
|
Cali Nov
2012 With HA
Thuần Hương, Việt Nam, 2010

Nguyễn Đình
Thuần & Trương Đình Quế & Nguyễn Quốc Thái, Việt Nam, 2010
Gấu quen TDQ qua NDT, tại quán cà phê Bà Lê Chân của Nguyễn Huy Tưởng
Một đoạn đời cực thê lương, nhưng bây giờ nhìn lại, đẹp làm sao.
[April 1920]
Dear Frau
Milena
…
So, I’m expecting
one of two things. Either continued silence, which means: “Don’t worry,
I’m
fine.” Or else a few lines.
Cordially
Kafka
It occurs to
me that I really can’t remember your face in any precise detail. Only
the way
you walked away through the tables in café, your figure, your dress,
that I
still see
Ui chao đúng
là tình trạng của Gấu Cà Chớn bữa đó, ở Starbucks, Quận Cam, và bây giờ
nhớ lại:
Không làm sao nhớ ra nổi khuôn mặt của Sad Seagull, mà chỉ là cái dáng
đi tất tả
giữa những cái bàn đầy người ngồi… Chỉ là cái dáng đi, cái thân hình
thấp thấp,
và không phải cái áo dài, mà là quần jean màu xanh….
When You Are
Old
When you are
old and grey and full of sleep,
And nodding
by the fire, take down this book,
And slowly
read, and dream of the soft look
Your eyes
had once, and of their shadows deep;
How many
loved your moments of glad grace,
And loved
your beauty with love false or true,
But one man
loved the pilgrim soul in you,
And loved
the sorrows of your changing face;
And bending
down beside the glowing bars,
Murmur, a
little sadly, how Love fled
And paced
upon the mountains overhead
And hid his
face amid a crowd of stars.
Yeats
Nostalgia
for the Present
At that very
instant:
Oh, what I
would not give for the joy
of being at
your side in Iceland
inside the
great unmoving daytime
and of
sharing this now
the way one
shares music
or the taste
of fruit.
At that very
instant
the man was
at her side in Iceland.
-A.S.T.
J.L. Borges
*
NDB:
Đỗ Long Vân
thuộc băng đảng nào hồi đó đó?
NQT [ngớ ra,
sau đó phán đại]:
Ông ta hay
viết cho Trình Bày, vậy là
thuộc băng [phản chiến] Trình Bày!
*
Đỗ
Long Vân viết Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, tại
Sài Gòn, vào năm 1967.
Cuộc chiến, "ba mươi năm nội chiến từng ngày": Ở bên ngoài Sài Gòn.
Xa. Xa lắm
Những ngày Mậu Thân 1968. Một năm sau đó. Chưa có. Chẳng thể nào có.
Vậy mà người đọc vẫn cảm thấy, chúng, cái thực, cái chết chóc, cái hung
bạo, hiện
diện ở trên từng trang sách.
Khi cảm thấy độc giả hơi lơ là với nó, tác giả cảnh cáo: Tại sao, tại
sao...
Tôi tin
rằng, sau này, sử gia, tiểu thuyết gia, nhân loại gia... muốn nhìn lại
những ngày Mậu Thân, không thể bỏ qua Vô
Kỵ giữa chúng ta của Đỗ quân.
Đâu phải tự
nhiên Thánh Thán bỏ công đọc truyện trai gái ở dưới Mái Tây.
Một nhà cách mạng Việt Nam (Nhượng
Tống) bỏ công dịch nó.
"Vở 'Mái
Tây' tôi dịch hầu các bạn đây nguyên là một vở tuồng Tầu. Người
viết vở tuồng ấy là Vương Thực Thủ đời Nguyên. Cũng như tất cả các nhà
viết tuồng
ở Đông hay Tây phương thường lấy một truyện xưa làm 'lam bản', họ Vương
viết
truyện này lấy truyện 'Hội Chân' làm lam bản. 'Hội Chân' nghĩa là 'gặp
tiên'....."
[Nhượng Tống: Cùng Bạn Đọc.
Viết trên Phong Mãn Lâu đêm 25.1.1942]
[Trích từ bản in của nhà xb Văn Học, Hà Nội. 1992]
[Bạn đọc để
ý: thời gian Nhượng Tống dịch Mái Tây, là trước 1942, rõ hơn: trước
Cách Mạng Mùa Thu. Đỗ Long Vân viết Vô
Kỵ giữa chúng ta: trước 1968, trước biến
cố Mậu Thân, mà trận địa chính của nó là Sài Gòn, “hang ổ của Mỹ Ngụy”,
nói
theo những người CS, hay nói theo Đỗ quân: "Hiện tượng Kim Dung như thế
nào? Nó có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tại sao lại có
thể xẩy
ra? Ấy là những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp
thuyết"].
Đâu phải tự
nhiên, thay vì viết về cuộc chiến Tây Sơn, và một ông vua Gia
Long người miền nam thống nhất đất nước sau đó, Nguyễn Du viết về một
con điếm ở
mãi bên Tầu, bán mình chuộc cha....
NQT
đọc Nắng Hồng Phương Nam, của NCK
Nhìn hình,
thì lại nhớ, cũng cảnh này, Phan Tấn Hải ký vội mấy cuốn sách tặng Sad
Seagull
và Gấu, ở 1 quán cà phê Starbucks, rồi vội vàng từ giã "cặp tình nhân"
- một, cũng gần nửa đời người, một, ngày một ngày hai, lên chuyến tàu
suốt – đi làm.
Em phán, cấm
chụp hình, khi Gấu đề nghị, và còn chỉ cái đầu của Em, những hình ảnh
nếu có đẹp
thì ở trong này, làm sao "Bác" chụp được?
Bà vợ NDT dặn,
nhớ chụp hình nhe, để coi Em của anh Trụ xinh đẹp cỡ nào!
Gấu đã sợ,
không làm sao nhớ nổi khuôn mặt của Em, và đúng như thế.
Giả như số mệnh cho gặp
lại, thì cũng thua!
Ui chao lại
nhớ bài thơ của Borges, trên, hình ảnh của Em, với Gấu,
thì đúng là như vậy.
.... my own
destiny, formed from anxieties, love and futile upsets
and that of
that metal disk
carried away
by the water to the quiet depths
Phan Tấn Hải
rất quí Gấu.
