TẠP GHI
1
|
"Đã từ
lâu mảnh đất thân thương này gọi bảo tôi viết về nó."
Arioxt (Thơ trào phúng).
(Stanhđan trích dẫn; chương mở
đầu cuốn
"Tu viện thành Pácmơ", dịch giả Huỳnh Lý, Nhà xuất bản Văn Học, Hà
Nội, năm2001).
"Trở lại nơi một thời vang bóng" là tên một bài viết đăng hai kỳ trên
báo Hà Nội Mới, số đề ngày 2 và 9 tháng Bẩy, 1994, về chuyến đi thăm ba
nước
Cộng Hòa Ucraina, CH Cadaxtan và Liên Bang Nga của thủ tướng Việt Nam
Võ Văn
Kiệt và phu nhân, một số vị bộ trưởng và 20 nhà doanh nghiệp, từ ngày 8
tới
17.6.1994.
Tác giả bài viết, Nguyễn Anh Trâm, khi đó là thư ký tòa soạn tờ báo
trên.
Ông là em trai của mẹ tôi.
Rời Hà Nội năm 1954, lần "trở lại nơi một thời vang bóng" trong trí
tưởng một thằng bé di cư ngày nào, tôi đã được ông cậu, nay đã già, ra
tận sân
bay Nội Bài, để "nhận mặt" thằng cháu. Bởi vì trong ba người – hai
người kia là bà chị và đứa em trai của tôi, cách biệt nhau từ những năm
1945 –
chỉ có ông "may ra" nhận ra tôi.
Số là, ngay sau ngày 30 tháng
Tư 1975 được
ít lâu, do yêu cầu công tác (chắc vậy), ông đã vào Sài Gòn, và nhân đó,
đã
"tranh thủ" thời gian, để gặp chị và cháu. Và ông đã đến cơ quan của
tôi, Bưu Điện Sài Gòn, để xác nhận một điều: cha của "đồng chí này"
bị đảng phái sát hại ngay những ngày đầu cách mạng.
Chuyến
"qui cố hương" (chữ của một nhà văn
Việt Nam ở nước ngoài chúc mừng nhân chuyến đi), một phần là để tìm lại
những
kỷ niệm thời con nít, biết đâu còn sót lại ở nơi quê nhà, Sơn Tây, rồi
những
ngày chạy tản cư lên Phú Thọ khi giặc Pháp nhảy dù xuống cánh đồng làng
(1949);
những ngày học ở Hà Nội... và những "chi tiết lịch sử" liên quan tới
cái
chết của cha tôi. Trong những ngày ở miền Nam, và sau này, ở nước
ngoài,
"một nửa" gia đình tôi đã lấy ngày 30 Tết năm đó, là ngày người cha
rời cái làng nhỏ bé ven đê sông Hồng, để rồi chẳng bao giờ trở về, làm
ngày
cúng giỗ ông.
Bây
giờ, tôi đã biết rõ ngày ông mất. Cha tôi bị sát
hại ngày mồng ba Tết (1946) tại Việt Trì, nơi ông làm hiệu trưởng một
trường
tiểu học. Tôi cũng đã đến nơi ông bị sát hại: bị bắn, sau đó xác bị cột
đá, thẩy
xuống sông, để cho đừng bao giờ nổi lên. Bà chị tôi nhắc lại một chi
tiết đau lòng,
theo đó, chính tôi đã từng nhìn thấy kẻ giết bố mình, nhờ cái quần kẻ
đó mặc.
Một cái quần dạ, bị chuột cắn, thủng một lỗ lớn, và mẹ tôi đã phải vá
lại. Trong
trí nhớ của tôi, chi tiết trên không hẳn như vậy. Tôi nhớ, có lần mẹ
tôi nói,
bà đã nhìn thấy kẻ mặc bộ đồ com lê của chồng, bữa ông ra đi. Tuy tin
chắc chồng
không còn, bà sau đó vẫn lặn lội nhiều nơi, vẫn giả đò hy vọng. Trong
số những
người bị bắt có một vài người cùng làng; trong có một ông chú của tôi,
Nguyễn
Trí Cầm, khi đó là Bí Thư Việt Minh, cơ sở Hạc Trì (Bạch Hạc và Việt
Trì, thuộc
tỉnh Vĩnh Yên). Vài ngày sau khi bố tôi bị sát hại, chú tôi và một vài
người
cùng bị bắt, dùng nước uống bọn cai tù chia cho hàng ngày, tích tụ lại,
và nước
tiểu, "tưới" lên một mảng tường đất, và trốn thoát, nhân một bữa đám
cai tù mải ăn uống say sưa. Đám người nói trên sau bị Việt Minh truy
đuổi phải
chạy qua Trung Quốc.
Ông Nguyễn Trí Cầm sau cho đứa em trai út của tôi biết, cha tôi khi đó
chỉ là
cảm tình viên của Việt Minh. Lý do cái chết của cha tôi: Đảng phái nói
trên đã
mời cha tôi, một nhân sĩ tại địa phương, làm đại diện cho họ tại quốc
hội,
nhưng ông từ chối.
Trong bao năm trời, em tôi xin xác nhận là con liệt sĩ, nhưng không
được.
***
"Trong
bài viết này, tôi không nhắc lại những
hoạt động cụ thể trong chương trình làm việc của Thủ tướng... Tôi muốn
nói thêm
về đất nước, con người và cuộc sống hôm nay ở các quốc gia đã một thời
vang
bóng... những kỷ niệm không thể xoá nhoà... chuyến đi thăm... lần này
chưa đủ...
phải trở lại, và trở lại nữa."
