Mưa Mùa Xa
Mai Ninh
Lời giới thiệu:
Là một nhà văn nổi tiếng ở hải ngoại, nhưng với một độc giả,
thí dụ như tôi, và có lẽ, với chính tác giả, đến bây giờ, cả hai mới
nhận ra
giọng văn đích thực, của mình.
Hy vọng sẽ có dịp nói thêm, về một thứ tùy bút, giống như
mưa mùa xa, theo nghĩa chưa từng có, chợt về với khí hậu văn chương
Việt Nam.
Nhưng cũng không hẳn như vậy, bởi vì đọc Mưa Mùa Xa, bỗng
nhiên tôi liên tưởng tới... Mưa Mùa Khác:
Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê,
má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám
đầy vun
bánh, tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười...(1)
Như vậy, đâu phải bốn, mà chỉ có hai mùa, mưa và nắng, nhất
là mưa, ở trong Mưa Mùa Xa:
"Mưa Sài Gòn độ rất nhỏ.."
Và "nhất là" những câu như thế này:
"Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết những chấn động
đầu tiên trong đời qua màn mưa phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa
những tờ
truyền đơn ướt nát, những manh biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang
đèn vung
vãi trên vỉa hè sau cuộc biểu tình tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa
phóng thanh
rền rĩ niệm kinh suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước đập rộn rã vào
cửa liếp
và những chậu kiểng mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh
từng chùm
đã đốn đi, thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh tuần tiễu chạy rút
giữa lòng
đường."...
Bạn nhận ra ngay, Sài Gòn của những ngày xuống đường, ở
trong Mưa Mùa Xa,
Bạn nhận ra ngay, Miền Nam ở trong Xa Mùa Mưa,
Tôi nghĩ, những nhà văn miền bắc chưa từng nghĩ đến những
câu văn dài, như được thơ, mưa, và hơi thở của chữ, và nhất là nội lực
chuyển tải, một khi câu văn chấm dứt, là
bạn cảm thấy gần như kiệt lực...
Thí dụ như những câu như thế này, đã từng được viết, cũng từ
những năm xuống đường đó:
Niên học cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng
những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi
thức giấc
sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi
sáng
nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết.....
Những Ngày Ở Sài Gòn (1965)
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về
quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề
cái chết
theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang
đầu....
Cõi Khác (1969)
Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố
thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang
trên
những nẻo đường cũ xưa, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với
thành phố,
bởi cái phần đời đó mới đáng kể.
Lần Cuối Sài Gòn (1994)
Hay như câu này:
Cây cầu kêu dưới bánh xe với tiếng nước xoáy lạnh dưới chân
trong buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã... trên
chòi canh, hai con mắt người lính gác tôi đen
nhìn qua núi.
Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa (1957)
Cũng Thanh Tâm Tuyền làm người đọc như được cùng chia sẻ cái
cảm giác kiệt sức, kiệt lực, hết hơi, sau khi viết xong một câu văn,
qua câu
nói sảng khoái sau đây, của một nhân vật của ông:
Em ơi, Em biết tay anh chưa? (chửi tục)![Hình như trong Ung Thư]
Đúng là một câu văn thần sầu, hết nghĩa của "sáng
tạo": Le Dur Désir De Durer!
Tôi nghĩ những câu văn "già" trên, đã tìm ra những
câu văn "trẻ", có cùng một nhịp thở chung, cùng một hơi mưa...của
chúng...
Jennifer Tran
--------------------------------------------------------------------------------
Mùa ấy tôi về phố phường lao đao giữa
những cơn mưa đập nứt
mái nhà và trận nắng rươm túa nước nôi dưới manh áo. Nhiều năm qua,
nhiều lần
đi lại, từng mùa trôi nhưng hình ảnh một mùa ấy hình như là điều gì
thuần nhất,
keo kết thành biểu tượng bất biến trong tôi khi nói đến một chuyến về.
Hóa ra
bỗng dưng mùa ở đây bao gồm vừa thời gian, không gian, hình ảnh, âm
thanh và kỷ
niệm tình cảm nhận được cho đi, từ bao thứ ấy.
Không kể ra cứ ngỡ mình quên, chẳng
nhắc lại cứ tưởng trí
nhớ đã vỡ bung như bong bóng nước rơi xuống sân sau ngôi nhà đỏ ngói
tuổi lên
năm lên sáu mỗi lần mưa giạt từ tàn cây gòn ngất ngưởng. Mưa Sàigòn độ
nhỏ rất
rõ mùa, từ tháng tư dương lịch trở đi bầu trời đang chói nắng chợt đùn
lên mây
xám. Sấm đùng đùng vài tiếng, gió chẳng biết từ đâu nổi lướt qua đọt
cây rồi là
xuống hất tung mấy tấm áo quần phơi ngang sợi dây kẽm. Chỉ kịp chạy ra
giựt vội
vào nhà, thế là độp độp trên mái ngói những hạt nước đầu oi bức. Mưa đe
dọa mưa
cầm chừng mưa nặng nề như thế một đôi tuần cho tới cuối tháng, bấy giờ
mới được
ào ào tuôn xuống hả hê. Nhớ về thời thơ nhỏ, tôi luôn thấy khuôn sân
gạch tàu
đỏ sậm nảy tung tăng những bong bóng nước, chúng nhảy nhót trong mắt
đứa bé
ngồi chồm hổm trên bệ gạch, tay sẵn sàng chiếc thuyền giấy và cây đũa
tre làm
chèo. Rồi mưa mạnh hơn, làn nước xối xả tuôn đổ chan hoà. Con thuyền ra
khơi,
cây đũa đẩy đưa khều chống, nhưng trong tích tắc dòng nước đẩy tuột ra
xa, con
thuyền vụt vào lòng rãnh cuối sân theo cùng những chiếc lá ngâu chưa
tới kỳ đã
rụng. Mưa giữ chân tuổi thơ bằng trò chơi như thế cho đến ngày, theo đà
xây cất
của khu phố sầm uất, căn nhà trệt thấp sau vòm cổng bị đập đi và thay
thế bằng
lừng lững mấy tầng lầu cao với ban công, sân thượng. Không rõ tôi có
vui sướng
hơn với ngôi nhà to lớn hẳn ra, nhưng vuông sân gạch với lu sành mẹ
hứng nước
mưa pha trà cùng các hòn gạch đen đủi dùng luộc bánh chưng vào mỗi
chiều hai
mươi chín Tết thui thủi một góc, cả mái hiên xoè những viên ngói cũ cho
con sẻ
non trốn mưa, rúc rúc rỉa lông rỉa cánh xong ngơ ngác nhìn trời là hình
ảnh
chắt chiu của thời tôi thơ ấu.
Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết
những chấn động đầu tiên
trong đời qua màn mưa phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa những tờ
truyền đơn
ướt nát, những manh biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang đèn vung
vãi trên
vỉa hè sau cuộc biểu tình tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh
rền rĩ
niệm kinh suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước đập rộn rã vào cửa liếp
và
những chậu kiểng mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng
chùm đã
đốn đi, thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh tuần tiễu chạy rút giữa
lòng
đường. Trò tôi chơi thuở ấy là những ván cờ tướng với một anh chàng
sinh viên
trong phong trào Phật Giáo chống chính quyền. Mẹ cho anh trốn trong nhà
một thời
gian. Ngoài những khi lén đi đâu rồi về, anh đọc, anh dịch và viết
những tờ
truyền đơn mà tôi chỉ đọc qua lời lẽ đã vô cùng ngưỡng mộ. Giữa các lúc
đó anh
dạy tôi đánh cờ. Bàn cờ nhiều lần bất thần bị lùa hất vào gầm giường
cùng lúc
với thân thể gầy gò của anh, khi chợt vọng lên từ dưới lầu hay trên sân
thượng
một tiếng động khác thường. Nhưng một buổi chiều giữa cơn mưa rạt xém
con
đường, tôi đi học về đến cửa thì anh cũng ở đó bước ra, người khoác
chiếc áo
mưa rộng, mũ chụp giấu gần hết khuôn mặt. Thấy tôi, anh sững lại, giơ
vội một
bàn tay nhưng rồi hạ xuống nói rất nhanhấ: " Bàn cờ vẫn dưới gầm
giường,
em giữ lấy " . Sau này tôi mới biết bà cô tôi dọa mẹ, " Cho nó trốn
mà lính xét nhà bắt được, hốt cả con bé đi thì cứ gọi là hết đời " .
Tối
đó tôi ghi một dấu hỏi thật to chồng lên những nét vẽ xước sổ dọc và
ngắt
quãng, tượng trưng một mảnh mưa vào cuốn sổ bìa xanh gọi là nhật ký.
Sau những năm tháng đó, chiến tranh
hiện rõ hơn nhưng vẫn
còn mênh mênh mơ hồ, vướng vất chất lãng mạn của các cô học trò thành
thị mười
sáu mười bảy bắt đầu ngấm ngầm thương vay nhỏ lệ vì " đêm nghe tiếng
đại
bác " (*), những cô bé mới bước vào tình yêu bằng hai bàn " tay nhỏ
che trời rét " (*), dù rét Sàigòn chỉ đủ làm quăn đôi cánh lá. Cho đến
bất
ngờ súng đêm mùng một Tết giữa mùa khô nổ ran thay tiếng pháo. Tôi ríu
người
sau cửa sổ căn phòng lầu thượng, những tấm áo quan vội vã chạy ra từ
khu xóm
đông đúc bùng lửa khói, xế bên kia con đường rộng, lúp thúp mấy kẻ bươn
bả theo
sau. Bất chợt vang rân tiếng hô hoán, một chiếc quan tài ghép ván thô
sơ bị
chặn lại đập tung, rơi xuống trên vỉa hè những khẩu súng trường đen
đúa, dăm
đàn bà và mấy đứa nhỏ đang lếch thếch kêu khóc cùng ba thanh niên
khiêng áo
quan co chân chạy nhưng không thoát, liền bị thúc súng còng tay, đẩy
lên xe nhà
binh đã lổn nhổn đứng ngồi một số người mặt mũi áo quần lạ lẫm hỗn độn.
Ðoàn
người khăn gói chạy loạn tiếp tục lướt qua những căn nhà mấy tầng mặt
tiền bê
tông đá ốp mà các thanh cửa sắt cao đã kéo kín thành trì. Chiến tranh
không ngờ
bất thần xuất hiện như đám mây đen sũng giông và gió chụp phủ cả thành
phố từ
bấy lâu vốn tượng trưng sự bình an cuối cùng của tôi vừa qua năm mười
bảy.
Hơn hai mươi năm sau, tôi đặt chân trở
lại nền đất quê hương
dưới những vạt mưa Ngâu tháng bảy oi nồng. Hành khách khệ nệ tay xách
nách mang
nặng nề, đi bộ từ chân máy bay vào dãy nhà có bảng ghi nơi đến. Nước
nhỏ ròng
trên những đầu người và cả trên bím tóc vàng hoe của mấy con búp bê mặc
váy
voan xòe xanh đỏ thoáng chốc đã ướt mem cụp vào thảm hại. Mấy người đàn
bà đi làm
hay đi học ở Ðông Âu vừa than trời vừa che chắn bao nhiêu thứ hàng và
đồ chơi
đem về bán hoặc cho con cháu. Người đàn ông luống tuổi ngồi cạnh trên
máy bay
đã chẳng ngừng chép miệng khi qua cửa sổ thoáng thấy màu đỏ sông Hồng
ngập
ngụa. Dù nghĩ rằng mình dư bình tĩnh, ruột tôi vẫn thắt, ngực nặng nề.
Câu hát
" Trời hành cơn lụt mỗi năm " (**) từng nghe có phải là đây ? Lạy
trời, đừng giông bão, đừng gây nạn lụt chặn con đường trở lại làng quê
xưa.