Câu phán của anh về Gấu mới thật là tuyệt, viết ngàn ngàn trang sách,
chưa 1
lần sơ thất!
NTV giải thích, đây là do
hai cái huyệt "nhâm đốc" - cái con khỉ gì
đó, Gấu đâu biết - đã được thông, thành ra viết cái gì cũng không sợ
THNM!
Ui chao, lại
tự sướng!
Bức hình, là
của chuyến đi trước, chụp ở bên ngoài tiệm phở Nguyễn Huệ.
Lần này, Gấu
gặp Em của Gấu, cũng ở đây.
Buổi tối hôm
vừa tới, trong khi nhậu tại nhà NDT, mở mail, thấy của PTH, Gấu bèn
phôn, hẹn
sáng mai gặp ở phở Nguyễn Huệ.
Gặp, anh đưa
cái phong bì, trong có tiền, của Em gửi cho Gấu.
Hỏi Em đâu,
thiền sư trả lời, “cô ấy” chắc là ra liền bây giờ thôi.
Nghe 1 phát,
là đã tính run, như ngày nào còn con nít!
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Sài Gòn 66
Đọc tình cờ
mấy câu thơ của Phạm Công Thiện
trong số báo Tribu duy nhất của nhóm sinh viên
Đại học
Toulouse-le-Mirail làm lúc Thiện về dạy
Thiện hay
cùng la cà ra đó: Ici ta veste est encore
sur une chaise
Ton paquet de Chesterfeld
n’arrive
pas à se finir
Thiện đốt
thuốc liên hồi (tiệm bán thuốc lá của Nguyễn ĐìnhThuần ở Cali nay có
bán thuốc Chesterfield không hay toàn Craven
A)
DC nhớ PCT (1)
Gấu không
quen PCT, và cũng chỉ gặp DC lần đầu, lần qua Cali Tháng 11/2012, và,
gặp Sad
Seagull.
Bèn viết về
Thầy của PCT, là Henry Miller.
Cũng
không
phải viết, mà là [sẽ]dịch bài Giới thiệu "The Henry Miller Reader", Độc
Bản
Miller. (2)
Của bạn của Miller, là Durrell.
Cali Nov
2012 With HA
Rượu thì
cũng giống như Êu. Nụ hôn đầu thần sầu, nụ thứ nhì thân sâu, nụ thứ ba
chuyện
thường ngày ở huyện. Sau đó, thì bạn lột trần [truồng] em ra và... phán!
Cali Nov
2012 With HA
Anh
Môn
Trong Sổ Tay,
NB, dưới cái tít “Halo and Horn” [nghĩa của cụm từ này cũng
giống như “pro
& contra” của Sến Cô Nương, “halo”, chào mừng, “horn”, cái sừng, để
đâm cho mi
1 phát!] của tờ TLS, số Jan 4, 2013, điểm những nhân vật văn chương
xuất hiện theo
dòng thời gian, JC [người phụ trách] viết, thì cũng là 1 cách để đánh
giá, ai còn
ai mất [chìm vào quên lãng đúng hơn], và nếu 2012 là năm tưởng niệm
John Cheever,
vẫn ngon cơm [GCC không hề biết đến ông này], và sự mất giá của
Lawrence
Durrell [ông
này thì lại rất rành, BHD chẳng đã mang 1 cuốn của ông đến tặng Gấu
đúng ngày
sinh nhật, lần thứ 30 mà cũng là lần thứ nhất, sau khi thoát chết vì
mìn VC, cùng với lời đề tặng, bằng tiếng
Tẩy, "Je
serai ta femme", và, em quên béng liền sau đó, cả Gấu lẫn lời đề
tặng], và
phán, 1 năm
ủ ê, và phán tiếp, năm tới 2013, chắc là khá hơn.
Quả thế, 1913
là năm Albert Camus ra đời.
Cho tới nay, chàng vẫn là số 1, a great
force in
world literature một “thế lực” lớn - từ này thuổng của 1 thi
sĩ - trong văn
chương thế giới,
một “haloed figure” so với đồng hương, kẻ
thù của chàng, a horned counterpart, là Sartre. Cả
hai đều rành nhiều môn võ công giang hồ, viết giả tưởng,
kịch, triết, và báo chí, [cả hai đều còn là editor]. Sự nổi danh dài
dài
của
Camus là nhờ giả tưởng, và trong khi Satre vưỡn được coi là triết gia,
thì
Camus, "thôi rồi, anh ơi".
“Hồi này, bạn có đọc Kẻ Nổi Loạn
của ông ta
không”? JC
đặt câu hỏi cho độc giả, và tự trả lời, "cuốn này đúng là second-hand
patchwork, đồ bá láp. Và nếu bạn ý muốn phản biện, thì chúng tôi, TLS,
sẽ rất hân
hạnh!"
Vẫn theo JC,
những tiểu luận đầu tay của Camus có vẻ như bị lơ là, bỏ qua, chúng
thật chói
sáng, và là những tác phẩm suy tư, meditative works, về Algeria, và
được xb tại
đây vào thập niên 1930. Hai tác phẩm [thần sầu], Noces [Mít, tờ Văn
trước 1975,
Trần Thiện Đạo, hình như vậy, dịch là Giao
Cảm] và L’Envers et
l’endroit, [hình
như cũng đã được tờ Văn dịch, Bề mặt
và bề trái], cả hai đều bị chế ngự [dominated] bởi
mặt trời.
Nhưng cái chói sáng nhất của chúng đối với độc giả, vẫn theo JC, là sự
thông minh
ở tác phẩm đầu tay của 1 kẻ tập tành viết, the debutant’s intelligence.
Và, bây giờ,
tới lượt Le Grand Meaulnes & Yvonne de
Quiévrecourt, và Sad Seagull & GNV, "chói sáng" cùng với năm
2013!

Kẻ nào viết
rõ ràng thì có độc giả. Kẻ nào viết hũ nút thì có
thợ “còm”.
Hand-made
gift from TV Reader
Tks. NQT
Henri
Alain-Fournier là tiền thân của Camus, trong vai trò người hùng của
tuổi trẻ.