"Họ [những nhà báo trên chiếc xe Toyota
12 chỗ ngồi] quen nhiều cánh rừng, công viên, đường phố rợp bóng cây
của Ki-ép.
Vào mùa này, những cây Tô-pơn lại thả những chấm hoa vào không trung
đầy nắng. Hoa
gặp gió, được gió mang đi rắc bụi khắp kinh thành".
Nguyễn Anh Trâm chú thích: Cây Tô-pơn không cao lắm, có những quả nhỏ
như hạt
đậu xanh. Trước khi kết trái, Tô-pơn thả vào không gian những chùm hoa
nhỏ li
ti như những chấm hoa gạo. Vào tháng 5, tháng 6, hoa Tô-pơn bay khắp
thành phố
Matxcơva, và Ki-ép.
Ở một chỗ khác trong bài, ông viết: "Người ta bảo, ai đến thăm Xanh Pê
téc-xbua vào đúng thời điểm của những đêm trắng xuất hiện thì đó là một
diễm
phúc để ghi nhớ suốt đời."
***
Tôi
trở lại đất Bắc cũng vào tháng Sáu. Không
(diễm phúc) đêm trắng. Không (trang trọng) thảm đỏ. Quê hương đón tiếp
tôi,
trên chiếc xe 12 chỗ ngồi, bằng một thảm rơm rạ trải dài mãi ra, dọc
con đê,
trên con đường từ Hà Nội về một làng quê ven sông Hồng, thuộc tỉnh Sơn
Tây.
Trên xe ngoài vợ chồng ông cậu, bà chị, đứa em trai, bà chị con người
bác và
đứa cháu nội của bà, còn hai bà cô bên ngoại, và một hai em học sinh
người
làng, ra Hà Nội học, nhân có xe, tiện thể quá giang.
Lộ
trình chuyến đi: Ngày đầu ghé Thanh Trì, nơi quê
cha đất tổ dòng họ Nguyễn. Ngủ tại đây, sáng hôm sau qua phà Trung Hà,
tới
Thanh Sơn quê hương nhà chồng của bà chị.
Hai vợ chồng có được một đứa con gái. Chồng vào Nam
chiến đấu, mất tích. Bà chị ở
goá từ năm 25 tuổi. Mới gần đây thôi, bà mới được công nhận là vợ liệt
sĩ. Cô
con gái đã có gia đình, được hai cháu, một trai, một gái. Ngày thứ ba,
lên Tu
Vũ, quê hương nhà chồng của bá Sửu, bà chị ruột của mẹ tôi. Trên đường
về cùng
ngày ghé Việt Trì, nơi cha tôi bị sát hại.
Sông
Hồng đang mùa nước lớn, có những khúc đê, xe mon men bên cạnh
biển. Cô
Nguyên, một trong hai bà cô của tôi cho biết, có những năm nước lớn, có
thể
ngồi trên mặt đê, để rửa ráy chân tay. Cô như muốn nhắc nhở tôi một
điều, cơn
đe dọa muôn đời của thiên nhiên đối với mảnh đất này, vẫn còn nguyên
đó. Cái
công trình vĩ đại nhất của nhân loại mà một nhà phi hành gia có thể
nhìn thấy,
từ phi thuyền, là Vạn Lý Trường Thành, nhưng theo một nhà sinh thái
học, nó
chẳng là gì nếu so với con đê ở miền bắc Việt Nam, đắp rồi lại xóa, đời
này
sang đời khác, cho đến nay, vẫn còn nguyên hiểm họa.
Cũng theo nghĩa đó, một nhà sử học cho rằng, nhà Nguyễn chấm dứt với Tự
Đức:
trong đời ông vua này trị vì, 18 lần vỡ đê. Còn với người Pháp, công
cuộc
"khai hóa" của họ chấm dứt ngay từ khi vừa tới Việt Nam, cho dù kéo
dài 100 năm: không lo đê điều, mà lại lo xây dựng đường hỏa xa Đông
Dương. Nên
nhớ Đồ Phổ Nghĩa đã nhìn Sông Hồng như là một tương lai chở của về Tây,
sau khi
đã thất bại với sông Mekong.
[Không hiểu Jean Dupuis có một cái tên Việt như trên, chỉ vì đọc lên,
nghe như
"đồ phi nghĩa"?]
Khi tôi rời đất Bắc, cô Nguyên còn nhỏ xíu. Ông ngoại tôi mấy đời vợ.
Cô Nguyên
là con bà ba. Thời kỳ cải cách ruộng đất, bà ba may mắn đem ba người
con trai
(ba ông cậu cùng học một lớp với tôi) xuống Hà Nội.
Trong
một truyện ngắn viết ở hải ngoại, do thông tin
sai lạc, tôi viết, ông ngoại tôi, nhân đội cải cách sơ ý, đã nhẩy xuống
sông tự
tử. Thực sự, ông bị bắt cùng hai cô gái út. Bị đánh đập, tất nhiên, để
khảo của.
Cô Nguyên kể, đã từng bảo bố, thôi cứ nộp vàng cho đỡ đau. Bị giam cầm,
ngay
tại Phú Cuờng, tức làng tôi, Thanh Trì, "cái nôi" của cách mạng trong
vùng. Sau bà ba cho người mang vàng về nộp đội cải cách để chuộc chồng
và con. Ông
ngoại tôi chết vì già yếu tại Hà Nội.
Nay xin đính chính ở đây.
