Sometimes
someone would
yell from
the doorway: "Mr. Baczynski," phone call for you" -
and there'd
be nothing strange about that
being him,
about him standing up, straightening his sweater,
and slowly
moving toward the door.
At this sight
no one would
stop
talking, no one would
freeze in
midgesture, midbreath,
because this
commonplace event would
be treated -
such a pity-
as a
commonplace event.
*Krzysztof
Karnil Baczyriski, an enormously gifted poet of the "war generation,”
was killed
as a Home Army fighter in the
Warsaw Uprising of 1944 at the age of
twenty-three
(Translators' note)
Note: Bài
thơ In Broad
Daylight,
được in trong “Map”, tập
thơ mới xb của Szymborska, có tí khác so với bài thơ được AZ lèm bèm về
nó.
Bèn post cả hai, và sẽ đi 1 đường dịch thuật, sau, đánh dấu/chào mừng
sự ra đời
của... Văn Vịt!
Tự Do Viết
Hãy đốt cuốn
sách này
A writer's life and work
are not a gift to mankind;
they are its necessity.
Toni Morrison
Cuộc đời và tác phẩm của
một nhà văn đếch phải là một món quà cho nhân
loại. Chúng là sự cần thiết của nó.
Tuyệt cú mèo!
Tự Do Viết
Đọc tại PEN cùng dịp với
DTH.
Vào Tháng Ba
1985, Arthur Miller và Harold Pinter ghé Istanbul. Vào lúc đó, hai đấng
này có
lẽ là hai khuôn mặt nổi cộm nhất trong giới kịch nghệ trên thế giới,
nhưng chán
mớ đời, không phải vì kịch cọt mà ông ghé Istanbul, mà vì những bóp
nghẹt tàn
nhẫn tự do ăn nói, viết lách, diễn đạt tư tưởng, ý nghĩ… vào thời gian
đó, và
vì rất nhiều nhà văn đang bị nhà nước bắt bỏ tù. Vào năm 1980 có 1 cú
đảo chánh
ở Thổ, và hàng ngàn người bị bắt, và tất nhiên, luôn luôn là giới cầm
viết bị
chiếu cố nặng nề nhất…. Hai đấng trên, đến Istanbul, là để gặp họ, gia
đình họ
để an ủi, động viên, trợ giúp, và bố cáo thế giới về số phận của họ.
Chuyến đi
của họ là do PEN sắp xếp cùng với Uỷ Ban Helsinki Watch Committee. Tôi
tới phi
trường để đón họ. Tôi được đề nghị cái job trên, không phải vì tôi rất
ư là sốt
sắng, rất thích đâm sầm vào chính trị, mà bởi vì tôi là 1 tiểu thuyết
gia nói
trơn tru tiếng Anh, và tôi hoan hỉ chấp nhận, cũng không hẳn là do, đó
là 1
cách để có tí đóng góp trong nghĩa cả, tức giúp đỡ những bạn đang trong
cơn khốn
khó, nhưng như thế có nghĩa là, sẽ được trải qua vài ngày sánh vai dạo
bước với
hai đấng nổi tiếng!
Chúng tôi
cùng nhau đi thăm những nhà xb nhỏ đang phải vật lộn, những văn phòng
bề bộn
nơi làm tin, newsrooms, những trung tâm, khu vực âm
u, bụi bặm, của những tạp chí đang trên đà
sập tiệm, chúng tôi đi từ nhà này sang nhà nọ, tiệm ăn này qua tiệm ăn
khác, để
gặp những nhà văn đang gặp rắc rối, và gia đình của họ.
Cho tới khi
đó, tôi còn đứng bên lề của thế giới chính trị, chẳng bao giờ tiến vô,
ngoại trừ
ép buộc, nhưng bây giờ, khi tai tôi nghe những câu chuyện nghẹt thở,
gây sốc, của
bách hại, của tàn nhẫn, độc ác, và cái ác trần trụi, toang hoác, tôi
cảm thấy
mình bị cuốn vô nó, qua cái cảm giác cảm thấy mình có lỗi, phạm tội –
không chỉ
bị cuốn hút vào nó, qua mặc cảm phạm tội, nhưng mà còn qua liên đới
trách nhiệm,
qua tinh thần đoàn kết, nhưng cùng 1 lúc, tôi cảm thấy ước muốn, cũng
bằng như
thế, nhưng ngược lại: tự bảo vệ mình, khỏi tất cả những điều này, và
chẳng làm
bất cứ điều gì trên đời, ngoài việc, viết ra những cuốn tiểu thuyết
thần sầu,
tuyệt đẹp.
Khi tôi đưa Miller và
Pinter bằng tắc xi từ điểm
hẹn này tới điểm hẹn khác, qua đường xá, xe cộ Istanbul, tôi nhớ lại,
như thế nào
chúng tôi lèm bèm về những người bán hàng rong, street vendors, những
chiếc xe
ngựa, những tấm quảng cáo, những người phụ nữ mang khăn choàng, hay
không mang
khăn choàng luôn quyến rũ cái nhìn của của những khách ngoại quốc, tuy
nhiên tôi
thật nhớ rõ một hình ảnh: tại cuối một hành lang thật dài của khách sạn
Istanbul Hilton, tôi và bạn tôi [người cùng tôi đón tiếp hai vị khách
quí] thì thầm vào tai nhau, trong 1 trạng
thái rất kích
động, thì cũng khi đó, Miller và Pinter cũng đang thì thầm ở cuối đầu
hành lang
kia, trong bóng tối, và cũng bằng 1 sự kích động u tối.
Hình ảnh này đóng khằn
vào cái đầu đang xốn xang của tôi, và tôi nghĩ, đây là hình ảnh nói lên
khoảng cách lớn lao giữa những câu chuyện, những lịch sử đầy rắc rối đa
đoan của
chúng tôi, và của họ, nhưng cùng lúc, nó cũng nói lên sự liên đới trách
nhiệm, sự
đoàn kết giữa những nhà văn, và đây là 1 điều có thể thực hiện được.
Henri
Miller.
Bữa trước TB
có giới thiệu bài của Bolano, về Henri Miller. Bữa nay, kiếm thấy cái
entry
trong Milosz’s ABC’s về ông, đọc, có nhiểu nhận xét thật thú vị về
Miller, khác
hẳn cách đọc của Bolano.
Bèn post tiếp.
Lê
Công Định
1 hr ·
Thưa ông Trọng, tôi chỉ biết đất nước
tôi tên là Việt Nam, khởi nguồn từ Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Còn "đất
nước Hồ Chí Minh" gì đó là của đảng các ông, không phải của chúng tôi
và
do vậy chúng tôi không cần làm công dân của nó, nói chi đến phải "xứng
đáng". Nghe ông nói tôi cảm thấy buồn nôn, xin lỗi!
Tởm thực. NQT
Tên này, không những lú mà còn điên.
Và cực bửn.
Làm sao
mà lại có 1 tên sử dụng ngôn ngữ "hai đê", để nói những chuyện
quan trọng của đất nước.
Người Mít ai cũng hiểu, đê là đù là đéo, là ngôn ngữ đường phố.
Trước
đó, còn dùng từ “đồng chí X”.
X một phát,
là thành XXX.
Bắc Kít kêu là phịch phịch phịch, ba cú, tức chuyện cởi
truồng,
chuyện con heo, chứ đâu phải 1 từ sạch sẽ?
Lũ nằm vùng ngày nào có thấy nhục không?
THƯ
KHỐ VĂN HỌC (NMG)
GCC trả lời
phỏng vấn VH số Xuân Mậu Dần
Le pardon
d'un homme d'Etat
Willy Brandt
s'agenouille devant le Monument du Ghetto de Varsovie ( 7 décembre
1970) (1)
Cái chết của
Văn Vịt – không có tên nào viết ra hồn - có lẽ là do thiếu mĩ. Mĩ, như
Brodsky định
nghĩa, là mẹ của đạo hạnh. Tên nào tên nấy viết dở, do đều có vết chàm
ở trong
tim, hay vết máu Ngụy ở trong lòng bàn tay. Chỉ 1 khi ông Trùm của nó,
cha đẻ
quái vật Núp, ra nghĩa trang quân đội Ngụy ngày nào, quì xuống xin lỗi,
thì may
ra mới viết văn được!
Paul
Ricoeur trả lời tờ Lire, số đặc biệt về Duras, Tháng
Sáu,
1998.
Note:
Tình cờ vớ số báo cũ, đọc mấy câu trả lời
trên, thú quá, bèn chôm luôn, đi 1
đường Phén chơi!
Ở Auschwitz, Chúa đã
bỏ loài người?
Tôi nhớ tới câu của một giáo sư nổi
tiếng Ba Lan gốc Do Thái. Ông ta biết về cái chuyện tống xuất, đưa
người vô Lò
Thiêu, và những nhục nhã: Ông già tôi trước đó, nói: Con người thì tốt.
Tôi
chịu đựng tất cả hậu quả [của câu nói của bố tôi]. Thế nhưng, về già,
tôi phán
y chang bố tôi: Con người thì tốt. Tin vào khả năng giải phóng cái sâu
thẳm của
thiện tâm ở nơi con người, theo tôi, đây là hành động của niềm tin cơ
bản.
Sự tha thứ, nếu như
thế, thì cũng có thể?
Tôi rất tởm cái trò giật dây, nào là
khúc ruột ngàn dặm, nào là đừng bao giờ có 1 ngày 30 Tháng Tư thứ hai,
thứ ba…
Tha thứ, đó là cái người ta đòi, mà chẳng cho cái chó gì cả. Và nếu như
thế,
nếu người ta đòi, thì người ta phải sẵn sàng đón nhận 1 câu trả lời "cà
chớn" [négative: phủ định, từ chối]. Phải dự trù đối đầu với điều: Tao
đếch có tha thứ cho mày. Tại sao? Bởi vì nếu tha thứ khó, hơi bị khó,
rất ư là
khó, thì nó phải ăn khớp với một công việc kép: một về hồi ức và một về
tang
tóc. Đừng giả đò tha thứ. Thôi nhé, huề nhé! Không, phải thừa nhận cái
sự không
thể nói ra được niềm ăn năn, thống khổ, lời thú nhận, cái tính chất cực
khó
khăn của hoàn cảnh, cái ý nghĩ về sự không thể sửa chữa lại được [Cái
Ác Bắc
Kít, vô phương sửa chữa, thí dụ, Cái Ngày 30 Tháng Tư, sẽ còn dài dài,
thí dụ].
