Mối tình xưa
Đoàn
làm phim tài liệu về nhà báo liệt sỹ Nguyễn Thọ tạm trú
ở trụ sở ấp văn hóa. Họ đã ở lại Mỹ Hưng thêm năm ngày, nhưng vẫn chưa
mời được
dì Thấm tham gia. Trần Hưng, tác giả kiêm đạo diễn phim, vốn là người
kỹ tính,
cầu toàn, anh bảo, làm phim Nguyễn Thọ mà không quay được chân dung
người yêu
ông, mối tình năm cũ của ông thì thà ở nhà chăn heo cho vợ còn sướng
hơn. Nên
cả đoàn phải nán chờ trong căn nhà bỏ phế bấy lâu, đất nền bị heo ủi
lục cục
lòn hòn, bìm bìm leo xanh rờn một bên rèm cửa.
Mấy
ông già trong xóm lại thấy cảnh tình nheo nhóc, thở dài,
tụi bây ở lì vậy không biết có ăn thua gì hôn đây, thằng Mười, chồng
con Thấm
tính tình khó khăn, ngang ngược, hổng giống ai.
Nên
chỉ con người này thản nhiên khi thấy đài truyền hình Xê
Tê tới, thản nhiên biểu vợ từ chối. Ngoài ông Mười ra, ở đây, ai cũng
muốn được
vô phim để kể về một Nguyễn Thọ anh dũng, tài hoa, đứa con thương nhớ
của vùng
đất Mỹ Hưng này, cho nói chút xíu thôi cũng được. Với Nguyễn Thọ thì
làm phim
nhiều tập mới xứng, nhóc chuyện. Hai mươi sáu năm rồi, nhưng mỗi ông
già bà già
đều nhớ thằng Thọ về lần nào cũng chui vô bếp lục cơm nguội ăn với mắm
sống, có
bộ đồ nhuộm pin đèn mặc chết bỏ luôn. Đám bạn đồng lứa nhớ Nguyễn Thọ
hồi nhỏ
đen thui, mặt mũi lúc nào cũng đóng rong rêu vì mới lặn lội dưới đìa
lên, hiền
mà cộc dễ sợ. Mấy ông bạn cùng tổ công tác vừa đọc truyện Mối tình nho
nhỏ của
Nguyễn Thọ vừa khóc, “Hỏng có nhà văn nào được như nó, viết truyện ngắn
mà ai
cũng mê, thuộc lòng như bài ca cải lương, đám cưới, đám giỗ, đám ma đều
đem ra
làm văn nghệ được hết”. Có ông khóc tồ tồ, “Cuống rún thằng Thọ còn
chôn ở đất
này mà tụi ác ôn không biết đã thủ tiêu xương cốt nó ở đâu?”. Trần Hưng
rất hài
lòng với những đoạn phim vừa thu được, nó nổi bật lên phần đời của
người chiến
sỹ này, giản dị mà cao quý, bình thường mà phi thường. Và chỉ thiếu một
câu
chuyện tình nữa thôi, một chân dung nữa thôi, bộ phim sẽ sâu sắc, xúc
động lắm.
Chỉ cần dì Thấm thôi.
Nhưng
đã cầu cứu chính quyền, thằng Thảo từ bên ngoại dong
về năn nỉ má nó, lớp trưởng bối ở xóm cũng lại bảo: “Thằng Mười mầy cho
con
Thấm lng víi qu¸ khø sao?) vµ còng v× c¸ch «ng d¹y th»ng Th¶o (®¸ng lÏ
con cña
NguyÔn Thä ph¶i ®îc n©ng niu, chiÒu chuéng). MÆt mµy th× th©m s×, kh
nó đi một
lần nữa thôi. Chuyện làm phim phiếc nầy nọ coi vậy cũng là làm việc
nước” nhưng
ông Mười vẫn nín thinh, ngồi vấn thuốc, uống trà, nhìn xa xôi. Mấy ông
già dội
ra, chống gậy te te về, bụng chửi, cái thằng, coi mặt chữ điền bự vậy,
cái
miệng rộng vậy mà ích kỷ, hẹp hòi. Nó không cho con Thấm đi chắc tại
ghen chớ
gì. Thằng Thọ chết ngắc rồi mà còn ghen.