Cuốn
Anh Môn xb năm 1913:
Mặc dù nổi
tiếng như thế đó, Anh Môn, 100 tuổi tính đến năm nay, 2013, là
1 tuyệt
tác đang gặp hiểm nguy, bị tiêu trầm, chìm vào quên lãng. Du khách hành
hương
viếng thăm căn nhà thời ấu thơ của Alain Fournier, gần Lộ Đức, ngày
càng mỏng
dính [thưa thớt, nếu biết tiếng Mít, dịch từ “thin” của tiếng Hồng
Mao].
Những ngày này độc giả Anh, Mẽo thường chọn tiểu thuyết Tẩy, thứ có mùi
triết Tẩy,
hiện sinh hiện xiếc, [thí dụ, đến ngay Cô Tư, miệt vườn Cà Mâu xứ Mít,
mà văn
còn có mùi hiện sinh - cái gì ở giữa hai ngón cái - nữa là!]
Một thập niên trước đây, Tobias Hill ghi nhận, sách sống sót nhờ một hệ
thống rỉ
tai bằng tiếng Tầu, “a barely audible system of Chinese whispers”.
Tại sao nhiều độc giả Anh lại hờ hững với cuốn sách, được một số những
nhà văn
thuộc loại số 1, được kính trọng, nể vì của Ăng Lê, trân trọng, và có
ông còn
nhận tác giả của nó, là Thầy của mình, như Fowles?
Và, với những độc giả coi Anh Môn như sách gối đầu giường, thì
là do
đâu?
Do cách viết, do văn phong, giản dị, "viết như không viết"?
Một câu chuyện tình thời mới lớn không làm sao quên được, mang chất
hoài cổ,
lãng mạn, vãi linh hồn?
Với những fans khác, tình tiết ly kỳ, tính thơ của ngôn ngữ?
Rất nhiều độc giả bị hớp hồn bởi cái gọi là “buồn vào hồn không tên”,
một nỗi u
hoài, bi ai, toát ra từ một thứ thơ xuôi, như 1 nhà phê bình nhận xét,
“như
sương mù bên trên bãi tha ma”.
Một phần, còn do cuộc đời của chính tác giả, một cuộc đời lãng mạn, và
cái chết
trẻ của ông, và câu chuyện về người đàn bà đã gợi hứng cho ông.
*
-Em tìm để từ
biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được
gặp anh,
em muốn...
Kiệt lặng người....
TTT: MCNK
There is
among all your memories one which has now been lost beyond recall.
J.L. Borges: Limits
Trong tất cả hồi ức của mi, có một, mất tăm, tích, không làm sao nhớ
lại được.
Gấu không
làm sao nhớ lại được khuôn mặt của Sad Seagull, sáng bữa đó, ở quán cà
phê
Starbucks, hay ở 1 quán ăn ở Quận Cam, buổi chiều hôm đó.
Tính ghé tiệm sách, nhưng em đổi ý.
Khi ăn xong, anh cũng không còn nhớ, ăn món gì, em nhìn trời, nhìn đồng
hồ, nói
trễ quá, phải trả xe cho người bạn….
To love a
scene so much and yet to miss someone so essential to it was doubly
heartbreaking
Damned to Fame, the Life
of Samuel
Beckett
Bây
giờ thì GNV hiểu
ra tình cảnh đưa đến ý định chấm dứt đời mình ở bên ngoài Phước Lộc
Thọ, buổi
chiều hôm đó.
Đó là do yêu
quá yêu cái cảnh buổi sáng ngồi cà phê Starbucks với Sad Seagull, và
nhớ
đến phát
khùng Sad Seagull mà hình ảnh của cô đóng chặt vĩnh viễn vào cái buổi
sáng lần
đầu tiên gặp mặt đó, và như câu phán ở trên, nỗi đau như được nhân gấp
đôi lên,
và càng thêm chán chường những ngày còn lại, quá vô vị, nhàm chán…
Buổi sáng hôm
đó, em lo hết. Tất tả đi kiếm chỗ ngồi, sau cùng kiếm được 1 cái bàn ở
ngoài trời,
thật gió, thật lạnh [Cali mấy bữa đó, lạnh sợ còn hơn cả Canada!], rồi
tất tả xếp
hàng mua cà phê, tất tả bưng ra, Gấu già ngồi 1 chỗ, chẳng làm gì hết,
ngắm em
tất tả…. Em chừa cái ghế có cái cột che gió cho Gấu già, ngồi kể chuyện
tuổi thơ
của em, Gấu lắng nghe, thật cảm động, đến quên cả cái chuyện em rét
run, anh chàng
Mít, cũng đứng tuổi, ngồi bàn kế, thừa cơ em đứng dậy, bèn kéo cái ghế
của em vào
1 chỗ khuất gió, rồi gật gù nhìn Gấu thông cảm, ra ý, đúng ra mi phải
làm việc đó,
nhưng thôi già rồi, ta làm giùm!
Beckett,
portrait
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Khi tôi rời
Sam lần chót, tôi biết là chẳng còn hy vọng gặp 1 ông Beckett còn sống
nữa. Tôi loay hoay
sắp xếp đời mình, để có thể trở lại Paris, kế cận ông chừng sáu tuần,
bắt đầu vào
tháng Giêng. Tôi “coi thường” cát lầy, tính sai chừng 1 tháng.
Nói 1 cái gì
đó về ông, rồi cát lầy mặc mẹ cát lầy.
Điều mà Beckett nói về Joyce sau cùng đúng
là điều tôi nói về Beckett:
“Ông chẳng bao giờ viết về điều gì. Ông luôn viết điều
gì”.
Tôi lo là, mọi
người sẽ thổi ông, gọi ông là “Thánh Sam”, và nếu như thế, họ sẽ bỏ qua
một sự
thực quan trọng nhất, hiển nhiên nhất: Với cuộc đời của mình, Mr.
Beckett [thì cũng giống như Mr. Tin Văn] chứng tỏ, ngay cả ở trong cái
thế kỷ khốn
kiếp, tồi bại, là thế kỷ của riêng lũ chúng ta, với một nhà văn, thì
sau cùng vẫn
khả hữu điều này: Sống, và làm việc với 1 sự cẩn trọng lớn, một sự trau
chút lớn,
và một sự toàn vẹn lớn.