Tôi, con bé sinh ra ở Sàigòn, gọi hộp quẹt thay bao diêm, hột dịch thay
trứng
vịt, rời quê hương bố mẹ trên chuyến tàu cuối cùng vào Nam mùa di cư ấy
ở bến
Hải Phòng. Ông bác giàu có, con đàn cháu đống nhưng vẫn thích đùa ghẹo
đứa cháu
gái Nam kỳ " đi lấy cho bác cái hộp...hộp ghoẹt để châm thuốc lào " ,
ở mỗi lần nó từ Sàigòn theo mẹ về quê. Sau 54, tôi thường hỏi mẹ bao
giờ mình
về thăm bác, dù trí nhớ chỉ còn lờ mờ dáng người chắp tay sau lưng,
đủng đỉnh
hiền từ, ông chính là hình ảnh xứ Bắc của tôi cùng với hương hoa bưởi
toả lan
suốt khu vườn. Cũng khu vườn ấy tôi trở về bây giờ thiếu phụ, buổi
chiều xanh
xanh ánh lá cây ngọc lan tắm mướt sau trận mưa hôm qua. Ngừng lại ở
mảnh sân
đất nện đọng bùn và loáng thoáng vài viên gạch dấu tích một nền xưa,
tôi lặng
nhìn gian giữa ngôi nhà người con trai trưởng của bác. Tôi cố mở hết
những cánh
cửa của từng khoang trí nhớ mà mình vẫn tự hào về khả năng ghi giữ thật
lạ lùng
các hình ảnh tuổi lên bốn lên ba. Nhưng moi móc bao nhiêu thì tấm phản
gỗ nhợt
nhạt màu, kê trước cái tủ thờ phủ vải điều cùng những bức ảnh im lìm
trên đó,
với đôi liễn bạc thếch sổ dọc hai cột nhà cũng không lóe lên sự quen
thuộc nào.
Nhìn mái ngói chênh chao khấp khểnh tôi chẳng tìm đâu ra dáng mềm mại
mà đĩnh
đạc của ngôi nhà chính trong khu vườn năm xưa. Căn nhà ấy trong ký ức
lớn
nhường bao sao bây giờ u tối, bé thấp gần như sắp bò trên mặt đất. Mắt
trẻ nhỏ
thấy gì cũng to tát hay cái nhìn thiếu phụ hẹp dần theo năm tháng ?
Người con
của bác nay đã tuổi ông ngày nào nhưng gầy rọm vẫn đứng sau lưng thinh
lặng,
hình như lúc này hiểu được câu hỏi trong tôi, anh cất tiếng :
" Ðây là nhà anh chị cô ạ, ngôi nhà cô
về ngày bé không
còn của gia đình mình từ khi bố anh bị đấu tố. "
Hai tiếng ấy cuối cùng đã bật ra trên
môi anh, run run như
lời mẹ mỗi lần nói tới là tức tưởi xót đau : Bác Chánh bị trói gô ở sân
đình,
con Ngoan xắn quần xỉa xói :
" Thằng kia, mày có biết tao là ai
không ? "
" Dạ thưa chị Ngoan tôi biết, chị là
đứa bé sơ sinh
người ta bỏ rơi trước cổng nhà, tôi đem về nhận làm con, nuôi chị đến
ngày nay
" .
Tôi còn đang xúc động, có tiếng chào
nhẹ nhàng, một người
đàn ông trung niên trông già dặn dắt xe đạp vào sân, mắt nhìn tôi mở
lớn, môi
nhếch cười. Bỡ ngỡ không nhận ra nhưng tôi đoán ngay chẳng thể là ai
khác hơn
thằng cháu Q của tôi mấy mươi năm trước. Trong phút giây hình ảnh ba
người :
tôi, Q thằng cháu nội cưng của ông bác cùng bốn tuổi ngày ấy và chị
Ngoan hiện
ra trên con đường vào làng này, dưới cơn mưa. Hai đứa bé rủ rê nhau đi
đến nhà
một người bác họ phải băng qua cánh đồng, nhưng Q vốn sợ bò. Tôi đoan
chắc với
Q là mình không ngán và bò ở giữa ruộng xa đường đi, lại nữa hai đứa
cùng nắm
tay nhau thì chẳng còn gì phải sợ. Ðâu ngờ nửa chừng trời đổ mưa, chúng
tôi co
núp dưới một túp lều chưa được bao lâu bỗng có tiếng bò rống bư bư sau
vách rạ.
Thế là hai đứa ba chân bốn cẳng vùng chạy. Nhưng thằng bé Q chừng quá
hãi, chỉ
vài thước rồi không nhấc nổi chân, đứng ì dưới làn nước tuôn đẫm trong
khi tôi
vẫn cắm đầu băng băng, mặc cho Q gào đằng sau " Bớ cái con cô N, mày bỏ
ông ". Bất ngờ một bàn tay to chụp lấy gáy tôi nhấc lên, cùng giọng
quen
thuộc chị Ngoan ken két " Này, chạy đi đâu con ranh ". Sau đó tôi có
dãy dụa thế mấy cũng không thoát khỏi, chị Ngoan kéo lết tôi đi và bế
thằng Q
đặt vào một bên thúng, chị ta ở chợ về. Mẹ thuật lại, khi vất đụych tôi
ướt mèm
như chuột trên thềm cửa trước mặt bác, chị lớn giọng kể tội, bác bật
cười
" Nó con gái bắt nó che chắn thằng con trai là thế nào, Tây nó cười cho
" . Dù từ đấy tôi không ưa chị Ngoan, nhưng tôi vẫn không thể tưởng
tượng
được đe doạ nông nỗi nào khiến chị nhẫn tâm đứng giữa sân đình giật
giọng tố
khổ một người như bác. Có phải vì người trong làng không ai chịu đứng
ra kết án
ông là địa chủ tàn ác nên chị bị chỉ định hi sinh làm mồi cho một phong
trào
đấu tranh giai cấp ? Nghe nói sau đó chị Ngoan bỏ làng đi biệt, rồi mấy
năm qua
một hôm người ta thấy trên núm đất chôn bác cắm một bó hoa dại. Có
người ở sát
bên nói rằng đêm ấy vẳng nghe tiếng khóc đàn bà khấn khứa : Con cắt cỏ
ngậm
vành, xin thầy tha tội. Giờ, chỉ còn lại đây tôi và Q đã hai con, nụ
cười mỉm
của Q khiến tôi yên lòng về trí nhớ của mình. Hoá ra những kỷ niệm thời
nhỏ xíu
ấy Q không quên như tôi, những thứ chỉ nói ra rằng mình nhớ đã thấy lạ
lùng.
Hỏi Q có còn sợ bò, Q đáp nhẹ " Cháu chỉ sợ người ".