Và nỗi tang tóc thì không phải chỉ hạn chế ở những cái tang về người đã
mất, mà
còn cái tang về 1 lời giải thích.
Heidegger đã đánh dấu
tác phẩm của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế nào, nàm sao mà
1 triết
gia bảnh tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân phò Hitler?
Đúng là 1
lời thú nhận sự bất lực về mặt triết học!
Văn hoá như tôi biết được, chưa hề ngăn
ngừa, phòng chống sự man rợ. Một xứ sở với 1 nền văn minh đỉnh cao chói
lọi như
Đức, vậy mà ngập chìm trong tủi nhục, và đó là 1 thí dụ nhức nhối, đau
thương.
Nhưng tôi chưa bao giờ buộc tội Heidegger, như là 1 triết gia. Chỉ điều
này,
triết học của ông không sản sinh ra cả đạo đức lẫn chính trị, và gây ra
ở trong
ông ta, vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí thức, và điều này được biểu lộ
ra bằng
sự bất lực của ông khi không thể tiếp tục Hữu thể và Thời gian,
một thứ
khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ rằng, có thể làm đầy bằng hình
tượng một
con người coi mình như là vĩ nhân của lịch sử, cha già của dân tộc.
Chính vào
lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng hãy minh bạch 1 điều, Hữu
thể và Thời
gian không phải là 1 cuốn sách Nazi, nó là, và đây là sự khác biệt
rất ư
khác biệt, một tác phẩm không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi. Trong khi
đó, Karl
Jaspers, ông ta không ngã gục như Heidegger, là bởi vì triết học của
ông sản
sinh ra một nền đạo hạnh và chính trị học.
Note: Bài phỏng vấn thần sầu, được thực
hiện khi Paul Ricoeur cho ra lò cuốn Suy nghĩ Thánh Kinh, Penser La
Bible.
TV sẽ đi hết cả bài, sau, nhân dịp Noel năm nay
Hà, hà! (1)
Cao Bồi
& Nỗi Buồn Chiến Tranh & GCC
Nước Pháp bị
ô nhục vì lính Tẩy hiếp con nít ở Trung Phi.
Liệu có sự ô
nhục của xứ Mít, bởi lũ bộ đội Cụ Hồ?
Có đấy, và cái
sự ô nhục thì hiển nhiên, và rõ như ban ngày, là cái xứ Mít như hiện
nay.
Trên số báo
Intel mới, có 1 bài, phỏng vấn thế hệ nửa đêm ở Ấn, bây giờ thì đều già
cằn, đại
khái là tụi mi, những tên tướng về hưu, nhìn lại xứ Ấn, nghĩ gì?
GCC cũng muốn
hỏi lũ VC 1 câu như thế. Không lẽ không tên nào thấy nhục vì 1 địa ngục
Mít do
chúng làm nên, như bây giờ?
Chân
Dung Nhà
Văn
Note: Bài viết
về Vũ Hoàng Chương, trong có nhắc tới cái danh sách đầu tiên, những nhà
văn đồi
trụy, gồm 16 tên…
Tôi đọc những
người có tên trong bản danh sách được gọi là danh sách Hoàng Trinh cho
ông nghe. Hoàng Trinh là thông gia với Trường Chinh. Y vào Nam sớm nhất
và được Bộ
Chính Trị Trung Ương Đảng Ủy cho toàn quyền xử lý vụ "Văn Học Nghệ
Thuật
Miền Nam". Sau này thêm bớt con số người bị bắt, có nhiều danh sách
khác.
Như danh sách 21, danh sách 44. Nhưng danh sách Hoàng Trinh, 16 người
được lập
ra sớm nhất và tôi được biết ngay nhờ sự tiết lộ của một cán bộ đảng
quen biết
ngày trước, hắn đi theo Hoàng Trinh lên Đà Lạt, và được cho xem bản án
tử hình
này
theo GCC, không đúng.
Danh sách này, gồm 12 tên,
có
GCC, thứ
7, trong 12 tên, là do 1 tên đàn em của Lữ Phương làm. Tên này, hiện ở
Pháp.
Mang từ Miền Bắc vô, có,
nhưng là mấy cái tapes, để phát trên Đài Sài Gòn, trong cú Mậu Thân,
cùng với 1 chuyên viên kỹ thuật của Đài Hà Lội.
Văn Học số 126,
10, 1996
Thời gian này,
là còn Quân Quản, như VC gọi. GCC sau khi học cải tạo ba ngày tại chỗ,
bèn trở
lại sở, đếch có việc gì làm, bèn đi lang thang, khi thì ra bờ sông, làm
1 "shot", rồi thuê 1 cái ghế bố, nằm phê, hoặc ghé Bưu Điện chính, như
khách hàng, ngồi
trên băng ghế, nhìn người qua lại.
Đúng là trong 1 lần như thế, thì 1
anh cùng
làm Bưu Điện, không cùng nhiệm sở, biết GCC cũng viết văn viết viếc, đi
ngang
qua, tay cầm tờ Tin Sáng của đám Miền Nam, và đưa tờ báo cho GCC, chỉ
cái danh
sách 12 tên nhà văn phản động đồi trụy, và cười cuời, bỏ đi!
Đọc, Gấu choáng
người. Sợ có, ngạc nhiên, hãnh diện cũng có.
Bởi là vì thời gian đó,
đắm đuối
với Cô Ba, chẳng còn viết lách, mà cũng chẳng hề lai vãng giới văn
nghệ, cuốn
truyện ngắn Những Ngày ở Sài Gòn, thì đúng là tuyệt bản từ hổi nào, và
cũng chẳng ai còn nhớ, làm sao mà VC biết đến
Gấu Nhà Văn!
Phải
đến khi ra hải ngoại, đọc cái bài phỏng vấn trên, mới ngã
ngửa ra mà rằng, hóa ra tên này.
BÓC LỘT
Ai đó từng nói: “Dưới chế độ tư bản,
người bóc lột người. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn ngược lại”
(In
capitalism, man exploits man. In socialism, it’s exactly the opposite).
Cách
diễn đạt thật hay. Ở đâu cũng có cảnh người bóc lột người, nhưng ít
nhất, dưới
chế độ tư bản, sau khi bị bóc lột, mọi người ít nhất cũng còn cái nhà,
cái xe
và nhất là, tương lai cho con cháu; còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,
người ta
bị mất sạch, không những mất hiện tại mà còn mất cả tương lai lẫn quá
khứ.
— with Tuan Nguyen.
Câu nói trên đây, không biết Thầy Kuốc
moi ở đâu ra, nhưng trên Tin Văn có nhắc tới, và là do Koestler kể, ở
đoạn mở
ra cuốn Hành Động Sáng Tạo.
Theo ông, 1 câu chuyện tiếu lâm và 1 định luật khoa
học, cấu trúc, cách vận hành... giống nhau!
Trong giờ học tập, nghe anh Quản Ngố phán,
dưới chế độ tư bản, người bóc lột người; chế độ XHCN, ngược hẳn lại,
một tên sĩ
quan Nguỵ mới đứng lên chọc nhẹ Quản Ngố, ngược lại của “người bóc lột
người”, thì
cũng vẫn là… "người bóc lột người"!
Vẫn do Koestler kể, một ông chồng về nhà,
thấy ông linh mục đang làm cái việc của ông ta, ở trên giuờng, bèn lầm
lũi đi
ra bao lơn, nơi con chiên đang tụ tập ở bên dưới, chờ ông cha ban thánh
lễ.
Bà
vợ hỏi, anh tính làm gì vậy?
-Thì cha giúp anh làm việc của anh, anh
giúp cha làm việc của cha!
Một định luật khoa học, ra đời, chẳng
khác gì một câu chuyện tiếu lâm. Vật chất và năng lượng, khác hẳn nhau,
cho đến
khi Einstein, nói, chúng là 1, và ông chứng minh bằng công thức E=mc2.
E là năng
lượng, m là khối lượng, c là tốc độ ánh sáng. Khi Nobel Toán Mít giải
ra cái bổ
đề gi gì đó, tờ Time khen, ném 1 cây cầu qua 1 con sông, là cũng ý như
thế: có
hai mảnh toán học, trước giờ không có tí liên hệ, cho đến khi Nobel
Toán tìm ra
điểm chung của chúng.
Mỗi lần chúng ta chui vô bồn tắm, là nước rềnh
lên, hai hiện tượng vật lý khác biệt, được nối lại, qua luật tỉ trọng,
tức nguyên
lý Archimedes.
Tương truyền, ông vua thời đó nghi anh thợ làm vàng chôm vàng,
khi làm chiếc vương miện, và thay bằng bạc, nhưng không làm sao chứng
minh, bèn
kêu tới Archimedes.
Ông kiếm ra nó, khi đang tắm, bèn cứ thế chạy ra đường, la
lớn Eureka, Eureka! (1)
Archimedes bỏ chiếc vương miện, vào nước, ba lần.
Lần đầu,
vương miện bằng vàng.
Lần thứ nhì, bằng bạc.
Lần thứ ba, chiếc vương miện mà
anh thợ vàng làm, có chôm vàng, và thay bạc vô.
Ba cái cùng trọng luợng, nhưng
mức nước rềnh lên, khác nhau!
Đọc stt của Thầy Kuốc quá tức cười, chắc
cũng có tí bạc ở trỏng!
30.4.2015
Lê
Công Định
Yesterday at 4:26pm ·
Một bài nên
đọc nhân sự kiện gần đây
của các nhà ... văng.
Câu tiếng Mít,
trên, không chuẩn.