Đó là điều mà Samuel Beckett có thể: Không phải một vì
thánh - ở vào những lúc chẳng ra cái chó gì – not even totally tasteful
– nhưng
vẫn luôn luôn, hoài hoài, là 1 nghệ sĩ: giọng trong sáng, đảm trách,
thẳng 1 dòng
với cái đẹp nhất.
Và với nghĩa cả,
good cause.
Chung quanh ông, phẩm chất của Cuộc Đời thì thối tha, ghê tởm, và
phẩm chất của Cái Chết, thì là một giải pháp thay thế nó, đếch làm sao
mà hài lòng,
thỏa mãn.
ISRAEL
HOROVITZ
The Paris
Review Spring 1997: Theater
Cali Nov
2012 With HA
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot and Eleutheria. I keep out
of the
way.
Tôi nợ
Suzanne mọi điều mọi chuyện. Bà tìm đủ cách, quậy đủ đường, để kiếm cho
ra 1 kẻ
nào đó in cả ba cuốn 1 lúc. Một đã khó, làm sao cả ba, cùng 1 lần. Bà
là người đi
gặp những nhà xb trong lúc tôi ngồi quán cà phê “vặn vẹo mấy ngón tay”
hay vặn vẹo
bất cứ cái gì tay vớ được. Đôi khi bà gặp người gác cổng và nhờ
chuyển bản
thảo cho chủ nhà xb. Bà là người gặp Blin, và đề nghị ông ta quan tâm
đến Godot, và Eleutheria.
Cali Nov
2012 With Sad Seagull
Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà vợ của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
Why did
Beckett accept the Nobel Prize at all? Certainly not for the money,
since he
gave the sum of 375,000 kronor (worth at the time £30,000, or about
$45,000)
away very quickly. He arranged, for instance, for various payments to
be made
even before the money was transferred to France. One of the chief
beneficiaries
was the library of Trinity College, Dublin; this gift was a riposte,
surely, to
those who accused him of insulting his native country. Many individual
writers,
directors, and painters also benefited financially from the prize, the
money
arriving anonymously, although recipients could not fail to be aware of
the
source. One very real reason for Beckett accepting the Nobel Prize was
that he
did not wish to be publicly discourteous (Sartre had earlier caused
something
of a public scandal by turning it clown). Another was that he wanted
the publishers
who had shown faith in his work, especially in the early days, to be
rewarded
with an increase in the sale of his books. To turn the prize down would
also
have seemed unfair, and again, discourteous, to those who, since
Maurice Nadeau
and others had put his name forward twelve years before and regularly
proposed
him for the prize. But there had always been an unusual mixture of
perfectly
genuine humility and concealed pride in Beckett. He after all, invested
almost
everything in his work, knew what it had cost terms of effort and
sacrifice,
and could not lightly reject an his achievement at such a high level.
Nói cho
cùng, tại sao Beckett nhận Nobel văn chương, một khi vợ thì than, thảm
họa,
còn ông chồng, mệt quá, distressed. Chắc chắn đếch phải vì tiền,
bởi là vì
chưa nhận tiền thì ông đã xài hết số tiền đó, thật là mau lẹ, bằng cách
kín đáo
chuyển tới cho 1 số cơ quan, đoàn thể, hoặc cá nhân. Thư viện trường cũ
là
chính, để cảm ơn, tất nhiên, và cũng để trả lời những kẻ chửi ông phản
bội Đất
Mẹ [bỏ qua Tây, viết văn bằng tiếng Tẩy, thí dụ]. Một trong những lý do
chính
khiến ông đành nhận Nobel, là không muốn trở thành 1 xì căng đan giống
như trường
hợp của Sartre. Ngoài ra, cũng là 1 cách cám ơn những người đã tin
tưởng ở nơi ông,
những ngày đầu, dám bỏ tiền ra in sách của ông, nhờ giải Nobel sẽ bán
thêm được
sách, rồi những người năm nào cũng nhắc tới ông với Uỷ ban Nobel.
Nhưng luôn có
1 sự trộn lẫn không giống ai, ở trong cái sự gật đầu, cũng đành đó, 1
sự trộn lẫn
của 1 tâm hồn hết sức khiêm nhường, và 1 sự kiêu ngạo ngầm ở nơi ông.
Beckett
chứ đâu phải 1 tên cà chớn nào khác, đúng không, hà, hà!
Beckett, kẻ đầu tư
hầu như tất cả vào tác phẩm, đã chịu bao nhiêu đau thương, cay đắng… làm sao có thể vứt bỏ 1 sự thừa nhận, ở một đỉnh
cao chói lọi như là giải Nobel văn chương!
 
Hình như có
lần Fitz than với Hemingway [trong Paris là
1 ngày hội?], anh nổi tiếng vì thành công, còn tôi, thất bại.
Nếu đúng thế, thì đây là 1 tự hào.
Hemingway không thể viết được Tender.
Khi cố viết,
bèn tự đòm mình 1 phát!
Vừa xem lại
"The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim Tầu hay
nhất,
dù không vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi.
K
Tay
Beigbeder đọc Anh Môn, của
Alain-Fournier, cuốn đứng hàng thứ 9 trong Bảng
Phong Thần Cuối Cùng, đã nhắc tới Gatsby
của Fitz, và tự hỏi, liệu Fitz đã từng
đọc Le Grand Meaulnes (1913)
trước khi viết Gatsby, bởi sự
giống nhau của hai
tác phẩm: đều là hai người kể chuyện, ở bên ngoài, kể về một mối tình
bất khả của
một kẻ thứ ba, và hơn thế nữa, xuyên qua những bữa tiệc đốt đuốc chơi
đêm, những
hội hè đình đám của thế giới ‘đại gia’.
Đọc Một Chủ
Nhật Khác của TTT thì Gấu lại nhớ tới Dịu Dàng Như Đêm, tức Cuộc Tình Bỏ Đi,
Tender Is The Night của Fitz. Kết cục của Một Chủ Nhật Khác thê lương hơn
nhiều,
và cái danh hiệu đỉnh cao chói lọi mà nhân loại ban cho Fitz, một
Orpheus hiện
đại, “a modern Orpheus” đúng ra là phải thuộc về Trung Uý Kiệt của Quân
Lực
VNCH, bởi vì Kiệt đã từng xuống địa ngục, [hay thiên đường] khi đưa
Hiền tới
đó.