Sau bữa cơm với gia đình anh chị, tôi
trở về Hà Nội. Trời
lại hội cơn vần vũ. Những làng mạc đi qua trũng hơn trong màn nước. Tôi
nhận ra
mưa càng làm lộ liễu sự khốn khó và mưa ngoài cửa xe cũng đang từ từ
dội trôi
lớp màng ảo tưởng để tôi thấy rằng cuộc hành hương không những chẳng
bốc bay
thêm được náo nức chờ đợi ở một chuyến về, không khơi mở được bao uẩn
khúc vẫn
tụ đọng trong tiềm thức mà trút sâu, thắt thêm vào tâm trí những bận
lòng, lấn
cấn hơn những câu hỏi bấy lâu vẫn đặt ra cho chính mình. Khi từ giã, da
bàn tay
sạm khô của Q rạm xước lòng tay tôi. Ðứng lại với nhau ở cái nơi gọi là
đầu
làng chỉ có giặng cây sắn xoè lá xanh tươi, Q bỗng nói " Bố cháu can
đảm
lắm mới sống sót được những năm tháng đó và nuôi anh em cháu học hành
xong
xuôi. Cô học bao năm bên ấy, có nghĩ trở về làm được gì không ? ". Xúc
cảm
nhất thời bùng dậy, tôi đã mạnh miệng trả lời, tôi sẽ không bỏ Q lại
bên bờ
ruộng như mấy chục năm về trước. Thế mà, không bao nhiêu cây số, về tới
Hà Nội
vừa lọt vào thành phố lù mù, người đi người lại loi ngoi bì bõm, tôi đã
thấy
chắc khó lòng đi đến đầu kia con đường Láng nước dâng trên đầu gối, để
chỉ giản
dị làm nốt một thăm viếng người thân.
Tôi lên con tàu ở trạm ga Huế khi trời
vừa tạm ngưng một đám
mưa chạy rạt từ mạn núi ra biển. Mưa giỡn chơi như thế hơi kỳ lạ giữa
hạ đang
bức nồng trên mặt nước sông Hương. Tấm vé tàu đổ đèo Hải Vân xuống Ðà
Nẵng chỉ
nhỉnh hơn giá ba tô bún bò đầu con đường ở trọ. Anh chị em bạn bè thân
sơ kẻ
đạp xe, người xình xịch trên honda cũ mèm kèm hai bên chiếc xích lô đổ
tôi
xuống cửa nhà ga chộn rộn những người gánh gồng bị túi. Chị bạn Huế mệ
vốn quen
đi đứng chậm rãi khoan thai thoáng hoảng hốt kéo tay áo, e rằng tôi
không chịu
đựng nổi năm giờ di chuyển giữa người vật ngổn ngang. Một người đi, năm
bảy
người đưa tôi lên toa tàu có quạt, đặc biệt dành cho người du lịch
không hàng
hoá. Tôi hơi ngượng khi đám bạn bè tiễn mình ồn ào leo cả lên xe. Lách
trước
mặt một ông cụ già ngoài bìa, tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ. Băng ghế gỗ
cứng trải
chiếc chiếu cói vừa vặn. Chưa yên chỗ thì chị bạn vừa xuống tàu đã vội
leo lên
đưa cho chai nước lọc và chiếc ly giấy ọp ẹp. Những người còn lại tụ
dưới cửa
sổ dặn dò, đi đường cẩn thận, đừng ăn uống lung tung mà đau bụng, tới
nơi cứ
đợi ở ga đừng leo xe ôm...Tiếng còi hụ chuyển bánh, một anh còn vội vã
mua cho
chiếc quạt giấy, biết đâu nhỡ quạt máy hư. Tôi quẹt nhẹ hai giọt nước
mấp cuối
mi khi bóng họ đã nhỏ dần, mờ đi trong làn mưa lại phun toả không gian
ngoài
con tàu cũ kỹ.
Hai mươi cây số một giờ, xe lửa bò
giữa làng mạc và những
mảnh đất nửa đồi nửa ruộng. Trời mưa nhưng không khí hầm bức, và đúng
như tiên
đoán của anh bạn, chiếc quạt máy gần băng ghế tôi ngồi chao quay vài
phút sau
khi con tàu khởi hành rồi dừng lại. Tôi mỏi mệt nhắm mắt thiếp đi. Khi
chợt
thức dậy, một thoáng gió nhẹ qua tai, ông cụ ngồi bên cầm chiếc quạt
giấy phẩy
cho tôi cử chỉ nhẹ nhàng. Tôi nói cám ơn và ông hỏi " Cháu từ ngoài vô
?
". Chẳng rõ tại sao tôi lúng túng, không muốn nói với ông cụ tôi là
Việt
kiều, cái âm kiều tôi không thích cả từ ngày bé, chẳng hạn Hoa kiều.
Giản dị là
thế chăng? Hay cũng vì trực nhớ lời dặn dò của chị bạn Huế " Thời buổi
ni
cẩn thận, đi đường một mình đừng để người ta chú ý, biết mình ngoại
quốc về
" . May thay tôi chưa biết phải nói dối hay không thì ông cụ đã tiếp
" Lần đầu đi chơi, bạn bè lo lắng nhiều hỉ ". Tôi vui mừng đáp một
tiếng Vâng gọn bâng, cũng hơi ngượng ngùng thấy ý chừng ông cụ tưởng
tôi là con
cháu nhà giàu từ Hà Nội vào Nam du lịch. Nhìn qua cửa định hỏi tàu đã
đi đến
đâu thì chẳng ngờ khung cảnh ấy hiện ra trước mắt, ngoài tưởng tượng.
Hai bên
đường rầy ngổn ngang những ngôi mộ chen chúc nằm trong, ở ngoài, chính
giữa,
bên trái bên phải những nóc nhà sơ sài tường vách. Trời bốn năm giờ
chiều u uẩn
đã đành nhưng chưa bao giờ tôi thấy mưa phũ phàng tàn nhẫn dội trên
trần thế
như vầy, dù cơn mưa này nào xối xả bằng bao nhiêu trận đã từng đổ xuống.
Những tia nước làm tan hoang mái lá,
làm xiêu lệch mái tôn,
làm mảnh vách lở nghiêng muốn sụp nhào lên ụ đất có cây thánh giá cắm
leo heo.
