Một mối tình
Nguyễn
Ngọc Tư
Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê.
Má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám
đầy vun
bánh. Tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu,
tội
nghiệp tụi nó, nhà không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì ăn đâu...".
Tôi giành: "Chừng nào bánh chín, để con đem qua bển cho. Má, má mè, anh
Hai có tính bước thêm bước nữa chưa, hả má." Má tôi cười: "Chưa, má
biểu nó hoài, mà, cái con này, lần nào về cũng hỏi có chuyện đó....".
Mình
à? Mình sao? Lần nào cũng hỏi chuyện đó à? Ụa, hỏi hồi nào sao mình
không hay
vậy ta?
Tôi
ngủ lưng một
giấc, bánh chín, một tay tôi bưng rổ bánh,
tay kia xách cây dầm xuống bến. Có xa xôi gì đâu, từ nhà tôi bơi dọc
theo rạch
Ô Môi, ngược lên hướng mặt trời mọc chừng trăm thước là tới nhà Trọng
rồi, nhà
trồng nhiều thiệt nhiều cây ô môi, bông đỏ, lá xanh, trái chín không ai
ăn, tụi
con nít móc xuống làm gươm đánh nhau chan chát. Hai bên đầu nhà trồng
toàn vú
sữa, cao lớn lắm, già lắm, cỗi cằn lắm, lâu rày không có trái trăng gì
hết.
Dưới mé kinh còn nguyên một đám nga cao ngồng. Mà, hết cái xóm kinh này
có ai
có nhà vừa cũ, vừa xưa như nhà Trọng đâu.
Ở
nhà Trọng, có nhiều
thứ mấy chục năm rồi không thay đổi.
Cảnh cũ giữ nguyên đã đành, tính tình lớp người sau cũng y chang người
trước,
như từ một khuôn đúc ra. Như Trọng vậy, mười năm kể từ ngày chị Ái tôi
bỏ Trọng
đi, Trọng vẫn giữ nguyên cái khăn choàng tắm treo đầu sào, chiếc nón
quai nhung
đã ngả màu thâm sì, cũ mèm, giữ cây lược sừng đã gãy mất mấy răng với
cái kiếng
soi để ở đầu giường nhu thể chị Hai tôi vẫn còn ở đâu đây, như thể chút
nữa khi
tắm xong, chị sẽ bước vào, chải đầu, rồi vừa nghiêng đầu, vừa quạt hong
khô tóc
bên cái cửa buồng trông ra hàng lơn nước, chỉ cần một cơn gió nhẹ, lá
vú sữa
khô nằm trên mái nhà sẽ tuôn xuống như mưa.
Sao
tôi lúc nào cũng
thèm ngồi ở đó, ở cái vị trí yên bình
đó, nhất là bây giờ, khi tôi vừa lang thang hết một mùa nắng. Nhất là
khi nghe
Trọng biểu thằng Bầu ở nhà bắc nồi cơm để anh đi nhổ vài cọng bông súng
nấu với
mấy con cá vừa thả câu được hồi hôm. Tôi hỏi, đám trái giác ngoài bờ
liếp còn
không, thằng Bầu nói còn. "Vậy anh Hai hái giùm em một mớ nấu canh chua
ăn
thèm quá chừng", tôi dặn với theo. Rồi Trọng quay lưng đi, không để cho
tôi kịp nhìn anh kỹ, nhưng thật, thà vậy, Trọng đứng lớ ngớ ở đây một
hồi, thể
nào không nén lòng, tôi cũng ôm chầm anh khóc. Trời ơi, cảnh này, người
này,
sao y chang như năm ngoái, năm kia, chỉ khác là thằng Bầu đã lớn, và mớ
tóc bạc
trên đầu Trọng là thay đổi, nó trắng thêm, nhiều thêm. Tôi tự hỏi mình
lòng
đang nghĩ đến cái gì mà đau lòng quá vậy cà.