Lục Mạch Thần
Kiếm, Kiều Phong loạn đả quần hùng tại Tụ Hiền Trang, chỉ vì
muốn cứu nàng hầu
của Mộ Dung Công Tử, là A Châu, trúng đòn Thiếu Lâm khi vô chùa chôm
Dịch Cân
Kinh, sói cô đơn Khiết Đan bị đàn chó Trung Nguyên xúm lại làm thịt,
may được vị
đại hán mặc áo đen cứu thoát. Trước khi bỏ đi, vị đại hán bợp cho Kiều
Phong một
cái, mắng, tại sao chỉ vì một đứa con gái bá vơ mà liều cái mạng quí
báu của
mình?
Một độc giả
mắt xanh của Kim Dung nhìn ra liền tù tì: tất cả là chỉ để sửa soạn cho
cái cú
sét đánh ở ngoài quan ải, khi Kiều Phong ôm một nửa linh hồn của mình
tung lên
trời, chờ rớt xuống ôm chặt vào tim vào lòng, giữa gió tuyết Nhạn Môn
Quan, và
biểu rằng, hai ta ra bên ngoài quan ngoại sống cuộc đời chăn dê chăn
cừu, từ bỏ
chốn giang hồ gió tanh mưa máu...
Độc giả Một
Chủ Nhật Khác sẽ tự hỏi, cớ làm sao, trong lần gặp cuối cùng,
trước khi đường
Thầy, Thầy đi, đường Oanh, Oanh đi, khi Oanh nói với ông
thầy Kiệt, Thầy coi thường Em quá, ông thầy
điên lên, vặc lại:
-Nên để cho
người ta coi thường mình. Mình là cái quái gì?
[Thai đố
này, xin để hậu hồi phân giải]
*
Anh còn nhớ
có lần em nhờ anh mua giùm một đôi guốc. Mua được rồi, anh nhét kỹ
trong người,
đi qua trạm gác phân chia hai khu vực.
Bây giờ ở
đây, khi gió, tuyết, và nỗi cô đơn lạnh cứng người, anh vẫn cảm thấy
chút ấm áp
của đôi guốc ngày nào. Và anh thèm sống lại cảm giác hoang mang, lo sợ
khi đi
ngang trạm gác.
Bụi
*
Không quay lại,
chàng trông thấy toàn thể quang cảnh doanh trại sau lưng, lặng lẽ và
thê lương.
Một bóng người đứng thật xa, nhỏ xíu trong tầm mắt Nghiêm - bấy giờ
chàng nhìn
thấy lại - đứng giữa con đường hoang vắng, bên những toà nhà như lún
thấp dần
theo độ dốc, cất tiếng kêu:
-Nghiêm…
Nghiêm… Happy Birthday!
Giờ Nghiêm mới
thực sự nghe tiếng gọi của Kiệt, chỉ còn là tiếng vang dội sau bao giờ
khắc qua
trong tưởng tượng và tiếng vang ấy hiển lộng, rền rĩ, quái gở khiến
chàng rùng
mình. Chàng cũng thấy lại cảnh tượng trong gian phòng khách ở nhà với
những
khúc nhạc baroque, niềm vui sướng bất chợt thái quá đến muốn ứa lệ,
buổi tối đã
qua. Lúc này Nghiêm ngó thấy Duy đầy mầu mè, khôi hài. Còn Kiệt cuống
rối, kỳ dị,
Nghiêm không ưa.
Đọc đoạn
trên, Hai Lúa bỗng dưng nhớ tới một truyện ngắn của Khái Hưng, Bóng Người Trong
Sương Mù [?], câu chuyện một anh chàng lái xe lửa, thoát chết
nhờ một con bướm
- mà ông tin rằng linh hồn người vợ đang đau nặng nằm nhà và đã mất,
rồi nhập
vào - vỗ đôi cánh ra hiệu cho đoàn tầu dừng lại, vì phía trước có nguy
hiểm.
Truyện này
Khái Hưng "thuổng" của tay nhà văn kinh dị nổi tiếng Georges
Langelan. Ông này còn truyện ngắn Con Ruồi, được coi là một trong những
truyện
kinh dị nhất thế kỷ, đã được quay thành phim, tờ Bách Khoa trước đây có
đăng bản
dịch tiếng Việt.
Cảnh trên
đây, là lập lại một cảnh trước đó. Cụm từ "bấy giờ chàng nhìn thấy lại"
thực sự là để đánh lừa người đọc.
Lần thứ nhất,
Nghiêm không hề nghe thấy tiếng của Kiệt.
Tương tự đoạn,
Duy nằm chết vì say rượu, nghe tiếng gió hú trên từng ngọn đồi Đà Lạt.
Đây là đòn
"phục bút" mà Thánh Thán đã từng nói tới. (1)
Mỗi lần Gấu
nhớ đến Một chủ nhật khác, là
cùng lúc, nhớ đến Dịu dàng như đêm,
Tender is the
Night, của Fitzgerald.
Quả có một
liên hệ tình cảm giữa hai cuốn, thật.
Đoạn sau
đây, mà chẳng đúng là câu thơ ‘Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày
sắp tới’
ư?
Chàng nhớ bữa
đó cỏ thì ướt. Nàng chạy tới chàng, và đôi dép của nàng ướt đẫm sương.
Nàng ôm
lấy chàng, tựa trên đôi giầy của chàng, và khuôn mặt nàng mở ra như một
trang
sách.
"Hãy
nghĩ anh yêu em đến là chừng nào. Em không đòi hỏi anh lúc nào cũng yêu
em nhiều
như lúc này, nhưng em xin anh một điều, hãy nhớ đến em. Cho dù mai sau
có như
thế nào, thì em vẫn đinh ninh một điều, em có ở trong em, điều em có
chiều hôm
nay."
F.S.
Fitzgerald: La Fêlure [Vết
nứt. Nguyên tác tiếng Anh: The
Crack-up]
Nhưng, Fitz
không mê gái bằng Gấu:
“Anh không sợ
chúng mình không thương nhau, mà chỉ sợ chúng mình thương nhau nhiều
quá”
Tứ Tấu Khúc
Ghi chú về 1
giọng văn
Emma Hogan viết
về người tái phát minh kịch, và rất hiếm coi kịch
“Chẳng có gì để làm” [Nothing to be done, Rien à faire],
câu bắt đầu kịch, và kịch bắt đầu thay đổi kịch [trò
chơi. Từ
“play”, trong tiếng Anh, vừa có nghĩa là kịch, vừa có nghĩa là chơi,
trò chơi.
