|
Valentine's
Day
Valentine's
Day
WONDERS OF THE INVISIBLE WORLD
Wine
had bloodied your lips and tongue,
When you whispered your tale
Of how young witches
Used to ride married men
Through the sky on a night like this.
The stars were like lit candles
That had wandered off on their own,
And the misty woods
Were full of floating nightgowns.
It seemed only yesterday
Old Scratch tucked us into a bed of dead leaves.
You turned into a black cat
And I ran after you on all fours
Into a church where a dog chased us
And the congregation sat
With their grave faces looking on.
Charles
Simic: That Little Something
Những điều thần tiên của thế
giới vô hình
Hồng đào nhuộm đỏ như máu, môi và
lưỡi em,
Khi em thầm thì,
Như thế nào mấy cô bé phù thuỷ
Thường cưỡi mấy đấng có vợ
Băng qua bầu trời vào một đêm như đêm nay
Những ngôi sao thì như những cây đèn
cầy
Tự chúng muốn, chẳng ai bắt
Đi lang thang
Và những khu rừng, đầm đìa sương mù,
Thì đầm đìa những chiếc áo ngủ đàn
bà, trôi lềnh bềnh
Hình như mới chỉ hôm qua
Con Quỉ Già lùa chúng mình vô
1 cái giuờng đầy lá chết
Em biến thành một con mèo đen
Và anh bò bốn chân rượt đuổi
Vô một ngôi nhà thờ
Nơi con chó rượt đuổi cả đôi ta
Và giáo đoàn, ngồi
Mặt người nào người nấy coi bộ thật trầm trọng
Theo dõi trò hú tim.
Osip
Mandelstam
Elegy
Oh destiny of Borges-
to have traversed the various seas of the world
or the same solitary sea under various names,
to have been part of Edinburgh, Zurich, the two Cordobas,
Colombia, and Texas,
to have gone back across the generations
to the ancient lands of forebears,
to Andalucia, to Portugal, to those shires
where Saxon fought with Dane, mingling bloods,
to have wandered the red and peaceful maze of London,
to have grown old in so many mirrors,
to have tried in vain to catch the marble eyes of statues,
to have studied lithographs, encyclopedias, atlases,
to have witnessed the things that all men witness-
death, the weight of dawn, the endless plain
and the intricacy of the stars,
and to have seen nothing, or almost nothing
but the face of a young girl in Buenos Aires,
a face that does not want to be remembered.
Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than yours.
-A.R.
Bi Khúc
Ôi số mệnh của GCC -
Đã phiêu du nhiều biển trên thế giới,
Hay, vẫn chỉ một biển mang nhiều nick
Đã có phần ở Edinburgh, Zurich, ở Bắc Kít
& Nam Kít, Cordobas, Colombia, và Texas
Đã trở lại, sau nhiều thế hệ,
Những vùng đất xưa của ông cha,
Ở Andalucia, Portugal, những quận huyện,
Nơi đám rợ Saxon choảng nhau với Dane, trộn máu
với nhau.
Đã lang thang những mê cung đỏ, hiền hòa
ở London
Đã trở nên già trong rất nhiều tấm
gương
Đã cực kỳ cố gắng, nhưng vô ích, nắm
bắt ánh mắt cẩm thạch của những pho tượng
Đã nghiên cứu thạch bản, bách khoa
toàn thư, bản đồ
Đã chứng kiến những điều mà tất cả những
người đàn ông chứng kiến –
Cái chết, sức nặng của buổi bình minh, đồng
bằng vô tận, sự phức tạp của những vì sao,
Đã nhìn chẳng cái gì, hầu
như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại
Học Khoa Học Sài Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được
nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu
Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì
nó đâu!
BURGIN: You once wrote the lines, "To have seen nothing
or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires, a face
that does not want you to remember it."
BORGES: I wrote that when I was in Colombia. I remember
a journalist came to see me, and he asked me several questions about
the literary life in Buenos Aires, my own output and so on. Then I said
to him, "Look here, could you give me some five minutes of your time?"
And he said, he was very polite, and he said "Very willingly." And then
I said, "If you could jot down a few lines." And he said. "Oh, of course."
And I dictated those lines to him.
BURGIN: They used it as the epilogue in the Labyrinths
book.
BORGES: Yes.
BURGIN: But the reason I mention that to you, well I don't
want to over-explicate, but it seems to say that love is the only thing
that man can see or know.
BORGES: Yes, it might mean that, but I think it's not fair
to ask that because the way I said it was better, no? But when I was
composing that poem, I wasn't thinking in general terms, I was thinking
of a very concrete girl, who felt a very concrete indifference. And
I felt very unhappy at the time. And, of course, after I wrote it, I felt
a kind of relief. Because once you have written something, you work it
out of your system, no? I mean, when a-writer writes something he's done
what he can. He's made something of his experience.
Ông đã từng viết những dòng,
Đã nhìn chẳng cái
gì, hầu như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại
Học Khoa Học Sài Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được
nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu
Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì
nó đâu!
Tớ viết, lần ở Columbia...
Cái lý do mà tôi nhắc lại những
dòng trên, là, như.... K. nói:
Vừa
xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây
là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại
. Chỉ có tình là vĩ đại thôi.
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Sunday, January 11, 2009 11:43 PM
Re:
Cam on anh Tru .
Sau mấy năm rồi, cũng
vẫn câu hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết,
vừa chăm cháu ngoại, vừa nói chuyện với bạn bè
được, hay quá .K thì chỉ đọc (internet) và xem là
nhiều . Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây
là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ
có tình là vĩ đại thôi .
*
Tôi chưa coi
phim đó.
Tks.
Chỉ có tình
là vĩ đại thôi. Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ
đại. Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN tôi có đọc
một cuốn sách dịch chuyện tình Tầu. Chuyện nào cũng
hay. Có một chuyện, về một anh học trò nhà quê,
lên thành đô học, mê một em trong xóm,
chuộc em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một
anh lái buôn. Anh này thấy cô vợ đẹp quá
bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp, phải
bán vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác,
bèn mở mấy cái rương bạn bè trong xóm tặng ra,
hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ
thả xuống sông, rồi thả mình theo.
Có một lời bàn,
đẹp thế, sao ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà
theo!
Chuyện hơi giống chuyện
nàng Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục.
Nhưng chuyện TK có hậu hơn, anh chồng hối hận, lo nuôi
con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng,
tất nhiên, khuyên theo phò Lê Lợi.
Cái truyện anh học trò, khi kể lại trên
Tin Văn, Gấu bỏ đi 1 phần, bữa nay kể tiếp, và luôn tiện
kể thêm.
Tầu chia ra đủ thứ tình, nào tình hiệp,
nào tình si, nào tình sầu, nào tình
ngu… Tình hiệp, trong Liêu Trai có 1 truyện cũng
thật thần sầu.
Có 1 vị danh sĩ, một lần đi thuyền qua cái bến
có người đẹp trầm mình, bèn cảm khái, bèn
làm 1 bài thơ, thả xuống lòng sông. Đêm
đó, mơ thấy người đẹp về, tặng bức tranh, theo truyền thuyết,
1 trong những thất tuyệt trong chốn giang hồ.
Bức danh họa, là 1 trong số những của cải quí
báu, chìm theo cùng người đẹp.
"Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông,
bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại quán xưa,
tìm gót hài trên lớp bụi, và tiếng cười
của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây"... GCC viết
về những lần trở lại cái quán cà phê hủ tíu
Tầu, nằm trên con đường Trương Công Định, dẫn tới trường Gia
Long, là cũng mong 1 kỳ ngộ như trên.
Truyện sau đây, có trong tập truyện, có
gì giống truyện tặng tranh, hiểu theo 1 cách nào
đó.
Một anh chàng thương gia, trẻ, cưới 1 em tuyệt trần,
rồi sau đó, đi 1 chuyến buôn xa, bèn xây
1 cái nhà lầu, giống như 1 cái tháp, "nhốt"
người đẹp, cùng 1 mụ quản gia, và và em hầu.
Bữa đó, em vén màn cửa sổ ngó
xuống đường, đúng lúc 1 anh chàng thương gia
đang đi trên đường ngó lên, và anh này
bèn trúng cú sét (coup de foudre).
Bèn bỏ tiền ra mua, trước, là mụ quản gia, rồi
tới tất cả lũ con hầu. Rồi 1 đêm, anh chàng giả dạng là
1 con hầu, lọt vô tháp.
Cô vợ trẻ quá mê anh bồ, và khi
nghe tin chồng sắp về, tặng anh bồ chiếc áo lót mình,
cũng 1 thứ "thất truyền" trong chốn giang hồ, có 1 không
có 2.
Số mệnh xui khiến làm sao, tối hôm đó,
1 tên đi, 1 tên về, cùng gặp nhau tại 1 khách
sạn ở ven đường. Bèn thù tạc, và trong khi thù
tạc, anh bồ đem chiếc áo lót ra khoe.
Anh chồng đau quá, thay vì về nhà, đến
khách sạn thuê 1 căn phòng.
Cô vợ, nhà vợ, sau biết ra, bèn xin phép
anh chồng cho vợ tái giá, và được 1 ông
quan, trên đường đi trị nhậm, mua làm vợ bé,
Truyện kể là, cả hai, chồng và vợ đều không
làm sao quên nổi nhau.
Trong 1 lần đi buôn xa, anh chồng bị vu cáo trong
1 vụ làm ăn, bị bỏ tù.
Vị quan xét sử, là ông quan đã
từng mua cô vợ.
Ông quan, không chỉ tha tội, mà còn
trả luôn cô vợ.
Còn anh bồ ngày nào, sau làm ăn
thất bát, chết không có tiền chôn.
Vợ phải bán mình, lấy tiền chôn chồng.
Vẫn số mệnh xui khiến, anh chồng bỏ tiền ra mua.
Thế là áo lót mình trở về cố chủ,
bonus, vợ tên bồ ngày nào!
Ghi_1/chet_vi_tinh.html
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/Valentine_Day.html
LOPEZ LECUBE: You said once that you
have always been in love with a woman.
BORGES: Yes, but the women have changed over time.
LOPEZ LECUBE: Have you had so many loves?
BORGES: 1 asked my sister about her first love and
she said to me, "I don't remember much from my life but 1 know that
I've been in love since I was four years old," and as far as I remember
I have always been in love, but the people change.
The love is always the same, and the person is always
unique, even if she is different.
LOPEZ LECUBE: Who is that unique person?
BORGES: There have been so many that I've lost track.
LOPEZ LECUBE: Have you been in love with many women?
BORGES: It would be very strange if I hadn't.
LOPEZ LECUBE: Because I would say that actually
one has very few great loves.
BORGES: All love is great, love doesn't come in
different sizes, whenever one is in love, they're in love with
a unique person. Maybe every person is unique, maybe when one is
in love they see a person as they really are, or how God sees them.
If not, why fall in love with them? Maybe every person is unique,
I could go further: maybe every ant is unique, if not why are there
so many of them? Why else would God like ants so much? There are millions
of ants and each one is undoubtedly as individual as, well, as Shakespeare
or Walt Whitman. Every ant is undoubtedly unique. And every person
is unique.
LOPEZ LECUBE: Like women ... ? The species known
as woman?
BORGES: I think that they're more sensible than
men, I have no doubt that if women governed countries, there would
be no wars, men are irrational, they've evolved that way, women too.
Borges: The Last Interview
Ông
có lần phán, ông luôn luôn yêu
1 người đàn bà.
Borges: Đúng thế nhưng
đàn bà ưa thay đổi
Như vậy ông có nhiều tình yêu?
Tôi hỏi bà chị của
tôi về mối tình đầu của bà, và bà
cho biết, “bà không nhớ, nhưng nhớ là, yêu
từ khi bảy tuổi”, và như tôi nhớ được thì tôi
luôn luôn yêu, nhưng con người thay đổi. Tình
yêu thì luôn cũng vậy, vũ như cẩn, và người
yêu luôn duy nhất, ngay cả khi người đó khác
đi.
Ai là cái người duy nhất đó?
Nhiều quá làm sao
lần ra.
Như vậy là ông yêu rất nhiều
người đàn bà?
Lạ, là, nếu tôi không
yêu rất nhiều người.
Tôi hỏi như thế, là bởi vì thật
khó mà 1 người có nhiều mối tình
lớn trong đời.
Mọi cuộc tình thì
đều lớn, đều vĩ đại, đều số 1: tình yêu không
đến với những kiểu cọ lớn nhỏ khác nhau. Một khi yêu,
là một khi duy nhất, một người duy nhất. Có thể là
như thế này: Mọi con người thì đều là duy
nhất, khi 1 người đang yêu, họ nhìn con người thực sự
như là con người, như Chúa nhìn họ như thế đó.
Nếu không, thì yêu làm khỉ gì cho
mệt? Mọi người thì đều mọi duy nhất, và tôi có
thể phăng thêm: có thể mọi con kiến thì đều duy
nhất, nếu không thế, thì tại làm sao Chúa
yêu chúng quá như thế? Có hàng triệu
triệu con kiến mà một con kiến như thế, là 1 cá
nhân như Shakespeare, hay Walt Whitman. Mọi con kiến, không
nghi ngờ chi, là duy nhất. Và mọi người là duy nhất.
Valentine's
Day
À Quoi Bon Dire
Lời
Nào Em Không Nói
Mười bảy năm trước em phán
Có điều gì nghe như Good-bye
Và mọi người đều nghĩ, em đi xa
Không phải em mà là anh.
Và như thế, anh, ườn mãi
ra, già mãi đi.
Uờn như thế, già như thế, thì cũng là
Good-bye.
Và mọi người thì đều thấy anh già.
Em, vưỡn như ngày nào.
Và một buổi sáng
đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài người sẽ chẳng còn ai yêu,
như là họ yêu nhau
Trong khi đâu đó, ở đằng xa kia,
Em sẽ mỉm cười, và anh sẽ đụng nhẹ lên mái
tóc em.
*
Đáng lẽ đầu năm thì
bỏ qua, mà đọc bài thơ dịch "A quoi bon dire" ... thì
phải ghẹo ít chữ .
Bài thơ này, theo
như lời giới thiệu :
Here, from 1916, in the years
of American modernism, next to poems by D. H. Lawrence and Ezra Pound
and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
Tức là của bà Charlotte Mew, vậy thì
người xưng I ở đây chắc nên cho là phái
nữ .
K nghĩ ý nó như
vậy nè :
Mười bảy năm trước anh nói
gì gì nghe như thể vĩnh biệt
Và giờ đây mọi người đều nghĩ, anh chết rồi
Trừ em
Thế rồi, em càng ngày
càng khô, càng lão
Em giờ cũng nói vĩnh biệt này nọ.
Và ai cũng thấy rằng em già thật
Trừ anh
Và một buổi sáng
đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài người sẽ chẳng còn ai yêu,
như là họ yêu nhau
Trong khi đâu đó, ở đằng xa kia,
Anh sẽ mỉm cười, và em sẽ đùa với mái
tóc của anh.
Tks.
Nhân tiện, chúc
Tết Tây K & O luôn.
NQT
M-iêu
M đứng trên mi Anh
Tóc M trong tóc Anh
Dáng M lòng tay anh
Mắt M mầu mắt Anh
M cuộn thành bóng Anh
Như sỏi đá bầu trời
Mắt M luôn mở lớn
Chẳng hề cho Anh ngủ
Mơ M ngập ngụa nắng
Làm bốc muôn mặt trời
Làm Anh cười, khóc, cười,
Nói chẳng nói lên lời
http://www.tanvien.net/Poesie/Lady_Love.html
Note: Nhân đọc bài thơ này, thì
bèn nhớ ra bài viết của Steiner, về Sylvia Plath, "Dying Is
An Art". Nữ thi sĩ Mẽo, tự tử. Trong Ngôn Ngữ và Câm
Lặng.