Đúng ra phải viết, thí dụ, nhân sự kiện gần đây liên quan tới giới
nhà văn.
Từ "gần đây" cũng không được!
Phải viết, nhân sự kiện đang hot
trong giới "văn nô", hay, trong "Hội Nhà Thổ", vẫn thí dụ!
Vì thấy được
LCD khen, GCC thử tìm đọc. Dởm!
Một câu văn
viết vội trên FB, thì cũng OK thôi. Tuy nhiên, liệu nó ảnh hưởng tới 1
cách đọc
vội, như khi đọc bài viết “hay”, của Việt Hoàng, mà GCC post lại ở đây,
và đi 1 đường
bình loạn sau.
Đã đến lúc trí
thức Việt Nam cần lựa chọn dứt khoát! (Việt
Hoàng)
Một sự kiện
vừa xảy ra tại Việt Nam, tuy không ầm ĩ nhưng đã đánh dấu một cột mốc
rất quan
trọng trong việc thay đổi tư duy của một tầng lớp vốn được xem là trí
thức nhất
Việt Nam, đó là việc Hội Nhà văn Việt Nam quyết định gạch tên những nhà
văn đã
tham gia vào ban vận động thành lập Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam cách đây
một năm.
Tin cho biết
là đã có hai mươi (20) nhà văn quyết định rút khỏi Hội nhà văn Việt
Nam. Số người
rời bỏ hội có thể sẽ tiếp tục gia tăng. Chúng ta thấy gì qua sự kiện
này? Về
phía Hội Nhà văn Việt Nam và ông Hữu Thỉnh thì đây là một hành động tất
yếu và
cần thiết vì rằng một người không thể ngồi một lúc hai ghế, một cầu thủ
không
thể tham gia cùng lúc hai đội bóng. Nhất là khi hai tổ chức là Hội nhà
văn Việt
Nam và Hội Văn đoàn Độc lập không cùng một chính kiến và cũng không
cùng một mục
đích. Hội nhà văn Việt Nam là một tổ chức ngoại vi, là cánh tay nối dài
của đảng
cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Hội ăn lương của ĐCSVN và vì vậy hội là công
cụ của
ĐCSVN. Mọi hoạt động của hội đều do đảng chỉ đạo và mục đích tối thượng
của hội
là giữ vững sự ổn định của đảng. Chuyện tự do sáng tác hay “khai dân
trí” chỉ
là chuyện thứ yếu. Trong khi đó Hội Văn đoàn Độc lập, nếu được khai
sinh thì mục
đích của hội sẽ là tự do sáng tác và mục đích chính là phục vụ người
dân Việt
Nam thông qua các tác phẩm mang hơi thở của cuộc sống. Nếu Hội Văn Đoàn
Độc Lập
không “độc lập” với chính quyền thì chúng tôi cũng đồng ý với nhà văn
Phạm Thị
Hoài rằng Văn đoàn Độc lập sẽ là một hội …thừa.
Cái sự kiện đang
coi là “hot”, nếu có, thì không phải "gạch tên", mà là, "rút tên" khỏi
Hội Nhà Thổ, mới đúng.
Gạch tên là
chuyện thường ngày ở huyện VC.
Trước, là thịt
liền, như vu là Việt Gian, thời còn là Việt Minh, làm thịt sạch những
nhà trí
thức khác không phải cùng băng đảng, và để làm điều này, chúng bèn phát
động
toàn quốc kháng chiến chống Tẩy, trong khi Tẩy năn nỉ xứ Mít vô Liên
Hiệp Pháp.
Tẩy đề nghị cho xứ Mít hưởng chế độ libre, tự do, trong khi VC đòi "độc
nập",
indépendant, y chang văn đoàn "độc nập" bây giờ.
Hoặc vu cho tội chống
Đảng, như đám Nhân Văn bị, hồi 1954.
Quyết định gạch tên những nhà văn tham gia
Văn đoàn Độc lập
của Hội nhà văn Việt Nam là một cơ hội tuyệt vời cho những nhà văn chân
chính,
những người từ lâu đã muốn rời bỏ cái hội “hữu danh vô thực” để
trở về với
nhân dân, về với không gian bao la và tự do. Chúng ta dễ dàng nhận thấy
sự vui
mừng, sung sướng đến vô hạn của những nhà văn, nhà thơ vừa bị khai trừ
đó trên
FB của họ. Họ đã chờ đợi quá lâu và thời gian đã làm xong phần việc của
mình. Một
cuộc chia tay và đoạn tuyệt cần thiết đã đến. Đã đến lúc “ngô ra ngô,
khoai ra
khoai”. Không thể vàng thau lẫn lộn mãi được.
Một chuyện thường ngày ở huyện VC như
thế, mà tại làm sao phải đợi gạch tên mới mừng phát điên lên được?
Đợi quá lâu nữa chứ!
Mà ra khỏi Hội Nhà Thổ, vô hội Độc Nập thì có
gì ghê gớm?
Nhà văn thì phải viết, mà viết thì phải một mình, cần đéo gì Hội?
Tao là nhà văn, và cái job của tao là cô đơn. I am a writer, it's my
job to be
alone, như 1 em Ái nhĩ lan, Anne Enright, phán. (1)
Vô Hội,
cũng được đi, nhưng phải có tác
phẩm.
Nhìn
đám Văn Vịt coi, có tên nào viết
ra hồn đâu!
Tởm
nhất câu "trở về với nhân dân"! NQT
Sứ mệnh
lớn
nhất và cao cả nhất của người trí thức là “hướng dẫn và lãnh đạo quần
chúng”
chứ không phải chạy theo quần chúng, và nhất là chạy theo một thể chế
chính trị
đã lỗi thời và mục ruỗng như ĐCSVN.
Bài viết của tay này, chắc
là đệ tử của NGK, nên mục đích của
nó, là cũng tính "hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng", thay VC!
Không hiểu làm sao mà Lê
Công Định khen, hay?
Cái khốn nạn nhất của
chính trị xứ Mít, theo Gấu, là cái trò
"hướng dẫn lãnh đạo" quần chúng. Trò
bửn này nên chấm dứt.
Không phải bây giờ, mà
từ khi còn Miền Nam, Gấu đã nhìn ra điều này, và đề nghị, thay vì hướng
dẫn lãnh
đạo quần chúng, thì làm ngược lại, trao cho quần chúng tri thức, sự
hiểu biết,
thông tin, sự kiện… và để cho quần chúng tự quyết định phần số của họ.
Đó là mục đích của tờ Tập
San Văn Chương, qua lời Phi Lộ của
nó, với định nghĩa, nhà văn là kẻ "được thông tri đường được", mieux
informer, chứ đéo phải là kẻ
"hướng dẫn lãnh đạo" quần chúng!
Bởi
vì Tập san Văn chương quả có những nét riêng: nó cách mạng, lật đổ theo
tinh thần
bất bạo động, hoặc theo hiểu hiền lành của nhà văn Nga, Chekhov. Bây
giờ, sau
hơn ba mươi năm, trong số ít ỏi những thực sự quan tâm và gắn bó với
một nền văn
chương Miền Nam trước 75, có người đã nhận ra, bên cạnh cuộc cách mạng
lớn, do
Sáng Tạo hô hào, có một cách mạng nhỏ, thầm lặng của Tập san Văn
chương. Ngay
trong lời phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được
thông tri đầy
đủ (những dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài
vọng một điều:
hãy đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng
đang ảnh hưởng
đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu
vị của họ.
Cho phép tôi dùng chữ khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết
ở khắp
nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị,
saveur, trong
tiếng La-tinh là cùng một nguồn).
Nguyễn
Trường Trung Huy
Yesterday at 3:54am · Edited
·
...10 năm ngày mất của nhạc sĩ TRẦN
THIỆN THANH/ ca sĩ NHẬT TRƯỜNG, 2 bài yêu thích nhất của mình: TUYẾT
TRẮNG
& BIỂN MẶN. Trong số mới nhất này có 1 trong 2 bài đó, đã bất hủ
với tiếng
ca SĨ PHÚ.
PHẠM THẾ MỸ - mình thích nhất bài NẮNG LỤA VÀNG/ ÁO LỤA VÀNG , trong
nước , ca
sĩ ÁNH TUYẾT từng ra 1 CD hát nhạc PTM - có 1 số bài lạ & hay!
Note: Trần
Thiện Thanh, thì phải là Rừng Lá Thấp, chứ Biển Mặn & Tuyết Trắng
thì có gì
là ghê gớm. Lời nhạc của RLT, có những câu quá khủng, phải nói như vậy.
Nó, với
1 vài bài nữa, theo GCC, suốt quãng đời tù đầy trong những trại tù VC.
Gấu đã đi
1 một đường về nó, nhưng chắc là còn phải đi thêm vài đường, nhiều
đường, về cái gọi là “hồn” của
văn chương
Miền Nam, trước 1975: Nhạc sến.
Như lính giữa rừng
Journeys, like artists, are
born and not made.
(L. Durrell. Chanh Chát,
Bitter Lemon)
(Lãng Du, như nghệ sĩ, có ở
trong máu, chứ không làm ra được).
Tôi vẫn thường nghĩ, đi chỉ
là để mở ra cõi trong riêng tư, khi đứng trước một cõi ngoài đổi khác.
Thú vị
hơn, nếu bạn đồng hành là một cố nhân tha phương hạnh ngộ.
Tôi và N. ngồi giữa vườn cây
trong lúc hai bà len lỏi giữa lối đi thời gian dẫn về một làng da đỏ
tại vùng
Bắc Mỹ 500 năm trước đây với tất cả nền văn minh, lối sống của họ, nay
được thu
nhỏ lại để trình bày cho du khách. N. trước năm 75 là một giáo sư trung
học,
ngoài ra còn viết văn, làm xuất bản. Thời gian tụi này ở trại cấm Thái
Lan, anh
thường gửi tiền, và cùng một vài người bạn can thiệp, vận động mong cho
tụi này
qua được thanh lọc. Tuyển tập truyện ngắn do anh xuất bản năm 1974,
trong có
bài, hình ảnh cùng vài dòng tiểu sử tụi này tình cờ gặp được trong đám
người
chung số phận, không ngờ thật hữu ích khi thanh lọc. Tấm hình Cao Lĩnh
chụp vào
một buổi chiều tại Sở Thú Sài-gòn là tấm hình độc nhất đánh dấu những
ngày cá
nhân tôi mê mải với những chữ.