GCC]. Khi nó được chơi lần đầu ở Paris, trước đây 60 năm, tác giả của
nó, một
anh cựu thầy giáo người Ái Nhĩ Lan, phân bua, claim - ngay cả khi ông
tái phát
minh cái hình thức được gọi là kịch đó, “Tôi chẳng có ý nghĩ gì về
kịch, tôi đếch
biết kịch là cái chó gì, và tôi chưa từng đi coi”.
Ai, còn ai nữa,
nếu không là Beckett: ông Trùm Hiện Đại, người rành nhiều thứ tiếng,
một gã hiện
sinh kỳ quặc, tiếu lâm, cà chớn. Sinh gần Dublin,1906, ông là 1 tay Thệ
Phản
khá giả, học tiếng Tây và tiếng Ý ở Trinity College, 1937 rời Ái Nhĩ
Lan và bà
mẹ đi Paris, sống ở đó đến khi chết vào năm 1989. Viết 32 kịch, một
phim (tên
phim là “Phim”), 8 tiểu thuyết, 17 tác phẩm văn xuôi khác, và một tập
[set] thơ.
Nhưng “Trong khi chờ Godot”, với 4 nhân vật, và 1 dàn dựng đơn giản
“Một con đường
quê. Một cái cây. Buổi chiều”, làm cho ông thành 1 người khổng lồ.
*
Trong ABC’s, Milosz kể, lần ông ngồi coi
trình diễn lần thứ nhất vở kịch Trong
Khi
Chờ Godot của Beckett, tại một rạp ở Paris. Thấy cả rạp cuời hô
hố trước cảnh
Pozzo hành hạ Lucky, tên hầu của anh ta, triết gia Lucien Goldmann,
ngồi cạnh
ông, đã tỏ ra phẫn nộ:
"Họ cười
cái gì? Những trại tập trung cải tạo, hử?" (1)
Nhưng 1 tay
phóng viên tờ The Paris Review
[số Mùa Thu, 1999] cũng đã hỏi nhà soạn kịch Mẽo, Arthur Miller, cũng
đề
tài trên:
Khán giả coi
"Cái chết của 1 tên bán hàng" [Dead
of a Salesman] của ông, khi ra khỏi rạp thì đều
khóc. Nếu có người hỏi họ, khi ở trong rạp, thấy họ cười hô hố, họ sẽ
chối. Vấn
đề là, tiếu lâm, cà chớn có phần ở trong đó [ở… Lò Thiêu thí dụ, NQT],
đúng
không?
Miller: Trọn
câu chuyện [the whole thing], thì rất buồn. Nhưng vấn đề là, tôi làm
nhiều cú
cười, I did a lot of laughing, khi tôi viết kịch. Bởi là vì một số ý
nghĩ của
Willy Loman thì rất phi lý, chửi bố lẫn nhau, self-contradictory, đến
nỗi bạn
phải bật cười. Khán giả thực sự đã làm như thế, nhưng nhờ ơn Trời, họ
không nhớ. Nếu nhớ thì họ đã không xúc động đến nỗi khóc ròng!
Cơ bản mà nói, đó là tiếng
cười của sự thừa nhận, the laughter of recognition. Tôi
tin như thế.
Đọc Bị Trời
Đọa Đầy Phải Vinh Quang Nổi Tiếng, Damned to Fame,
tiểu sử 800 trang của
Beckett, khúc “A Frenzy of Writing”, 1946-53, viết về thời kỳ ra đời
của
ba cuốn tiểu thuyết nhà xb Nửa Đêm in, Molly, Malone
Dies, và The Unnamble,
và Trong khi chờ Godot, mới bật cười
hô hố.
Tuyệt cú mèo.
Thần sầu. Ấy là nói về tại sao mà lại cười khi đọc/sống/viết về Lò
Thiêu, Lò Cải
Tạo!
Đọc Thảo Trường viết về Tù Cải Tạo mà không cười sao?
Lindon, chủ
nhà in Minuit kể:
Tôi về nhà để
ăn trưa, thấy bản thảo trên bàn của tay thư ký. Tôi hỏi, gì thế, anh ta
phán,
được, được lắm [thuổng cách nói của Mai Thảo], tuy anh ta chưa đọc. Tôi
kẹp Molly vào nách,
và trong khi đi métro đọc, và
tôi cười hô hố, sướng
điên lên được!
Mọi người nhìn tôi như 1 tên khùng...
I was going
home to lunch. I saw a manuscript on Georges Lambrichs' [who worked
with
Lindon] desk. Doubtless Suzanne had just brought
it in to
him. [In fact the book had been delivered by Robert Carlier.]?" I said
to
him "What is that?" And he said "I believe it's very good," though he
hadn't yet read it. I took it away, I took Molloy under my arm to go
for lunch
and in the Metro I started to read it. And as I changed trains at La
Motte-Piquet Grenelle, in the lift I burst into hoots of
laughter. And I thought "people are going to think I'm crazy"; then I
thought "I risk dropping the manuscript" (which wasn't stapled or
bound; it was in separate typed sheets). So I stopped reading,
naturally, and
stood with the manuscript behind my back ... and people looked at me as
I
carried on laughing like a fool. They couldn't understand why I was
laughing
since I was clearly doing nothing. Then I came
back to the office, finished reading the manuscript within the day and,
that same evening, wrote to Suzanne to tell her "Yes, I'll take the
book, there's no problem." And a few months later, I published Molloy.
Thú thực Gấu
mới đọc được Beckett, gần đây thôi.
Lạ nhất,
là khi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, tình cờ vớ được Trong khi
chờ Godot, của 1 ông chẳng biết
1 tí tiếng ngoại.
Thì cũng đọc vậy, nhưng có thể đến bây giờ mới ngấm!
Nhưng nếu
không gặp được Faulkner thì không thể nào trở thành Gấu Nhà Văn được.
Không có Thầy
là đừng hòng viết.