Người
đầu tiên, ngoài ba người thân đã viết ở trên, "đại
diện" Hà Nội tiếp đón tôi, là một "người ở Thanh Xuân", (Thanh
Xuân, Hà Đông, nay thuộc Hà Nội)
Tôi
có số diện thoại và địa chỉ của anh, qua một bạn
văn, hiện ở Đức sau khi bức tường Berlin
sụp đổ. Ngay khi còn nhấp nha nhấp nhổm trên chiếc ghế, tại căn nhà của
ông cậu,
tôi đã điện thoại cho anh…. "Như vậy là chiều nay tụi mình sẽ gặp
nhau",
anh trả lời. Hà Nội đang nóng như thế, chợt đổ mưa. Và tôi đã phải "trả
giá" cho sự mát mẻ bằng một cú điện thoại của người bạn chưa từng gặp.
Anh
cho biết, khu vực nhà anh ngập nước, và hẹn bữa khác.
Bữa
khác, là ngay ngày hôm sau.
Hai
đứa chúng tôi, lần đầu gặp nhau, dưới cơn mưa Hà
Nội.
***
Đêm
giã từ Hà Nội (chữ của Mai Thảo), của tôi,
tại một quán cà phê ngay bên bờ Hồ, có "người ở Thanh Xuân", cùng một
số bạn bè mới quen khác, trong có Nguyễn Việt Hà, tác giả "Cơ hội của
Chúa", một cuốn tiểu thuyết gây chấn động cả ở trong nước lẫn hải
ngoại.
Tôi hỏi đùa anh: "Bao giờ thì anh viết tiếp, cơ hội của chúng ta?"
Của
Hà Nội?
***
Quán có tên Rendez-vous (Điểm Hẹn), gần ngay bên hồ, kế bên khách sạn
Phú Gia,
nơi ngày xưa nổi tiếng với món vịt quay, như lời chỉ dẫn của Sơn, người
bạn mới
quen. "Anh cứ nói cho tới Phú Gia cũ là taxi hay xe ôm biết liền".
"Cho
tôi một đời khác và tôi sẽ hát ở Café
Rafaella. Hay giản dị chỉ ngồi ở đó." (Joseph Brodsky). Ngồi đây, tôi
chỉ
nhớ, nó rất gần rạp Lửa Hồng ngày xưa, một rạp ciné của hướng đạo,
chuyên chiếu
những phim như Tarzan, Zorro, cho đám con nít nhà nghèo thành phố. Một
trong những
thiên đường tuổi thơ của tôi.
Nhà
thơ người Nga Joseph Brodsky, trong bài Chiến Lợi
Phẩm, viết về những kỷ niệm ấu thời của ông trong thành phố St.
Petersburg, đã
nhắc đến tiếng hú của người rừng Tarzan, và khẳng định một điều, vào
những năm
đầu thập niên 1950, loạt phim Tarzan đã "đọc bài ai điếu cho chủ nghĩa
Stalin"
(de-Stalinization), còn hơn tất cả những bài diễn văn của Khrushchev ở
Đại hội
lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên xô, và sau đó.
Những
phim Tarzan, Zorro, và những phim sau đó, khi
thằng bé lớn hơn một chút, thì cũng vẫn những phim mà Joseph Brodsky đã
từng mê
mẩn, như Đại uý Blood, Tướng Cướp Rừng Xanh (Robin Hood)… là những món
quà Hà Nội
dành cho tôi, một thằng bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội để học. Ôi
chao, tôi
vẫn còn nhớ một trong những niềm vui lớn lao của lũ học trò chúng tôi
hồi đó,
là sưu tầm những tờ chương trình, đúng ra là những tờ tóm lược một cuốn
phim
đang được trình chiếu. Một tờ chương trình, cũng một phim đó, ở rạp
Majestic lẽ
dĩ nhiên bảnh hơn của một rạp khác, thí dụ vậy. Tuy lớn hơn nhà thơ
Nobel ba
tuổi, nhưng tôi chẳng thể nào có được một "sở hữu thiêng liêng" như
ông: hình tài tài tử Errol Flynn trong phim Sea
Hawk: "Trong nhiều năm tôi [Brodsky] đã cố gắng bắt chước hứ hứ cái
cằm,
và nhúc nhích lông mày bên trái. Cái sau thì tôi thua." Và tôi [đứa con
của Hà Nội] cũng không làm sao có tình yêu, mà nhà thơ nói là ông cùng
chia sẻ
nó với… Hitler: mối tình lớn, của thời niên thiếu, với cô đào [người
Đức] Zarah
Leander. Nhà thơ chỉ được coi mỗi một lần, mỗi một phim, của cô đào
này,
"Road to the Scaffold" (Đường tới Đoạn Đầu Đài, tên tiếng Đức: Das
Herz einer Konigin), về cuộc đời hoàng hậu Scotland,
Mary, Queen of Scots.
[Chắc là nhà thơ không được biết, con trai tài tử Errol Flynn đã tham
dự cuộc
chiến Việt Nam
như là một nhiếp ảnh viên của hãng UPI, và tử trận – như một nhiếp ảnh
viên - tại
đây].
Tôi nhắc tới rạp Majestic ở phố Huế, bởi vì chỉ
còn nó là sống sót, sau Hà Nội tiếp quản, sau Hà Nội cải cách ruộng đất
– đại
bác đêm đêm dội về thành phố, người phu địa chủ quét đường, dừng chổi
lắng
nghe! – sau Hà Nội Nhân Văn Giai Phẩm, sau Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi - và
để đánh
đổi sự sống sót, nó đành mất tên, trở thành Rạp Tháng Tám.
Ông
cậu cho tôi biết, tiền thân của nó là Majestic.
Anh
chàng xe ôm bảo tôi: đây là rạp xi nê độc nhất của
Hà Nội bây giờ.