Mắt tôi chạy theo dòng tóc cô gái đang tắm gội, cô mặc nguyên quần áo
ướt sát
rạt, ngửa mặt hứng nước toé tươm từ một đòn tre vắt ngang hai nấm mồ
cùng châu
vào cái cô đang ngồi tựa. Xa hơn, hai ba người đàn ông trần lưng đập đá
dưới
một miếng tôn. Mấy chị đàn bà hì hục đào mương, các dòng nước chạy lòng
vòng
quẩn quanh mộ kia sang mộ nọ. Xe lửa trườn đi, dứt tôi từ tụm nhà với
mồ này đổ
sang tụm khác. Nhấp nhô ngôi mộ xây xi măng mang tấm bia sát cạnh cửa
căn nhà,
đâm thẳng góc vào một mộ khác chỉ là nấm đất vun vun nằm dọc theo hàng
hiên. Sự
hỗn độn cho tôi cảm tưởng xác người đã đổ xuống nằm đâu người ta an
táng ngay
vị trí ấy, không dời đi, không sắp xếp lại. Và bao nhiêu căn nhà như
túp lều
này, mọc trên chính bãi chôn người cũng thể hiện những cuộc đời tả tơi,
không
thể tơ hào một xếp đặt nào cho đời sống. Bao câu hỏi tại sao, nào bực
bội băn
khoăn nào bất mãn từ lúc đặt chân về trên xứ sở này còn nên chăng, còn
là quyền
của tôi đâu khi tôi không phải là người đang sống lẫn lộn giữa tha ma
và trần
thế.
Tôi mở mắt thao láo, ngóng về phía
trước, ngoái lại đằng
sau. Ông cụ bên cạnh lặng thinh từ bấy lâu bất chợt cất tiếng " Ðoạn ni
coi như tiếp nối " Ðại lộ kinh hoàng " trước kia đó cháu ". Tôi
điếng lặng. Tất cả xác người nằm trong mồ mả vụt phá toang đất phủ nhất
loạt
vùng đứng dậy, những thân thể thương tích máu me nghiêng ngả, ồn ào tán
loạn
hoà nhập vào đám người đang đập đá đào mương, vào những đứa trẻ bụng
ỏng vào
các cô gái tóc dài rũ rượi. Họ dìu nhau bước đi, chạy với theo con tàu.
Họ họp
thành đoàn đi đòi quyền sống. Trùng trùng một dãy Trường Sơn xương sống
nước
Việt, vẫn thiên thu lừng lững đằng sau để ngó xuống dưới chân bao nhiêu
máu
thịt rơi đổ trên cát bỏng ruộng cằn. Những linh hồn chết vướng vất bơ
vơ, những
linh hồn sống dật dờ xoay sở.
Sàigòn ngày đầu tiên, cảm giác trống
hoang dù phố phường ồ
ạt người và xe gắn máy túa ra sau trận mưa mau của buổi chiều tháng
tám. Tôi đi
ngang con đường cũ chõ mắt tìm ngôi nhà thơ thiếu mẹ đã bán đi, những
cánh cửa
đã đổi màu xanh nhưng chiếc lan can ngày xưa tôi đứng trên nhìn xuống
đợi gánh
chè khuya xuất hiện đầu con ngõ vẫn đấy, song song dọc dọc mấy thanh
sắt đan
nhau. Những sợi mưa từng óng ánh xuyên qua đèn đường rồi rớt trên chiếc
áo tơi
bà cụ già mà giọng rao chè quen thuộc ngân nga ngọt lịm, chẳng biết đã
bao năm.
Cả con phố xưa nghe nói không còn mấy người ở lại. Năm tôi mười tám, họ
đến
tiễn con bé sắp đi học bên Tây. Ngay cả cô gái bán ba đường Tự Do thuê
một
phòng trong căn nhà năm tầng gần cận, tuy chẳng quen biết gì nhưng nghe
ai nói
nên thoáng gặp tôi ở lề đường cũng nắm cánh tay lắc lắc, chúc mừng " đi
Tây rồi ở lại bên í cho nó sướng em ạ, chứ như chị thế này...cả đời cóc
dám
nhìn ai ". Nhưng nghe đâu, cuối tháng tư 75 cô được ông bồ Mỹ cắp lên
máy
bay trước cả mọi người và vài năm sau cô đeo vàng trở lại khu phố, cô
ghé thăm
mỗi nhà xem ai mất ai còn ai đi ai ở và rộng lượng giúp đỡ người này kẻ
nọ. Con
cháu tôi khoe cô đẹp như tiên cô nói cười rổn rảng, không quên hỏi thăm
con bé
du học ngày nào có về VN và làm được gì không ?
Tôi, con bé đã về mà chẳng biết nên
làm gì để được, đứng trú
mưa trước công viên Lê văn Tám. Giọt nước chảy ròng mài miệt đan thành
tấm màn
lung linh biến ảo, những cái thấy thực tại nhập nhoà quá khứ. Các thân
sao già
thẳng tắp hai bên con đường dẫn hút vào sâu nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi ẩn
kín,
đang vút bay lên trời nhường chỗ cho những thân non còn thấp, cây mới
được
trồng nên khu đất khơi khơi trống trải lạ lùng. Băng đá rải rác cùng
cầu tuột
trò chơi trẻ em màu sắc vuông tròn chồng chéo lên bia mộ trước kia
nhiều chiều
tôi vào đấy ôn bài thi, lá đã thả bóng lấp loáng trên các phiến đá hoa
cương
hay vân thạch. Những ngôi mồ giàu sang thời ấy nghỉ ngơi ngay trung tâm
thành
phố, lắng yên ngăn nắp trong cây cỏ dù mưa hay nắng, không ngửa nghiêng
lận đận
như mả và người trên chặng đường tàu tôi mới đi qua. Gương mặt trên các
tấm bia
trong nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi dẫu già trẻ, Việt hay Tây, với tôi đều
an tĩnh.
Tôi ngồi giữa họ không sợ hãi, cùng mảnh giấy nguệch ngoạc các công
thức, các
hàm số phương trình, tôi ngoáy cong cong mái tóc và vành môi chúm chím
một cô
gái nằm dưới chỗ tôi ngồi đã mười bảy năm. Trên tấm ảnh, cô không cười
nhưng
cặp mắt lá dăm này quá giống chị Bé ở trong nhà mấy năm về trước.
Chị Bé mười sáu, má chị thường đem gạo
từ Sóc Trăng lên
Sàigòn đong cho mẹ tôi. Một hôm bà ta bảo tên phường trưởng hiếu sắc
chặn đường
chị Bé doạ nạt sẽ tố cáo ba chị theo Mặt Trận, nên bà lo ngại xin cho
chị lên
Sàigòn lánh nạn. Tên là thế nhưng chị không bé, không thấp lùn mà người
vừa cao
vừa nẩy nở, hai bàn tay con nhà nông thô cứng. Mỗi khi giúp tôi cọ lưng
chị xát
thật mạnh tưởng tróc da. Ít nhất chị Bé dội nước ba lần một ngày, chị
nói ở quê
lội sông suốt buổi. Về thành phố chẳng còn sông chị đâm thèm tắm mưa.