Mít viết
lách, cứ hết thời thanh xuân là ngỏm, "chết non", chữ của TTT, chính
là do ông nào cũng nghĩ mình là bố chó xồm, tao mà cần thầy ư? Tao viết
cho
thiên hạ đọc rồi làm… đệ tử của tao, chứ không lẽ có người dậy được tao?
Gấu có lần đọc
1 bài, hình như của Pierre Assouline, trên tờ ML, viết về 1 lần ra
đường, gặp mấy
ông văn sĩ Tẩy, cũng toàn thứ dữ, nhìn thì thấy, ông thì đang đọc
Faulkner, ông
thì túi ló ra 1 cuốn của Faulkner!
Có lèm bèm
trên Tin Văn rồi mà kiếm hoài không thấy!
Cả cái hình
hách xì xằng của Faulkner, với 1 bầy chó săn dưới chân cũng mất tiêu!
Nhưng kiếm
ra đoạn này:
Lại nhớ tới...
Faulkner, và bài viết "Những cuộc đời của Faulkner", của Pierre
Assouline, trong đó, ông nhắc tới một câu của Nabokov: Tiểu sử nhà văn
là lịch
sử văn phong của người đó.
Ở đây, phải
đẩy câu phán của Nabokov đến tận cực điểm, và chúng ta thấy, thay vì
một văn
phong, thì là một "dòng sông, trong tất cả những trạng thái của nó",
"mượn" cái tít một bài viết, trong cùng số báo Le Magazine
Littéraire, số đặc biệt về Sex, Tháng Chạp 2007, có bài của
Pierre
Assouline về
Faulkner, đã dẫn.
La pluie
dans tous ses états
Martin Page,
khách mời trong tháng của tờ báo, điểm cuốn Từ
điển mưa, của Patrick Boman. (1)
Gấu là người
giới thiệu Beckett trên tờ Nghệ Thuật,
khi vừa bước chân vô làng văn Sài Gòn,
1965, trước khi ông được Nobel, 1969. Bài giới thiệu, tóm tắt 1 bài
viết trên 1
tờ báo Tẩy, và còn nhớ, đám phê bình gia cà chớn Tẩy gọi văn chương của
ông là
thứ “tiền chế”, như nhà tiền chế.
Mà đọc kiểu cà chớn, thì thế thật. "Tôi
về nhà, nửa đêm, trời mưa. Đếch phải nửa đêm, đếch phải mưa", kiểu đó.
Nhưng,
đúng như cái tay trên tờ Intel
viết, những điểm mạnh
của ông là:
-Những dòng đầu, thí dụ,
trong Murphy, đọc 1 phát là
biết ngay của Beckett, his own tone:
"Mặt trời chiếu sáng, đâu có cách nào khác, về chẳng có gì mới "
-Những quãng
ngưng, nghỉ. Không có Beckett là Pinter không thể tạo được sự căng
thẳng
gớm ghiếc của ông. Khúc nghỉ, quãng ngưng, pause, silence, mỗi cú trở
thành 1
cái gì sờ mó, vuốt ve được.
-Sự cảm
thông. Ở trong những phong cảnh xám xịt đó, những nhân vật của ông lung
linh sáng
cùng với sự ấm áp – như thể chỉ Estragon và Vladimir nhìn với hãi hùng
bất lực
khi Pozzo hành hạ Lucky.
Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà xã của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
HOW BECKETT
DID IT
Notes on a
Voice: Emma Hogan on a man who reinvented theatre, while rarely
going to it
From
INTELLIGENT LIFE January/February 2013
"Nothing
to be done." So begins the play that changed the game. When it opened
in
Paris, 60 years ago, its author was 46, an Irish former teacher who
claimed,
even as he reinvented the form, that "I have no ideas about theatre. I
know nothing about it. I do not go to it."
Who else but
Beckett: arch-modernizer, polyglot, droll existentialist. Born near
Dublin in
1906, he was a well-to-do Protestant who read French and Italian at
Trinity
College, finishing first in his year. By 1937 he had left Ireland, and
his
mother’s "savage loving", for Paris, where he lived until his death
in 1989. He wrote 32 plays, one film (entitled "Film"), eight novels,
17 other prose works, and one set of poems. But it was "Waiting for
Godot", with its four figures and simple setting of "A country road.
A tree. Evening", that marked him out as a colossus.
Key Decision
To write in
French. This enabled him to find his starkness – to shed his
"Anglo-Irish
exuberance" and the lyrical influence of Joyce ("I vow I will get
over J.J. ere I die. Yessir", he had scrawled in a letter). From 1939,
he
wrote mostly in painstaking French, then translated into "queer
English" to create the bleached voices that make his work unmistakable.
Strong
Points
(1) First
lines. From his earliest novel, "Murphy" (1938), Beckett set his own
tone: "The sun shone, having no alternative, on the nothing new." (2)
Pauses. Without Beckett, Pinter could never have created his sinister
tension.
He marks the silences as "[Pause]" or "[Silence]", each
becoming something palpable. (3) Compassion. Within these grey
landscapes, his
characters flicker with warmth – even if it is just Estragon and
Vladimir
looking on in helpless horror at Lucky’s enslavement by Pozzo.
Golden Rule
Never to
compromise. Estragon’s trousers have to fall all the way down at the
end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be
repeated, by actors who are up to their necks in urns. Whole novels can
go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and
a stomach for repetition. But they reward the persistent.
Favourite
Trick
Characters
correcting or interrupting themselves. Phrases or names are
misremembered, and
remembered anew. Even hiccups ("pardon") are kept in, puncturing
Beckett’s short sentences. He forces the dramatic monologue to capture
every
bodily emission and the ragged form of human speech.
Role Models
Though he
claimed to have "always been a poor reader", at 30 Beckett had
published an essay on Proust, written an unfinished play about Dr
Johnson and a
short story inspired by Dante, and had worked for Joyce. But it was
plays that
most inspired him. The landscapes of "King Lear" and Edgar’s refrain,
"the worst is not/So long as we can say, "This is the
worst"" shaped his defiance of melancholy. And in Racine’s
"Berenice", Beckett found a form to mirror his own: "There too
nothing happens, they just talk, but what talk, and how spoken."