Lẽ
dĩ nhiên đường từ St
Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục,
cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn
chương, đã
tuyên bố như vậy. Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và
tuyên
bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.
Nguyễn
Quốc Trụ
Chú
thích hình: Từ trái qua phải: Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ
Minh Tuấn, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, buổi tối
tại quán
cà phê Rendez-vous (Điểm Hẹn) bên Bờ Hồ Hà Nội (tháng Sáu 2001).
Note:
Bản gốc, lần đầu tiên đăng trên Việt Mercury
1 YEAR AGO TODAY
Wed, May 7, 2014
Quoc Tru Nguyen
May 7, 2014 at
9:43pm ·
Về hai mùa xuân lớn và về anh/chị em
nhà Skvorecky
1
Khi, vào tháng Chín 1968, bị chấn
thương nặng nề do cú Liên Xô xâm lăng Tchécoslovaquie, tôi tới Paris
dưỡng thương
vài ngày. Josef và Zdena Skvorecky cũng có ở đó. Hình ảnh 1 chàng thanh
niên
trở lại với tôi, và 1 giọng điệu thật hung hăng: “Đám Tchèques như các
người,
thực sự muốn gì? Bộ tụi mi quá chán chủ nghĩa xã hội rồi ư?”...
Continue
Reading
The Fashionable Life
Thăm chốn
nghỉ dưỡng nằm giữa mây trời của nhà văn Nguyễn Quí Đức
Nhà văn Nguyễn
Quí Đức đã chia sẻ với Harper’s Bazaar Việt Nam về không gian sáng tạo,
nơi nghỉ
dưỡng độc đáo của mình tại Tam Đảo
The Scene of the Crime
Chuyến đi Mỹ Lai của 1
phóng viên và những bí mật của quá khứ
Seymour M. Hersh
Nguyen Qui
Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular
bar and
restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen.
Thirty-one
years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning
journalist
and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to
come back
and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and
living as
someone else in the United States. I was grateful for the opportunities
in America,
but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time
as a
reporter for National Public Radio, and fell in love with it."
The New
Yorker, My Lai Revisited, Mar
30 2015
NQD nhà văn Mít 57 tuổi,
chủ nhân 1 nhà hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi. Tớ
luôn muốn
về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ
chưa xong, không đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi
17 tuổi,
và sống như 1 ai đó ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó
ban
cho tớ. Nhưng
cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền.
Note:
Nhà văn NQD trả lời ký giả The New Yorker, về cái vụ ông không làm sao
lưu vong được
Như
vậy, cái phần chưa xong, chưa đầy đủ đó, bây giờ chắc đầy đủ rồi?
Nhân
"Meursault, Phản Điều Tra" đợp Goncourt (1)
Hai cuộc chiến, với Pháp, và
với Mẽo, cuộc chiến đầu thì còn có thể đổ cho dã tâm của anh Tây muốn
trở lại
Việt Nam.
Và câu của Gordimer vinh danh Camus là lời phê bình đích đáng nhất đối
với mẫu
quốc ngày nào của dân Mít:
FOREWORD
Albert
Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror
Our
twentieth century is the century of fear.... We live in terror.
-ALBERT
CAMUS,
"The
Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)
I have
always believed that if people who placed their hopes in the human
condition
were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there
will be
only one honorable choice: to wager everything on the belief that in
the end
words will prove stronger than bullets.
Tôi
luôn luôn tin rằng,
nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người - khùng,
thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin,
sau
cùng chữ mạnh hơn đạn.
-ALBERT
CAMUS,
"Toward
Dialogue" (Combat, November 30, 1946)
Nadine
Gordimer
chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus
in what began as an underground newspaper during the German of
Occupation of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
*
Cuộc chiến chống Mẽo,
có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là
những gợi ý
của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành
lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan
tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao
tránh khỏi
cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc
gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra
một lời
giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp
ngựa để thắng
cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh
Miền Nam,
và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng
chẳng ai
cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở
tung, và con
quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết
trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến,
chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương,
trong hồn,
trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe
nanh múa vuốt
xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
*
Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải
thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi
chuồng
heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của
Gogol, sự xuất
hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu
tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân",
hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào
má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ
gọi anh
là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự
mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng
mảnh
dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai
quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao
đổi ma
quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị
(offering) thân
chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ
lấy đi
còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi
chuyến đi với
cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an
bài"!
Tchekhov
và
Kafka
Bạn
cũng có thể hình dung ra
con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp
cho anh
bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made
in China’,
và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu,
núi đâu,
gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?
Nam Le, bestseller
Anh
cũng nhớ ông bố đã từng
quất cho anh hai chục lần rồi xát dầu cù là con hổ lên vết thương. Và
anh
biết được một điều là bố anh đã từng chứng kiến vụ tàn sát Mỹ Lai, khi
ông mới
14 tuổi, và may mắn sống sót, nhờ nằm bên dưới một cái hố, trên là
những xác dân làng,
trong có mẹ ruột của ông, tức bà nội của anh, trên một chục mạng bị
lính Mỹ xả
súng máy, sát hại.
Sau vụ Mỹ Lai, cha của nhân vật
kể chuyện đã gia nhập quân đội VNCH và chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ;
khi được
hỏi tại sao ông có thể chiến đấu cùng với họ sau khi chứng kiến vụ tàn
sát đó, ông
trả lời: “Ta chẳng còn gì ngoài hận thù. Nhưng ta có đủ hận thù cho tất
cả mọi
người.” Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông bị đầy đi trại cải tạo, bị tra
tấn, và bị
bỏ đói. Vào năm 1979, ông tổ chức cuộc vượt trốn của gia đình, qua Úc.