Bảy
năm trước, lúc ông Mười gom hết thảy bốn chín cái thư
của Nguyễn Thọ gửi dì Thấm đem đốt hết, cũng không ai cản được. Mấy ông
viết sử
của tỉnh kêu trời, đồng đội đồng chí của Nguyễn Thọ cũng kêu trời, phải
chi
còn, đem in vô tập những bức thư tình hay nhất mặc dù chưa ai được xem
Nguyễn
Thọ viết ra làm sao). Nhưng thư đã thành tro rồi, ông Mười nói ông
không cần
biết chuyện giữ gìn bút tích của Nguyễn Thọ để làm tư liệu lịch sử, lưu
lại cho
thế hệ mai sau gì hết, ông thấy chướng mắt nên đốt, có bậy thì đem ông
bỏ tù
đi.
Nhưng
có ai bị bỏ tù với lý do lãng xẹt như vậy đâu. Chỉ
thằng Thảo, con của dì Thấm và Nguyễn Thọ là buồn lòng, bỏ về ngoại ở.
Dì út
Thía không chồng ôm đứa cháu nhỏ vô lòng, biểu mai mốt lớn rồi cháu
hiểu. Có gì
mà phải đợi lớn, hồi đó tới giờ, thằng Thảo có chọi chết gà nhà nào, có
bẻ trộm
trái ở vườn ai, bà con đều xuề xòa bỏ qua, nó là con Nguyễn Thọ mà, tội
nghiệp.
Họ còn bảo ở ngoài tỉnh nhiều đứa cậy ông cha mình có công còn làm
chuyện bậy
dữ hơn nữa kìa. Chỉ có ông Mười là răn đe, dạy dỗ, ghìm nó như ghìm con
ngựa
bất kham. Thằng Thảo dần trở thành một đứa đàng hoàng, tử tế, nhưng gặp
bất cứ
chuyện gì, trong lòng nó cũng có vết tì, tại mình hỏng phải là con ruột
của
ổng. Lâu ngày, ý nghĩ ấy đầy như nước lên tròm trèm trên mặt đập. Và
khi ông
Mười ngồi dựa cái cà ràng đốt xấp thơ của ba Thọ, nước đã vỡ bờ, nó lầm
lì xếp
hai cái quần cụt với mấy cái áo bỏ xuống bến đón tàu. Dì Thấm không thể
giữ nó
lại. Ông Mười lặng lẽ ngồi đốt thuốc, ngó cái lưng tôm của thằng Thảo
dưới bến,
lòng trĩu như đeo đá. Ông mà không thương nó à, không thương nó sao?
Ông thương
nó bằng chang con ruột ông đó chớ. Bây giờ nó không hiểu, chừng nào nó
lớn, yêu
thương ai đó, nó sẽ biết mà. Thằng Thảo đi rồi, nhà thành ra nặng nề,
dì Thấm,
người hiểu ông Mười nhất cũng giận, không thèm nói chuyện, có gọi thì
cũng
trống không, “Coi nhà giùm cái”, “Còn thuốc gò hút hôn? Đi chợ nè”,
“Cơm chín
rồi nghen”, ông Mười buồn cười quá, hỏi “Cơm ai nấu?”, dì trả lời “...
nấu chớ
ai”.
Chuyện
nguôi nguôi đi, nhà vẫn buồn, nhưng ông Mười không
đau lòng như những bữa từ ngoài ruộng về, ông nhìn thấy vợ cầm xấp thư
ở góc
nhà, ngồi khóc lặng. Ông thương vợ, cứ như hoài vầy thì đời được mấy
ngày vui.