Chị
Ái, tôi với Trọng
cùng một đám con trai con gái nữa lớn
lên cùng nhau trên cái rạch Ô Môi nầy. Cỡ mười bảy, mười tám tuổi, thấy
Trọng
thương quá, tôi nói chơi chơi với chị Ái: "Em xí thằng Trọng". Chị
tôi cười ngất, xong trề môi như đưa đò, "người ta mà em làm như bình
bát
chín cây vậy, bày đặt xí phần." Ba Trọng mất sớm, má đi lấy chồng ít
về,
từ nhỏ Trọng sống với ông nội, mười tuổi, ông nội cũng mất, đang ở tuổi
con nít
chưa hết con nít, người lớn chưa tới người lớn, anh đã gánh vác trọng
trách lo
hương hỏa cho gia đình. Một mình, với hai con chó, một con mèo, học
xong, Trọng
còn phải quần quật với chín công ruộng, một mảnh vườn đất cằn cỗi, già
nua, lâu
rày chưa thu được huê lợi gì, nhưng quí là trên đó chôn cả thảy chín
cái mả ông
bà, và ngôi nhà gạch đã có ba đời, cất trên nền cao kiểu chữ công, ba
gian nhà
rộng mênh mông trông ra cái sân gạch trơn rêu, mút sân là cái hàng rào
giăng
ngang, đứng dưới mé sông nhìn lên, dãy rào che tầm nhìn, chỉ thấy thấp
thoáng mái
ngói lợp trải màu vừa xanh vừa mốc.
Nhà
Trọng có một cái
lạ nữa là bàn thờ lúc nào cũng chong
đèn, ngày tháng này qua ngày tháng khác, năm này qua năm khác, ngọn đèn
truyền
thống từ đời cố Trọng, nội, rồi tới Trọng, không bao giờ được phép tắt.
Chiều
nào chị em tôi đi ngang qua cũng thấy Trọng lọ mọ ngồi lau cái bóng đèn
hột vịt
ám khói, châm dầu bằng cái vẻ mặt thành kính, nâng niu. Lúc đó, tôi ước
thầm
phải chi Trọng ngỏ lời thương, tôi sẽ làm hết thảy công việc đó thay
Trọng suốt
đời, đến khi trở thành bà già cóc kiết, tôi giữ lửa thì hay phải biết.
Nhưng
Trọng thì lại thích chị Ái hơn tôi, Trọng thương thầm chị cũng nhiều
như tôi
thương thầm anh vậy. Vậy mà anh không biết còn cắc cớ biểu tôi làm mai.
Nên có
bữa, tôi hỏi má cho hai chị em đi coi hát, đến cái đập vô xóm Chẹt,
Trọng đã
bồn chồn chờ sẵn, tôi trao chị cho anh, giả đò đau chân để tụt lại đằng
sau một
khoảng xa xa. Tới sân ủy ban xã, Trọng với chị tôi mua vé vào coi hát,
tôi ngồi
ngoài đầu cầu, đập muỗi. Trọng không quên mua cho tôi một ly đá bào như
để cảm
ơn tôi lắm lắm. Ngồi buồn, nghe văng vẳng trong kia, tuồng thì diễu
nhau ong
óng như gà kêu đẻ, nhưng nước mắt tôi chảy ròng ròng lúc nào không
biết. Vài
người trong đoàn hát thấy, họ hỏi, sao khóc mò vậy, tôi cười thưa, tại
tuồng cải
lương hay quá. Họ cười, sao nhạy nước mắt như vậy, đi hát đi, đem nước
mắt ra
để lấy nước mắt người ta.
Tôi thưa với má cho lên thị xã xin vô Đoàn Cải Lương Bông
Tràm, lang thang nguyên một mùa nắng, mùa mưa về thăm má. Cũng có lúc
gặp
Trọng, kêu anh Hai ơi, anh Hai à, tuồng như anh em một nhà thương nhau
lắm, (ai
mà có biết thương thiệt). Cũng có lúc viện cớ qua thăm nom thằng Bầu,
ôm nó
lên, nựng nịu, đả đớt, coi nó giống Trọng chỗ nào, mà giống chỗ nào tôi
cũng
ưa. Cũng có lúc ngồi trân trân ngó chị Ái tôi mặc áo đỏ, chân xỏ guốc
cao đi
ngúc ngắc trong nhà, thấy không hợp mà cũng không muốn nói ra. Chị thì
lại nhìn
tôi, săm soi guốc giày, quần áo tôi rồi tấm tắc, "Em sướng thiệt...".
Tôi cười. "Chị cũng sướng thấy mồ, anh Trọng hiền khô, lại thương
vợ...". Chị cười nhẹ, "Thương thôi thì được cái gì. Chị không hợp với
cảnh nhà này, thầy Thành nói vậy...." Tôi hỏi, thầy Thành nào, chị
cười,
thầy mới về dạy trường xã mình nè, thầy hay lại nhà chơi, chưa vợ nên
hay biểu
chị làm mai, tưởng chuyện chi khó, con gái xứ này giỏi giang thiếu gì.