N vẫn còn phong độ, nghĩa là
vẫn đẹp trai, vẫn còn những nét lỉnh kỉnh như cái ống vố, cách bập bập
thuốc,
như để giữ ấm hơi đời, ở cõi người lạnh giá này. Và anh vẫn còn đam mê
làm nhà
xuất bản, vẫn muốn có dịp qui tụ một số cây viết, trong một cuốn sách
có những
dòng chữ đẹp như những bức hình của Cao Lĩnh ngày nào. Tôi nói với anh,
có
những cuốn sách tạo nghiệp. Cuốn trước, trong lời tựa, anh coi đây là
vốn liếng
một đời cho quê hương, cho bạn bè. Chưa đầy một năm, Cộng Sản thôn tính
Miền Nam.
Bây giờ anh lại lăm le làm
xuất bản, biết đâu cái nghiệp lần này khá hơn, tụi mình lại có dịp ngồi
lai rai
ở Quán Cái Chùa, tại Sài-gòn.
Tôi vẫn còn nhớ cái nhìn của
anh sinh viên Luật, người Thái Lan, được Bộ Nội Vụ và Cao Uỷ Tỵ Nạn
mướn làm
thẩm tra viên trong buổi thanh lọc. Cái nhìn dừng lại rất lâu trên
khuôn mặt
tiều tuỵ ở ngoài đời so với trong hình. Có vẻ anh tin. Có vẻ anh thông
cảm. Có
vẻ anh sợ hãi, không ngờ sự khủng khiếp của một chế độ so với sức chịu
đựng của
con người.
Trong tuyển tập có một truyện
ngắn đã theo tôi từ ngày học trung học. "Con thằn lằn chọn nghiệp",
của Hồ Hữu Tường. Thời gian đó, tôi đã phải vô Thư viện Quốc gia ở
đường Gia
Long, để nắn nót chép từng chữ truyện ngắn trên, bên cạnh những dòng
chữ Tây,
chép từ cuốn "Biện chứng pháp" của Trần Đức Thảo. Đám chúng tôi vẫn
thường tâm sự, hạnh phúc nhất, mà cũng bất hạnh nhất của những người 20
tuổi
vào những năm 60, đó là chúng tôi có quá nhiều ông thầy, quá nhiều
triết
thuyết, chủ nghĩa, nào hư vô, hiện sinh, hiện tượng luận, cơ cấu
luận... Những
đàn anh chúng tôi, dù sao cũng chỉ chịu khổ với một chủ nghĩa Cộng Sản.
Như nhiều người đã biết, Hồ
Hữu Tường lúc đầu theo Trotsky, dính vô vụ Bình Xuyên và bị ông Diệm
kết án tử
hình, sau nhờ sự can thiệp của một số nhà văn, trí thức tên tuổi trên
thế giới,
án tử hình đổi thành khổ sai chung thân, tại Côn Đảo. Trong lúc đối
diện với
cái chết, ông viết "Trầm tư của một người bị tội tử hình", và mơ
tưởng Đức Phật lại trở lại với thế gian này. Hồi còn mồ ma tờ Nghệ
Thuật, Thanh
Tâm Tuyền có viết một loạt bài về cuốn Trầm Tư, qua đó ông cho rằng
giấc mơ về
sự nhập thế của Đức Phật cũng nát tan như mảnh đồng bằng chằng chịt
những bờ
của Miền Bắc. Thanh Nam, lúc đó là Tổng Thư Ký tòa soạn, nói đùa, bộ
anh tính
đụng vô vị thần linh Miền Nam hay sao. Ít người biết chuyện, chính Hồ
Hữu Tường
đã quyết định con đường cầm bút của ký giả Ba Tê (bút hiệu của Thanh
Tâm Tuyền
khi viết trên mục Tạp Ghi của nhật báo Tiền Tuyến tại Sài-gòn). Khi Hồ
Hữu
Tường làm tờ Phương Đông [hay Đông Phương?] tại Sài-gòn, Thanh Tâm
Tuyền lúc đó
còn là sinh viên ở Hà-nội, có gửi bài tham dự cuộc thi truyện ngắn.
Truyện được
giải nhì, không được đăng, vì không thể đăng được. Người viết được nghe
bà cụ
của thi sĩ kể lại, những ngày còn đi học, đám chúng tôi, những bạn bè
của người
em thi sĩ, vẫn lấy nhà bà cụ làm nơi tụ họp.
Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm
Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi
nhập thế
trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con
người nào,
mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và
chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho
các đa số
các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre:
Con người
bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.
(Sisyphe là
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh
núi, hòn
đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Tôi cũng nghe nói. chị NG.
phu nhân anh N. là một ca sĩ. Lần trước tụi này lên Montreal, thời gian quá ít ỏi nên
không được
hân hạnh nghe tiếng hát của chị. Tôi nói với N., cũng vẫn một giọng đùa
đùa,
chỉ mong chị đừng có tiếng hát của cô Tơ trong Chùa Đàn.
"Nguyệt giãi tàn
nhang...ư... Con sông hồ nước biếc... Bá Nhỡ ngồi trước mặt kia, sinh
mệnh chỉ
còn dính vào cuộc đời bằng một vài khổ đàn nữa thôi. Tắt bản đàn là đời
người
đang cúi xuống cái gẩy bằng sừng bò tót kia cũng hết luôn".
Cũng lại một cuốn sách tạo
nghiệp, Chùa Đàn. Đọc lại tôi thấy tiếc hùi hụi, phải chi Nguyễn Tuân
đừng thêm
vô Mưỡu Cuối. Cũng vẫn chuyện Ngày Mai ăn bánh khỏi trả tiền, trong một
Thị
Trấn Ngày Mai, của một Ngày Mai Ca Hát. Ngày Mai to lớn hơn, huy hoàng
hơn...
Vâng, cũng những bài xưa cũ
đó, buổi tối tại một nhà hàng, đám chúng tôi ngồi nghe chị NG hát.
Cô Tơ đã
chết
rồi, những bài hát không làm sống lại quá khứ nhưng rửa sạch
quá khứ,
đem lại công bình cho những người đã chết.
"Như lính giữa rừng yêu
lá thấp mà thôi...".
Nguyễn Quốc Trụ
Rừng Lá Thấp,
nếu mê nó, thì cũng nên biết, nó được sáng tác trong thời điểm nào.
Trong dĩa
nhạc ASIA về TTT, MC Việt Dzũng cho biết, được sáng tác trong dịp Mậu
Thân, như
lời ai điếu gửi cho 1 chiến hữu của TTT, 1 vị đại uý, GCC không nhớ
tên, sĩ
quan VNCH, ngã xuống tại khu vực Hàng Xanh, trong vụ Mậu Thân.
Thành ra câu “lá
rừng che kín đường về phồn hoa”, đúng là nén hương của TTT tiễn bạn
mình.
Và của GCC.
Note: Số báo
này, mua ở Paris, lần đi Tây, đúng lúc Grass đợp Nobel. Nhờ đọc nó,
biết
được 1 số sự kiện, đưa vô cái thư ngỏ gửi xừ luỷ.
Nếu không, chưa chắc có cái
thư ngỏ. (1)
Đọc lại, đọc cái bài inédit của Grass, thì lại ngộ ra 1 điều, có thể
Sến hiểu
sai, hoặc không tới, Thầy của Sến.
(1)
Cái thư ngỏ
gửi Grass, khởi từ những dòng sau đây, trong bài trả lời phỏng vấn của
tờ Văn Học
Tẩy:
Và khi (phải)
nghĩ về giải Nobel, tôi đặt cho tôi câu hỏi này: tại sao những người ở
Stockholm không có ý nghĩ trao giải năm nay cho hai tác giả ngôn ngữ
Đức, cho
Christa Wolf (1), và cho tôi - vào thời kỳ đó, nước Đức còn chia cắt
thành hai.
Người ta đã thành công, tiếp theo sau chiến tranh và Chiến Tranh Lạnh,
chia cắt
Âu Châu, và cùng với nó, nước Đức. Cái nước Đức đó đã tuyệt đối bị chia
cắt, về
phương diện ý thức hệ, kinh tế, quân sự (Liên Minh Đại Tây Dương, OTAN,
ở Tây
Phương), tất cả là chia cách. Nhưng văn chương, không. Hai nền văn
chương vẫn
có giao tiếp với nhau, mặc dù nếu xung đột. Và cuộc thoại đó chẳng bao
giờ bị đứt
quãng, mặc dù người ta vẫn cố gắng, hoặc là ngăn cản du lịch, về phía
Cộng Hòa
Dân Chủ Đức, hoặc cấm trình diễn những vở kịch của Brecht, tại Cộng Hòa
Liên
Bang Đức. Một điều tốt, vào thời kỳ đó, như tôi nghĩ, đó là khuyến
khích cái ý
chí đề kháng của văn chương yếu, bằng cách cho cả hai, Christa Wolf và
chính
tôi, giải thưởng. Chuyện đã không xẩy ra. Nhưng bà và tôi, cả hai đã
sống sót.
30.4.2015
Nhân nhắc tới
bài viết “Ôi cuộc chiến đáng yêu làm sao!” [chắc là thuổng cái tít của
VC], của
Simic, GCC bèn nhớ ra là Camus, trong “Camus ở báo Combat” cũng có cả 1
loạt bài,
khi cuộc chiến 1945 chấm dứt, báo động lương tâm thế giới, về cách đối
xử giữa… Vẹm và Ngụy. “Đéo có nạn nhân
& Đao
phủ thủ”, “Neither Victims, nor Executioners”, bài đầu, Nov 19-30.