Ông đem thư đi giấu trong kẹt bồ lúa, dì vẫn tìm ra, vẫn những bữa đi
đâu xa
về, dượng thấy đôi mắt vợ mình sưng húp. Buộc lòng ông đem thư đi đốt.
Chỉ còn
cách đó mới tìm lại nụ cười nhẹ nhõm đậu trên khuôn mặt nhẹ nhõm, vô tư
lự như
những ngày dì Thấm mới mười tám, hai mươi.
Cả
đời, ông chỉ mong người trong nhà hiểu mình chứ trông gì
người thiên hạ. Với cái tánh lầm lì, lạnh lùng, ít nói, có nói cũng
chậm rãi,
hưỡn đãi, thật khó để bộc bạch mình trước người. Về Mỹ Hưng với dì Thấm
từ sau
giải phóng, ông chưa cãi cọ, mếch lòng ai, suốt ngày chăm chút cho mảnh
ruộng
miếng vườn, cho bốn đứa con vừa chung vừa riêng nhưng đất quê vợ mãi
mãi không
yêu ông như một đứa con ruột thịt. Vì ông lấy người yêu duy nhất của
Nguyễn Thọ
làm vợ (đáng lẽ phải để dành), rồi sau đó không cho vợ đi dự những cuộc
họp
mặt, hội thảo về Nguyễn Thọ (làm vậy không phải là quay ông biết vui
hay buồn,
già đầu rồi chưa nói câu nào nghe ngọt ngào với vợ. Ông Mười nghe, buồn
quá mà
cười.
Ngay
bữa đầu Hưng đến, vừa bảo làm phim về Nguyễn Thọ, ông Mười
đã chụp cái nón lá lên đầu, bảo phải đi cưa củi. Hưng nấn ná lại với dì
Thấm,
hỏi dì có ngại không khi kể một chút về Nguyễn Thọ, đoạn ổng với dì yêu
nhau ấy
mà. Dì cười, ngẩng lên, khóe miệng nhẹ tênh, lắc đầu. Dì không ngại,
với làng
xóm láng giềng và cả với chồng. Thương người tử tế như anh Thọ thì ngại
gì với
bà con, lấy ngay thằng ác ôn nào mới mắc cỡ chớ, còn với ông Mười, dì
kể rồi,
bộc bạch hết chuyện xưa rồi, từ hồi hai người gặp nhau ở nhà máy chà Xã
Chọt.
Dì thuật tường tận những chỗ hai người gặp nhau, cả những lời thề hẹn.
Dì rót
trà mời Hưng, rồi bần thần nhìn ra sân, chỗ ông Mười hì hụi kéo cưa một
mình,
lưng đầm mồ hôi, dì bảo, thiệt tình tui hỏng có gì giấu ổng đâu, nhưng
chuyện
hồi đó với anh Thọ tôi nhớ hỏng hết. Già rồi...
Khách
ra về thì trời đổ mưa to, mưa mà nắng vẫn chang chang
trên đầu, trời hầm hập nóng, dì Thấm đi te ra chỗ đống củi, tần ngần
nhìn chồng
một chút rồi đằng hắng. Ông Mười không ngẩng lên. Dì lại e hèm, ngoảnh
nhìn
quanh quất kiếm chuyện để nói:
-
Củi bằng cườm tay để tui bửa cũng được, ông cưa chi mắc
công hôn?
Ông
không ngẩng lên:
-
Mắc công gì mớ bình bát nầy khô quá, tôi có bửa thử, nghe
dội búa, sức tôi còn vậy, ốm yếu như bà sao chịu nổi.
Dì
không nói nữa, ngồi dưới gốc ô môi, bới lại cái bới tóc
nhỏ teo ngắt như trái cau. Ông Mười chợt ngẩng lên, đưa khuỷu tay lau
mồ hôi
chảy tràn trên mặt, hỏi:
-
Tính đi không?