*
Cái tít truyện “Love and
Honor”, là từ Diễn văn Nobel của Faulkner:
THE
BOAT is an engaging and
free-wheeling collection of seven short stories by first-timer Nam Le,
organized in a cleverly self-referential package. In the pivotal first
story,
"Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice" (a
title drawn from William Faulkner's Nobel Prize acceptance speech in
1950), a
young Vietnamese American lawyer-turned-aspiring author named Nam is visited by his father, just
arrived from Australia.
Nam has
settled in Iowa
to attend the renowned Iowa Writer's
Workshop.
As he struggles to meet its
creative demands and beat his own writer's block, a friend encourages Nam simply to write about Vietnam,
since
"ethnic literature's hot." Another friend differs: "It's a
license to bore. The characters are always flat, generic." It's that
last
friend who tosses out as an aside, "You could totally exploit the
Vietnamese thing. But instead, you choose to write about lesbian
vampires and
Colombian assassins, and Hiroshima
orphans - and New York
painters with hemorrhoids." And thus is THE BOAT.
The second story follows the
perilous life of Juan Pablo Merendez, an adolescent assassin in Medillin, Colombia
as he is called to task by his boss for failing to carry out an
execution. Next
comes "Meeting Elise," the story of an aging, hemorrhoid-afflicted
painter seeking desperately to make amends with his estranged (and
engaged)
daughter as she makes her Carnegie Hall debut as a concert cellist.
Another
story, titled simpy "Hiroshima,"
traces the life of a young Japanese girl moved to the safety of the
nearby
countryside in the days immediately preceding the dropping of the
atomic bomb.
"Hiroshima" is sandwiched between two
other stories, one a "coming of age" story in a coastal Australian
town, the other a "coming to life's purpose" story in Tehran, Iran.
After this whirlwind tour, Nam Le returns for the finale to Vietnam
for his
title story, "The Boat." Not surprisingly, this one is a flight and
survival story, focusing on Mai, a young girl cast adrift for days in
the
Pacific with two hundred other refugees on a smugglers' trawler that
has lost
its engines.
So what to make of the
metastructure? In Nam Le's opening story, the writer Nam
succumbs to the pressure of his
writing assignment and opts to "exploit the Vietnamese thing." He
interviews his father, a survivor of the My Lai
massacre, and converts this horrific story relatively quickly and
easily into
typewritten copy. He awakens the next morning to discover that his
father has
read and then destroyed the one and only copy. Has Nam Le the author
discarded
ethnic literature of his own (the figurative tearing up of the My Lai story by his fictional father in the
first story)
for that of Colombians, Japanese, Iranians, and Australians? And has
he, upon
attempting to step outside his own ethnicity and into the skins of
others,
returned unsatisfied to his own Vietnamese experience for his closing
story? Is
the reader intended to compare the relative merits of Nam's
own
ethnic (Vietnam-based) stories with those drawn from the world at
large? Or are
we to see the opening and closing stories as literary "brackets" of
the immigrant/ethnic literature genre, one a tale of departure or
escape, the
other of adaptation and assimilation?
There seems little doubt that
the opening and closing stories are Nam Le's most affecting. The opener
is
touching in its treatment of intergenerational relationships and
differences in
perception, while the closer is a harrowing tale of sun, salt, thirst,
and
death for the sake of freedom. In between, the other stories show
notable
flashes of literary command, but only the "Cartegena" story in Colombia
engages the reader with anything approaching the story-telling power of
the
opening and closing Vietnamese stories.
Perhaps Nam's fictional
friend in his opening story is correct, that one writes best about what
one
knows best, that it really is best to "totally exploit" ethnic
literature. In Nam Le's case, THE BOAT shows an emerging authorial
talent that
promises the possibility of compelling ethnic literature as well as a
future
range well beyond "the Vietnamese thing." It is quite easy to
recommend this book on its merits and also advise readers to keep a
watchful
eye out for Nam Le's next effort.
Steve Koss (New York, NY United States)
*
The poet's, the
writer's, duty is to write about these things. It is his privilege to
help man
endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor
and hope
and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the
glory of
his past. The poet's voice need not merely be the record of man, it can
be one
of the props, the pillars to help him endure and prevail.
William
Faulkner: Nobel Prize
Speech
Stockholm, Sweden
December 10, 1950
Như vậy Nam Le này,
cũng một thứ cứ "lải nhải" Faulkner, chăng?
Gặp Hà Nội 1
phát là mê liền.
Chưa ghê bằng
1 ông nhà văn Mít hải ngoại, Bắc Kít 1954, bị bố mẹ bắt di cư, rồi bắt
qua Mẽo,
mất mẹ căn cước Mít, về Hà Nội, nhìn hai vết đạn Tẩy để lại trên thân
thể Hà Nội
mà đau như cắt, và khi hỏi, về không, làm sao không, về đâu, Hà Nội chứ
đâu nữa!
Ở hay Về
Với Hà
Nội,
tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng tôi chẳng biết gì về nó. Chưa kịp
có chút
ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ.
Kẻ
lạ cũng
là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Tôi chẳng
bao giờ khóc vì nhớ thương Hà Nội như Vũ Bằng, nhưng một hôm có
người
bạn hỏi
đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ chọn ở nơi đâu.”
Không kịp
suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội chứ còn đâu nữa.”
Nguồn
Trở lại nơi một thời vang bóng
Lẽ
dĩ nhiên đường từ St
Petersburg tới Stockhom đi qua địa ngục,
cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài diễn văn nhận giải Nobel văn
chương, đã
tuyên bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và
tuyên
bố:
Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua địa ngục.