1946.
Loạt bài
này đòi hỏi bản quyền, copyrighted, trong tất cả những bài viết của
Camus, trên
báo này.
White House
calls Seymour Hersh story about Osama bin Laden raid ‘baseless’
Nhà Trắng phán, nhảm!
GCC cũng
nghi, thế. Đọc cái cú "điều cha" Mỹ Lai, là cũng đã thấy nhảm rồi.
Thí dụ, đoạn phỏng vấn đấng nhà văn Mít NQD, bố mẹ Ngụy, đưa qua Mẽo,
liền sau
30 Tháng Tư, có đủ hết, chỉ còn thiếu cái ngu của VC, thế là bò về!
Nói rõ hơn, cái unfinished, phải kiếm ở Mẽo, ở bất cứ đâu, chứ không
phải ở xứ
Mít.
Về kiếm cái
nhà ngồi lên đầu xứ Mít, dân Mít, thế là đủ rồi!
Khiem
Do
20 hrs · Edited ·
Cái chết của Osama bin Laden, theo Sy
Hersh, tóm tắt:
Từ 2006, Bin và gia đình là con tin-tù
binh của ISI (tình báo Pakistan) tại Abotabbad, giam kín tại căn nhà
đó, có BS
ở nhà gần cạnh điều trị, tổn phí do Saudi đài thọ
1 viên chức ISI báo cho CIA để lấy thưởng 25 triệu. Mỹ áp lực với P, và
P đồng
ý dàn dựng cho Mỹ giết, kịch bản đầu là " bắn hạ tại bên kia biên giới
Afhganistan (ngoài lãnh thổ của P)
Trực thăng Mỹ tai nạn rơi ngay trong sân, khiến KB hỏng, Tòa Nhà
trắng...
See More
Note:
Seymour M. Hersh
cũng là tác giả bài viết "Mỹ Lai nhìn lại"
The Killing
of Osama bin Laden
Seymour M.
Hersh
Pham
Thanh Cong, the director of the My Lai Museum, was eleven at the time
of the
massacre. His mother and four siblings died. “We forgive, but we do not
forget,” he said.
PTC, giám đốc Viện Bảo Tàng Mỹ Lai, 11 tuổi lúc xẩy ra vụ tàn sát. Mẹ
và bốn anh chị em chết. Chúng tôi tha thứ, nhung chúng tôi không quên
Kẹt, là ông này không biết
cái vụ VC dựng lên cú đầu độc tù
Phú Lợi.
Giả như biết, ông có tha thứ cho... VC không?
Trong khi ông bố của 1 nhân vật của Nam Lê, sống sót cú Mỹ Lai, nhưng
sau đó, theo... Ngụy.
Ông bố giải thích cho ông con nghe lý do:
Tao có đủ hận thù cho tất cả lũ Mít!
Anh
cũng nhớ ông bố đã từng
quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và
anh
biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi
ông mới
14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là
những xác dân làng,
trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị
lính Mỹ xả
súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật
kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ;
khi được
hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn
sát đó, ông
trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất
cả mọi
người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra
tấn, và bị
bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.
Chuyến đi Mỹ Lai của 1
phóng viên và những bí mật của quá khứ
Seymour M. Hersh
Nguyen Qui
Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular
bar and
restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen.
Thirty-one
years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning
journalist
and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to
come back
and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and
living as
someone else in the United States. I was grateful for the opportunities
in America,
but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time
as a
reporter for National Public Radio, and fell in love with it."
The New
Yorker, My Lai Revisited, Mar
30 2015
Nam Le online
Stories to Explore Someone Else’s Skin
Bản tiếng Pháp trên Books, dịch
từ bản tiếng Anh, trên The New York
Times
A World of Stories From a Son of Vietnam
Nam Le, bestseller
Hiện tượng bestseller ở
trong
nước, với Nguyễn Ngọc Tư, và ở ngoài nước, trên thế giới, đúng hơn, của
Nam Le,
theo Gấu, có thể là hồi chuông báo tử của nền văn học Bắc Kít, [lập
lại, văn học
Bắc Kít, không phải văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa], mà đỉnh cao
của nó là
chiến thắng Miền Nam, hiểu theo cả hai nghĩa, đỉnh cao và vực thẳm.
Dùng một hình
ảnh minh họa: nếu Lò Thiêu là đỉnh cao của thời kỳ Ánh Sáng của Âu
Châu, thì Lò
Cải Tạo chính là đỉnh cao của văn học Bắc Kít!
"I had
nothing but hate
in me, but I had enough for everyone.”
[As this story
unfolds] it becomes a meditation not just on fathers and
sons,
but also on the burdens of history and the sense of guilt and
responsibility
that survivors often bequeath to their children.
Đám Bắc Kít không thể viết nổi những câu văn tưởng như đơn giản như
trên.
Giản dị là do chúng không hề có những cảm nghĩ như vậy.
Mặc cảm thắng
trận, mặc
cảm ‘chết trong tâm hồn', đi đâu cũng vác theo mùi chiến lợi phẩm, thí
dụ, một
‘air’ nhạc TCS ‘ăn theo’, “Tôi có người yêu chết trận Pleime” làm đắng
ngắt “Đường
ra trận mùa này đẹp lắm”…
Đấy là chưa kể những chiến lợi phẩm cụ thể!
*
Một
khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong nước, nói được một lời ân hận
về cái chuyện ăn cướp Miền Nam,
thì may ra mới có sự thay đổi.
Chính
cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên
tai họa khủng khiếp, và đẩy đất nước chìm đắm vào cơn băng hoại, không
biết đến
bao giờ mới thoát ra được.
Note: Ba trò
hề, hai mươi tên ra khỏi “Hội Nhà Thổ” rồi, chỉ làm thúi thêm!
Charles
Simic, trong bài viết "Ôi cuộc chiến mới đáng yêu làm sao", “Oh, What
a lovely war!”, điểm cuốn “Năm Số Không: 1945, Year Zéro: A History of 1945”, của
Ian Buruma, trích 1 câu của Mary McCarthy làm tiêu đề, Theo 1 nghĩa nào
đó, những
ý nghĩ, tư tưởng là những tên khốn kiếp và dân chúng là những nạn nhân
rủi ro của
chúng [In a certain sense, the ideas are villains and the people their
hapless
victims].
Câu này theo
GCC bảnh hơn của nhà thơ VC Nguyễn Duy nhiều. [Câu của ND, đại khái,
tên khốn nào thắng,
Ngụy hay VC thì dân Mít đều bại]
Bài này, GCC
đọc khi đăng ở trên tờ NYRB, Oct, 10, 2013, nay đưa vô sách.
Điều đầu tiên,
Ian Buruma viết, khi du khách thăm viếng Âu Châu, những tháng, liền sau
khi chiến
tranh châm dứr, là 1 sự im lặng ghê rợn, kỳ quái.
Edmond
Wilson tả lần viếng thăm Anh quốc vào năm 1945.
OH, WHAT A
LOVELY WAR!
In a certain
sense, the ideas are villains and the people their hapless victims.
-MARY
McCARTHY
"How
empty, how sickish, how senseless everything suddenly seems the moment
the war
is over!" Edmund Wilson-who had opposed us involvement in World War
II-said
after a visit to England in 1945. If London looked grim, the appearance
of
Berlin, Cologne, Warsaw, Stalingrad, Tokyo, Hiroshima, and hundreds of
other
places, both in Europe and Asia, defied description. Just in Germany,
where
British planes attacked by night and American planes by day, the Allies
dropped
nearly two million tons of bombs, leaving cities and towns reduced to
smoldering ruins reeking of death. There were 31.1 cubic meters of
rubble for
every person in Cologne and 42.8 cubic meters for every inhabitant of
Dresden.
"The first thing," Ian Buruma writes in Year Zero: A History of 1945,
"that struck many visitors in the early months after the war was the
eerie
silence." The buildings that remained standing often had some
of their floors
caved in and their windows blown out from the explosions. There were no
more
sidewalks, since piles of debris lay where houses
[Review of Year Zero: A
History of
1945, by Ian Buruma. From the New York Review of Books, October 10,
2013]
Bài của
Simic, khi đọc trên báo, là GCC đã có ý giới thiệu với quý độc giả TV
rồi, để
trình ra, cái thái độ của kẻ thắng, đối với người bại, của thế giới, so
với xứ
Mít, mà, vào những ngày 30 Tháng Tư năm nay, lũ thắng trận càng bộc lộ
thêm ra, những
điều ghê rợn.
Thí dụ, ông
con của Lê Duẩn thổi ông bố, chính bố tôi đã nghĩ ra trò cải tạo cho lũ
Ngụy,
thay vì biển máu, vì nó “nhân văn” hơn nhiều.
Hay ông sử
gia Hà Lội, làm gì có đối xử phân biệt với lũ Ngụy sau 30 Tháng Tư,
chúng đi tù
như đi chơi, đi du lịch vậy mà.
Lạ nhất, là chưa thằng nào phun ra cái quả lừa 10
ngày phù du, tên nào thần sầu nghĩ ra!
Note: Đọc bài viết
của Sến về Hội Nhà Thổ Mít VC, và sau đó, đọc bài viết của 1 tên ở
trong nước,
phản biện Sến, GCC nhớ ra trường hợp Kadaré, như là 1 phản ứng tức
khắc. Nhưng đến
hôm nay, bình tĩnh lại, thì GCC lại nhớ thêm ra bài của Pamuk, GCC đọc
lâu rồi,
trên NYRB, nhưng sau được in lại trong Hãy Đốt Cuốn Sách Này.
Pamuk vốn rất chán
chính trị, chỉ mê viết tiểu thuyết đẹp, như chính ông thú nhận, nhưng
chính ông
là người khui ra vụ nhà nước thân yêu Thổ [Bắc Kít] của ông, làm cỏ dân
Armenians [Ngụy], và bị chúng hăm he làm thịt!