Bẻ quặt
đầu máng xối ra khỏi vại nước, cũng mặc nguyên quần áo như cô gái bên
đường xe
hỏa xuyên bãi tha ma, chị Bé ưỡn người dưới dòng nước ồ ạt. Ðôi lúc áng
chừng
thấy vướng víu, chị lột tấm áo bà ba, rồi đảo mắt một vòng quanh khoảng
sân,
yên bụng chẳng có ai chị tụt luôn chiếc quần, cả tấm thân uốn căng như
con cá
cong tươi lóng lánh. Hình ảnh ấy làm cho tôi thèm thuồng, chắc chắn chị
Bé đang
tràn đầy khoái cảm. Với chị, lần đầu tiên tôi được mở mắt chiêm ngưỡng
trọn vẹn
một thân thể đàn bà, được thấy cái đẹp đầy đặn, sống thật, căng phồng
hồn nhiên
chứ không phải là những thứ để nhìn lén, tưởng tượng qua lời nói, hình
ảnh mập
mờ ẩn dụ. Khi nhác thấy tôi chị cười tít cặp mắt lá dăm, vẫy ra tắm
cùng. Mới
đầu tôi ngần ngại, mẹ bảo rằng tắm mưa rất độc. Thật lạ, bà có thể đi
phát
truyền đơn, giấu " phần tử phản động " trong nhà, và sau này bà cũng
không cực lực phản đối khi tôi, đứa con gái độc nhất, lăm le đòi học
nghề phóng
viên chiến trường, nhưng lại kiêng kỵ bao nhiêu thứ tỉ mủn liên quan
đến phụ
nữ, nào là quần áo con gái đàn bà không phơi qua đêm, nào ngày kinh
nguyệt
không được bước qua tủ thờ hay chõ rượu nếp vừa ủ. Sau này chẳng còn
sân gạch
tàu, tôi trèo lên sân thượng buổi tối trời mưa. Không có ai ngoài tôi
và cây
cối mẹ trồng xum xuê như vuông vườn nhỏ. Mọi thứ đều ướt đẫm, đều rũ lả
liêu
trai. Mặt đất cao hơn và mây thấp xuống, nhưng tôi ở giữa đất trời sung
sướng
đón những hạt nước tưới tuôn, cảm giác chỉ con người mình sáng long
lanh chùm
bong bóng nước, thênh thang toàn diện.
Suốt thời gian ngoài xứ sở không còn
thấy cảnh tắm mưa, thế
mà về đến nơi thì nó đã bầy ra đấy. Vùng ngoại ô An Phú Ðông mất điện
lập loè
lửa nến, những thân cây gì không biết tên ngả nghiêng hai bên con đường
đá trộn
với bùn. Dãy nhà viền lộ lợp tôn thấp chũm, chẳng xoè nổi một khúc hiên
cho tôi
đứng trú, phải co ro dưới tấm bạt của ông già sửa xe đạp. Gió phần phật
cơ hồ
có thể giật đứt rời những mảnh vải rách của chiếc áo ông ta. Con đường
mới đó
xe đạp xe ba bánh xích lô người đi người lại chợt trống hẳn, chỉ còn
mưa xiên
bay tới tấp và mấy đứa bé ở trần vừa tắm vừa chạy đuổi nhau trên mặt
lộ. Tấm
bạt của ông già vụt thốc lên với gió, kéo sập hai đòn gỗ chống. Thế là
trong
giây phút nước quật xối người tôi, cùng khắp. Nước tuôn dọc theo những
sợi tóc,
áo quần đẫm dính vào người. Ông sửa xe lủi đi đâu chẳng biết, hộp keo
vá bánh
và cái bơm đặt trên mấy hòn gạch, những thứ còn lại lăn lóc trên mặt
bùn. Mấy
căn nhà và quán lá chung quanh cũng đang vật vã, đám người lao động
cùng xe đạp
quang gánh đứng lại bên lề ròng ròng nhễ nhãi. Mưa đổ chưa đầy nửa giờ,
cả vùng
đất trước mắt cơ hồ thụt lún xuống với con người. Thêm một lần, mưa
phơi bày rã
rượi nhếch nhác. Bao năm thèm tắm lại một trận mưa chẳng được, bây giờ
bất ngờ
tôi đứng đây giữa trời, trên mảnh đất ngoại ô sũng lầy, bên cạnh những
con
người nặng nề u uẩn âu lo. Trong không gian nhem nhẻm tối này chắc gì
ai nhìn
ra ai, và dù áo quần còn dính trên da, tôi lại thấy mình thông thống.
Nhưng tôi
lấy gì đây che đậyấ? Bao nhiêu con người đang quay lại, mưa lột trần
người đàn
bà Việt kiều trước mắt họ. Nhưng họ có thấy tôi, con bé năm nào tắm mưa
phơi phới,
thoả thuê tự do, giờ đây là một thiếu phụ lạc lõng co cụm ngột ngạt.
Thông
thống mà ngột ngạt. Giữa đám cành lá ôm ấp đồng loã trên sân thượng bất
thần
mọc những con mắt xoáy. Chúng xoáy vào trống lốc, sục bới vào đặc
nghẽn. Cũng
vẫn thân thể đẫm ướt ấy đã trở về, nhưng cái phần trần truồng bày ra
không phải
là hình hài thân xác, nó là những căn nhà, những bức tường trong tâm
linh từng
được loay hoay đắp bồi xây cất bằng tri thức và ước mơ. Nước cứ thế phũ
phàng
đập, nhà và tường như cát lở, tuôn tuột từ đầu xuống chân, hòa nhập vào
muôn
thứ lá cây đất đá rác rưởi đang ùa theo dòng ngập lụt lênh láng, như
con thuyền
giấy thời bé con cuộn vào cống rãnh.
Tật hay liên tưởng thường lôi tôi đi
rất xa, đang ở một nơi
tôi bay vụt bao ngàn cây số sang chốn khác. Vì thế tôi từng cảm câu
nhạc "
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa " của anh Sơn đến thẫm lòng. Một chiều
leo
xe qua vùng núi Pyrénées trời chập choạng tôi đã sợ, tôi vốn sợ khoảnh
khắc
hoàng hôn nhất của một ngày, nó có thể choáng lên cái đẹp hào quang của
mặt
trời đỏ rực nhưng vẫn nhuốm phủ một nỗi gì bấp bênh, chia lìa, âm khí.