BOOKS
NOTES ON A VOICE
Sylvia Plath
Tragic, yes, but full of life.
Madeleine Kruhly tunes in
"Queen of Sorrows, the spokeswoman for our most private, most helpless
nightmares." This is Sylvia Plath, as seen by Joyce Carol Oates. Of nightmares
and sorrows, Plath was too well learned. Born in Boston in 1932, she published
her first poem at the age of eight, soon after her father's death. Her collections
'The Colossus" and "Ariel" still attract new readers, as does her only
novel, "The Bell Jar", which follows a whip- smart woman's spiral into
depression. Her work has never gone away: in 2017 the Smithsonian will
devote an exhibition to her at the National Portrait Gallery.
At 30, Plath took her own life, setting herself
up to be seen through the lens of tragedy, but there is tremendous spark
in her poems. She did not always deal in despair, and if she did, it was with
supreme, and silver-tongued, awareness. "If neurotic is wanting two mutually
exclusive things at one and the same time," she said, "then I'm neurotic
as hell."
KEY DECISIONS
Two educational, one existential. (1) Going to Smith, a private women's
college where Plath was thrilled to be surrounded by "free-thinkers". (2)
Moving on to Cambridge on a Fulbright scholarship. There she met Ted Hughes;
four months later, they were married. (3) Taking a leaf out of William Ernest
Henley's book. Plath wrote in high school, "I am the one who creates part
of my fate, and I'll fight destiny all the way. So!"
STRONG POINTS
(1) A dry wit, lending itself to the morbid. "Dying/ Is an art, like
everything else./I do it exceptionally well" ("Lady Lazarus"). (2) Subverting
the tender, and reclaiming it, against her own intentions. "The moon is
my mother. She is not sweet like Mary./Her blue garments unloose small bats
and owls./How I would like to believe in tenderness" ("The Moon and the
Yew Tree"). (3) The direct address. No other poet uses the second person
as well as Plath does - the "you" is dynamic and unresolved. (4) A rhythm
of repetition. Echoes become an obsession: "I shall not be accused, I shall
not be accused./The clock shall not find me wanting, nor these stars" ("Three
Women"). (5) Spotting double standards, and calling them out. Plath could
not allow for men "to have a double life, one pure and one not" ("The Bell
Jar").
GOLDEN RULE
Never be perfect, never be predictable. Not that she found it easy:
she doubted her abilities, striving to be faultless. And she often felt
a stranger, saying in an early diary entry, "I still do not know myself.
Perhaps I never will." But Plath did recognize she could be more than others
expected, imperfect or otherwise: "I am too pure for you or anyone./Your
body/Hurts me as the world hurts God. I am a lantern -" ("Fever 103").
FAVOURITE TRICKS
(1) Rhetorical questions, to which she even replied, scathingly. "Is
it a penny, a pearl-/Your soul, your soul? /1'11 carry it off like a rich
pretty girl" ("Stopped Dead"). (2) Unnerving similes. "He hands her the
cut-out heart like a cracked heirloom" ("Two Views of a Cadaver Room"). (3)
Going from a shriek to a hush, and back. Plath sears and burns, but she falls
quiet in the briefest, and most poignant, of moments. See "Nick and the Candlestick"
for a striking balance.
ROLE MODELS
Emily Dickinson, for a strong first-person persona and a love of paradox.
Anne Sexton, for sheer guts and a weakness for anaphora. Fyodor Dostoyevsky,
for fervour and streaks of the macabre.
STARTER PACK
"Ariel" (1965) is a sure-fire introduction. Once you've devoured it,
try "Three Women: A Poem for Three Voices", a haunting radio play set in
a maternity ward.
TYPICAL LINES
These, from "The Colossus", for their wave-like rhythms and unapologetic
tone. "The sun rises under the pillar of your tongue./My hours are married
to shadow./No longer do I listen for the scrape of a keel/On the black
stones of the landing".
Mỗi đàn bà lấy một tay
phát xít.
[Chaque femme épouse un fasciste].
Sylvia Plath: Chuông Tuyệt Vọng [Cloche de détresse.
Nhà xb Denoel].
"Pauvre Sylvia Plath", nàng Sylvia Plath đáng thương,
bài viết trên tờ Lire, số tháng 11, 2004, mở đầu.
Sylvia Plath [1932-1963]: Một thứ Virginia Woolf của thập niên
1960, và cũng tự huỷ mình như Woolf, nhưng chán đời
theo một kiểu hoang dại, sauvage, hơn nhiều.
Ngôi sao băng trên nền trời thi ca Mẽo, tuy thoáng
hiện rồi mất tích, nhưng để lại dấu ấn trên rất nhiều nhà
văn, rất ư là khác biệt trong số họ, như: Adrienne Rich,
Erica Jong, hay Philip Roth.
Tên miền của bà [Son territoire]: Sự tự thú [la
confession].
Khí giới của bà: Sự hung bạo bất thần [la violence pulsionnelle]
Chuông Tuyệt Vọng: Một thứ tiểu thuyết nửa nhật ký riêng
tư, nửa giả tự thuật về mình [mi-journal intime, mi-autofiction],
một cuốn sách thờ, và câu văn nổi tiếng kể trên,
đã trở thành tuyên ngôn của phong trào
giải phóng phụ nữ.
The Lover
When
I lived on a farm I wrote love letters
To chickens pecking in the
yard,
Or I’d sit in the outhouse
writing one to a spider
Mending his web over my head.
That’s when my wife took off
with the mailman.
The neighbors were leaving,
too,
Their sow and piglets squealing
As they ran after the moving
truck,
And even that scarecrow I once
tied to a tree
So it would have to listen to
me.
Charles Simic is a Pulitzer
Prize-winning poet and the author, most recently, of “The Lunatic.”
Người Tìn
Khi sống ở một trang trại
Tớ bèn viết thư tìn
Cho mấy chú gà con, đang mổ lóc
chóc ở ngoài sân
Hay là ngồi ở nhà xí
Viết thư tìn
Cho con nhện
Đang vá lưới trên đầu
Khi vợ tớ bỏ tớ, theo tên bưu tá
Hàng xóm cũng bỏ tớ
Con heo nái và lũ heo con kêu
eng éc
Khi chạy theo chiếc xe tải
Ngay cả thằng người rơm!
Có lần tớ trói nó vô
1 cái cây,
Thì chỉ có mỗi cách đó
Để bắt nó nghe tớ đọc thư tìn.
Osip
Mandelstam

1 Year Ago Today
Người êu dấu của Gấu
Theo D. Khrams
Trong bức hình thật là OK, chụp bộ mặt của
em,
Cặp mắt là hai lỗ châu mai
Không, để Gấu nói lại,
Hai mắt của em thì như hai con ruồi
chết đuối trong ly sữa
Hay, như hai tí nhau Draculas!
Thôi, kệ cha cặp em mắt mà lũ Mít
chuyên mần thơ tán gái, gọi là cửa sổ
của tâm hồn!
Để Gấu nói về miệng của em
Miệng của em thì đúng là
căn lều
Nơi chó sói làm thịt bà
nội của cô bé quàng khăn đỏ, cháu ngoan
Bác Hồ
A, thôi, hãy vờ miệng của em đi
Để Gấu lèm bèm về cặp dzú
của em
Lúc này, lúc nọ, con mắt
lé của Gấu thường lén nhìn
Chỉ lén 1 tí như thế, mà
Gấu xém điên cái đầu!
Thôi, tốt hơn hết, hãy “lói” về cặp
cẳng của em.
Khi em đi 1 đường ghé cái xô
pha,
Thì chẳng khác gì tên
quản giáo mở gói quà
Trong gói quà có cái
bánh ngọt
Trong cái bánh ngọt, cái
giũa xinh xinh
Nó giũa tên em,
Như giũa cái cùm, quanh cổ Gấu
Cà Chớn
Hà, hà!
Charles Simic
Note: Post
trên FB thời gian ở Lào, không vô Tin Văn được.
Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên
ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh
sáng
còn tôi thì làm bằng
bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng
tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương
hại.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên ngọc
trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh sáng
còn tôi thì làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương hại.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/36.html
CELLO
Those who don't like it say it's
just a mutant violin
that's been kicked out of the chorus.
Not so.
The cello has many secrets,
but it never sobs,
just sings in its low voice.
Not everything turns into song though.
Sometimes you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't sleep.
Adam Zagajewski
Hồ Cầm
Kẻ không thích,
thì phán,
Ui dào chỉ là cái vĩ cầm chưa
thành vĩ cầm
Bị dàn nhạc đá văng ra khỏi bản đồng
ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có nhiều bí ẩn,
nhưng không bao giờ sụt sùi,
chỉ hát trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải mọi chuyện thì
đều biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn bắt được một tiếng thì
thầm, hay thỏ thẻ:
Anh Gấu ơi,
Ðêm nay, em cô đơn,
Em không thể ngủ được.
Robert Frost
Stopping By Woods on a Snowy
Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Tạm dịch:
Dừng ngựa bên rừng buổi
chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi
nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng
ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy
kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà
cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy
cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này,
chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng
mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và
sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái
Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có
cái tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.
As to the metaphor, I should
add that I now see that metaphor is a far more complicated thing
than I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying,
"the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more
subtle way.
Think of Robert Frost. You of course remember the
lines:
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
If we take the last two lines,
the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the
poet is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And
miles to go before I sleep," the line becomes a
metaphor; for "miles," stands for "days," for "years,"
for a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death."
Perhaps I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the
pleasure lies not in our translating "miles" into "years" and "sleep"
into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This
craft of verse
Borges lèm bèm:
Về ẩn dụ, tôi có lẽ nên nói
thêm là, nó rất ư “cà chớn”, rất rắc
rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó không
giản dị chỉ là so sánh sự vật này với sự vật khác
- thí dụ, "mặt trăng thì như là... " - Không,
nó “tế vi” hơn nhiều.
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
Nếu lấy hai dòng đầu,
thì nó là 1 câu phán của thi
sĩ, về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập
lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến
thành "ngày", thành "năm", và dài
dài mãi ra, và "ngủ", có nghĩa là,
ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc lại bài
thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách
dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái
tít!
Những lời hứa phải giữ!
Bài tiểu luận lấy làm
tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí,
On Grief and Reason, của Brodsky, là
viết về [vinh danh] Robert Frost.
Brodsky viết:
Vào năm 1959, trong 1 bữa tiệc mừng sinh
nhật lần thứ 85 của Frost, tại New York, nhà phê bình
sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó, the most prominent literary
critic at the time, Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu
có cẳng, goblet, phán, Robert Frost là nhà
thơ khủng khiếp, a terrifying poet. Lẽ dĩ nhiên, có
những tiếng ồn ào tiếp theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng
là từ dành cho Frost:
Now, I want you to make the distinction
here between terrifying and tragic. Tragedy, as you know, is always a “fait accompli”, whereas terror always
has to do with anticipation, with man's recognition of his own negative potential-with
his sense of what he is capable of. And it is the latter that was Frost's
forte, not the former. In other words, his posture is radically different
from the Continental tradition of the poet as tragic hero. And that difference
alone makes him- for want of a better term-America.
Ui chao, đọc 1 phát, Gấu
nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho Hoàng
Đông Phương!
Between Two Worlds
Brodsky ventures, "American poetry
is essentially Virgilian, which is to say contemplative."
Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu
hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm
thơ sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch sử Nga,
có thể lập lại câu hỏi trên, bằng cách
thay tên Auschwitz bằng 1 cái tên khác,
và sự chứng thực, justification, còn bảnh hơn, even
greater, Auschwitz, bởi vì con số những người chết trong
trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều, so với Lò Thiêu,
hay, như nhà thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng,
retorted, Adorno: “Làm sao một người có thể ăn trưa
[sau Lò Thiêu]?”
Trong bất cứ trường hợp,
thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm thứ
thơ đó [that poetry].
Thơ ca Mít, nhất là đám Miền
Nam sau 1975, đụng đúng cú này, và
TTT trả lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như đếch có
gì xẩy ra?
Note: Phản ứng của Brodsky, trước câu
phán của Adorno, đúng, nhưng sai, do ông không
làm sao phân biệt được Cái Ác Nazi và
Cái Ác Châu, y chang trường hợp Auden, hay Hass,
không đọc được thơ Osip Mandelstam. Thuật ngữ thường được dùng
cho Lò Thiêu, "không thể nói được", "unspeakble",
đúng ra phải dùng cho Cái Ác Á
Châu.
Nhờ "nói được", qua những kẻ sống sót,
như Celan, Levi.... cho nên Âu Châu sống sót
Cái Ác Nazi, và có thuốc chủng, như Todorov
phán: Khử bằng hồi ức.
Cái Ác Á Châu, vô phương!
Chúng làm Ác, tạo Ác, và
dửng dưng như không:
Thánh Nhân Bất Nhân, Coi Thiên
Hạ Như Chó Rơm!
Bạn chỉ cho GCC thấy, 1 tên Bắc Kít, nhỏ
1 giọt nước mắt cá sấu , cho 1 tên Ngụy, đi tù
17 niên, như Thảo Trường, thí dụ?
Memory as a Remedy for Evil
Todorov mở ra cuốn sách
nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc
trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận
xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của dân
Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và
chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver
us from evil". Câu này ngụ ý, trong chúng ta
có... quỉ, và chỉ có Thượng
Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng
con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm
hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng
này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.
Cái giấc mơ thống nhất
nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn
trị!
Thế mới chết!
(1)
Todorov
Re: Pourtant,
il affirme qu'« on peut aimer passionnément la
littérature, sans pour autant croire qu'hors des livres
il n'y a point de salut ».
Today at 2:42 PM
“on peut aimer
passionnément la littérature, sans pour autant croire qu'hors
des livres il n'y a point de salut”
Bác Gúc dịch:
One can passionately love literature, without believing
that outside of books there is no salvation
Nôm na, mình yêu sách nhưng
đừng nghĩ chỉ có sách mới cứu!
Bac khoe khong?
I am OK. Tks
Nửa hồn thương đau.
Thời gian hầu hạ Cô Ba, GCC và mấy đấng
bạn, trong có mấy đấng là bạn thằng em trai đã
tử trận, rất mê bản này. Phê cả hai.
Lâu rồi, đọc báo trong nước, thì
lại được biết, bản nhạc mà dân ken rất mê, khi
tới cực đỉnh của thú đau thương, là Bài Không
Tên Số 7.
"Nửa hồn thương đau", là từ thơ TTT:
Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng
hương xưa
Cho tôi về đường cũ nên thơ
Cho tôi gặp người xưa ước mơ
Hay chỉ là giấc mơ thôi
Nghe tình đang chết trong tôi
Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau
Ôi sao ngàn trùng mãi xa
nhau
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
Anh ở đâu? Em ở đâu?
Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt
Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất
Và tiếng hát và nước mắt
Đôi khi em muốn tin
Đôi khi em muốn tin
Ôi những người ôi những người
Khóc lẻ loi một mình
Bài Không Tên
Số 7
Một làn khói trắng
Ru đời vào quên lãng
Nâng sầu thành hơi ấm
Hơ dịu tình đau
Ngày tàn im ắng
Yêu người làm tóc trắng
Tâm sự rồi đến đắng
Như lệ giờ biết nhau
Đêm vỗ về nuôi nấng
Đêm trao ngọt ngào hương phấn
Buông lơi dòng tóc mỡ
Trên vùng ngày tháng vật
vờ.