Có lần,
thầy thấy chị ngồi lau ống khói đèn thờ, thầy bảo, xứ này không hợp với
chị,
thầy nói câu nào nghĩ lại cũng trúng. Em gặp thầy một lần coi, thầy
Thành nói
chuyện hay lắm, thì người ta từ thành phố xuống mà. Nghe kể chuyện trên
đó rồi,
chị thấy sống ở đây chán thiệt, chán thí mồ đi. Gì mà ngày mà cũng
giống y ngày
nấy, hổng thấy thay đổi gì hết trơn."
Vậy
rồi tôi lại đi,
một bữa má tôi lên thăm, mới vừa bước chân tới cửa đã vừa nói vừa khóc:
"Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân như
vậy,
má thà sanh ra cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời
này má
không coi nó là con nữa." Rồi má hỉ mũi cái rột: "Con coi kỹ, có phải
cái nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được?" Tôi không trả lời,
Trọng
mà rước tôi về bên ấy, chừng nào tôi bỏ đi.
Trời Ô Môi rộng vô cùng, đất thênh thang vô cùng bởi những
khoảng trống mà chị Hai tôi bỏ lại. Má tôi xấu hổ vì con gái một dạ hai
lòng,
nhà có gì ăn cũng chắt chiu cho cha con Trọng, như bù đắp nỗi đau, nỗi
thiệt
thòi. Tôi cười thầm má tôi hoài, buồng chuối xiêm, trái mướp, nắm rau
với mấy
cái bánh con con làm sao bù đắp nổi một con người, sao má không đem tôi
qua bển
để đền, tôi hy sinh liền cho má coi. Nhưng từ lúc chị Ái tôi bỏ đi, cứ
mỗi lần
qua nhà, Trọng lánh đi chỗ khác. Tôi buồn, trách. Thằng Bầu, mới sáu
tuổi,
nhưng trở thành xướng ngôn viên cho ba nó, biểu: "Dì Út đừng có giận,
ba
con nói Dì Út giống má con quá, nhìn Dì, ba con chịu không nổi."
Mười
năm rồi, không
biết đã thay đổi gì chưa. Tôi hỏi thằng
Bầu lúc rày ba nó làm gì mà đen thui vậy. Thằng Bầu nói, hết mùa, ba nó
ra bến
đò ngoài thị trấn, chạy đò dọc. Nhiều công chuyện lắm, ba con nói, còn
coi sóc
cái rẫy khóm ngoài liếp nữa.
Trọng
không nghèo,
nhưng cũng chưa đủ giàu để sửa lại ngôi
nhà đã bệu rệu. Mối mọt, bù xè thi nhau tấn công vào những cây cột gỗ,
bộ ngựa
chân quí, mấy cái tủ thờ, trường kỷ. Tôi nằm nghe rõ ràng bù xè nhai
cây trèo
trẹo. Thằng Bầu nói, con mèo mướp càng già càng tệ, mỗi lần bắt được
một con
chuột là mỗi lần làm ngói rớt xuống, bể tan nát. Thật ra, với tài bươn
trải,
tháo vát, tần tiện, lại thêm má tôi giúp đỡ, Trọng có thể cất được một
ngôi nhà
khác, gọn gàng, vừa đủ để ở.
Tôi nói gần xa, chê chỗ này cây mục, chỗ kia kèo sắt gãy.
Trọng nói, anh cũng lo không biết căn nhà có qua nổi mùa mưa năm nay
hay không.
Không biết cha con anh có còn giữ gìn được những bức liễn trạm trổ cầu
kỳ,
những bức tranh vẽ cảnh đồng quê, trời đất, trâu bò, trẻ con hiền hòa,
nhhững
tờ giấy dán tường vẽ truyện Trầu Cau, truyện Tấm Cám, rồi cái giường,
cái ngạch
cửa... Bữa nào mưa lớn, hai cha con cũng chạy xất bất xang bang. Tôi
hỏi chạy
làm gì, thằng Bầu cười: "Chạy đi lấy đồ hứng nước dột đó, Dì Út." Tôi
cười:
-Anh
Hai à, để vậy
hoài đâu có được, thôi cất nhà mới cho
rồi, ông bà mình rồi cũng hiểu cho mình chớ chấp nhứt gì.
Trọng
chỉ cười nhẹ,
ngó ra khoảng sân nắng. Thằng Bầu cười: "Dì Út giống hệt Ngoại biểu, y
chang. Ba con nói với con hoài, ba con hỏng muốn thay đổi gì hết, để má
con còn
nhớ được đường, nhớ được nhà mà về."