Nguyễn
Quốc Trụ
Cứ theo lịch
sử mà nói, thì luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao
chúng ta không nói ngược lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến
lượt Gấu
buộc tội xứ sở Mít phản bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của
Ha Jin, trong bài Ngôn ngữ Phản bội, The
Language of Betrayal, trong
Nhà văn
như là Di dân, The writer as Migrant.
Ông giải
thích thêm:
Rất nhiều xứ
sở là những tên phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ
hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến
nhà văn
đếch làm sao viết với sự chân thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ
sĩ.
The worst
crime the country commits against the writer is to make him unable to
write
with honesty and artistic integrity. (1)
Ghi
chú
trong ngày
Trong Khi Chờ
Tầu!
[Tầu, means Tẫu]
Nhân đọc mẩu
viết về “tầu hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo
này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong
Khi Chờ Godot, và đây là dụng ý
của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT
LE TRAIN
MÉDITANT SUR
TOLSTOI ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner
ouvre une brève
parenthèse pour souligner le role stratégique des quais de gare chez
ces deux auteurs.
Leurs trajectoires, si souvent opposées et dont Steiner s'applique à
minorer
les divergences, se trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II
ne
faudrait pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à
l'indicateur
Chaix et encore moins à une littérature de gare, encore que lire Guerre et Paix dans le Transsibérien
demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme
ceux de
Dostoievski aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture
de L'ldiot, quand le prince Muichkine et
Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou
encore à
la tragédie
d'Anna Karénine qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on
le sait, part pour la guerre. II existe d'autres destinations plus
enviables. D'autant que
le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses
héros vers
de lointaines et mythiques frontières, là où campent les Cosaques, les
tribus
du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros
tolstoien s'évade
volontiers à la
campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection
de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son salut dans
le
royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des Possédés
conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
Quand,
rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part.
Ainsi Tolstoi,
abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les
lieux de sa
jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui
est à ses
trousses. « Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une petite gare,
à Astapovo, où il mourra en laissant sur sa table de chevet deux
livres, ultimes compagnons
de voyage: Les Frères Karamazov et
les Essais de Montaigne.
La Russie et
l'Europe sont les deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait
Stendhal. De son coté,
Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif...
Reconnaissant
sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à Ivan
Karamazov: « Je veux
voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant, je sais
que je
ne trouverai qu'un cimetière un très précieux cimetière, voilà ce que
c'est! »
Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait à Paris,
Rome ou Vevey.
Indifférente
à tant de transports, l'Europe à longtemps consideré avec froideur et
réticence
les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos, l'absence
de contraintes
esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces «
grands monstres
informes », selon la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a
écrit pas
moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il
se risqua
à bâtir une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec
l'infinité,
il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman ménage un
prélude à
l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit
même trois
pour éviter de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature
russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+
(1) George
Steiner, Tolstoi ou Dostoievski,
traduit de l'anglais par Rose Celli, réed, 10/18, 2004.
hồng vệ binh
30/4 (1)
Note: Được,
được!
V/v Nhà thơ Đại
Hàn này, TV cũng đã đi 1 đường bình loạn, khi anh “thú tội trước bàn
thờ” [thuổng Kiệt Tấn: anh viết, thú hơn, nhưng Gấu không tiện lập lại
ở đây!], 1 dòng thơ trong bài thơ thần sầu "quê hương", không phải của
ảnh!
Phúc
phương phì
Câu cuối
không hề có!
Ui
chao, trễ quá rùi
Một độc giả Tin Văn,
chắc là nữ độc giả, sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không
thể lớn thành người, đã viết mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ
thi sĩ với Kim Phúc được, vì một lý do rất giản dị, không một người phụ
nữ nào muốn cái chuyện, thân thể của mình bị mang ra làm trò, bất cứ
trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn. For Your Eyes Only, không
nhớ sao, Chú/Bác Gấu?
Bà/Cô nhắc tuồng Gấu:
Phải so sánh với trường hợp Grass, và cái chân lý về thế kỷ bửn, thế kỷ
Lò Thiêu, Lò Cải Tạo: Không ai muốn từ giã nó mà trên người không có
tí… cứt!
Quả có thế: Đỗ Thi Sĩ
chẳng có tí gì dơ dáy, sau một cuộc chiến nhơ bẩn như vậy!
PXA than địa ngục hết chỗ, ông không biết đi đâu, không phải vì ông
nghĩ ông sạch, mà là vì cỡ như ông, phải có một nơi nào khác, thí dụ,
Lò Luyện Ngục. Nhưng nếu nói huỵch tẹt ra thì cao ngạo quá. Nên nhớ,
chỉ những thứ long trời lở đất, khi còn sống, thì chết, mới được đưa
xuống Lò Luyện Ngục, Purgatoire, thí dụ Sartre, Aragon, chẳng hạn.
Văn Hóa vs Cái
Ác Bắc Kít
“Je suis une
sorte de survivant, tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như
vậy về ông, là cũng từ cái ý thế kỷ bửn mà không có tí cứt trên người,
là đếch
có được!
Nhờ ông già khôn như… Bắc Kít,
gia đình ông chạy kịp trên chuyến tầu chót rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông
già của
ông sau đó, chắc cũng đau vì sống sót nhờ khôn quá, khi ông con tính
định cư luôn
ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì thằng Hít Le quá đúng rồi, quá có lý,
còn cái
mẹ gì để mà nói nữa, và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại Âu Châu,
quanh quẩn
bên mớ tro than Lò Thiêu.