Thân em rồi hoang phế
Lê theo thời gian giông gió
Thôi cũng đành cúi xuống
Cho mộng đời thoát đi
Một đời đổ cho tình yêu
Từng đêm dòng nước mắt
Sẽ nâng niu đời nhau ư? Đớn đau anh
Sẽ cho nhau đời nhau ư? Xót sa em
Dắt đưa nhau mối hận đời người
Trả lại nước mắt
Cho mệnh đời son sắt
Thôi rồi em cũng mất
Cho tình cúi đầu
Một mình đi mãi
Trên đường dài không thấy
Ai người quen tôi đấy
Bao giờ đời sẽ vơi
https://granta.com/issues/granta-136-legacies-love/
Di [Sản] Tình [Tinh]
Introduction
Emily Dickinson refers to two legacies in one of her
poems; one of love and one of pain, the latter 'capacious as the
sea'. Love and pain, love and loss: the two are twinned. To know love
is to know (or to imagine) the loss of love.
In some cultures, of course, the
risk of love is much greater than the potential loss of that love.
In Nigeria, and in many other countries around the world, homosexuality
is criminalized. Pwaangulongii Dauod's essay in this issue, 'Africa's
Future Has No Space for Stupid Black Men', is about C. Boy, a student
activist who formed a gay club to support LGBT people, some of whom
were shunned by their families, and vulnerable to state persecution.
Running such a club is a crime in Nigeria, punishable by up to ten years
in prison. Homosexual cohabitation can lead to jail terms of up
to fourteen years, and worse in the northern areas which have adopted
sharia law.
Dauod's essay, sent to me by Binyavanga
Wainaina, founding editor of Kenyan literary magazine Kwani?,
shows the dangers of state-sponsored homophobia: fear, concealment,
suicide. It also shows resistance. This essay is not only about
homophobia - it is also about the relationship between individuals
and the state, and a movement of hope and regeneration.
Each story in this issue is about love. Patrick Flanery
writes about adoption: 'I find him in front of the painting. Though
you can't tell much about the boy in the picture, he must be about
the same age as the boy standing there on the carpet in the living
room, the boy who is now, I remind myself, my son.' The boy is six,
previously neglected and somewhat feral; he creates disorder in the
aesthetic space and the well-ordered life. The painting Flanery refers
to is by South African artist Kate Gottgens. It depicts a boy with a
tied-on tail and an enigmatic smile, his pose watchful and energetic -
you can see it on page 68. Flanery's story evokes the question of how
love emerges when you adopt a child of that age, in the context of damage
and transition between families, between cultures, and between neighborhoods.
Like Erica Jong, the Danish writer
Suzanne Bragger wrote freely about sexuality and women's liberation.
This extract from her diaries, translated by the author, is a time
piece of the 1980s.
Brogger is in love, but she is also
stalked; the stalker does not accept her new relationship, and
may love her, or perhaps he hates her. It's hard to know: the narrative
of stalking hasn't settled yet.
Claire Hajaj tells the story of
one of Syria's refugees in Lebanon. It's a true story, and one
in which Claire and her husband were closely involved. Thanks to
them, it ended well, but Hajaj's narrative is haunted by all the
other stories, the refugees we walk away from without helping: 'They
turn us into moral cowards; the more reasons they give us to stop,
the faster we walk, and the tighter we cling to the belief that we have
some useful, urgent destination.’
Love is haunted by loss; generosity
is haunted by guilt.
Kathleen Collins was an African-American film-maker,
artist, educator and writer. We lead with the title story of her
hitherto unpublished collection of stories, 'Whatever Happened to
Interracial Love?'. The narrator is a young black woman, relatively privileged-
she has been to college, the only black woman of her cohort at Sarah
Lawrence; she is in love with a white civil rights activist, she lives
on the Upper West Side, she hangs out with poets and community organizers.
'It's the year of "the human being"', Collins writes,
'The year of race-creed-color blindness. It's 1963.' She ironically
identifies the race of each character in brackets and quotation marks:
(‘white'), or ('negro') - an oblique comment on the reality of that
'race-creed-color blindness'. The author ends her story: 'It's 1963.
Whatever happened to interracial love?' It's 2016. Whatever did happen
to interracial love, and to 'race-creed-color blindness'? _
Sigrid Rausing
https://granta.com/first-love/
Tình Đầu
Trên
Người Nữu Ước
còn bài viết Chuyện Tình
Thứ Thiệt, Real Romance: Làm thế nào Nora
Roberts trở thành tiểu thuyết gia phổ thông nhất tại
Mẽo?
Chôm
được một câu thật tuyệt, của Jane Austen, để gửi CM:
M xuyên thủng hồn Anh. Anh, một nửa hấp hối, một
nửa hy vọng. [You pierce my soul. I am half agony, half hope.]
Làm
nhớ câu thơ:
M
đi, một nửa hồn ốc mất,
Một
nửa hồn kia cũng khật khừ!
*
'I
read to be entertained and to relax, and to go into another world,
not because it's good for me. " Roberts says.
Tôi
đọc để thú, để xả, và để nhập vào một thế giới
khác, không phải bởi vì nó nó tốt
cho tôi.
*
Hè vừa rồi, một nữ biên tập đưa ra một
câu hỏi cho độc giả của nhà xb: Vậy thì dòng
văn nào, trong một câu chuyện tình nức nở, mà
khi đọc, bạn cảm thấy bao nhiêu lông tóc của bạn
dựng đứng lên, và, sau bao nhiêu năm nước chẩy
qua cầu, sao bao nhiêu lông tóc rụng rơi cùng
những cuộc tình mê tơi, mệt bã đến cả... giường
lẫn chiếu, bạn vưỡn nhớ nó?
Jane Austen được vài lá phiếu, với câu:
Anh chọc thủng h[l]ồn em, khiến em nửa hấp hối, nửa hy
vọng.
Georgette Heyer: Tôi nhớ từng lời, kể cả những
lời em chưa nói ra với tôi [Lời nào em không
nói em ơi, tình nào không gian dối?]….
Người thắng giải dễ dàng, là Nora Robert
– La Nora, Nora Nữ Hoàng, hay giản dị, NR.
Một độc giả nêu tên tác phẩm “Carnal
Innocence”, trong có đoạn, tả một em nhà giầu, nữ
thừa kế, có người yêu xưa, xác nằm trong một
cái ao làng, và bị FBI hỏi cung:
-Cô và cái tay bị chết đó
hình như có mối liên hệ?
-Cái mối liên hệ mà ông nói
đó, là sex.
Hay đoạn sau đây, giữa hai kẻ đang yêu nhau:
-Em quyết định ghét anh.
-Nữa, hả?
Cái đoạn sau làm nhớ một nhân vật
của HHT, đang hì hà hì hục, đã năn nỉ
em, lát nữa, nữa nhé.
NR quả là một hiện tượng khủng khiếp, chỉ về
mặt kiếm tiền không thôi đã qua mặt cả Grisham
và Stephen King, và cả hai người này đều mê
đọc bà, qua bài viết trên Người Nữu Ước.
Nhưng mấy câu độc giả đưa ra để bỏ phiếu, theo
Gấu, chưa nhằm nhò gì, so với của... Gấu!
Hồng nhan một nét ,- trời
một cõi
Nhà ở đâu,
ta ở nơi này
German literature is where
I am
Trời ở đâu, nhan
sắc của ta ở đó!
Nhân Valentine's Day,
bèn đi thêm vài đường.
Sở dĩ Kiều Phong, bị bà vợ của Phó Bang
Cái Bang, chơi cho đến nỗi thân tàn danh bại,
chỉ là vì không chịu nhìn em 1 phát.
Em, lúc đó là Đệ Nhất Mỹ Nhân,
trong Đêm Hoa Đăng, tại Chợ Hoa Nguyễn Huệ Xề Gòn.
Bất cứ người đàn ông nào, ghé
Chợ Hoa, đều phải nhìn em 1 phát, đúng cái
ý câu thơ, "Trời ở đâu, nhan sắc ta ở đó",
hà hà!
Chỉ có KP là đếch thèm nhìn,
vì mải vui với bạn văn, mê "tản mạn bên ly cà
phe"!
Thơ của vị bằng hữu NTST này, với GCC, cũng tương
tự.
Đọc loáng thoáng trên Gió
O, thấy.... thường.
Thế là vị này ra đòn.
Hai đòn liền.
cầm tay hôn biết địa chỉ
Hôn tay xong ngàn thu sau
Chẳng bao giờ còn thấy nhau
Linh hồn em anh đã giữ
Đem đi đâu đi đâu
Đi đâu
Note: Bạn có thể sử dụng những gì mà
Borges viết về Robert Frost, qua mấy bài thơ Tin Văn vừa giới
thiệu, Làm quen với Đêm, Dừng ngựa
bên rừng chiều tuyết phủ, Kinh Cầu..... cho bài
thơ của vị nữ thi sĩ, phu nhân nhà thơ Khoa Hữu. Như cái
tập sách Anh Văn vỡ lòng mà Gấu vớ được ở Trại
Tị Nạn, lấy câu thơ của Frost làm nhan đề, Lời Hứa Để
Giữ, Promises To Keep: GCC cũng lấy cụm từ đó làm cái
entry cho mẩu viết này.
Mít chúng ta quả là có những
lời hứa phải giữ.
GCC, dịch bài thơ tiếng Anh đầu tiên trong
đời, của Frost, là cũng có ý đó.
"And miles to go before I sleep/ And miles to go before
I sleep.
"And miles to go before I sleep/ And miles to go before
I sleep." There we see that the same words have two different meanings.
In the first of the last two verses, the words stand for miles and
going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.
And that, I think, is the chief achievement of Frost.
He could write poems that seem simple, but every time you read them
you are delving deeper and finding many winding paths and many different
senses. So Frost has given us a new idea of metaphor. He gives us metaphor
in such a way that we take it as a simple, straightforward statement.
And then you find that it is a metaphor. "And miles to go before I sleep/
And miles to go before I sleep." There we see that the same words have
two different meanings. In the first of the last two verses, the words
stand for miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands
for death.
Borges
Và đó là thành tựu “lớn nhất,
chủ, trùm...” [chief] của Frost. Ông có thể viết
những bài thơ xem ra thì thật giản dị, nhưng mỗi lần
chúng ta đọc, là mọi lần chúng ta đào bới
sâu thêm, và tìm ra không biết bao
nhiêu là lối đi, và nghĩa nghiếc khác nhau.
Và thế là thi sĩ đem tới cho chúng
ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông cho chúng ta ẩn
dụ, theo cái cách mà chúng ta coi nó
như là 1 phát biểu tự nhiên, giản dị, thẳng 1
lèo. Và thế rồi, bạn ngộ ra, đây là 1 ẩn
dụ:
Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!
Ông [Borges] đồng ý với… Gấu, ẩn dụ
không đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực
sự, là đốn ngộ, là mặc khải.
ĐÊM LỄ TÌNH NHÂN
NGỒI NƠI GÓC SÂN TRƯỜNG
Không ai - không
có ai nơi nầy
Chỉ có vầng trăng trên
ngọn cây
Ngồi một lát cho ấm
ghế đá
Một lát thôi lệ
ấm bàn tay
Trời chưa nguôi trút
ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp
lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng
sững cội
Thổi qua tóc rối chạm
hồng nhan
Hồng nhan một nét ,-
trời một cõi
Nghiệm đời mình sao
ngó gốc cây
Giữa bao la gió còn
ai gọi
Nhà ở đâu, -ta
ở nơi nầy
Mái trường, cơn-mê-đời
trú ẩn,
Tình ta, hồn cổ thụ
chiêm bao
Thấy đời mình gan lì
lặng lẽ
Bền bỉ xù xì
đứng lớn lao
Lệ hạt tặng cây buồn
gởi gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần
thần
Những bước xuân xanh
ngoài kia phố
Có buộc sợi tình
quanh ngón chân .
nguyễn thùy song thanh
Note: Tình
ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Tuyệt!
Bất giác, nhớ thơ tù
của ông anh, TTT, làm tặng bạn:
Mừng sinh nhật bạn
Th.T.
Chốc đã thấy mình
sáu mươi bốn
Sống thế quả là có
ghê gớm
Cớ sao hồn mộng vẫn chưa khuây?
Phải chăng giấc tình
còn lẩm cẩm?
Một mai viễn khách
ngó trời Tây
Lúc ấy tha hương ngộ
bóng nhạn.
Tháng Chín gió
thổi như chim như mây
Rong ruổi theo hương lạnh
tản mạn
84.
Bài thơ của vị bằng hữu,
còn nhiều câu quá đỗi thần sầu,
Gấu lọc 1 câu, liền với mạch thơ TTT.
Mấy câu sau đây,
quả đúng ý Borges, thơ là để trao
cho thi sĩ.
Hồng nhan một
nét ,- trời một cõi
Nhà ở đâu,
ta ở nơi này
Quá bảnh! Quá
hách xì xằng!
Lệ hạt tặng cây buồn gởi
gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần
thần
Có buộc sợi tình
quanh ngón chân .
Có sợi tình buộc quanh ngón
chân
theo GCC, cũng
đặng!
Tks. Many Tks
NQT
Khi Thomas Mann từ Đức đến California,
người ta hỏi ông về văn chương Đức, ông trả lời: "Văn chương Đức là
nơi tôi đang ở (German literature is where I am).
Nếu một người Đức dám chấp nhận
điều này, tôi cũng dám chấp nhận. Bây
giờ tôi sửa soạn để chết tại đây. Cũng chẳng quan
trọng chi chuyện đó. Vả chăng tôi cũng không
biết chốn nào khá hơn. Mà nếu có biết,
tôi cũng chưa kịp sửa soạn để đổi đời.
Brodsky: Tôi
hết còn tin vào nơi chốn ấy
Chỉ 1 câu thơ "hồng nhan 1 nét,
trời 1 cõi", sợ còn bảnh hơn, cả Mann lẫn
Brodsky!
German literature is where
I am
Trời ở đâu, nhan
sắc của ta ở đó!
Vị này, làm sao mà
không đọc được, và làm sao mà
không cảm được, những dòng thơ của Anna Akhmatova?
Bà cũng đã từng
lặn lội trong bao nhiêu năm, thăm nuôi chồng, sĩ quan VNCH
bị lũ Bắc Kít đem đi đầy tận mãi Cực Bắc Bắc Việt?
Chỉ mấy dòng thơ, đầy cao ngạo,
cao sang, và rất ư là tâm sự, riêng
tư:
Ngồi một lát cho
ấm ghế đá
Một lát thôi lệ
ấm bàn tay
Trời chưa nguôi
trút ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp
lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng
sững cội
Thổi qua tóc rối chạm
hồng nhan
Câu cuối, quá tuyệt!
Ui chao, khen quá, sợ, lại bị
chửi, mi ít khen ai!
Nhưng hách nhất, phách
lối nhất, thì phải là câu phán
của chính Brodsky, về mình:
I was only too glad
to be the handmaid of genius, and to be taken for granted.
Tớ thật khoái tỉ khi được coi
là tên tà lọt của thiên tài,
và được bảo đảm như vậy.
GCC sợ rằng, vị này
cũng thừa sức để mà "khiêm tốn" về thơ của mình,
như... Brodsky!