-
Không. Đi gì mà đi, lu bu muốn chết. Lên phim hỏng biết
nói cái gì, hư truyền hình của người ta.
Giọng
dì tỉnh rụi, như để bảo chồng đừng lo, chuyện phim gì
đó dì không để bụng, không thèm quan tâm đâu.
Tối
sau, Trần Hưng rủ thêm vài người tới nhà dì Thấm, anh
không quên xách theo chai rượu với mớ khô cá kèo mua đằng đầu xóm. Anh
nghĩ con
người này không dễ thuyết phục đâu, đem rượu lại coi có mở lòng ổng ra
được
không. Nhưng anh lầm, càng uống ông Mười càng im lặng, chỉ có đôi mắt
là dữ tợn
lên, đỏ ngầu ngầu dưới hai đám lông mày rậm rì chớm bạc phát ra những
tia nhìn
như xoáy thấu người khác. Nhậu đã đời cả đám cà xình cà xang về chỗ trụ
sở ấp
văn hóa mà không nói được gì hết, không thể nói. Trần Hưng nằm ngẫm
nghĩ, thấy
vừa rồi mình giống như con diều hâu ngồi nhậu với một con gà trống đang
xù lông
thủ thế bảo vệ vợ con nó.
Lần
thứ ba Trần Hưng lại nhà dì Thấm, anh đi một mình. Và
thêm một chai rượu nữa. Anh thôi làm diều hâu mà là một con gà trống
hiểu biết
khác, anh nói anh tới để từ giã, ngày mai đoàn phim về để làm hậu kỳ
cho kịp ra
mắt Ngày báo chí Việt Nam. Anh cười xòa, bị trắc trở như vầy cũng buồn,
nhưng
không sao đâu, có lần đi làm phim tụi tôi còn bị người ta vác đá rượt.
Làm công
việc này có lúc cũng đi moi móc nỗi đau của người khác ra, dày đi dày
lại...
Tôi cũng thương vợ như anh Mười đây, nhìn thấy vợ nó đau khổ, buồn bực
chuyện
gì, tôi cũng xót ruột lắm. Đôi mắt ông Mười dịu lại, ông xoay mãi ly
rượu trong
tay, rồi hớp từng hớp một, từ tốn như uống trà. Một hồi Hưng khật khừng
đứng
dậy từ giã, ông Mười mới lên tiếng, “Mai vợ chồng tôi lại”. Hưng nghe
mừng như
đánh lôtô trong bụng, thì ra trên đời nầy, ai cũng khao khát gặp được
tri âm,
gặp được người hiểu lòng mình.
Sáng
sau, ông Mười lấy xuồng đưa dì Thấm theo kinh Cỏ Chát
ra Gò Cây Quao. Nghe chồng biểu thì đi vậy chớ lòng dì Thấm cũng bần
thần. Cuối
vàm con kinh này là nhà ngoại dì Thấm, nhưng lần nào qua cúng giỗ, dì
đều chèo
vòng qua kinh Nhà Lầu để về. Bởi vì mỗi lần đi ngang, dì đều không nén
được nỗi
đau. Dưới kinh ngó lên, có thể thấy chòm cây xanh rì giữa đồng khơi. ở
đó, hồi
xưa là chỗ hẹn hò, dì quen thuộc từng bụi cây ngọn cỏ, từng bờ đất.
Nguyễn Thọ
cũng đã hy sinh ở đó, chỗ mé đìa lục bình, bên cây quao cụt ngọn.
Vì
vậy mà Trần Hưng mới dắt mọi người ra Gò Cây Quao để quay
cảnh kết, anh còn chu đáo rước cả thằng Thảo về. Đất đồng mùa này đã
cày, bờ
mẫu chơ vơ những bụi cỏ ống, bụi rạ bị đốt cháy nham nhở. Một đoàn
người lặc lè
đi dưới cái nắng tháng ba như chó le lưỡi. Ông Mười ngồi lại dưới
xuồng, đốt
thuốc, đăm đăm ngó khói lên trời.