Bài của
Pamuk, cũng ngắn thôi, đã post bản tiếng Anh trên TV. Nhân dịp này, Gấu
bèn
dịch ra tiếng Việt, để cho thấy thái độ của ông, so với của Sến.
Hoàn cảnh có vẻ
khác, nhưng thật ra cũng như nhau.
Tự Do Viết
Hãy đốt cuốn
sách này
A writer's life and work
are not a gift to mankind;
they are its necessity.
Toni Morrison
Cuộc đời và tác phẩm của
một nhà văn đếch phải là một món quà cho nhân
loại. Chúng là sự cần thiết của nó.
Tuyệt cú mèo!
Nhưng mặt khác, Hội Nhà văn không phải
không hấp dẫn, có khi còn đặc biệt gợi cảm nữa. Chẳng phải những tên
tuổi lớn
nhất của nền văn học Việt Nam đương đại vẫn đang góp mặt ở trong đó, kể
cả tác
giả của Tướng về hưu lẫn Nỗi buồn chiến tranh, hay sao?
Phải giải
thích sức gợi cảm này như thế nào?
Vì quyền lợi (việc làm ở các cơ quan
thuộc Hội, báo Văn nghệ, nhà xuất bản, tài trợ sáng tác, trại
viết văn,
công du nước ngoài, đi thực tế, những chương trình dịch hoặc quảng bá
sách…),
hay vì tránh cô đơn và tìm cảm hứng (những rạo rực hội hè, lửa trại,
bia rượu,
váy áo …)? Tóm lại là tiện, như lời nhà văn Phạm Thị Hoài nói
năm 1990
khi bà muốn gia nhập Hội nhưng bị bác đơn? Có thể. Có thể đúng là tiện
thật.
Bởi nếu không phải là hội viên Hội Nhà văn thì những quyền lợi đó hoặc
là nằm
xa tầm tay, hoặc rất khó với, đặc biệt nếu ta nhớ về cái thời trước
1990, khi
mà tấm thẻ hội viên không những đi kèm quyền lợi vật chất, mà còn có ý
nghĩa
như một chứng chỉ xác nhận nghề nghiệp và địa vị xã hội. Không có thẻ,
không an
tâm được. Vả lại, vào Hội thì có mất gì đâu? Vẫn sáng tác, vẫn in sách
(nếu qua
được kiểm duyệt), vẫn xuất bản ở nước ngoài (nếu muốn), vẫn phê phán
Đảng và
chế độ (trong khuôn khổ), nhưng lại được thêm bảo kê, dễ hơn, tiện
hơn.
Source
Đúng là cháy
nhà ra mặt chuột. Ở Miền Nam, làm đéo gì có 1 thứ Hội Nhà Thổ nào như
thế. Có
PEN, là của cả thế giới, mà VNCH là 1 thành viên.
GCC cả đời, đéo vô 1 cái hội
nào cả. Đến khi qua được Trại Tị Nạn, ông Trưởng PEN Mít hải ngoại,
phải phịa
ra 1 tờ giấy giới thiệu.
Vậy mà cũng được việc. GCC có kể đâu đó, và cũng cám ơn
rồi.
May là gặp 1 ông mới viết sau 1975 ở hải ngoại, Giả sử gặp 1 bạn quí là
Chủ
Tịt, thì chỉ có ô hô ai tai!
Note: V/v “tiện”.
Nhà thơ Brodsky giải thích
“tiện” là, “tán tỉnh thảm họa”:
Một khi bạn
bắt đầu biên tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này nên, cái này không
nên, bạn
đang tán tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality –according to what is
or isn't
allowed today - then you're already courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon Volkov.
Nhưng mặt
khác, Hội Nhà văn không phải không hấp dẫn, có khi còn đặc biệt gợi cảm
nữa.
Cái bài viết của 1 tên nhà văn VC ở
trong nước, cũng 1 tên Bắc Kít cực độc. Và chắc là 1 hội viên của Hội
Nhà Thổ. Đụng tới Hội như đụng tới hắn.
GCC ở trong chốn giang hồ quá lâu,
thành ra thành tinh từ hồi nảo hồi nào rồi. [Bạn hẳn là phải đọc truyện
Cửa
Tùng Đôi Cánh Gài của Nhất Hạnh, đại khái, chàng dũng sĩ, thì cũng 1
thứ alter
ego của Nhất Hạnh - rời chùa, rời Thầy, với cây gươm, cái kính
chiếu yêu, hạ
sơn, “vì đời mà đi”, ấy chết xin lỗi, lầm với nhạc sến Trúc Phương, “vì
đời trừ
bạo”, đâu có hiểu được, mình biến thành quỉ từ hồi nào!
Gấu thì cũng thế, con ruồi bay qua, là biết, đực hay cái: Những cái từ
“hấp
dẫn”, “gợi cảm” đúng là cực độc, cực đểu cáng, đúng bản chất Bắc Kít.
Nhất là lại áp dụng vào Sến, một nhà văn nữ!
Chỉ cần
vài dòng, là tên này đã gói
gọn, cả 1 lũ Bắc Kít, vào trong cái kính chiếu yêu của Brodsky:
Lũ mi
đang tán
tỉnh thảm họa!
Biến thành
quỉ hồi nào không hay. Sở dĩ Milosz cực quí Brodsky, một phần là vì
thèm được
như Brodsky, như chính ông viết ra.
Milosz, cũng1 thứ cực độc, vậy mà không
thành quỉ.
Đọc cái này đi, coi chừng THNM, một vị thân hữu gửi sách, với lời dặn
dò.
Tại sao Milosz không thành quỉ?
GCC tự hỏi,
và ngộ ra sau đó, ấy là vì nhờ Thầy.
Thầy của Milosz là Simone Weil. GCC, một cách
nào đó, cũng đã được chích ngừa trùng độc, qua những vị Thầy của GCC,
trong có
cả Weil!
Rồi quà Thượng
Đế trao cho, thưởng công làm trang Tin Văn: Đọc được thơ, làm được tí
thơ [cái
này nhờ gặp lại cô bạn nơi xứ người], và dịch thơ.
Đành phải cám ơn Ông Giời 1 phát!
Note: Nhắc tới
Milosz. là vì đang đọc cuốn mới mua, “Những nhà văn Ba Lan viết về
viết”,
do Adam Zagajewski biên tập, trong có Milosz, và 1 bài viết ngắn,
với 1 câu
của Weil ở đầu bài viết:
THE SAND IN
THE HOURGLASS
1974
The
contemplation of time is the key to human life. It is a mystery that
cannot be
reduced to anything, and to which no science has access. Humility is
inescapable when we know that we are not certain how we shall behave in
the
future. We achieve stability only by disowning our I, which is subject
to time
and changes. Two things cannot be reduced to any rationalizing: time
and
beauty. One must begin from them.
- SIMONE
WElL, SELECTED WRITINGS
Hai điều
không thể nào giản lược về bất cứ duy lý hóa: Thời gian và
cái đẹp. Bạn phải
bắt đầu bằng chúng
Làm nhớ tới:
Bao thơ tôi,
ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì
con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About
what time does to Man."
Joseph Brodsky.
The Nobel
Prize in Literature 1980 was awarded to Czeslaw Milosz "who with
uncompromising clear-sightedness voices man's exposed condition in a
world of
severe conflicts".
Giải Nobel
văn chương 1980 được trao cho Czeslaw Milosz “người mà, bằng cái nhìn
rạch ròi,
cương quyết, không khoan nhượng, gióng lên phận người bày ra đấy, trong
một thế
giới với những mâu thuẫn gay go, khốc liệt”.
Diễn văn
Nobel
Một trong những
người được Noebel mà tôi đọc khi còn là 1 đứa con nít đã ảnh hưởng đậm
lên tôi,
tới cả những quan niệm về thơ ca. Ðó là Selma Lagerlöf. Cuốn sách thần
kỳ của
bà, Cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng mà tôi thật mê, đã đặt anh cu Nils
vào một
vai kép. Anh cu Nils bay trên lưng ngỗng nhìn Trái Ðất như từ bên trên,
và cùng
lúc, trong mọi chi tiết. Cái nhìn kép này có thể là 1 ẩn dụ về thiên
hướng của
nhà thơ. Tôi tìm thấy 1 ẩn dụ tương tự ở trong một ode La Tinh, của nhà
thơ thế
kỷ 17, Maciej Sarbiewski, người được cả Âu Châu biết dưới bút hiệu
Casimire.
Ông dạy thơ ở đại học của tôi. Trong 1 bài ode, ông miêu tả cuộc du
lịch của
mình - ở trên lưng Pegasus, từ Vilno tới Antwerp, thăm bạn thơ của ông.
Như
Nils Holgersson, ông ôm bên dưới ông, sông, hồ, rừng, nghĩa là 1 cái
bản đồ, vừa
xa nhưng lại vừa cụ thể.
Như thế, thì
đây là hai bí kíp của nhà thơ: đói nhìn và đói, ham muốn miêu tả cái
nhìn thấy.
Simone Weil
mà tôi mang nợ rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là
linh hồn của
cái đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả.
Tôi là Ðứa
bé của Âu châu, như cái tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa
nhận, nhưng
đó là 1 thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn
sách tự
thuật mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một Âu châu khác. Không nghi ngờ
chi, có
tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một Âu châu
thứ
nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng đen của Thế
Kỷ 20”.
Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát. Tôi phải nói về thơ
ca và
cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của nó, với một số hoàn cảnh kỳ
cục,
quái dị, về thời gian và nơi chốn…
Czeslaw
Milosz
Chính là nhờ
đọc đoạn trên đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng
đời đẹp
nhất, và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của
những bản
nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.
Cái câu phán
hãnh diện của Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở trong
những bản nhạc
sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!
Trại Tù VC:
Hoàn cảnh kỳ cục, quái dị về thời gian và nơi chốn, ở nơi đó, nhạc sến
được
cất lên:
sao không
hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua?
và, đâu cần
một dạng hoàn hảo nào cho thơ.
Bèn, tự thưởng Gấu, một
bài thơ.
NEW HAIRCUT
In a head
this old and thick there are all sorts of ideas,
Some of them
cockeyed, of course.