Đây cũng là ý của
Anna Akhmatova, khi gặp nữ thần thi ca:
THE MUSE
When at night I await the beloved
guest,
Life seems to hang by a thread. "What
is youth?" I
demand
Of the room. "What is honor, freedom,
the rest,
In the presence of her who holds the
flute in her hand?"
But now she is here. Tossing aside
her veil,
She considers me. "Are you the one
who came
To Dante, who dictated the pages of
Hell
To him?" I ask her. She replies, "I
am."
1924
Nữ Thần Thi Ca
Ðêm, ta đợi vị khách
quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi
chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn
lại,
Thì là cái gì,
trước nàng, người cầm cây sáo ở trong
tay?
Nhưng bây giờ, nàng ở đây.
Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý
dò hỏi. “Bà có phải là người
đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?”
Ta hỏi nàng.
“Không phải ta, thì là
ai?”
Valentine's Day 2017
The Incident of the Dead Face
[1925]
"Please
come see her. This is what's become of her. Oh, how she wanted
to see you once more." The man's mother-in-law spoke as she hurriedly
led him to the room. The people at his wife's bedside all looked
toward him at the same time.
"Please
take a look at her." His wife's mother spoke again' as she started
to remove the cloth covering his wife's face.
Then
he spoke suddenly, in spite of himself. "Just a moment. Could I
see her alone? Could you leave me alone with her here in the room?"
His words
aroused sympathy in his wife's family. They quietly left, closing
the sliding partition behind them.
He removed
the white cloth.
His wife's
face had stiffened into a pained expression in death. Her cheeks
were hollow and her discolored teeth protruded from between her lips.
The flesh of her eyelids was withered and clung to her eyeballs. An
obvious tension had frozen the pain in her forehead.
He sat
still for a moment, staring down at this ugly dead face. Then, he
placed his trembling hands on his wife's lips and tried to close her
mouth. He forced her lips shut, but they fell open limply when he released
his hands. He closed her mouth again. Again it opened. He did the same
thing over and over, but the only result was that the hard lines around
his wife's mouth began to soften.
Then
he felt a growing passion in his fingertips. He rubbed her forehead
to try to relieve its look of grim anxiety. His palms grew hot.
Once
more he sat still, looking down at the new face.
His wife's
mother and younger sister came in. "You're probably tired from
the train ride. Please have some lunch and take a rest. . . . Oh!"
Tears suddenly trickled down the mother's cheeks. "The human spirit
is a frightening thing. She couldn't die completely until you came back.
It's so strange. All you did was take one look at her and her face became
so relaxed.... It's all right. Now she's all right."
His wife's
younger sister, her eyes clear with an unearthly beauty, looked into
his eyes, which were tinged with madness. Then she, too, burst into
tears.
JMH [J.Martin Holman]
Note: Valentine's Day. Kèm
với Thơ, Tin Văn đi
vài đường truyện ngắn!
Câu chuyện về bộ mặt của người
chết.
“Xin tới nhìn mặt nàng”. “Ôi chao nàng
mới mong làm sao, được nhìn mặt chồng một lần chót”.
Bà mẹ vợ hối hả nói trong lúc dẫn người
con rể vô căn phòng. Tất cả những người có mặt
trong căn phòng, cùng lúc cùng nhìn
về phía người mới bước vô.
“Hãy nhìn cô ta”, người mẹ vợ vừa nói
vừa kéo tấm vải che mặt người chết.
Người chồng bất thình cất tiếng. “Xin chờ 1 chút.
Xin cho phép tôi được ở một mình với cô ta”
Có sự thông cảm trong gia đình người
vợ. Họ rời căn phòng và kéo cánh cửa phòng
lại sau họ.
Người chồng lúc này bèn kéo tấm
vải che mặt vợ.
Bộ mặt bà vợ bày ra nỗi đau của cái
chết. Má trũng xuống, răng vêu khỏi lợi, mi mắt không
1 chút sinh khí, như dính chặt vào tròng
mắt.
Rõ ràng là nỗi thống khổ của cái
chết như đóng băng trên mặt người quá cố.
Người chồng cứ thế ngồi 1 lúc, nhìn xuống
mặt người vợ của mình ngày nào.
Rồi anh ta để những ngón tay run rẩy của mình
lên môi vợ, cố tìm cách khép môi
nàng lại.
Cặp môi cố cưỡng lại. Và anh chồng cố, cố, cố
nữa.
Và cặp môi sau cùng đành mềm ra
1 tí.
Anh chồng cảm thấy 1 nỗi đam mê dần dần trồi lên,
ở nơi những ngón tay của mình. Anh lấy tay lau trán,
cố xoá nỗi xốn xang, và cảm thấy lòng bàn
tay của mình nóng bỏng.
Và rồi anh chồng ngồi chết sững 1 lúc lâu,
cứ thế nhìn xuống mặt vợ.
Bà mẹ vợ, cô em vợ trở vô phòng.
“Anh chắc còn mệt vì chuyến đi, xin ra ngoài
nghỉ ngơi và sau đó dùng bữa… Ôi, coi kìa!”
Nước mắt tràn ra từ nơi mắt bà mẹ vợ.
“Ôi chao, đúng là tình vợ chồng
mới lớn lao làm sao. Con bé không làm
sao đi được cho tới lúc được nhìn thấy mặt chồng. Coi
kìa, lúc này nó mới thanh thản thế nào!”
Cô em vợ, mặt toát ra 1 vẻ đẹp thánh
thiện, nhìn ông anh rể, trong cái nhìn
có tí man dại, và, bật lên khóc nức
nở.
[GCC dịch]
A letter came from the husband
who had despised her and abandoned her. Two years late, and from
a faraway place.
(Don’t let the child bounce that rubber ball.
That sound reaches me even here. That sound strikes my heart.)
She took the ball away from her nine-year-old
daughter. Another letter came from her husband. The address
was different from the one before.
(Don’t let the child wear shoes to school.
That sound reaches me even here. That sound crushes my heart
underfoot.)
Instead of shoes, she dressed her daughter
in soft felt sandals. The little girl cried, and didn’t go
to school at all. Another letter came from her husband. It was
only a month after the second one, but in those words he seemed
suddenly aged.
(Don’t let the child eat out of earthenware
bowls. That sound reaches me even here. That sound shatters
my heart.)
She fed her daughter from her own chopsticks,
as though the girl were a child of three. Then she thought back
to happier days when her daughter truly was a child of three and
her husband was at her side.
Impulsively, the little girl went and took
her own bowl from the china cabinet. The mother snatched it
away and hurled it violently against the stones in the garden.
Sound of her husband’s heart shattering. All at once she twisted
her face and flung her own bowl after it. This sound, is it not
her husband’s heart shattering? She heaved the dining room table
into the garden. And this sound? She threw her whole body against
the walls and beat them with her fists. Flinging herself like a
spear through the sliding door, she tumbled out into the garden beyond.
And this?
“Mama, mama, mama!”
Her daughter followed after her, crying,
but she slapped the girl sharply on her cheek. Oh, hear this
sound!
Like an echo of that sound, another letter
came from her husband. From a new address, even further away
than the ones before.
(Don’t make a single sound, either of you.
Stop the clocks in the house. Don’t open or close the doors.
Don’t even breathe.)
“Either of you, either of you, either of
you!”
Tears fell in large drops as she whispered
that—and then all was silent. Not a sound, not the faintest
noise, not ever again. The mother and her daughter were dead,
after all.
And curiously, her husband was dead alongside
them.
CHẾT CHUNG VÌ TÌNH
(Shinjuu, 1925)
Nàng nhận được một lá
thư từ người chồng đã chán ghét mình
và bỏ nhà ra đi. Thư ấy gửi từ một miền xa, bẵng đi
một dạo cũng tới hai năm.
-Đừng cho con chơi với mấy quả bóng
cao su! Ở đây mà còn nghe tiếng động
vọng tới. Tiếng đó như nhói vào tim tôi.
Nàng bèn giằng lấy quả bóng
từ trong tay đứa con gái mới lên chín.
Lá thư của người chồng lại đến.Địa
chỉ người gửi đề trên phong bì khác với
lần trước.
(-Đừng cho đứa nhỏ đi ủng tới trường! Ở đây
mà còn nghe tiếng chân vọng tới. Tiếng
ủng nó đi như dẫm lên tim tôi).
Nàng bèn cho thay đôi
ủng của cô con gái ấy bằng đôi dép
cỏ đi êm ái hơn. Thế nhưng đứa bé khóc
và hết chịu đi học.
Thêm lần nữa, thư người chồng lại đến,
sau lá thứ hai độ một tháng. Nàng có
cảm tưởng chữ viết trong thư chợt già đi hẳn. (Đừng cho
con ăn cơm bằng bát sành! Ở đây mà
còn nghe tiếng nó vọng tới. Tiếng đó như phá
vỡ tim tôi.)
Nàng mới lấy đũa mình gắp cơm
đút cho con như thể nó mới lên ba. Và
nàng nhớ lại cảnh hồi đứa con gái mới lên
ba, người chồng vui vẻ đứng bên cạnh hai mẹ con.
Con bé con tự tiện lấy cái
bát sành của nó từ trong chạn bát
mang tới. Nàng bèn giật lấy bát và
giận dữ ném lên phiến đá ngoài vườn.
Có tiếng trái tim của người chồng vỡ tan. Bỗng nhiên
nàng quắc mắt, lông mày dựng ngược, rồi nàng
ném cả cái bát của mình ra luôn.
Không biết tiếng động vừa gây ra có phải là
tiếng động đã làm vỡ trái tim người chồng hay
không? Nàng bèn ném tung cả mâm bàn
ra ngoài vườn. Hay là vì tiếng động này
? Nàng tông người thật mạnh vào tường và
đưa nắm tay đấm lên tường liên hồi. Thân hình
nàng mới đó còn vướng như một mũi giáo
lên cánh cửa giấy chắn gian buồng, thế mà đã
lọt qua bên kia và đổ gập xuống không biết lúc
nào. Còn cái tiếng này thì sao?
-Mẹ ơi, mẹ ơi! mẹ ơi!
Nàng đưa tay tát bốp vào
mặt đứa con gái vừa khóc vừa chạy đến bên
mẹ. Nghe cái tiếng này đi nào!
Giống như âm hưởng tiếng động ấy vọng
về, một lá thư khác của người chồng lại đến.Lần
này nó mang dấu bưu điện nơi gửi, một vùng
đất mới và xa xôi.
"Mấy người tuyệt đối đừng gây thêm
một tiếng động nào nữa Đừng đóng hay mở mấy
cánh cửa giấy ngăn buồng. Đừng thở nữa. Và cũng
đừng cho đồng hồ trong nhà mấy người tích tắc!"
-Mấy người! mấy người! cứ gọi là mấy
người!
Nàng thì thào và
để mặc nước mắt chảy xuống ràn rụa. Thế rồi nàng
không làm bất cứ cái gì để phát
ra một tiếng động nào nữa.
Vĩnh viễn không còn một tiếng
động vo ve.Tóm lại, hai mẹ con nàng đã
chết.
Thế rồi, một điều hết sức kỳ lạ đã
xảy ra: người chồng của nàng cũng thấy nằm chết trên
gối bên cạnh họ.
(Dịch xong ngày
28/02/2009)
http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/nntd074/nntd074_mucluc.htm
Tearing and Mending
(the first three minutes and seven seconds
of
"Hiroshima Mon Amour")
After rewind and replay it's still unclear
how the burned skin of the embrace
flinches into intimacy, into focus,
then changes into dust, then rain;
the tenderness of love's erotesis,
the way her fingers press into the soft
of his back, into its folds and the otherness
of its give asking questions she can never
forget. He answers back, his body ablaze
with remembered dawns, each movement
of his mouth cracked with the fricative
of war; their torn hearts hiding the memory
of shadow and stone, transfigured
into rain, then dust, then flesh and bone.
Rachel Boast
The Griffin Poetry Prize Anthology 2014
Số cũ, có Simic. Số mới, có
mấy bài thật là thần sầu. Câu thơ, bìa sau,
của Seamus Heanley, cũng tuyệt & lạ: Thơ là ngôn ngữ
trên quỹ đạo, Poetry is language in orbit.
The Griffin Poetry Prize, của Canada, được coi là 1
trong những giải thưởng thơ bảnh nhất trên thế giới. Quả thế thực.
Bèn chứng tỏ, bằng 1 bài thơ của 1 em Tẫu, kèm
lời giới thiệu của 1 em mũi lõ.
WANG XIAONI
ELEANOR GOODMAN
Something Crosses My Mind
What is so attractive about Wang Xiaoni's poems as translated
into English by Eleanor Goodman is her quiet, loving, meditative distance
to the mostly anonymous and lonely heroes she clearly knows well.
And her attitude to time, which she keeps dragging out of its anchored
localities (and barely marked history) to extend and connect, or fuse
with specific spaces that she also enlarges in size and scope. Moments
prolong into a century or a life, imaginary beasts meld with real animals,
description becomes an act of meditation. In a few lines, a village can
take on the dimension of a vast landscape - and yet still remain that
particular village. And while Xiaoni's characters may not speak, they seem
to have a real insight into our experience and lives. In a way nothing
much happens in her magic lyricism: the wind blows, the ocean rises, people
work or move from one place to another, or wait, or just leave some place,
and they have souls (which behave like shadows). Reading her, I found myself
repeating Auden's phrase ''About suffering they were never wrong, / The
old Masters." Wang Xiaoni is a terrific contemporary poet gracefully extending
the great classical Chinese tradition.
Seeing the Ocean from a Night
Flight
Everything becomes small
only the ocean makes the night's leather clothes
open up the further out it spreads.
Flying north
to the right is Tianjin
to the left is Beijing
two clusters of moths flinging themselves at fire.
Then the East China Sea suddenly moves
the wind brings silver bits that can't be more shattered
and many thick wrinkles whip up
I see the face of the ocean
I see the aged seashore
trembling and hugging the world too tightly.
I have seen death
but never seen death come back to life like that.
Milosz
FLIGHT
When we were fleeing the burning
city
And looked back from the first
field path,
I said: "Let the grass grow over
our footprints,
Let the harsh prophets fall silent
in the fire,
Let the dead explain to the dead
what happened.
We are fated to beget a new and
violent tribe
Free from the evil and the happiness
that drowsed there.
Let us go "-and the earth was opened
for us by a sword of flames.
Goszyce, 1944
Poetry and History: Polish
Poetry after the End of the World
In 1973, when I was twenty-three
years old, I decided to stop in Warsaw during a year I was
traveling in Europe. From that trip I remember one chilly gray
dusk in particular when I walked through the neighborhood that
had once been the Warsaw Ghetto. People were bustling home from
work, but their activity only seemed to accentuate the eerie and
even ghostly absence of all those missing persons, an annihilated people.
One didn't need to travel to Auschwitz to feel guilty absence and
palpable vacancy. That night I reread Czeslaw Milosz's poems "A Poor
Christian Looks at the Ghetto," "A Song on the End of the World," and
"Dedication." This last poem was addressed to "You whom I could not save,"
and dated Warsaw, 1945. Its key stanza has thereafter set a standard
of moral seriousness in poetry:
What is poetry which does not
save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats
will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without
knowing it,
That I discovered, late, its salutary
aim,
In this and only this I find salvation.
Milosz's early poems are all haunted
by survivor's guilt, the poignancy of living fi r what
was, for so many, the world's end. Poetry here becomes an offering
to the dead, a form of expiation, a hope for redemption.