Typical
Sentence
"Let us
not then speak ill of our generation, it is not any unhappier than its
predecessors." ("Waiting for Godot")
Watt by
Beckett, Barbican, London, Feb 26th
Emma Hogan
is a freelance journalist and regular contributor to The Economist's
Books and
Arts pages, and was a judge of this year’s Forward poetry prize
Illustration
Kathryn Rathke
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life
between, a pilgrim's progress with a smile
for what he
saw along the way and wrote of,
oversleeping,
age and hope and sloth.
Then saw,
and wrote of, wrenched along the way,
age and hope
and helpless weeping. But
he would
have, reading those two states, rejected both
as most
remotely holding but one part
or more than
minute dose
of the
inexpressible, whole truth
of how it
is, it was.
II
He showed
the shortest way to get across
a line like
this:
crossed out
such words as these to get to
speechlessness.
He crossed
out rivers to get to their stones.
To get to
the bottom, when the crisis is reached
and
truth-telling begins.
Whatever he
knew he knew to music.
He found the
pace for misery,
matched
distress to syncope, and joke
to a
Beethoven stop at the punch line.
But thought
that he'd failed to find failure's pulse.
What that
says about failure,
music and
us.
Cuốn tiểu sử
Beckett, 800 trang, toàn chữ, trừ cái hình độc nhất, trên, Gấu mua lâu
lắm rồi,
tính đọc, nhưng sợ quá, bây giờ mới lôi ra, cùng 1 số cuốn khác nữa,
của ông,
hoặc viết về ông.
Cũng là 1
cách viết về bạn Bạn, và chuyến đi vừa rồi, nhờ đó gặp Sad Seagull.
Giả như gặp
Sad Seagull, mà không gặp lại bạn Bạn, thì có thể đã đi luôn, bữa buổi
chiều hôm
đó ở bên ngoài Phước Lộc Thọ.
Trong đời Gấu,
gặp nhiều lần “quái đản” như thế.
Muốn đếch muốn
gì hết!
Le Magazine Littéraire Hors-série, n # 14
Trường Gia
Long, Sài Gòn, cc 1966-72 (1)
Đây là
cái cổng trường Gia Long, phía bên hông, [đường Trương Định, băng qua
vườn Tao Đàn], GCC đưa đón BHD, đúng thời gian đó, 1966...
"Khi em đi vô cổng trường,
rồi anh đừng
có đứng lại lâu vì em sẽ biết anh đang nhìn em, em phải quay lại mỉm
cười nhìn
anh…”
…. vội vàng
chạy vô cổng trường rồi lại vội vàng chạy ra: nàng quên không dặn chàng
trưa
nay đừng đón nàng, vì nàng sẽ về chung với Lan Anh, bạn nàng...
Tứ
tấu khúc
Ui chao, nhìn
cái hình, cảm khái chi đâu. Nhìn vách tường, với ba tờ quảng cáo… thì
lại nhớ cái
thông báo của Ban Giám Hiệu, cấm cái trò đưa đón như trường hợp cặp Gấu
&
BHD!
Chỉ đến khi
có thông báo, thì Gấu mới thả Em cách cổng trường khá xa....
Bạo Miệng [Strong Opinions]
Ông viết cả
lố tác phẩm, nhưng người đời cứ gọi Nabokov là "người của Lolita",
ông có bực không?
Không. Lolita là 1 cục cưng của tôi, Lolita est ma
favorite toute particulière.
Cuốn sách khó viết nhất trong những cuốn của tôi - nó đề cập tới 1 đề
tài thật lạ
lùng, si étranger, cách thật xa cuộc đời tình cảm của tôi, si éloignée
de ma
vie affective, mà tôi thật thích thú gọi tới mọi cội nguồn "kết hợp",
để biến nó thành hiện thực.
Ông có ngạc
nhiên về sự thành công khủng khiếp của cuốn sách khi nó xuất hiện?
Tôi ngạc nhiên
về chuyện nó xuất hiện, giản dị có vậy [J’ai été surpris qu’il
paraisse, tout
simplement]
Lolita, có… thực không? [Et Lolita:
a-t-elle existé?]
Không,
Lolita không có khuôn mẫu [modèle]. Nàng sinh ra từ trí tưởng của tôi
[mon
esprit]. Nàng chưa từng hiện hữu… nàng là một trái cây từ trí tưởng
tượng của tôi, un fruit de mon imagination.
Friday,
November 07, 2003 8:43 PM
Gấu,
Thằng Lãng
chụp, không thấy hình Tao và Mày.
Quyên
Sunday,
November 09, 2003 9:35 PM
Nick Clegg: My hero Samuel
Beckett
'It's that
willingness to question the things the rest of us take for granted that
I
admire most about Beckett'
I've
always
read a lot, mainly fiction. These days, with three young sons, often
the most I
can manage is a quick chapter here, a few pages there; but there are
still very
few nights when I'll get to sleep without dipping in to whatever book I
have on
the go.
So I am
grateful to those writers who have made it easy to go back to them,
night after
night, year after year. They are the greats, and Samuel Beckett is one
of them.
My first encounter with Beckett was when I was studying in Minnesota
and I
acted in a student production of Krapp's
Last Tape. Back then I remember images of Beckett making as great
an
impression on me as his work. He always looked so impressive – that
beak-like
nose, eyes staring dead into the camera – and he had an austerity to
him, even
when he was young, that makes it very easy to connect the man to the
words.
Since then I
must have read Waiting for Godot – of
course – a hundred times. Every time I go back to Beckett he seems more
subversive, not less; his works make me feel more uncomfortable than
they did
before. The unsettling idea, most explicit in Godot, that life is habit
– that
it is all just a series of motions devoid of meaning – never gets any
easier.
It's that
willingness to question the things the rest of us take for granted that
I
admire most about Beckett; the courage to ask questions that are
dangerous
because, if the traditions and meanings we hold so dear turn out to be
false,
what do we do then?
But amid the
bleakness, there is also humor, and it's no surprise that there are so
many
comedians among Beckett's fans. His appeal lies in his directness – the
sparse,
unembellished prose that can make his meticulous stage directions
unexpected.
He leaves you with a sense that you knew what he meant, even if
explaining it
back would leave you lost for words. Direct and disturbing – it is
impossible
to grow tired of Becket
|
|