Vậy mà
lúc ấy thêm mưa, mưa chẳng dồn dập như người ta thường nói mưa miền
núi, một
màn khin khít bụi nước li ti. Tôi lại bất chợt bay đi, rớt xuống, ngồi
chênh
vênh trên chiếc ghế con dưới mái hiên một quán cà-phê Hà Nội. Chiều mùa
Giáng
Sinh đã lách tách rỉ rả cơn mưa phùn. Cậu sinh viên tên T đến tìm tôi ở
khách
sạn với cô bạn cùng lớp, tôi vừa có một buổi nói chuyện khoa học với
các sinh
viên ngành Vật Lý tại đại học hôm qua. Trước lúc bước vào giảng đường,
tôi đã
đứng lại ở bìa hành lang quất gió, ngó xuống khuôn viên đại học, mắt
bỗng ngợp
những tà áo dài trắng sáng rưng sân trường Gia Long tôi cũ. Xao xuyến
hơn bao
giờ, hơn tất cả các lần thuyết trình trong hội thảo đông người, trước
mặt sẽ
không phải là đồng nghiệp mà những em sinh viên cũng trẻ như tôi ngày
nào. Trên
đất nước mình, tôi sẽ trực diện với chính tôi của bao nhiêu năm trước.
Khi rời
bục gỗ tôi bứt rứt bâng khuâng, cảm giác vừa qua một tương phùng ngậm
ngùi lẫn ngỡ
ngàng xa lạ. Không, không thể quay ngược thời gian. Và càng đặt câu hỏi
tôi
càng thấy mình trĩu nặng trong bầu trời ẩm ướt.
Cũng may, chiều nay T và cô bạn đã đến
đây, mời " cô
"đi uống cà-phê, chúng tôi trò chuyện thân tình về đời sống. Khi chia
tay,
đứng trên vỉa hè nhìn họ chùm áo tơi đạp xe song song rẽ sang con đường
cuối
phố, tôi chợt hỏi những điều mình đã giảng hôm qua, nào định luật siêu
dẫn, nào
phản vật chất, nào lỗ đen và vượt thời gian...đem lại được gì cho họ ?
Tất cả
đều xa vời, không thực tế, chẳng dính dáng gì tới việc chất than củi
vào lò
nung gạch cậu ta phải vội về giúp bố, tới việc gò lưng đánh máy tài
liệu mỗi
đêm để kiếm tiền của cô sinh viên bờ vai vốn mỏng. Nhưng chẳng ngờ, gần
một năm
sau, tôi nhận được email của T. " Em đã tốt nghiệp, đáng lẽ với hoàn
cảnh
gia đình em phải đi tìm việc nhưng em muốn tiếp tục làm luận án, những
đề tài
nghiên cứu cô nói hồi nào thật thích. Cô nghĩ sao ? ". Trong phút giây
tôi
ngẩn người, lấn cấn, với thực tế đời sống bên nhà tôi biết khuyên T thế
nào cho
hợp tình hợp cảnh. Nhưng lòng lại vui vui ngẫm nghĩ : hoá ra, chẳng
phải việc
làm nào cũng vô nghĩa. Nhớ đến khuôn mặt lanh lảu, giọng nói rõ không e
dè, các
câu hỏi tìm hiểu chính xác của T, tự dưng loé lên niềm hi vọng : biết
đâu đang
khởi đầu một cái gì sẽ khác. Tôi viết cho T những suy nghĩ của mình.
Nhiều ngày
qua, im hơi lặng tiếng, ngỡ T đã theo hướng đi phù hợp với hoàn cảnh
nhất, tôi
chỉ mong dù là con đường nào em cũng đi được tới đích. Thế nhưng, một
email
khác : " Em đã quyết định theo ngành nghiên cứu nhưng chưa biết nên
chọn
Vật lý ứng dụng hay Vật lý cơ bản. Cô cho em ý kiến ". T lại làm tôi
thêm
ngạc nhiên, sao trong đời sống ấy em còn có thể phân vân như thế được ?
Tôi tức
thời bảo T, con đường ứng dụng mới đưa đến cơm áo, T nên thực tế hơn,
tuy tôi
nhớ ai đó từng nói người khoa học mơ mộng lãng mạn nhất, và dẫu rằng vũ
trụ
được xây trên những điều cơ bản. Xã hội, văn hóa và con người cũng thế,
tôi
từng đi tìm điều đó ở mỗi chuyến về.
Viết đến đây nhìn ra ngoài trời, con
trăng vừa tròn hai bữa
trước đã lên sớm, chênh chếch trên mái nhà hàng xóm cách một vườn bên.
Gió đang
ngắt đi những cánh lá cuối mùa, chao chao mãi mới rơi chạm vào mặt đất
rồi lại
bị gió bốc bay. Lá rụng về cội, ngày tôi đi du học mẹ nhắc nhở thế. Hôm
tôi trở
lại ngồi bên mẹ dăm ngày trước khi bà mất, đã lẫn lắm rồi nhưng vừa nói
"
Con mới về " thì bà hỏi " Bao giờ con đi ? ". Giọng mẹ quá yếu
nhưng bình thản, không vương vấn muốn giữ chân tôi tựa bao lần trước,
thể như
vốn sẽ là vậy. Trời lúc này không mưa nhưng chạnh thấy những manh lá
rơi, lại
nhớ. Xứ này bốn mùa thay hoa đổi lá, thiên nhiên chuyển biến ngoạn mục
với muôn
sắc thái, mà sao lòng mình không cất nổi những mưa xa.
Mai Ninh
(giữa tháng 12. 2002)
(*) Truyện và thơ Nhã Ca.
(**) Lời nhạc Phạm Duy
Jennifer Tran giới
thiệu
[trích Diễn Đàn Forum]
*****
(1) Tác giả, không
hiểu có phải là "cô này"
không...
Nguyễn Ngọc Tư: "Tôi
thèm ai đó 'quất' cho mình vài
roi"
9:57', 6/7/ 2003
(GMT+7)
Với 17 truyện ngắn
xinh xắn trong tập Giao Thừa, nhà văn trẻ
Nguyễn Ngọc Tư trở lại với giọng văn mộc mạc và trong trẻo, nhưng nỗi
buồn nặng
hơn. Tất cả như thể hiện cô thèm được nói, được viết về cuộc sống quanh
mình.