Reading the
work of Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and
Wislawa Szymborska-the half-generation after Milosz-I soon discovered
that all of postwar Polish poetry was similarly haunted by
guilt, initiated in the apocalyptic fires of history. These writers
shared an important collective experience, and the formative
nature of that experience helped shape the spirit of their work.
Born in the early 1920s, they grew up during one of the few periods
of independence in Polish history, but they came of age during
the terrible years of World War II. Poland lost six million people
during the war, nearly one-fifth of its population, and the young
writers felt the almost crushing burden of speaking for those who
did not survive the German occupation. "I am twenty-four / led to slaughter
/ I survived," Rozewicz wrote in "The Survivor." It was no boast. No
wonder, then, that at the conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead to free
him:
They used to pour millet on graves
or poppy seeds
To feed the dead who would come
disguised as birds.
I put this book here for you,
who once lived
So that you should visit us no
more.
Edward Hirsch: How the Read
a Poem and Fall in Love with Poetry
IN WARSAW
What are you doing here, poet,
on the ruins
Of St. John's Cathedral this
sunny
Day in spring?
What are you thinking here, where
the wind
Blowing from the Vistula scatters
The red dust of the rubble?
You swore never to be
A ritual mourner.
You swore never to touch
The deep wounds of your nation
So you would not make them holy
With the accursed holiness that
pursues
Descendants for many centuries.
But the lament of Antigone
Searching for her brother
Is indeed beyond the power
Of endurance. And the heart
Is a stone in which is enclosed,
Like an insect, the dark love
Of a most unhappy land.
I did not want to love so.
That was not my design.
I did not want to pity so
That was not my design
My pen is lighter
Than a hummingbird's feather.
This burden
Is too much for it to bear.
How can I live in this country
Where the foot knocks against
The unburied bones of kin?
I hear voices,
see smiles. I cannot
Write anything; five hands
Seize my pen and order me to
write
The story of their lives and
deaths.
Was I born to become
a ritual mourner?
I want to sing of festivities,
The greenwood into which Shakespeare
Often took me. Leave
To poets a moment of happiness,
Otherwise your world will perish.
It's madness to live without
joy
And to repeat to the dead
Whose part was to be gladness
Of action in thought and in the
flesh, singing, feasts,
Only the two salvaged words:
Truth and justice.
Warsaw, 1945
Nè, tên thi sỡi
kia, mi làm cái trò gì ở
đây,
Trên những điêu tàn
của Nhà Thờ St. John
Vào một ngày xuân
đẹp nắng như thế này?
Mi nghĩ gì, vào
lúc này, khi gió đùa về đây,
Từ những nát tan ở khu
Vistula,
Bụi đỏ của đá vụn
Mi thề, mi đếch bao giờ
làm một kẻ khóc
lóc, than thở theo đúng lễ nghi
Mi thề mi chẳng bao giờ rờ vô
những vết thương sâu hoắm
của nước Mít của mi.
Bởi vì nếu khóc
than như thế là mi biến chúng thành
thiêng liêng
Thứ thiêng liêng
đặc biệt Mít, rất ư khó chịu, thứ thiêng
liêng chết tiệt,
Đeo đuổi dân Mít
từ thuở dựng nước cho tới bi giờ.
Nhưng sự than thở của Antigone
Dành cho người anh của
nàng
Thì vượt quá cả
quyền uy của sự bền bỉ chịu đựng.
Và trái tim thì
là 1 hòn đá,
trong đó có một
tình yêu u tối, như côn trùng,
Của một miền đất cực kỳ bất hạnh.
Gấu đếch muốn yêu nước
Mít bằng thứ tình yêu cà chớn
đó.
Đó không phải là
sở nguyện của Gấu.
Gấu cũng đếch muốn thương hại
kiểu đó.
Cũng đếch phải sơ đồ của Gấu
Cây viết của Gấu thì
nhẹ hơn nhiều.
Nhẹ hơn cả một cái lông…
chim!
Thứ gánh nặng đó,
quá nặng cho nó,
Để mà mang, khiêng,
chịu đựng.
Làm sao Gấu sống ở xứ
đó
Khi bàn chân, đi
tới đâu, là đụng tới xương của họ hàng,
bà con,
Những người không được
chôn cất.
Gấu nghe những tiếng nói,
nhìn thấy những nụ cười.
Gấu không thể viết bất
cứ điều gì; năm bàn tay
nắm lấy cây viết của Gấu
và ra lệnh viết
Câu chuyện về cuộc đời
và cái chết của họ.
Không lẽ Gấu sinh ra
để là 1 tên khóc
than theo nghi lễ, Nhà Thờ, hay Cửa Phật?
Gấu muốn hát về những
lễ hội.
Về cánh rừng xanh mà
Shakespeare
thường rủ Gấu vô đó
chơi.
Hãy để thi sĩ cho một
khoảnh khắc hạnh phúc,
nếu không, thế giới của
bạn sẽ tiêu tùng.
Đúng là khùng điên,
ba trợn,
Nếu sống mà đếch vui,
đếch thú, đếch sướng gì hết!
[Hà, hà!]
Và lập lại những người
đã chết
Lập cái cái phần
vui vẻ, sung sướng hạnh phúc của hành động,
Trong tư tưởng, trong thân
xác còn tươi rói, trong hát
hỏng, lễ hội.
Chỉ hai từ cứu rỗi:
Sự thực và công
lý
Warsaw, 1945
Thơ và Lịch Sử: Thơ Ba Lan
sau Tận Cùng Thế Giới
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết
định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là khi loanh quanh ở
cái khu Ghetto. Phố phường bận rộn, nhưng hình
như càng làm nặng thêm sự vắng mặt u uẩn
của những người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò
Thiêu làm khỉ gì, chỉ ở đây thôi
mà đã cảm thấy cái sự trống vắng tội lỗi, mân
mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi
đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những bài
thơ đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm
sao, là cái mặc cảm sống sót, cái
nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”, cái
tận cùng thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng
tặng cho người chết, một hình thức cứu chuộc.
Cái bài thơ "Bay",
nhân ngày Thơ ở xứ Mít, tặng những tên
Bắc Kít may mắn hạ cánh an toàn ở
xứ người, cũng được!
Bay
Khi chúng ta bỏ chạy thành
phố cháy đỏ
Và nhìn lại từ cánh
đồng lúa mì đầu tiên
Gấu phán: Hãy để cho cỏ mọc xóa
vết chân của chúng ta
Hãy để cho những tên
tiên tri, thiên sứ câm lặng trước ngọn
lửa
Hãy để cho người chết giải
thích cho người chết chuyện gì xẩy ra
Số mệnh của chúng ta, là
cho ra đời một giống Bắc Kít mới, hung bạo
Thoát ra khỏi Cái
Ác Bắc Kít Ngày Xưa!
Nào đi!
Và thế là mặt đất
mở ra cho chúng ta
Bằng một lưỡi gươm lửa!
Brodskiy's study photographed on
June 4, 1972, the same day he was exiled from the Soviet Union.
Photo: Courtesy of Mikhail
Miltchik
Bao thơ tôi, ít nhiều chi,
là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm
gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about
Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky.
Tribute to Dinh Cuong
VHQ
Thơ
Mỗi
Ngày
Văn số sau cùng, ở Sài Gòn
http://huyvespa.blogspot.com/2017/02/nuoc-mat-truoc-con-muahay-nhung-tap-chi.html
http://www.tanvien.net/tribute/vhc.html
Đoạn
văn dưới đây là phần chính bài nói
chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong Đêm
Thơ Vũ Hoàng Chương ngày 16-1-1975 tại phòng
trà Khánh Ly, đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền
Sự hiện diện
của các bạn cùng chúng tôi hôm nay là
một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Chẳng những
cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm thơ - không
biết, không thể làm gì khác - mà còn
cho tất cả mọi thi sĩ và qua các thi sĩ là một cuộc
tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao tôn vinh Thơ?
Thơ quan hệ chi đến đời sống chúng ta? Sướng ích
chi mà có những người để một đời như Vũ Hoàng
Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không biết - thật
chăng? Có lẽ cũng chỉ là một cách nói
riêng của thi sĩ. Riêng chúng ta có biết,
chúng ta biết tận trong thâm tâm chúng ta,
biết qua động cơ thúc đẩy cuộc hội họp tối nay được chính
chúng ta dấu diếm bằng những lý lẽ rất tầm thường hằng
ngày. Chúng ta biết rằng chúng ta muốn gặp mặt
nhau, nhìn mặt nhau đêm nay: “Lũ chúng ta lạc loài
năm bảy đứa - Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.” Chúng
ta biết rằng khi mọi giá trị thiêng liêng đều chẳng
còn đáng gì, đều bị liệng bỏ dần dọc theo
đời người thì thơ vẫn còn lại. Phải thế chăng? Dù
cho thơ có thể chẳng thay thế được các giá trị
thiêng liêng. Không là giá trị thiêng
liêng - có bao giờ thơ như thế? - thì nó
vẫn ở cùng trong đời sống chúng ta - như lúc
này, giây phút này đây - và
nó đủ năng lực để cuốn đời sống chúng ta đến chân
trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng chúng ta đang sống, sống lạ lùng,
sống với ta và sống với người.
Chúng ta còn có thể nói
đến những điều ghê gớm hơn nữa về thơ nhưng rồi thơ lại
còn có thể vượt ra ngoài mọi điều ghê
gớm ấy. Tuy nhiên nói cho đến cùng (biết đâu
là cùng?) Thơ vẫn chỉ là lẽ thường của đời
người, là sự thường của kiếp sống - ngắn ngủi và vô
hạn như một tiếng hát.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông
cát bồi.
Và
lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống là
Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người rốt
cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số người nào
đó, một bộ lạc nào nhất định. Nói như Đinh Hùng
Thơ là “tiếng ca bộ lạc.” Đêm nay chúng ta quây
quần nơi đây nào khác, như giữa đám
rừng dầy hung bạo có ngọn lửa kia đốt lên và
tiếng trống kêu gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng
thẳm của Thơ mời chúng ta đến tôn vinh cho Thơ. Thơ như
nhịp trống bập bùng gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn, cầm
chân ta ở lại vui chơi, giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho Thơ cũng là
tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt
đời chỉ làm thơ, không biết và cũng không
thể làm gì khác. Giữa chúng ta có
một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động
tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý,
đẩy đưa đời người vào cõi phi lý. Ngõ
ngách phi lý ấy là chính chúng
ta, cõi phi lý ấy chính là đời chúng
ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã
qua và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai
kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm
thơ như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ
như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không
thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi,
biết không làm được mà lại cứ làm. Tại sao?
Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên
cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là
tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ
Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời để
ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm
Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng” từ “Phách ngọt
đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải
mộng phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị thập
bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một
phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta không thể nào
hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực cũng
như chúng ta đây chúng ta trong giây phút
này có biết chúng ta đi đến đâu - nhưng
hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết
Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái
chết. Chết cũng là một cách nói thôi.
Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và
có “tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm bao lớn.”
Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn
đời? Ai biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm
thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói.
Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ
là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng
ta cần nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ
Hoàng Chương.
16-1-1975
(Văn, giai phẩm, 14-2-75)
AT 1:50 PM
Nguồn
VOICES OVER WATER
There are spirits that come
back to us
when we have grown into another
age
we recognize them just as
they leave us
we remember them when we
cannot hear them
some of them come from the
bodies of birds
some arrive unnoticed like
forgetting
they do not recall earlier
lives
and there are distant voices
still hoping to find us
RIVER
Li Po the little boat is
gone
that carried you ten thousand
li
downstream past the gibbons
calling
all the way from both banks
and they
too are gone and the forests
they
were calling from and you
are gone
and every sound you heard
is gone
now there is only the river
that was always on its own
way
Note: Bài thơ Voices... nhớ là đã
dịch rồi, kiếm hoài không thấy. Bài thứ nhì,
thấy trên net.
LITERATURE
With his
New Directions debut in 1938, Delmore Schwartz was
hailed as a genius and among the most promising writers
of his generation. Yet he died in relative obscurity,
wracked by mental illness. Sadly, his literary legacy
has been overtaken by the story of his tragic life.
Among poets, Schwartz was a prototype for the
confessional movement made famous by Robert Lowell and
John Berryman. His stories and novellas about Jewish-American
experience laid the groundwork for novels by
Saul Bellow (whose Humboldt's Gift is based on Schwartz's
life) and Philip Roth.
This volume aims to restore Schwartz to his proper
place in the canon and introduce new readers to the breadth
of his achievement. Included are selected stories and poems,
excerpts from Schwartz's epic poem Genesis (long unavailable)
and his never-completed book on T. S. Eliot, letters, verse
plays, and unpublished poems.
"Dazzling
- a new kind of telling, with urgent bluntness of its
own." -John Ashbery
"Delmore
Schwartz catapults past the fickleness of mere reputation
(that posture and position that Lionel Trilling defined
as characterizing a 'figure') into something close to legend."
-Cynthia Ozick
"What complicates
and enriches Schwartz's comedy is a reaching out
toward nobility, a shy aspiring spirituality, a moment or
two of achieved purity of feeling." -Irving Howe
"I wanted
to write. One line as good as yours. My mountain. My
inspiration." -Lou Reed
Delmore
Schwartz was born in Brooklyn and is one of America's
greatest poets and short-story writers. Schwartz received
the Bollingen Prize in 1959. After a difficult period,
he died of a heart attack in 1966.
Craig Morgan
Teicher is a poet and critic whose most recent book
of poems is To Keep Love Blurry. John Ashbery has won
nearly every major American award for poetry, including the
Pulitzer Prize, the National Book Award, and a MacArthur
"Genius Grant." His latest collection is Breezeway.
All Gone into the Dark
Where's the
blind old street preacher led by a little boy
Who said
the world will end next Thursday at noon?
Where's the
woman who walked down Madison Avenue
In the summer
crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the
poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington
Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the
young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept
shouting about wanting to kill more Vietnamese?
Mr Undertaker,
sitting in a window of a coffee shop
Chewing on
a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you,
like the rest of us, equally in the dark
As you busy
yourself around the newly arrived dead?
Rồi tất cả cũng đi vào đêm
tối
Ông
linh mục mù già đường phố được một
đứa bé dẫn dắt,
người rao
giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông
ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu
rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison
Avenue
Giữa đám
đông mùa hè, hoàn toàn
khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có
lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington
Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu
rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la
bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà
hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả
giò, bạn có thể có linh cảm
–
Hay cũng
như tất cả lũ chúng tôi, cùng
trong bóng tối,
Bạn đang
tự mình làm rộn mình, về những
người chết mới tới?
Charles Simic
LONDON REVIEW
OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
Delmore Schwartz
1913–1966
Delmore Schwartz
had, writes Alfred Kazin, "a feeling for literary
honor, for the highest standards, that one can only call
noble—he loved the nobility of example presented by the greatest
writers of our century, and he wanted in this sense to
be noble himself, a light unto the less talented.... So he
suffered, unceasingly, because he had often to disappoint himself—because
the world turned steadily more irrational and incomprehensible—because
the effort of his intellectual will, of his superb intellectual
culture, was not always enough to sustain him.... He was
the prisoner of his superb intellectual training, a victim
of the logic he respected beyond anything else. He was of
the generation that does not come easily to concepts of the absurd."
Mental illness
haunted Schwartz for approximately twenty years.