Tới
chỗ chòm quao lớn giữa đồng, họ dừng lại. Trong khi đoàn
làm phim đang chỉnh trang máy, chọn góc quay, mọi người xúm lại cái cây
có
nhiều vết đạn nhất, kéo thằng Thảo lại, nhắc chuyện cũ mèm, “Hồi đó ba
mầy núp
ở đây nè, một mình nó ở lại chặn cho tụi thằng Ninh dẫn đám thanh niên
rút. Để
coi hồi đó là là tháng năm hen, anh Tám, cả xóm lúc đó cà núp cà ló vừa
dòm
chừng máy bay vừa cấy lúa”. Dì Thấm cứ lựng bựng không biết đứng đâu,
ngồi đâu.
Thằng Thảo kéo tay dì, tí ta tí tởn: “Ba Thọ chết ở đây nè má, lại coi
đi”. Dì
rầy, có gì mà coi, chuyện ba nó hy sinh mà. Trần Hưng lôi ra trong túi
áo xấp
hình Nguyễn Thọ đưa dì Thấm, đây là tư liệu quý giá nằm trong mớ hồ sơ
bên Mỹ
mới gởi ngược về. Trên những tấm hình trắng đen cũ kỹ hiện lên một mình
người
nằm cạnh cây súng đã gãy (nghe nói chính anh đập gãy sau khi bắn đến
viên đạn
cuối cùng). Một vuông ngực vỡ toác. Đôi mắt và đôi tay bị bọn ác ôn băm
nát.
Cái lồng ngực từng chứa một trái tim đỏ thắm, đôi mắt đã từng nhìn
người yêu
chan chứa, đôi tay đã từng iu ấp một đôi tay... Dì Thấm run rẩy nhìn
những bức
hình, hức lên một tiếng rồi rủ xuống như tàu chuối héo.
Trần
Hưng chỉ chờ có vậy, anh là tay trùm trong việc dẫn dắt
cảm xúc, anh hối người quay phim hướng vào khuôn mặt của dì Thấm đang
đầm đìa
nước. Trời ơi, cảnh này xúc động lắm, chân thực lắm, mấy nhỏ diễn viên
chuyên
nghiệp nhìn đây mà học. Trong một tích tắc, thằng Thảo lặng đi, nó nhìn
không
ra, không hiểu được người mẹ hồn hậu mủ mỉ hay cười của nó mới đây bỗng
biến
mất đâu rồi, chỉ còn lại một người đang quay quắt đau thương, vắt kiệt
mình như
cọng rạ cuối nắng.
Mãi
dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở
ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước
ra dỗ cho
dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo: “Mấy chú làm ơn dừng
lại một
chút” rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con,
lau khô
rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên
khuôn mặt
chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại,
dường
như ông cũng đau lắm, xót lắm.
Cậu
quay phim hỏi, quay nữa hôn, Hưng gật, xong lại lắc đầu,
bảo thôi, cảm thấy mình hơi có một chút nhẫn tâm.
Cuối
tháng sáu, phim được chiếu trên truyền hình, phim thiệt
là hay, thiệt xúc động, chân thực, đúng với phong cách Trần Hưng. Tất
nhiên,
phim không có cảnh ông Mười lau nước mắt cho vợ, nhưng những người có
mặt chứng
kiến buổi quay phim hôm ấy, cả thằng Thảo, là nhớ, cứ mỗi lần màn hình
lướt qua
vẻ mặt đau đớn, đẫm nước mắt của dì Thấm, họ lại nhớ tới một chiếc
khăn, một
bàn tay thô, một tấm lưng rộng.../.
Nguyễn
Ngọc Tư
(Tạp
chí Nhà văn)