Cái cú gia đình
Steiner thoát Lò Thiêu vào phút chót, gần như 1 phép lạ, như ông kể với
tờ The
Paris Review, (1) làm Gấu nhớ đến “phép lạ Mỹ
Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót không
bật ra cái ý nghĩ, nhường cho hai ông bạn người Phi hai ghế trong, quay
lưng vào
bờ, nhìn ra sông Sài Gòn về đêm với ánh đèn chói lòa tung tăng trên
sóng nước, thì
đâu còn anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không
được VC thưởng cho hai trái mìn, thì Gấu dính cú Tổng Động Viên, và có
thể
cũng mất xác rồi cũng nên, hà hà!
Y chang chuyện
tái ông thất mã!
Ly kỳ nhất,
là cái lần đầu đi trình diện, gặp tay y bác sĩ quân y, ông ta coi cái
hình cánh
tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì đi, sợ gì, nhưng Tết
đến đít rồi, thế là Gấu bèn trả lời, OK, đi, nhưng ông cho tôi ăn Tết
với gia đình
1 phát, rồi ra Giêng ngày rộng tháng dài, tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu, và cho Gấu
hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những
lần sau, mấy ông y sĩ khác bắt chước ông thứ nhất, cho mày 3 tháng!
The Keening
Muse
Trở lại nơi một thời vang bóng
Cứ theo
lịch
sử mà nói, thì luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao
chúng ta không nói ngược lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến
lượt Gấu
buộc tội xứ sở Mít phản bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của
Ha Jin, trong bài Ngôn ngữ Phản bội, The
Language of Betrayal, trong
Nhà văn
như là Di dân, The writer as Migrant.
Ông giải
thích thêm:
Rất nhiều xứ
sở là những tên phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ
hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến
nhà văn
đếch làm sao viết với sự chân thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ
sĩ.
The worst
crime the country commits against the writer is to make him unable to
write
with honesty and artistic integrity. (1)
Barthes là
Thầy của GCC, thời mới lớn, khi tiếng Tây của Gấu ăn đong, nhưng không
hiểu sao,
Gấu cực kỳ bướng bỉnh, tự hứa với chính Gấu, mi phải đọc Barthes, cũng
như phải
đọc Lukacs, thí dụ.
Khác hẳn
Camus, Gấu đọc Camus là để tìm… Gấu, còn đọc Barthes là để tìm văn
chương, đọc
Lukacs, Henri Lefebvre… là để hiểu Mạc Xịt, và liệu có phải nó là
nguyên nhân của
cuộc chiến Mít.
Ba cái chuyện
lẩm cẩm này, bây giờ nhìn lại, thì viết như vậy, chứ hồi đó chưa nhận
ra.
Mua lại như
1 kỷ niệm thời mới lớn, nhưng còn là do, khi đứng ở tiệm sách, tình cờ
đọc 1 bài
trong đó, Barthes phân biệt sự khác biệt giữa 1 tên nghèo, và 1 tên sô
sản, khi
viết về những phim của vua hề Charlot.
The Poor and
the Proletariat
Charlie
Chaplin's latest gag has been to transfer half of his Soviet prize into
the
funds of the Abbé Pierre. At bottom, this amounts to establishing an
identity
between the nature of the poor man and that of the proletarian. Chaplin
has
always seen the proletarian under the guise of the poor man: hence the
broadly
human force of his representations but also their political ambiguity.
This is
quite evident in this admirable film, Modern
Times, in which he repeatedly approaches the proletarian theme, but
never endorses
it politically. What he presents us with is the proletarian still blind
and
mystified, defined by the immediate character of his needs, and his
total
alienation at the hands of his masters (the employers and the police).
For Chaplin, the proletarian is still the man who is hungry; the
representations of hunger are always epic with him: excessive size of
the sandwiches,
rivers of milk, fruit which one tosses aside hardly touched.
Ironically, the
food-dispensing machine (which is part of the employers' world)
delivers only
fragmented and obviously flavorless nutriment. Ensnared in his
starvation, Chaplin-Man
is always just below political awareness. A strike is a catastrophe for
him
because it threatens a man truly blinded by his hunger; this man
achieves an
awareness of the working-class condition only when the poor man and the
proletarian coincide under the gaze (and the blows) of the police.
Historically, Man according to Chaplin roughly corresponds to the
worker of the
French Restoration, rebelling against the machines, at a loss before
strikes,
fascinated by the problem of bread-winning (in the literal sense of the
word),
but as yet unable to reach a knowledge of political causes and an
insistence on
a collective strategy.
But it is precisely because Chaplin portrays a kind of primitive
proletarian, still outside Revolution, that the representative force of
the
latter is immense. No socialist work has yet succeeded in expressing
the
humiliated condition of the worker with so much violence and
generosity. Brecht
alone, perhaps, has glimpsed the necessity, for socialist art, of
always taking
Man on the eve of Revolution, that is to say, alone, still blind, on
the point
of having his eyes opened to the revolutionary light by the 'natural'
excess of
his wretchedness. Other works, in showing the worker already engaged in
a
conscious fight, subsumed under the Cause and the Party, give an
account of a
political reality which is necessary, but lacks aesthetic force.