Marlene Nadle reported that it sent him "in and out of sanatoriums
and into and out of the isolation of hotel rooms. It was
an illness he accepted almost fatalistically." "Lost he was,"
said Kazin, "but he was not enough 'lost' in the demonic poet's
tradition of losing himself to this world and finding himself
in a richer world of private vision.... He was not a seer,
not a visionary of 'the lost traveller's dream under the hill,'
of the 'holy madness' that Yeats claimed to find in Ireland
itself—the madness that Christopher Smart knew, and Holderlin,
and Blake."
DELMORE SCHWARTZ
He heard God
coughing in the next apartment,
his life a
hospital, he moved from bed to bed
with us and
Baudelaire, except he always had
Finnegans Wake tucked in his pajamas,
which must
mean, sure as chance,
the human
race is God's phlegm. Penitent,
I say a prayer
in God's throat:
"Mister, whose
larynx we congest,
spit us into
the Atlantic or Hudson ...
let us be
dropped into the mouth of the first fish
that survived
by eating its young-
drink hot
tea and honey Your mother brings You
till You are
rid of Your catarrh, well again.
Let us swim
back to our handiwork."
Far from the
world of Howth Castle, Delmore died
in a bed-bugged
hotel, unclaimed for three days.
A week before,
by chance, I saw him
at a drugstore
counter, doubled over a coffee,
he moaned,
"Faithful are the wounds of a friend,
deceitful
enemy kisses."
He held my
hand too tight, too long .
Melancholy
Eros flew to my shoulder,
spoke in Greek,
Yiddish, and English:
"Wear his
sandals, his dirty underwear,
his coat of
many colors that did not keep him warm."
-Stanley Moss
NYRB October
13, 2016
DELMORE SCHWARTZ
Ông nghe Chúa ho
ở phòng kế bên
Cuộc đời của ông ở bịnh
viện,
Từ giường tới giường,
Với chúng tôi và
Baudelaire, ngoại trừ,
Ông luôn có
cuốn
Finnegans Wake cuộn trong quần ngủ
Nó phải có nghĩa
- chắc như là cơ may –
Con người, là đờm, rãi
của Chúa.
Ăn năn,
Tôi cầu nguyện, trong
cổ họng của Người:
“Thưa Người, chúng con
làm thanh quản của Người tắc nghẽn
Xin khạc chúng con xuống
Atlantic, hay Hudson…
Hãy để chúng con
rớt vô miệng con cá thứ nhất
Sống sót nhờ ăn thịt
lũ con của nó –
Uống trà nóng
và mật ong Mẹ của Người mang đến cho Người
Cho tới khi Người hết viêm
họng, OK trở lại.
Hãy để chúng con
bơi trở lại với việc làm của chúng con"
Xa thế giới Howth Castle, Delmore mất
Trên cái giường
đầy bọ chét ở khách sạn
Ba ngày chẳng có
ai nhận xác
Một tuần lễ trước đó,
tình cờ, tôi nhìn thấy ông
Ở quầy một tiệm thuốc,
Gập người trên ly cà
phê,
Ông rên rỉ,
“Tận tụy là vết thương
của tình bạn
Bịp bợm, cái hôn
của kẻ thù”.
Ông cầm tay tôi
thật chặt, thật lâu
Buồn bã, Eros thổi qua
vai tôi,
Nói bằng tiếng Hy Lạp, tiếngYiddish, tiếng Anh
“Hãy đi dép, mặc
quần áo lót bửn của ông ta,
Cái áo khoác
nhiều mầu không làm ông ta đủ ấm”
Delmore Schwartz
có, Alfred Kazin viết, “cảm
nghĩ về vinh danh văn chương, với những chuẩn mức cao nhất
mà người ta chỉ có thể gọi là ‘phong nhã’
– 'tuồng phong nhã đã bày ra đấy',
ông mê cái phong nhã của những
nhà văn lớn lao nhất của thế kỷ của chúng ta, và
ông muốn ông, chính ông, cũng được
phong nhã như thế, thứ ánh sáng 'đài
gương' soi tới 'dấu bèo' là ông, 1 tài
năng kém cỏi hơn…. Và thế là ông đau
đớn, không ngừng đau đớn, bởi là vì ông
thường xuyên không hài lòng về mình,
bởi là vì thế giới cứ lầm lầm lũi lũi trở thành
vô lý, không thể hiểu được, bởi vì cái
ý chí tinh thần của ông, cái văn hóa
thần sầu của ông, luôn luôn không đủ để cầm
giữ ông… Ông là tù nhân của sự rèn
luyện tinh thần, bảnh chọe của mình, một nạn nhân của
1 luận lý mà ông kính trọng hơn bất cứ cái
gì khác. Ông thuộc thế hệ không dễ dàng
chấp nhận những quan niệm về phi lý.”
Valentine's
Day 2017
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/W_Szymborska_1.html
PERSPECTIVE
They passed like strangers,
without a word or gesture,
her off to the store,
him heading for the car.
Perhaps startled
or distracted,
or forgetting
that for a short while
they'd been in love forever.
Still, there's no guarantee
that it was them.
Maybe yes from a distance,
but not close up.
I watched them from the window,
and those who observe from above
are often mistaken.
She vanished beyond the glass door.
He got in behind the wheel
and took off.
As if nothing had happened,
if it had.
And I, sure for just a moment
that I'd seen it,
strive to convince you, O Readers,
with this accidental little poem
that it was sad.
-Wistawa Szymborka
*
Viễn tượng
Họ đi ngang nhau như hai kẻ xa lạ,
Chẳng một lời, một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng xe
Có lẽ nhói một cái,
Hay lơ là một tí
Hoặc lãng quên một tẹo
Và thế là trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất tận
Tuy nhiên chẳng có chi bảo đảm
Đó là Gấu và CM
Có lẽ đúng là hai đứa đó
Nếu nhìn từ xa
Đừng dí mắt thật gần
Tôi nhìn hai đứa từ trên
cửa sổ
Và nhìn từ xa, từ phía
bên trên như thế
Thường hú họa
CM biến mất quá cánh cửa kiếng
Gấu ngồi vô xe
Và tếch
Như chẳng có gì xẩy ra
Giả như có gì
Và tôi, chắc chắn vào lúc
đó
Nhìn thấy như vậy
Và cố gắng thuyết phục bạn,
Ôi nnhững độc giả của tôi
Bằng bài thơ nho nhỏ tình cờ này
Rằng, buồn, buồn thật đấy
Trong Liêu Trai, có chuyện, một
em chồn, tu luyện tới đỉnh rồi, lỡ gặp 1 em, bèn
mê, thế là đi theo em về, bầu bạn.
Em này, bị chồng
chê, mê tớ gái. Thế là em
chồn bầy cách làm cho em này đẹp trở
lại, và lấy lại được chồng.
Em trả ơn, bằng cách
bầy cho em chồn uống rượu say, để cho ông chồng
làm thịt.
Tỉnh dậy, em chồn than, ta
tu thành tiên, chỉ vì mê….
gái mà lại trở lại kiếp chồn!
Trong những tuyển tập thơ
tình, chưa có ai để vô đó,
thứ tình tuyệt vời này, nhỉ?
Cái phim đang được
báo chí khen rầm trời là 1 phim
tình “lesbian”, Carol,
hai em mê nhau, phỏng theo tiểu thuyết của
Pạt, Patricia Highsmith, 1 vì nữ hoàng trinh thám,
Gấu cực mê, từ hồi mới lớn.
Ui chao, lại nhớ đến cô
bạn, đúng hơn, cô học trò, thời
gian ở trại cấm Skiew, Thái Lan.
Em than, giá thầy
là.... đàn bà, thì
thầy trò mình tha hồ mà bầu bạn, mà
thủ thỉ!
Em có không
biết bao nhiêu chuyện, để mà kể, mà
chẳng làm sao biết thủ thỉ cùng ai!
CHÙA SIKIEW Khu
C
Bụi
Chiều ngu ngơ phố thị
Ngày ủ dột
Buồn dậy muộn
Câu thơ trong giấc
ngủ bỏ quên
Nhớ em thảm thiết.
Trong câu thơ chắc
có chút hạnh phúc
Cho nên tình
yêu là vất vả đi tìm
Tìm em như thể tìm
chim
Chim bay biển Bắc anh tìm
biển Đông.
Chiều ngu ngơ phố thị
Mơ gặp em giữa đám
người xa lạ
Với nụ cười thật ngày
xưa
Khi em từ giã.
Kiếp trước tôi có
nợ nần chi ông đâu
Mà sao kiếp này
ông đòi kiếp khác?
Tôi đã nói
ông đừng gặp tôi nhiều
Khi tôi đi rồi
Ông sẽ khổ
Nhưng thôi ông
hãy quên tôi đi
Quên đi, quên
đi....
Em ở đâu, ở đâu
Thèm một chút
mồ hôi trên ngấn cổ
Em ở đâu, ở đâu
Thèm nụ hôn
sầu
Lời biếng nói
Đôi tay mềm
mại
mãi
trong tôi.
Vừa xem lại "The Road Home" của
Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu
hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ có tình
là vĩ đại thôi.
K
Valentine's
Day 2017
ĐÊM LỄ TÌNH NHÂN
NGỒI NƠI GÓC SÂN TRƯỜNG
Không ai - không có
ai nơi nầy
Chỉ có vầng trăng trên ngọn
cây
Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn
tay
Trời chưa nguôi trút ào
cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan
Hồng nhan một nét ,- trời một cõi
Nghiệm đời mình sao ngó gốc
cây
Giữa bao la gió còn ai gọi
Nhà ở đâu, -ta ở nơi nầy
Mái trường, cơn-mê-đời trú
ẩn,
Tình ta, hồn cổ thụ chiêm
bao
Thấy đời mình gan lì lặng
lẽ
Bền bỉ xù xì đứng lớn lao
Lệ hạt tặng cây buồn gởi gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần
Những bước xuân xanh ngoài
kia phố
Có buộc sợi tình quanh ngón
chân .
nguyễn thùy song thanh
Note: Tình
ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Tuyệt!
Bất giác, nhớ thơ tù
của ông anh, TTT, làm tặng bạn:
Mừng sinh nhật bạn
Th.T.
Chốc đã thấy mình sáu
mươi bốn
Sống thế quả là có ghê
gớm
Cớ sao hồn mộng vẫn chưa khuây?
Phải chăng giấc tình còn
lẩm cẩm?
Một mai viễn khách ngó trời
Tây
Lúc ấy tha hương ngộ bóng
nhạn.
Tháng Chín gió thổi
như chim như mây
Rong ruổi theo hương lạnh tản mạn
84.
Bài thơ của vị bằng hữu, còn
nhiều câu quá đỗi thần sầu, Gấu lọc 1 câu,
liền với mạch thơ TTT.
Mấy câu sau đây, quả đúng
ý Borges, thơ là để trao cho thi sĩ.
Hồng nhan một nét
,- trời một cõi
Nhà ở đâu, ta ở
nơi này
Quá bảnh! Quá
hách xì xằng!
Lệ hạt tặng cây buồn gởi
gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần
Có buộc sợi tình
quanh ngón chân .
Có sợi tình buộc quanh ngón
chân
theo GCC, cũng đặng!
Tks. Many Tks
NQT
Khi
Thomas Mann từ Đức đến California, người ta hỏi ông về văn
chương Đức, ông trả lời: "Văn chương Đức là
nơi tôi đang ở (German literature is where I am).
Nếu một người Đức dám chấp nhận điều này,
tôi cũng dám chấp nhận. Bây giờ tôi sửa
soạn để chết tại đây. Cũng chẳng quan trọng chi chuyện đó.
Vả chăng tôi cũng không biết chốn nào khá
hơn. Mà nếu có biết, tôi cũng chưa kịp sửa soạn
để đổi đời.
Brodsky: Tôi
hết còn tin vào nơi chốn ấy
Chỉ 1 câu thơ "hồng nhan 1 nét, trời
1 cõi", sợ còn bảnh hơn, cả Mann lẫn Brodsky!
German literature is where I am
Trời ở đâu, nhan
sắc của ta ở đó!
Vị này, làm sao mà không
đọc được, và làm sao mà không cảm được,
những dòng thơ của Anna Akhmatova?
Bà cũng đã từng
lặn lội trong bao nhiêu năm, thăm nuôi chồng, sĩ quan VNCH
bị lũ Bắc Kít đem đi đầy tận mãi Cực Bắc Bắc Việt?
Chỉ mấy dòng thơ, đầy cao ngạo, cao sang,
và rất ư là tâm sự, riêng tư:
Ngồi một lát cho
ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn
tay
Trời chưa nguôi
trút ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan
Câu cuối, quá tuyệt!
Ui chao, khen quá, sợ, lại bị chửi, mi ít
khen ai!
Nhưng hách nhất, phách
lối nhất, thì phải là câu phán của
chính Brodsky, về mình:
I was only too glad to be the handmaid
of genius, and to be taken for granted.
Tớ thật khoái tỉ khi được coi là
tên tà lọt của thiên tài, và
được bảo đảm như vậy.
GCC
sợ rằng, vị này cũng thừa sức để mà "khiêm
tốn" về thơ của mình, như... Brodsky!
Đây cũng là ý của Anna Akhmatova,
khi gặp nữ thần thi ca:
THE MUSE
When at night I await the beloved
guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?"
I
demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her
hand?"
But now she is here. Tossing aside
her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am."
1924
Nữ Thần Thi Ca
Ðêm, ta đợi vị khách
quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước
nàng, người cầm cây sáo ở trong tay?
Nhưng bây giờ, nàng ở đây.
Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò
hỏi. “Bà có phải là người đọc từng trang Ðịa
Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi
nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”
Requiem
I never sought asylum among aliens
Never cowled myself in a crow's wings.
I stood as my people stood, alone-
In my marrowbones, their sorrow.
[Translated by Vladimir Azarov &
Barrry Callahan, in Strong Words]
REQUIEM
No, it wasn't under a foreign heaven,
It wasn't under the wing of a foreign power,-
I was there among my countrymen,
I was where my people, unfortunately, were.
1961
[Translated by Lyn Coffin]
Note: Những dòng thơ trên,
của Akhmatova, thì cũng có thể áp
dụng vô trường hợp NTST.
Kinh Cầu
Không, không phải dưới
thiên đàng ngoại
Không phải dưới cánh quyền
lực ngoại
Tôi ở giữa đồng bào tôi
Dân tộc tôi, bất hạnh
Ở.
Thơ Tháng Tư
Live at Club Revolution
Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll...
Thơ Tháng Tư
Live at Club Revolution
Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll
In a slow, absentminded striptease.
Her shoulders are already undraped,
And so is one of her sagging breasts.
The kisses she blows to us
Are as cold as prison walls.
Once we were a large wedding party.
It was a sunny weekend in June.
Women wore flowers on their straw hats
And white gloves over their hands.
Now we run dodging cars on the highway.
The groom, someone points out, looks like
President Lincoln on a death notice.
It's time to burn witches again,
The minister shouts to the congregation
Tossing the Bible to the ceiling.
Are those Corinna Brown's red panties
We see flying through the dark winter trees,
Or merely a lone crow taking home
His portion of the day's roadkill?
Charles Simic
Nhạc sống tại Câu Lạc Bộ Cách
Mạng Thành Hồ
Tương lai xứ Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống tắc nghẹn
Trong một xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ để trần
Cũng thế, là một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em ban cho chúng ta
Lạnh như tường nhà tù Phan Đăng Lưu
Một lần tụi này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi này đang chạy xe lắt léo
trên xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một tay nào chỉ ra,
Sao giống y chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử.
Đã đến giờ lại thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn thấy bay trên nền trời tối thui
mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1 chú quạ
đem về nhà
phần chia những xác chết vì xe cán trong
ngày?