Và thèm cả ai đó "quất cho vài roi" để thấy rằng mình đang viết
"chán chán thế nào".
- Nhận giải Nhất Văn
học tuổi 20 năm 2000 với tập truyện
"Ngọn đèn không tắt", 3 năm sau ra tập "Giao Thừa", Tư đã
ngấp nghé tuổi 30. Điều ấy có thay đổi gì trong quan niệm sống và viết
không?
- Chỉ một chút thôi.
Tôi có cảm giác mình bây giờ viết buồn
hơn lúc trước.
- Đọc truyện của Tư
cứ xuôi đi mải miết bởi cách viết hồn
nhiên, giản dị và dễ thương. Tư có cho rằng đó là thế mạnh của mình?
- Không, tôi muốn
viết tinh tế, sâu sắc, góc cạnh hơn (dường
như các nhà phê bình cũng thích thế). Nhưng khổ nỗi, tạng tôi nó vậy,
phong
cách viết tự nó vậy, chữ nghĩa cũng tự "chảy" ra như vậy.
- Tư từng nói "tôi
nghĩ đến ứ đầy rồi viết", từ
"Ngọn đèn không tắt"sang "Giao Thừa", bắt gặp những cái tên
lặp đi lặp lại: Chị Diệu, Diệu; con San, anh San; ông già Chín...; và
những
cảnh đời: toàn người chất phác, hồn hậu, tốt bụng vô ngần, vậy mà chẳng
ai được
sung sướng. Gấp truyện lại chỉ còn một nỗi buồn rất lạ! Vậy có thể hình
dung
cuộc sống quanh Tư như thế nào?
- Hình dáng buồn
cười, thô mộc, quê mùa, không trau chuốt
(nên tôi lười cả việc đặt tên cho nhân vật của mình). Hai mươi bảy tuổi
vẫn
yêu, vẫn tin rằng cuộc đời này màu hồng (mà tới một cái tuổi nào đó sẽ
thấy nó
đen thui) nên vẫn thích viết về những người tốt. Có điều họ không sung
sướng vì
tôi nghĩ, tốt mà được đền đáp thì người đời rủ nhau đi sống tốt hết rồi.
- Các cuộc phê bình
cây bút trẻ yên lặng quá. Thiếu người
trẻ viết phê bình đã đành, người già thường có cái nhìn không thiện cảm
với cây
bút trẻ là một nhẽ, nhưng vẻ như truyện ngắn thời gian qua chưa tạo
được chú ý.
Có lúc nào Tư thèm được một nhà phê bình nào đó "quất" cho mình vài
roi để lớn lên?
- Thèm. Tự soi gương
không bao giờ nhìn thấy hết những khiếm
khuyết của mình. Đôi lúc nghe bạn bè cằn nhằn lúc này Ngọc Tư viết
"chán
chán làm sao", tôi muốn biết "chán chán làm sao" là thế nào? Có
ai giúp tôi không?
- Có thể hy vọng ở
những tập truyện mới dày hơn, khác hơn,
thậm chí là tiểu thuyết ở Tư không?
- Sẽ đến một tuổi nào
đó, một cú sốc nào đó, hay đến lúc bạn
nói bạn chán cách viết của tôi rồi, biết đâu tôi sẽ đổi thay. Nhưng bây
giờ thì
chưa.
(Theo Tiền Phong)
[Trích www.vnn.vn ]
Nhận giải nhất văn học tuổi 20 (năm
2000) với "Ngọn đèn
không tắt", 3 năm sau, Nguyễn Ngọc Tư mới trở lại trong tập "Giao
thừa". Vẫn tiếp tục nhỏ nhẹ về cuộc đời những con người lam lũ, giản dị
trên dẻo đất Mũi, nhưng giọng văn vốn trong trẻo, mộc mạc của chị còn
buồn hơn
trước.
- Đặc điểm truyện ngắn của chị là gì?
- Tôi muốn viết tinh tế, sâu sắc và
góc cạnh hơn bây giờ.
Nhưng khổ nỗi, tạng tôi nó mộc mạc vậy, chữ nghĩa cũng tự chảy ra như
vậy.
- Ngày càng ít cây bút trẻ kiên trì
với văn chương, làm việc
khác sống đỡ hơn. Còn chị thì sao?
- Với tôi, viết văn là một cuộc hành
trình riêng mình lặng lẽ.
Thu nhập của gia đình chủ yếu dựa vào... chồng, chứ lương tôi chắc chỉ
đủ mua
sữa cho em bé.
- Chị nghĩ thế nào về thực trạng phê
bình hiện nay?
- Đôi khi tôi thèm được một nhà phê
bình nào đó quất cho vài
roi để lớn lên. Bởi tự soi gương không bao giờ thấy hết những khiếm
khuyết của
mình. Đôi lúc nghe bạn bè cằn nhằn lúc này Ngọc Tư viết "chán chán làm
sao", tôi cũng muốn biết cái "chán chán làm sao" là thế nào. Có
ai giúp tôi không?
- Có thể hình dung thế nào về Nguyễn
Ngọc Tư?
- Tôi không mê cải lương. Tôi chỉ
thích thú với nghiệp của
người nghệ sĩ. Họ có thể sống nhiều cuộc đời, nhiều vai diễn khác nhau.
Còn
tôi, hình dáng buồn cười, thô mộc, quê mùa, không trau chuốt. Hai mươi
bảy tuổi
vẫn yêu, vẫn tin rằng cuộc đời này màu hồng (mà tới một cái tuổi nào đó
sẽ thấy
nó đen thui) nên vẫn thích viết về những người tốt. Có điều những người
đó sẽ
không sung sướng vì tôi nghĩ, tốt mà được đền đáp thì người đời rủ nhau
đi sống
tốt hết rồi.
- Chị nghĩ mình là người viết dễ hay
khó?
- Người ta bảo tôi viết văn dễ như ăn
cháo. Nhưng thấy vậy
mà không phải vậy đâu. Sẽ đến một lúc nào đó, một tuổi nào đó, biết đâu
tôi sẽ
thay đổi cách viết. Còn bây giờ thì chưa.
(Theo Tiền Phong)
Trích VN Express