Now Chaplin, in conformity with Brecht's idea, shows the public
its blindness by presenting at the same time a man who is blind and
what is in
front of him. To see someone who does not see is the best way to be
intensely
aware of what he does not see: thus, at a Punch and Judy show, it is
the
children who announce to Punch what he pretends not to see. For
instance, Charlie
Chaplin is in a cell, pampered by the warders, and lives there
according to the
ideal of the American petit-bourgeois: with legs crossed, he reads the
paper
under a portrait of Lincoln; but his delightfully self-satisfied
posture
discredits this ideal completely, so that it is no longer possible for
anyone
to take refuge in it without noticing the new alienation which it
contains. The
slightest ensnarements are thus made harmless, and the man who is poor
is
repeatedly cut off from temptation. All told, it is perhaps because of
this
that Chaplin-Man triumphs over everything: because he escapes from
everything,
eschews any kind of sleeping partner, and never invests in man anything
but man
himself. His anarchy, politically open to discussion, perhaps
represents the
most efficient form of revolution in the realm of art.
Roland
Barthes
Khách sạn
Hilton, Hà Nội
Chẳng có ai
người cười nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những
người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh
tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong
đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo
hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì
đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh
biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu
chở súc vật rú lên
Ngôi sao thần
chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc
Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới
gót giầy máu
Dưới bánh xe
chở tù.
Không phải
tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm
sao
chịu nổi nỗi đau đó
Hãy
choàng
nó bằng vải liệm đen
Và mang
đèn
đi chỗ khác
Đêm rồi!
Akhmatova: Kinh
Cầu
Note: Bài giới
thiệu tập thơ Akhmatova, của Brodsky, được in trong Less
Than One, với cái tên: The Keening Muse. Nữ thần
thơ ca ai oán
TV sẽ dịch
bài này, làm thành“bộ ba”, “trilogy”, hai bài còn lại là Trong
Căn Phòng Rưỡi, Tưởng Niệm Nadezhda
Mandelstam [1899-1980].
Akhamatova,
có vẻ như được sửa soạn để đóng cái vai của bà, hơn hầu hết những nhà
thơ cùng
thời. Ngoài ra, vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà 28 tuổi , không quá trẻ để
tin hay
không tin, và cũng không quá già để biện minh cho nó. Sau đó, là 1
người đàn
bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì cũng khó mà thổi Cách Mạng,
hay kết
án nó. Bà cũng không quyết định thay đổi trật tự xã hội….
Đọc bài viết của Brodsky
về Akhmatova,
nữ thần thơ bi ai Nga, thì Gấu ngộ ra điều, tại sao mà GCC này chịu
không nổi,
phải nói, tởm, cái giọng của đám VC ly khai, thứ ngôn ngữ nhơ bẩn, “máu
què”,
thí dụ, cũng như cái giọng gà mái gáy của Sến, vẫn thí dụ.
Nhà thơ chỉ phán một câu
thôi: Bà nhận
ra nỗi đau, she recognized grief.
Và trước đó,
Brodsky giải
thích:
Bà không vứt Cách Mạng vào
thùng rác. Một dáng đứng thách đố cũng đếch hợp
với bà. Bà giản
dị coi nó như là nó có, và chấp nhận nó, như là nó xẩy ra: cơn đau của
cả nước, đau chừng nào, nỗi đau của mỗi cá nhân, đau theo chừng đó.
The
poet is a born
democrat not thanks to the precariousness of his position only but
because he
caters to the entire nation and employs its language: Nhà thơ sinh ra,
và bèn dân
chủ, không phải chỉ vì cái bấp bênh của dáng đứng, vị trí của mình,
mà còn bởi
cái sự mua vui cho đời, cho cả nước, và sử dụng cái ngôn ngữ của nó.
Cũng thế,
là bi kịch.
Đâu
có phải cứ đụng tới chữ nghĩa, tới văn chương, tới thơ ca, là vãi
nước
đái ra, hoặc văng tục, hoặc gáy?
Bearing the
Burden of Witness:
Requiem
Requiem was born of an event that
was
personally shattering and at the same time horrifically common: the
unjust
arrest and threatened death of a loved one. It is thus a work with both
a
private and a public dimension, a lyric and an epic poem. As befits a
lyric
poem, it is a first-person work arising from an individual's
experiences and
perceptions. Yet there is always a recognition, stated or unstated,
that while
the narrator's sufferings are individual they are anything but unique:
as
befits an epic poet, she speaks of the experience of a nation.
The Word
That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi
Thần Chết chạy có cờ
Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi
đau cá nhân
xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung của cả nước, một
cách cực
kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và cái chết đe dọa
người thân thương
ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư
mọi người,
rất ư công chúng, một bài thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó là
tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh
nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn
rên rỉ như thế, thì nó lại là độc
nhất: như sử thi, bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc gia….
Đáp ứng, của
Akhmatova, khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi sĩ, nhà ngữ
văn, trong
danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản án, vì tội âm mưu, phản
cách mạng,
cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người chết và gìn giữ hồi ức của
họ
giữa người sống, the determination to honor the dead, and to preserve
their
memory among the living….
Solzhenitsyn
đã không nhận ra điều này, như trong cuốn sách kể ra, về lần gặp gỡ
giữa ông và
Akhmatova...
Sĩ
phu Bắc Kít vs Dalai Lama
Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ
phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng
Nobel Toán!
Thú vị
quá, với riêng Gấu,
Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!
“Tôi
nói
với
Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị thiến
mất 1 mẩu,
đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”. Đức Dalai
Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong lần lèm
bèm
giữa
chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012
Evil Axis
Nhân đây
tôi cũng hi vọng bài viết này không bị tất cả các trang của chính quyền
ma này
đồng loạt đăng lại, như trường hợp bài “Báo quan” mới đây. Không thể
tránh,
nhưng tôi không mong có những đồng minh bất ngờ như thế. (1)
Đám mê
đội dĩa Sến
[như DDTK, NV của băng Cờ Lăng, Diễn Đàn HV… thí
dụ], có thấy nhục & nhột... không?
NQT
|
|