Mother Tongue
That's the one the butcher
Wraps in a newspaper
And throws on the rusty scale
Before you take it home
Where a black cat will leap
Off the cold stove
Licking its whiskers
At the sound of her name
Charles Simic
Tôi êu tiếng nước tôi
Đó là thứ tiếng mà tay đồ tể
Gói trong tờ báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ Lăng,
Rồi thẩy lên cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả tiền
Và mang về
Nơi con mèo đen nhảy qua cái bếp lò
lạnh tanh
Liếm liếm mấy sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu Miu”
The souls of all my loved ones are on high stars.
It's good there's no one left
to lose,
And I can cry. The air in
this town of the tsars
Was made to repeat songs,
no matter whose.
A willow among the September
brushes
Touches the water, bright
and clear.
Risen from the past, my shadow
rushes
In silence to meet me here.
So many lyres hang on this
tree,
But it seems there's room
for mine among these.
And this rain, sparse and
sunny,
Is my good tidings and my ease.
1944
Anna Akhmatova
Linh hồn những người thân
thương của tôi thì ở nơi những vì sao
cao thật cao
Thật là được
quá đi mất, chẳng còn ai ở dưới này để
mất
Và tôi
có thể khóc.
Không khí
trong thành phố của những vì nga hoàng
Thì được
làm ra
Để lập lại những
bài hát, của ai thì cũng được
Một cây liễu
giữa đám cây Tháng Chín
Chạm mặt nước, sáng
và trong
Mọc lên từ
quá khứ, cái bóng của tôi, vội
vã,
Trong im lặng
Gặp tôi ở
đó
Rất nhiều cây
đàn lia treo trên cây
Nhưng hình
như vẫn có chỗ cho tôi ở đó
Và cơn mưa
này, lưa thưa và nhuộm nắng
Là những
tin mừng và sự nhàn hạ của tôi
I
called death down on the heads of those I cherished.
One after the other,
their deaths occurred.
I cannot bear to think
how many perished.
These graves were
all predicted by my word.
As ravens circle above
the place
Where they smell fresh-blooded
limbs,
So my love, with triumphant
face,
Inflicted its wild
hymns.
Being with you is
sweet beyond mention,
You're as close as
the heart I call my own.
Give me both hands,
pay careful attention,
I beseech you: go
away, leave me alone.
Don't let me know
where you make your homes.
Oh, Muse, don't call
to him from above,
May he live, unmentioned
in my poems,
Ignorant of all my love.
1921
Tôi gọi cái
chết giáng xuống những người thân thương của
tôi
Người này tiếp
nối người kia, cái chết của họ xẩy ra.
Tôi không
thể chịu nổi, bao nhiêu người đã tàn lụi
Những nấm mồ của họ
thì đều được báo trước bằng lời của tôi
Như cú liệng
trên trời
Nơi mùi máu
vẫn còn đọng ở nơi xương cốt, tứ chi của họ
Và, như thế,
tình yêu của tôi, với bộ mặt thắng trận
Chích điệu
nhạc của nó.
Ở bên anh, hạnh
phúc nào bằng
Cận kề đến nỗi em
lầm trái tim của anh, là của em
Đưa cả hai tay anh
cho em, này, hãy cẩn thận
Em năn nỉ: Anh hãy
đi đi, bỏ mặc em một mình
Đừng nói cho
em biết nhà mới của anh ở đâu
Ôi, Nữ Thần
Thi Ca của tôi, đừng ở trên cao, kêu gọi anh
ta
Cầu cho anh ta sống,
không được nhắc tới trong những bài thơ của
tôi
Không biết 1
tí gì về tình yêu của tôi
Dành cho anh
ta.
https://www.facebook.com/profile.php?id=100003723143856&fref=pb&hc_location=friends_tab
ĐÊM LỄ TÌNH NHÂN
NGỒI NƠI GÓC SÂN TRƯỜNG
Không ai - không có ai nơi nầy
Chỉ có vầng trăng trên ngọn cây
Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn tay
Trời chưa nguôi trút ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan
Hồng nhan một nét ,- trời một cõi
Nghiệm đời mình sao ngó gốc cây
Giữa bao la gió còn ai gọi
Nhà ở đâu, -ta ở nơi nầy
Mái trường, cơn-mê-đời trú ẩn,
Tình ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Thấy đời mình gan lì lặng lẽ
Bền bỉ xù xì đứng lớn lao
Lệ hạt tặng cây buồn gởi gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần
Những bước xuân xanh ngoài kia phố
Có buộc sợi tình quanh ngón
chân .
nguyễn thùy song thanh
Note: Tình
ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Tuyệt!
Bất giác, nhớ thơ tù
của ông anh, TTT, làm tặng bạn:
Mừng sinh nhật bạn
Th.T.
Chốc đã thấy mình sáu mươi
bốn
Sống thế quả là có ghê gớm
Cớ sao hồn mộng vẫn chưa khuây?
Phải chăng giấc tình còn lẩm cẩm?
Một mai viễn khách ngó trời Tây
Lúc ấy tha hương ngộ bóng nhạn.
Tháng Chín gió thổi như chim
như mây
Rong ruổi theo hương lạnh tản mạn
84.
Bài thơ của vị bằng hữu, còn nhiều câu
quá đỗi thần sầu, Gấu lọc 1 câu, liền với mạch thơ
TTT.
Mấy câu sau đây, quả đúng ý
Borges, thơ là để trao cho thi sĩ.
Hồng nhan một nét ,- trời một
cõi
Nhà ở đâu, ta ở nơi này
Quá bảnh! Quá
hách xì xằng!
Lệ hạt tặng cây buồn gởi
gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần
Có buộc sợi tình
quanh ngón chân .
Có sợi tình buộc quanh ngón
chân
theo GCC, cũng đặng!
Tks. Many Tks
NQT
VIETNAM (South). Saigon. 1972. President
Nguyen Van Thieu pays respect to the fallen soldiers of the ARVN
army, while visiting a display of armament captured from the NVA (North
Vietnamese Army) and the Vietcong.
Bìa phải là Thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền,
Chủ tịch Thượng Viện
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/32845068166/
Khi
Thomas Mann từ Đức đến California, người ta hỏi ông về văn
chương Đức, ông trả lời: "Văn chương Đức là
nơi tôi đang ở (German literature is where I am).
Nếu một người Đức dám chấp nhận điều này, tôi
cũng dám chấp nhận. Bây giờ tôi sửa soạn để chết
tại đây. Cũng chẳng quan trọng chi chuyện đó. Vả chăng
tôi cũng không biết chốn nào khá hơn. Mà
nếu có biết, tôi cũng chưa kịp sửa soạn để đổi đời.
Brodsky: Tôi
hết còn tin vào nơi chốn ấy
Chỉ 1 câu thơ "hồng nhan 1 nét, trời 1 cõi",
sợ còn bảnh hơn, cả Mann lẫn Brodsky!
German literature is where I am
Trời
ở đâu, nhan sắc của ta ở đó!
Vị này, làm sao mà không đọc được,
và làm sao mà không cảm được, những dòng
thơ của Anna Akhmatova?
Bà cũng đã từng
lặn lội trong bao nhiêu năm, thăm nuôi chồng, sĩ quan VNCH
bị lũ Bắc Kít đem đi đầy tận mãi Cực Bắc Bắc Việt?
Chỉ mấy dòng thơ, đầy cao ngạo, cao sang, và
rất ư là tâm sự, riêng tư:
Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn tay
Trời chưa nguôi
trút ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan
Câu cuối, quá tuyệt!
Ui chao, khen quá, sợ, lại bị chửi, mi ít khen
ai!
Nhưng hách nhất, phách
lối nhất, thì phải là câu phán của chính
Brodsky, về mình:
I was only too glad to be the handmaid of
genius, and to be taken for granted.
Tớ thật khoái tỉ khi được coi là tên
tà lọt của thiên tài, và được bảo đảm như
vậy.
GCC sợ rằng, vị
này cũng thừa sức để mà "khiêm tốn" về thơ của
mình, như... Brodsky!
Đây cũng là ý của Anna Akhmatova, khi
gặp nữ thần thi ca:
THE MUSE
When at night I await the beloved
guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her hand?"
But now she is here. Tossing aside
her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am."
1924
Nữ Thần Thi Ca
Ðêm, ta đợi vị khách
quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước nàng,
người cầm cây sáo ở trong tay?
Nhưng bây giờ, nàng ở đây.
Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò hỏi. “Bà
có phải là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”
Requiem
I never sought asylum among aliens
Never cowled myself in a crow's wings.
I stood as my people stood, alone-
In my marrowbones, their sorrow.
[Translated by Vladimir Azarov &
Barrry Callahan, in Strong Words]
REQUIEM
No, it wasn't under a foreign heaven,
It wasn't under the wing of a foreign power,-
I was there among my countrymen,
I was where my people, unfortunately, were.
1961
[Translated by Lyn Coffin]
Note: Những dòng thơ trên,
thì cũng có thể áp dụng vô trường hợp NTST.
Không, không phải dưới
thiên đàng ngoại
Không phải dưới cánh quyền lực ngoại
Tôi ở giữa đồng bào tôi
Dân tộc tôi, bất hạnh
Ở.
Quoc Tru Nguyen shared
a memory.
Valentine's Day
& Tết Mít mà đi bài Haishi này,
mới thú. Post, nhân đọc 1 stt viết về cái trò
nhìn đâu cũng thấy xứ Mít, nhất là Tết,
của lũ Mít lưu vong, của 1...
A WOMAN MEETS AN OLD LOVER
"He with whom I ran hand in hand
kicking the leathery leaves down Oak Hill Path
thirty years ago
appeared before me with anxious face,
pale,
almost unrecognized, hesitant,
lame.
He whom I cannot remember hearing
laugh out loud
but see in mind's eye smiling, self-approving,
wept on my shoulder.
He who seemed always
to take and not give, who took me
so long to forget,
remembered everything I had so long forgotten."
Cái cảnh gặp lại người
cũ, nhìn từ phía “không phải Mai Thảo”,
thì là như sau đây:
Một người đàn bà gặp lại người
yêu cũ
Với ông ta tôi đã
từng tay trong tay,
Xuống Đồi Thông Hai Mộ
Đuổi lá vàng xào xạc dưới
chân
Ba chục năm trước
Úi giời ơi là giời
Thằng chả bi giờ mới bi thương thiểu não
làm sao
Mặt mày xanh rờn như mới từ xứ Mít
được con cái bảo lãnh qua Mẽo
Tôi gần như không nhận ra thằng
chả!
Ông ta, chính là
chàng ngày nào!
Đúng là ông ta ư, chàng
ngày nào, cười, không chỉ bằng tiếng cười
sang sảng,
mà còn bằng cặp mắt, rất ư biết
mình có hạng,
Vậy mà khóc mùi mẫn trên
vai tôi.
Chàng, đúng là
chàng, tên ích kỷ có hạng, chỉ biết
lấy mà chẳng biết cho ai bất cứ cái gì
[Đúng Bắc Kít, vùng nước
mặn, chắc cùng quê hương với Cao Bồi?]
Vậy mà không biết là bao
nhiêu năm tháng qua đi,
Bao nhiêu nước chảy qua cầu,
Linh hồn tôi mới phai mờ hình bóng
chàng
Nhìn 1 phát, là
bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện về, như những bóng ma
khủng khiếp!
Note: Bài này
dịch loạn, nhưng đúng là cái cảnh Gấu tưởng tượng ra,
khi gặp lại BHD!
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/26.html
Love Flea
He took a flea
From her armpit
To keep
And cherish
In a matchbox,
Even pricking his finger
From time to time
To feed it
Drops of blood.
Charles Simic
Rận Tình
Hắn chôm con rận
Từ bướm của nàng
Giấu trong bao quẹt
Lâu lâu nựng 1 phát
Và chích máu đầu ngón
tay
Như 1 anh Bắc Kít,
Không phải để viết đơn tình nguyện
Xẻ dọc Trường Sơn Kíu Nước
Mà để nuôi
Rận tình!
Relaxing in a Madhouse
They had already attached the
evening's tears to the
windowpanes.
The general was busy with the
ant farm in his head.
The holy saints in their tombs
were resting, all except
one who was a prisoner of a dark-haired movie star.
Moses wore a false beard and
so did Lincoln.
X reproduced the Socratic method
of interrogation by demonstrating the ceiling's ignorance.
"They stole the secret of the musical matchbook
from me",
confided Adam.
"The world's biggest rooster
was going to make me famous,”
said Eve.
Oh to run naked over the darkening
meadow after the cold
shower!
In the white pavilion the nurse
was turning water into wine.
Hurry home, dark cloud.
Charles Simic: New and Selected Poems
Thư giãn nơi Nhà Khùng
Chúng đã buộc nước mắt buổi chiều
vào cửa sổ
Võ tướng quân thì đang bận
rộn với cả một nông trại kiến ở trong đầu
Những vì thánh trong những nấm mồ
thì đang nghỉ ngơi, tất cả,
trừ 1 vì đang là tù nhân
của một ngôi sao màn bạc tóc đen
Moses mang râu giả và Lincoln cũng
vậy.
X chôm phương pháp tra hỏi của Socrate
bằng cách chứng minh sự vô tri của cái trần
nhà
Chúng chôm mẹ mất sự bí mật
của vỉ nhạc của tôi, Adam lầu bầu
Con gà trống bự nhất thế giới sẽ làm
tôi nổi tiếng, Eva phán.
Ui, khoả thân, chạy suốt cánh đồng
sẩm tối sau khi làm 1 cú tắm nước lạnh mới đã
làm sao!
Ở khu lều trắng y tá đang biến nước thành
rượu chát
Về nhà lẹ lên, mây đen kia!
Charles Simic: The Voice at 3:00 AM
Thơ
Mỗi
Ngày
1945
-You! the last Polish poet!-drunk, he embraced
me,
My friend from the Avant-Garde, in a long
military coat,
Who had lived through the war in Russia
and, there, understood.
He could not have learned those things from
Apollinaire,
Or Cubist manifestos, or the festivals of
Paris streets.
The best cure for illusions is hunger, patience,
and obedience.
In their fine capitals they still liked
to talk.
Yet the twentieth century went on. It was
not they
Who would decide what words were going to
mean.
On the steppe, as he was binding his bleeding
feet with a rag
He grasped the futile pride of those lofty
generations.
As far as he could see, a flat, unredeemed
earth.
Gray silence settled over every tribe and
people.
After the bells of baroque churches, after
a hand on a saber,
After disputes over free will, and arguments
of diets.
I blinked, ridiculous and rebellious,
Alone with my Jesus Mary against irrefutable
power,
A descendant of ardent prayers, of gilded
sculptures and miracles.
And I knew I would speak in the language
of the vanquished
No more durable than old customs, family
rituals,
Christmas tinsel, and once a year the hilarity
of carols.
Berkeley, 1985
Czeslaw Milosz: Selected
Poems 1931-2004
1945
Ông đấy ư? Nhà thơ Ba Lan cuối cùng!
Say, sỉn, anh ta ôm tôi
Bạn quí từ thời Tiền Phong
Trong chiếc áo khoác nhà binh
Đã từng kinh qua cuộc chiến Nga, và
ở đó, đã thấu hiểu
Anh có thể không biết chi nhiều, từ
những điều đó, từ Apollinaire
Hay những tuyên ngôn của nhóm
Lập Thể
Hay những buổi hội hè trên đường phố
Paris
Thứ thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa những ảo tưởng,
là,
Đói khát, kiên nhẫn, và
phục tùng.