They saw
wood four to a bed under a rope
Tied into a
noose dangling from the ceiling.
In a head
this old there is a woman undressing,
A radio
singing softly to itself,
A small dog
running in circles.
There's a
house detective making his rounds,
Wearing a
funny hat as if it were New Year's Eve.
O mysteries!
Nina Delgado, the greatest of all,
Whose name I
saw spray-painted on a factory wall,
And who like
a leaf that has fallen far from a tree
Is now
floating serenely out to sea, or back to me.
To have so
many screws loose in one's head-
Is that what
God and the Devil wrought?
In a head
this old, there's also someone
who every
now and then peeks into a mirror
And shudders
because there's no one there.
Charles
Simic: The Lunatic
Đầu
mới cắt
tóc
Trong cái đầu
già và nặng này có đủ thứ ý nghĩ quái quỉ
Một số lảo đảo
như 1 tên say rượu, lẽ tất nhiên
Chúng nhìn
thấy 1 khúc gỗ lắc lư vô giường
Buộc vô thòng
lọng, treo lủng lẳng trên trần nhà
Trong cái đầu
của tên Gấu già có 1 em đang cởi đồ
Cái đài thì đang
thủ thỉ hát cho nó nghe
Một con chó
nhỏ quay mòng mòng
Có 1 tên thám
tử tại gia làm những tua kiểm tra
Đội một cái
nón tiếu lâm như trong ngày Tết
Ôi những bí ẩn!
Nina Delgado, vĩ đại nhất trong tất cả
Tên của anh
tớ thấy sơn trên tường một xưởng thợ, hay nhà máy
Và, như 1 cái
lá rời xa cây
Lúc này lềnh
bềnh trôi một cách rất ư là bình thản ra biển
Hay trở lại
với Gấu
Có rất nhiều
cây vít lỏng ở trong đầu của Gấu–
Là do Chúa
hay Quỉ?
Trong đầu tên
Gấu già này, còn có một ai đó
Một kẻ mà lúc
này, hay lúc nọ, bèn nhìn vô cái gương
Và nhún vai
1 phát, vì làm gì có ai ở trong đó!
Note: Simic mà cũng biết
tới lá, lá đa,
Đang bình thản trôi ra biển cả
Hay trở lại với Gấu Cà Chớn!
Brodsky và
Milosz, cùng sống trong thế giới CS, cùng được Nobel, không bị ảnh
hưởng bởi
Cái Ác, là còn nhờ cả hai đều là dân Ky Tô. Hồi còn đi học, Gầu rất mê
TTT, và
cực mê cái đoạn nhân vật tên là Tâm, trong Bếp Lửa, thuyết giảng về
Chúa, về Phật,
về Thượng Đế (1). Chỉ mãi đến khi về già, đọc Weil, Gấu mới tiếc, phải
chi mà biết
đến Ky Tô giáo, có thể GCC còn thâu hoạch được nhiều hơn nhiều, khi đọc
Weil.
(1)
Trong
Bếp Lửa, Thanh Tâm
Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi
nhập thế
trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con
người nào,
mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu
hạn, và
chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho
các đa số
các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre:
Con người
bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc.
(Sisyphe là
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh
núi, hòn
đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Nhắc đến hiện
sinh, bèn nhớ ra, trong bài chưa từng in ấn, inédit, Văn Chương và
Huyền Thoại,
Gunter Grass viết:
Và cuối Đệ
Nhị Chiến, khi tôi, còn trẻ măng, như tất cả thế hệ chúng tôi, vô tri,
tò mò vô
cùng tò mò, do thách đố hơn là do thèm tri thức, bèn mò vô hiện sinh và
những cái
trò thời thượng của nó [Ui chao, sao giống GCC thế, cầm 1 cuốn de
poche, chìa cái
trang bìa La Nausée ra cho mọi người qua đường nhìn thấy, ghé 1 quán cà
phê lề đường
Lê Lợi, ngồi rửa mắt nhiều hơn là đọc, mà, tiếng Tây ăn đong, đọc gì
nổi], tôi đọc
lần đầu tiên Huyền Thoại Sisyphe, và chẳng hiểu cái chó gì cả… Bây giờ
Camus
sao quá gần gụi với tôi. Ông ta làm tôi vãi linh hồn [Il me touche],
với giai thoại
viên đá, đếch chịu nằm yên một chỗ, hết lên núi lại xuống núi: Thế là
hình ảnh
phi lý hùng dũng, anh hùng [đếch phải anh hùng Núp nhe!] của Sisyphe,
chọc quê
mọi vị thần [se moque des dieux], chỉ gật đầu hài lòng viên đá [et
approuve la pierre]
ăn vào đầu tôi….
-Ông đã ở
Pháp thời gian 1955-1956. Ông cũng nói tới Camus...
-Camus, vào
thời kỳ trước đó, đầu những năm 50, khi tôi là sinh viên mỹ nghệ ở
Dusseldorf.
Những buổi bàn luận buổi đêm của chúng tôi thường là về ông, về cuộc
đụng độ giữa
Camus và Sartre. Trong những buổi trò chuyện như vậy đã đưa đến việc
chọn bên.
Với tôi, việc chọn lựa Camus, bên cạnh rất nhiều ảnh hưởng khác nữa, đã
là một
quyết định rất quan trọng.
-Tôi tin rằng
ông luôn luôn có những khó khăn với Sartre.
-Ông ta quá
mang tính ý thức hệ, quá đề thuyết đối với tôi. Ông ta quá chăm chú tới
mục
tiêu của ông, tới cái xã hội xã hội chủ nghĩa hay một cái khác. Điều mà
tôi
quan tâm, đó là hòn đá không bất động ở trên đỉnh núi. Điều Camus đòi
hỏi: khi
người ta không ngừng vần hòn đá lên cao (điều mà chính tôi làm), phải
coi mình
là một người hạnh phúc!
In the Light
of Friendship
Trong ánh
sáng tình bạn
Simone Weil,
Czeslaw Milosz, and Albert Camus
\
…. in
Stockholm, on the occasion of the Nobel
Prize, he gave the most vibrant public confirmation of her influence.
During
the press conference before the ceremony, when he was asked which
living
writers mattered to him most, he named various Algerian and French
friends, and
add: “And Simone Weil - for there are dead people who are closer to us
than many
of the living.”
Vào dịp lãnh Nobel, ở
Stockholm, ông công khai bày tỏ trước công chúng ảnh hưởng
của Simone Weil ở nơi ông:
“Và Simone Weil - bởi là vì có những người chết cận kề với chúng ta hơn
so với
nhiều kẻ đang sống”.
Trong bài diễn văn nhận
giải, ông cũng không quên nhắc tới Simone Weil:
Simone Weil, to whose
writings I am profoundly indebted, says:
"Distance
is the soul of beauty."
MILOSZ
DEFINED HIMSELF as an "ecstatic pessimist;' and perhaps it is in this
that
he is closest to Simone Weil. In the face of the mystery of evil, there
is
little room in their faith for Providence (which would alleviate
suffering) or
for the communion of saints (which would give it meaning). Is a
consoling
religion a baser form of religion? "Love is not consolation, it is
light" - this phrase of Simone Weil's is admirable; but why would light
not bring some consolation? In any case, that is what simple souls
naturally
perceive when they piously go to light a votive candle before an image
of the
Virgin or some saint.
*
Camus,
Albert
Tôi theo dõi
chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn
[L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi
Loạn [The Rebel]. Ông
viết như một con người tự
do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con
người tự do
là con người chống Mẽo, phò Xô Viết, nói
theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch
xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự
tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir,
xẩy ra
đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre
dậy dỗ
Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ
còn có một
chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban
cho tôi món quà hậu hĩ, là tình bạn của ông, và thật là quan trọng, khi
có một
đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm việc. Ông khoái
bản tiếng
Tây, do Jeanne Hersch dịch, tác phẩm
Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết
của tôi làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời thơ ấu của
ông ta,
ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa
tôi và nhà xb Gallimard không khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng
Văn học
Âu châu, họ in Cướp Chính Quyền [The
Seizure of Power], và liền theo đó, Cái Đầu
Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn
thấy nó được bầy
ở tiệm sách, và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ mấy ông chủ tiệm tẩy
chay, vì
những lý do chính trị. Họ in cuốn Thung
Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng
theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách đã chẳng được đem ra
khỏi
kho - cùng lúc đó, có người đem cho tôi,
bản in lần thứ tư, của nó, tại Phi Châu.
Sau khi
Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ
hợp đồng
vẫn còn giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi
Quê [Native Realm], qua bản dịch của
Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban
ngoại
văn [foreign division] đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên
Đảng Cộng Sản
Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách, với chủ ý làm thịt nó, y
hệt như
thế kỷ 19 toà đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính trị
của những
di dân Nga. Tay này viết một bài điểm, khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in.
Nhưng
sau đó, là rã đám.
Tôi nhớ một
lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo quan niệm của bạn, một tên vô
thần như
tớ [Camus] có nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò chuyện xẩy ra,
chỉ ít
lâu sau khi tôi ghé thăm Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi
hỏi ông,
về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm vô], có nên dậy dỗ
con cái
như những tín đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant,
ông ta
không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con, theo ông, là phải được
dậy dỗ
theo đúng như niềm tin của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng
tiếp cận
truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng sẽ tự chọn cho chúng một tín
ngưỡng.
Thế là tôi
bèn trả lời Camus, đại khái như trên.
Milosz's
ABC's
Simone Weil
Cách đây vài
năm, tôi trải qua rất nhiều buổi chiều tại căn phòng của gia đình bà,
nhìn ra
những khu vườn Luxembourg Gardens, tại cái bàn đầy vết mực từ cây viết
của bà,
nói chuyện với bà mẹ, một người đàn bà tuyệt vời, ở vào tuổi tám mươi.
Albert
Camus, ngày được Nobel văn chương, đã trốn đám phóng viên, bằng cách
trú ẩn
trong căn phòng này.