Trời ơi, tới bây giờ Trọng còn mong một ngày như thế, cái
ngày mà chị tôi sẽ trở về. Chị sẽ về ư? Sẽ về à? Không biết! Chỉ biết
anh giữ
nguyên cảnh cũ nhà xưa là để chờ người đang sống. Tự nhiên bụng tôi
thấy rầu.
Bầu lại tròn con mắt: "Để con nấu cơm đãi Dì một bữa, chút xíu nữa, cơm
chín rồi, Dì ở lại ăn cơm với ba con, trừ Ngoại ra, lâu lắm nhà con mới
mời
được một người."
Càng
lớn, thằng Bầu
càng giống Trọng, tử tế, đàng hoàng, lại
pha thêm một chút gàn gàn. Bữa giỗ, Trọng uống hơi nhiều, nó ngồi kế
bên nhắc:
"Ba, ông cố nói, uống rượu có chừng thôi, uống ít còn nhiều, uống nhiều
là
mất hết đó". Cao hứng cỡ nào Trọng cũng ngưng lại ngay đó, ai cũng lạ
khi
thấy thằng con nói vậy mà cha cũng nghe.
Bây
giờ, Bầu vừa bước
qua tuổi mười lăm, chưa chắc nó nhớ
chuyện cũ. Hai dì cháu lụi hụi trong bếp, tôi hỏi: "Bầu, còn nhớ má hôn
con?", nó ngần ngừ một lúc, nhìn quanh, rồi nó thầm thì: "Con cũng
hổng biết, con sợ ba con buồn... Hồi má con đi, con mới chút tẳn chớ
gì....". Nó nói, có má cũng được, mà không có cũng được. Bây giờ, quần
áo
rách, nó tự may được rồi, nhà cửa, nó dọn dẹp gọn bân, nhưng cũng có
lúc nó cần
có má, để hỏi vài chuyện... Tôi hỏi chuyện gì, nó cười, bẻn lẻn, dường
như
những câu chuyện đó, người ta chỉ dành để nói với má người ta. Tôi
thương nó
chút nữa đã ghì đầu nó ôm vào ngực. Chợt nó hỏi:
-Sao
Dì Út không lấy
chồng, Dì ở vậy hoài Ngoại rầu lắm
đó."
-Dì
còn phải đi hát.
-Dì
hát vui hay Dì
lấy chồng vui?
Tôi
cười, lấy chồng
vui hơn, nhưng phải lấy ngay trân người
mình thương kìa. Còn đi hát thì không vui không buồn, mơ hồ lắm, thấy
cười ha
ha chưa chắc đã vui, thấy rặn ra một đống nước mắt vậy mà hổng phải
buồn. Có
lúc đang ở nhà lại muốn đi, có lúc đang hát ở trên sân khấu vậy tự
nhiên thèm
về nhà. Bầu hỏi tôi thường đóng vai gì, tôi kể, nhiều lắm, hiền có, ác
có, mà
toàn vai phụ không thôi... Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong
lòng, tôi
bảo, nhưng có một vai Dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một
người
bình thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi
sáng, chở
mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ chồng
mần cỏ
rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô
nhà.... Và
để được nghe con trai mình nói với mình những câu chuyện chỉ để dành
nói cho má
nó nghe thôi. Ừ, Dì chỉ ước có vai bình thường vậy....
Trọng
đang nằm võng,
tôi nghe nhịp đưa vùn vụt rồi cò kẹt dùng dằng chậm lại, tôi biết anh
có nghe
lời tôi nói. Căn nhà tự nhiên lặng lẽ đến kỳ lạ, nghe tiếng thằng Bầu
thở ngỡ
ngàng, nghe cả tiếng ơ cá kho sôi tăm tăm trên bếp, tôi ngửi đâu đây
mùi bông
súng Đà Lạt thơm dịu, ngọt thanh, pha cái mùi tanh tanh của bùn dưới
đáy ao.
Không lẽ im re hoài, tôi nói với Trọng, rằng anh có nhớ chị Hai thì
cũng vậy
thôi, người vẫn chưa về, thử thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu
cơm, vá
áo, giúp anh lau ống khói, châm dầu cái đèn, giữ cho ngọn lửa suốt đêm
ngày le
lói, như giữ vạn truyền thống nhà mình đã trăm năm nay. Sau này, chị
Hai có về,
tôi sẽ trao anh lại, như ngày xưa vậy, tôi làm cũng được lắm mà, gọn
bân chớ
gì.
Mà
trời ơi, Trọng ác
với tôi chi vậy, sao bắt tôi phải kìm
lòng không được để nói ra, nhìn tôi mà không hiểu à?