Milosz: Sự
quan trọng của Simone Weil (1)
(1): Note:
TV sẽ đi bài này.
Czeslaw Milosz, "The
Importance of Simone Weil" in Emperor of the Earth: Modes of
Eccentric Vision (University of California Press, 1977), p. 91:
Violent in
her judgments and uncompromising, Simone Weil was, at least by
temperament, an Albigensian, a Cathar;
this is the key to her thought. She drew extreme conclusions from the
Platonic current in Christianity. Here we touch upon hidden ties
between her and Albert Camus. The first work by Camus was his
university dissertation on St. Augustine. Camus, in my opinion, was
also a Cathar, a pure one, ['Cathar' from Gr. katharos, pure]
and if he rejected God it was out of love for God because he was not
able to justify Him. The last novel written by Camus, The Fall,
is nothing else but a treatise on Grace — absent grace — though it is
also a satire: the talkative hero, Jean-Baptiste Clamence, who reverses
the words of Jesus and instead of "Judge not and ye shall not be
judged: gives the advice "Judge, and ye shall not be judged," could be,
I have reason to suspect, Jean-Paul Sartre.
Phạm
Thị Hoài
21 hrs ·
Bạn muốn gì ở Hội Nhà văn Việt Nam?
Bạn muốn gì ở Hội Nhà văn Việt Nam?
Muốn nó đứng ra trao giải thưởng Ngòi
bút Dũng cảm cho Nguyễn Quang Lập? Muốn nó mời Dương Thu Hương về giới
thiệu Đỉnh
cao chói lọi cho độc giả Việt Nam? Muốn nó tổ chức hội thảo về Đĩ
thúi của
Nguyễn Viện? Muốn nó lập quỹ khuyến khích tự do xuất bản mang tên Nhân
văn-Giai
phẩm? Muố...
Continue Reading
Note:
Đọc bài
viết
này của Sến thì GCC lại nhớ đến bài của Kadaré, viết về Hội Nhà Thổ ở
xứ của ông
ta. (1)
To compare the Albanian Writers' Union
to a whore seems extremely vulgar, like so many overused metaphors,
particularly the ones that have become common since the fall of
Communism:
So sánh Hội Nhà Văn Albanie với một em
bướm xem ra quá tầm phào, giống như những ẩn dụ được xào đi xào lại đến
trở
thành toang hoác, kể từ khi chủ nghĩa CS sụp đổ...
Đây chắc là tự thuật của đích thân tác
giả nhà văn Albanie, Kadaré, người đã từng được một trong những đất
nước tư bản
mời tham quan, và khi trở về quê hương, bị sếp kêu lên bắt làm tự kiểm,
vì chót
ghé thăm đám nhà văn lưu vong, đồi truỵ, bỏ chạy quê hương, và trong
khi ông ta
hết sức phân trần, làm gì có chuyện đó, thì sếp của ông bật cười, làm
gì có
chuyện đó, đúng như vậy, nhưng chúng nó báo cáo mật với tôi, là anh mò
đi thăm
khu nhà thổ WJC, ít lắm thì cũng trên một lần!
Kadare là tay đề nghị, dùng tên đại
tướng Võ cho một thứ áo mưa do nhà nước VC Albanie sản xuất, bởi là vì
làm gì
có cái gì dẻo dai, kiên trì, kẻ thù nào cũng đánh thắng, không bao giờ
bị
thủng... như là… Võ tướng quân, ngay cả khi đại tướng hết còn cầm quân,
mà được
Đảng cho cầm quần ‘chị em chúng ta’?
Giọng
văn Sến, không thể thay đổi,
nhưng những đề nghị “muốn gì”, thì hơi bị nhảm, theo GCC. Toàn những
bất khả
thi. Tiếu lâm, đúng hơn.
Tốt
nhất, theo GCC, là đề nghị một điều
bất khả mà cả trong nước lẫn ngoài nước đều mong muốn, như là điều mà
Kadaré đã
từng làm được:
Với
“Bữa ăn
thừa”, “Le diner de trop”, Kadaré coi như mình đã viết một trong những
tác phẩm
‘u tối nhất của thế kỷ’, đối diện với một
chế độ có cái ‘dư vị của địa ngục’.
Đây là điều Bọ Lập, nếu còn "nửa", có thể "nàm" được. Vì, nên nhớ, NHT
đã từng có tên, cùng với Kadaré, trong danh sách chót của Booker
Hay như GCC đề
nghị anh già NN, xổ toẹt, nói KHÔNG với tất cả những gì đã viết ra, và
với quái
vật Núp, thí dụ?
TLS số đề
ngày 1 Tháng Bẩy, mục Sổ Tay, bàn về giải Man Booker Quốc Tế, khác với
Booker
Prize, dành cho nhà văn Hồng Mao, cho biết một "tin động trời", đối với
đám viết lách người Mít: Có tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách những
tác giả
thượng hảo hạng, fisrt rate, được ban giám khảo lọc ra để lấy người
đoạt giải.
TLS trích lời
một ông giám khảo [Alberto Manguel], trên tờ Spectator
tháng vừa qua [Tháng Sáu], "trong danh
sách những tác giả thượng hạng... chúng tôi đã phải gạt bỏ Peter
Handke,
Antonio Lobo Antunes.... Nguyen Huy Thiep, Pascal Quignard, và Christa
Wolf, tất
cả những người này đều, hoặc chưa được dịch sang tiếng Anh, hoặc đã
dịch nhưng
nay tuyệt bản".
Về tác giả
Kadare, người đoạt giải, [Tin Văn đã loan tin] ban giám khảo dựa trên
những bản
dịch tiếng Anh, được dịch từ tiếng Pháp, dịch từ nguyên bản tiếng
Albania, và
điều này làm cho giải thưởng hơi mất giá, [hơi rẻ tiền], theo người
bình luận
trên tờ TLS.
Rẻ tiền, là
60 ngàn Anh Kim!
Nhưng, với
tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách, quả đúng như Kadare nhận xét,
“Danh sách
chót không thôi, tự nó đã làm nên một gia đình văn học lạ thường rồi.”
Và,
Nguyễn
Huy Thiệp kể như đã nhận được giải thưởng, bởi vì Kadare có thể coi như
một
Nguyễn Huy Thiệp của Albania.
Những cái muốn
của Sến, đều là những vô vọng, văn độc thì muốn cũng độc.
Ngược hẳn GCC, những đề
nghị đều có ý xây dựng, mong uớc. Hẳn là bạn đọc TV đều nhận ra?
Tuy nhiên, đọc
1 phát, thì bèn nhớ ra 1 câu thần sầu mà Christpoher Hitchnes chôm,
dùng là tiêu
đề, cho cuốn Hitch 22, một
thứ hồi ký của ông:
Đừng mong bất tử, mà
chỉ cần sống cạn mọi khả thể của đời này
Do not
aspire to immortal life but exhaust the limits of the possible
Pindar.
Đề xuất của
GCC với những đấng nhà văn VC, tội ngập đầu – những NN, BL… chẳng phải
là những
tướng hồi hưu, sau khi xây dựng xong Địa Ngục Mít, trao lại cho những
tên chăn
trâu, y tá dạo trông coi – là những đề nghị xây dựng, khác hẳn của Sến,
và cái gọi là immortal life, với lũ VC là địa ngục Mít bây giờ.
Chúng chẳng hằng
mong thắng trận giặc này, xây cái nhà Mít to đùng ư?
Hãy cẩn trọng,
điều bạn ước mong, “coi chừng”, nó xẩy ra đó!
Be
careful
what you struggle for - you will probably get it
Russian
Proverb
D.M.
Thomas: Solzhenitsyn, a century
in his life
Cái
địa ngục Mít bây giờ, chính là cái mà chúng hằng mong, khi nhỏ máu đầu
ngón
tay, viết đơn tình nguyện vô Nam chiến đấu.
Kadaré được
coi là nhà ly khai tinh tế, tế nhị, subtle dissident.
Thứ này, Mít, không
có.
Lại
càng không có 1 tên Bắc Kít ly khai tinh tế.
Nếu có thì hoặc chua như giấm, hoặc bửn như Đĩ
Thúi, thí dụ.
Đây cũng thuộc về mentalité của Bắc Kít, có thể.
Nên nhớ Miền Nam
chưa bao giờ dùng những từ thô tục để gọi những đấng chức sắc của Miền
Bắc, hoặc
gọi chó bằng... Thiệu.
Bài
'đại phỏng vấn' tay nhà
văn Albania
thật tuyệt. Có thể làm bài văn mẫu cho đám nhà văn Yankee mũi tẹt được!
Thí dụ những câu sau đây mà
chẳng bảnh sao:
*
Cái đồn lúc
đó không trơ trụi thùi lụi, chỉ hai cái lô cốt như trên. Chung quanh là
trại
lính, lính Tây, lính Ta, tức lính Ngụy, tức Việt Gian, tức Bảo Chính
Đoàn. Xa
chút nữa, là những thửa vườn, ruộng của vợ con lính. Cả 1 khu bề thế.
Chỉ đến khi trở về, hơn nửa thế kỷ sau
đó, nhìn hai cái lô cốt trơ trọi, Gấu mới ngộ ra cái thế yểm bùa của
nó. Cái Ác
Bắc Kít, bị phù thuỷ Cao Biền, bị danh tướng thiên triều Mã Viện, trấn
áp, bao
nhiêu đời, [cái này là hiện thực huyền ảo nhe, đừng chửi Gấu, Tây mới
cai trị
sau này, sao mi dám lần tới thời kỳ lập nước], phải đợi đến ngày 30
Tháng Tư
1975, mới thoát ra được, và gây họa cho giống Mít, đúng như nhà thơ ông
anh
tiên đoán: Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này!
Khủng khiếp
thật.
Thảo
nào Thảo Trường
gật gù, mi về chụp cái hình “cột đồng Mã Viện”, qua Việt Trì đốt nén
hương cho
ông cụ mi, xong, là đi, chẳng cần phải về nữa! (1)
|
|