Trong những thủ đô đẹp đẽ của họ, họ vẫn thích
nói.
Tuy nhiên thế kỷ 20 tiếp tục trôi chảy.
Đâu phải họ là những người quyết định,
những từ ngữ có nghĩa là gì.
Trên lối đi, khi chùi chân chảy
máu với miếng giẻ
Anh nắm bắt sự kiêu ngạo vô ích
của những thế hệ cao ngất
Xa xa, như anh có thể nhìn, là
mặt đất lè tè, chẳng hy vọng gì lại được chúc
phúc.
Im lặng xám ngự trị mọi bộ lạc, mọi nhân
dân
Sau những tiếng chuông nhà
thờ baroque, sau bàn tay trên cây kiếm
Sau những cãi lộn về free will, và
những tranh luận về diets.
Tôi chớp mắt, thấy kỳ cục, thấy nổi giận
Một mình với Jesus Mary của tôi
Chống lại thứ quyền lực không làm sao
bài bác lại được
Dòng dõi những người cầu nguyện sôi
nổi
Những điêu khắc bằng vàng, những phép
lạ.
Và tôi biết
Tôi có thể nói
Bằng thứ ngôn ngữ của những người bị đánh
bại
Không trường tồn bằng,
So với những cổ tục, những nghi lễ gia đình
Kim tuyến Giáng Sinh, và đến hẹn lại
tới,
Sự vui nhộn của những bài hát mừng.
CHARM SCHOOL
Madame Gabrielle, were you really French?
And what were those heavy books
You made them balance on top of their heads,
Young women with secret aspirations
We saw strolling past the row of windows
In the large room above Guido's barbershop?
On the same floor was the office of an obscure
Weekly preaching bloody revolution.
Men with raised collars and roving eyes
Wandered in and out. When they conspired
They spat and pulled down the yellow shades,
Not to raise them or open the windows again
Until the summer heat came and your students
Wore dresses with their shoulders bared
As they promenaded with books on their heads,
And the bald customer in the barbershop
Sat sweating while overseeing in the mirror
His three remaining hairs being carefully combed.
Charles Simic: The Voice at 3:00 AM
Trường Khả Ái
Bà Gabrielle, Bà có phải thực
Đầm không,
Hay, Đầm Rau Muống?
Và những cuốn sách
nặng
Bà bắt họ đong đưa ở trên đầu
Là những cuốn gì vậy?
Những thiếu phụ trẻ với những hoài vọng bí
ẩn
Chúng tôi thấy họ lướt qua những hàng
cửa sổ
Trong căn phòng rộng
Ở bên trên cửa tiệm cắt tóc
Guido
Cũng trong tầng lầu đó
Cò n có văn phòng
Của 1 hội kín
Hàng tuần rao giảng 1 thứ cách mệnh
Vừa “tắm tôi”, vừa “mé mau” có
tên là…. Vẹm
Những tên đờn ông Bắc Kít
Cổ áo kéo cao
Mắt đảo xuôi, đảo ngược
Thậm thụt “vô và ra” [“đi và
vào” mới đúng]
Khi âm mưu làm thịt phe Kuốc Gia
Những Khái Hưng, Hoàng Đạo, thí
dụ…
Chúng ngồi thành 1 cục, nhổ nước
bọt, đờm, nước rãi… văng tùm lum
Kéo những cái bóng màu
vàng của chúng xuống
Và đóng mẹ mấy cái cửa sổ
lại!
Cho tới khi cái nóng khủng khiếp
của mùa hè của xứ Bắc Kít, tới
Những sinh viên của Bà
Bèn mặc áo vai trần
Rong ruổi với những cuốn sách ở
trên đầu
Và cái tay khách hàng đầu hói ở tiệm cắt tóc
Ngồi đổ mồ hôi
Nhìn cái đầu bóng lưỡng của mình trong gương
Còn đúng ba sợi tóc,
Được chải chuốt rất ư là tới chỉ!
Le Livre des rêves (1)
(1975)
Dans un essai du Spectator (septembre 1712)
repris dans cet ouvrage, Joseph Addison observait que l'âme
humaine, quand elle rêve, débarrassée du corps,
est à la fois le théâtre, les acteurs et le public.
On pourrait ajouter qu'elle est aussi l'auteur de la fable à
laquelle elle assiste. Il y a des passages qui développent
la même idée chez Petrone et chez Góngora.
Une lecture littérale de
la métaphore d' Addison pourrait nous mener à la
thèse, dangereusement séduisante, que les rêves
constituent le plus ancien et cependant le plus complexe des genres
littéraires. Cette thèse curieuse, que nous approuvons
volontiers car elle ne gêne en rien la composition de cette
préface ni la lecture des textes qui suivent, pourrait justifier
une histoire générale des rêves et de leur influence
sur les lettres. Le présent ouvrage, composé d'un mélange de textes choisis
pour le délassement du lecteur curieux, pourrait fournir
certains matériaux. Cette histoire hypothétique explorerait
l'évolution et la ramification de ce genre si ancien, depuis
les songes prophétiques de l'Orient jusqu'à ceux,
allégoriques et satirique, du Moyen Age et jusqu'aux pures inventions
de Lewis Carroll et de Franz Kafka. On y etablirait, bien entendu, une
distinction entre les rêves és par le sommeil et les
rêves inventés par la veille.
Ce livre de rêves, que les
lecteurs rêveront à leur tour, englobe des rêves
nocturnes - ceux que je signe, par exemple -, des rêves diurnes,
qui sont un exercice volontaire de notre imagination, et d'autres d'origine
oubliée: disons par exemple le rêve anglo-saxon de la
Croix.
Le sixième livre de L'Enéide reprend une tradition de
L'Odyssée et déclare qu'il y
a deux portes divines par lesquelles nous arrivent les songes :
celle d'ivoire, qui est celle des rêves fallacieux, et celle
de corne, qui est celle des rêves prophétiques. Etant
donné les matériaux choisis, il semblerait que le poète
ait senti d'une manière obscure que les rêves qui anticipent
l'avenir sont moins riches que les rêves fallacieux qui sont
une invention spontanée de l'homme qui dort.
II y a un type de rêve qui
mérite particulièrement de retenir notre attention.
Je veux parler du cauchemar, qui se dit en anglais nightmare
ou jument de la nuit, mot qui suggera it Victor Hugo la métaphore
de « cheval noir de la nuit » mais qui, selon les étymologistes,
veut dire fiction ou fable de la nuit. Alp, son
nom allemand, évoque l'elfe ou l'incube qui opprime le dormeur
et qui lui impose d'horribles images. Ephialtes, qui
est le terme grec, precede d'une superstition analogue.
Coleridge écrivit que les
images de la veille suscitent des sentiments, tandis que dans le sommeil
les sentiments suscitent des images. (Quel fut le sentiment mysterieux
et complexe qui lui aura dicte le Kubla Khan, qui fut le don d'un rêve
?) Si un tigre entrait dans notre chambre, nous aurions peur; si nous
avons peur en rêve, nous engendrons un tigre. Telle serait l'explication
des visions qui nous alarment. J'ai dit un tigre mais étant donne
que l'effroi précede l'apparition improvisée nous pouvons,
pour le comprendre, projeter notre terreur sur une figure quelconque
qui, dans la veille, n'est pas nécessairement terrifiante. Un
buste de marbre, une cave, l'envers d'une monnaie, un miroir. Il n'y
a pas dans l'univers une seule forme qui ne puisse se revetir d'horreur.
D'où, peut-être, la saveur particulière du cauchemar
qui est très differente de l'épouvante ou des épouvantes
que la réalité est capable de nous infliger. Les peuples
germaniques semblent avoir été plus sensibles à
cette menace imprécise du mal que les peuples de filiation latine;
rappelons-nous les mots intraduisibles eery,
weird, uncanrry, unheimlich. Chaque langue produit ce dont elle
a besoin.
L'art de la nuit a envahi peu a
peu l'art du jour. Cette invasion a duré des siècles
; le royaume dolent de la Divine Comédie
n'est pas un cauchemar, sauf peut-être dans le Chant IV, qui
donne une impression de malaise contenu; c'est un lieu où il
se passe des choses atroces. La lecon de la nuit n'a pas été
facile. Les songes de l'Ecriture n'ont pas le style des rêves
; ce sont des prophéties qui mettent en oeuvre d'une facon trop
cohérente un mécanisme de métaphores. Les rêves
de Quevedo semblent être l'oeuvre d'un homme qui n'a jamais rêvé,
comme ce peuple cimmerien mentionné par Pline. D'autres suivront.
L'influence de la nuit et celle du jour seront réciproques ;
Beckford et De Quincey, Henry James et Poe ont leurs racines dans le
cauchemar et troublent souvent nos nuits. II n'est pas improbable que
les mythologies et les religions aient une origine analogue.
Je tiens à dire ici ma gratitude
envers Roy Bartholomew, sans la studieuse ferveur de qui il m'eut
été impossible de faire ce livre.
Buenos Aires, 27 octobre 1975.
(1) Anthologie de textes oniriques
rassemblés par J. L. Borges.
https://granta.com/issues/granta-138-journeys/
IS TRAVEL WRITING DEAD?
ALEXIS WRIGHT
Some of the most important kinds of travel writing now
are stories of flight, written by people who belong to the millions
of asylum seekers in the world. These are stories that are almost
too hard to tell, but which, once read, will never be forgotten. Some
of these stories had to be smuggled out of detention centres, or were
caught covertly on smuggled mobiles in snatches of calls on weak connections
from remote and distant prisons. Why is this writing important? Behrouz
Boochani, a Kurdish journalist and human rights campaigner who has been
detained on Manus Island for over three years with no hope for release
yet in sight, puts it plainly in a message to the world in the anthology
Behind the Wire. It is, he wrote, 'because
we need to change our imagination' .•
HOA NGUYEN
As a child growing up in the seventies in the United
States, I learned about European exploration, the 'discovery' of
the 'New World' and circumnavigation of the globe. The thrill of
treasure, whole parts of the Earth you could claim for yourself, fabled
streets of gold and fountains of youth - these were fantastic myths
unfolding in my imagination. What I didn't know in fourth grade (when
I wrote, directed and starred in a recreation of Columbus 'discovering'
the 'New World') was that these were stories of untold violence: murder,
rape, enslavement, thievery and the enactment of racist ideologies for
the exploitation of black and brown people that continues today.
By the age of two, I had circumnavigated
half the globe. I left with my newly married parents aboard a plane
from Saigon. Our first stop was the once Kingdom of Hawaii. I didn't
know about any of that then either. My 'discovery' was the hotel ice-cube
maker and the joy of chewing ice. If it were possible, at age two,
I could have written about my discovery of the Hawaiian Islands and
their magic machines that made mounds of square frozen water.
We were refugees and yet we were
not refugees. My (European American) father worked for the
US Department of State; we made our home in the DC area where I learned
the Pledge of Allegiance, lived in a brick 'rambler' built for returning
World War II vets in the late forties, and learned never to speak
Vietnamese. Vietnamese were 'dirty kneed', enemies, a source of guilt
or sin.
My Vietnamese mother was born in
the Year of the Snake. She left her skin behind and never returned
to Vietnam. Like many immigrants, we melted our identities, and yet
did not.
*
Growing up, I watched the ease
of my white friends, seeing how they could take on the costumes of
any era and place: 1950s poodle skirts, elegant saris, beaded 'Indian'
tassel-fringed leather outfits, antebellum petticoats. I didn't have
the language for why I could not be a tourist in the same way as my white
counterparts. I could dress myself as a boy before I could wear period
European apparel or the traditional clothing of another nation. And even
then it invoked a sense of repulsion and disgust.
Likewise, I'm led to wonder, given
the history of 'discovery', if we need more accounts of people of
European descent' discovering' places like my mother's country, my
place of birth from which I have felt forever exiled through rupture
and circumstance? Do we need more Westerners consuming their way across
Vietnam, commenting on local dress, smiles, food and sharing tips
on where to get the best deal on bespoke silk skirts?
What is the tourist trade really funding?
Is it adult Disneyland, plastic trinkets with little automatons
singing 'It's a Small World After All'?
Instead of finding a Western angle
of experience in countries like Vietnam - motorbiking from Hanoi to
Saigon, boating in the southern delta, snapping up fabric arts from
the Hmong, eating their way down the Mekong, seeking redemption from
war experiences or war protests, romanticizing French colonialism, or
tracing the ghost of writer Marguerite Duras - maybe writers should
stick closer to home. What would it look like to travel to a mall, a
local wood, a suburban tract - to deeply study and visit one's own locale?
As a poet interested in the local, I think it vital to understand what
is right before one.
Instead of more consumerism - the
buying of experiences, the accumulation of things, of eating the
'other' - perhaps writers should name their own environment. What
is the shape of your watershed? How is your electricity produced?
Where is your water treated? Where is your food produced and by whom
and how does it travel to your local market? What are the names of the
rocks under your feet and around you? What formed those geological features?
Who were the first humans here? What flora and fauna live upon it and what
are their habits and interfaces? What stars whirl above you and what names
have they been given, what lore? How can one trace the relations, find
the slippages between histories, the linkages, to find the complexities
in naming and of the named? Travel as one's carbon footprint; travel as
a footstep, travel as a naming in a landscape in all its complexity. Homing
as a way to place oneself in a constellation of process and being. _
Hoa Nguyen was born in the Mekong Delta and raised in
the Washington DC area. Her poetry collections include As Long
As Trees Last, Red Juice and Violet Energy
Ingots. She lives in Toronto.
Note:
Granta, số mới nhất, viết về "đi", và
về "đi để viết".
Tin Văn post hai mẩu, có mắc mớ xứ Mít.
Mua, và mua số báo The New Yorker có
bài điểm sách của VTN, của Oates. Tay này, thú
thực Gấu không mặn, có thể do GCC quá hoài
vọng về xừ luỷ, lúc mới xuất hiện.
Chỉ nội một mẩu trên, của Hoa Nguyên là
đã thấy ăn đứt VTN rồi!
My Vietnamese mother was born
in the Year of the Snake. She left her skin behind and never returned
to Vietnam. Like many immigrants, we melted our identities, and
yet did not.
Má tôi sinh năm Rắn.
Bà để lại da, ở xứ Mít, và không bao giờ
trở về.
Câu phán đó làm nhớ tới Sebald,
mà như VTN thú nhận, là "hero" của anh ta.
Sebald đúng là "để da lại nước Đức", tuy
viết bằng tiếng Đức, nhưng khó mà có thể nói,
ông
thuộc dòng chính của Đức.
Valentine's Day 2017
"Many writers, in their youth, write poetry: I,
instead of poetry, wrote the palm-of-the-hand stories. Among
them are unreasonably fabricated pieces, but there are more than
a few good ones that flowed from my pen naturally, of their own accord…
[T]he poetic spirit of my young days lives on in them."
Kawabata
*
Cuốn “Những truyện ngắn trong
lòng bàn tay”, trên, Gấu đọc khi mới ra ngoài
này, qua bản của NTV cho mượn. Đúng lúc đó,
đọc truyện Biển của
Miêng, và bèn 'mượn' câu trên của
Kawabata, để viết về vị nữ bồ tát trong truyện.
Khi bài đăng trên mục Tạp Ghi do Gấu
phụ trách, NMG, ông chủ báo Văn Học Cali,
chắc là sau cái cú cái "tai người",
"Người" cũng rét, bèn thiến bỏ cụm từ 'nữ bồ tát',
thay bằng 'người đàn bà', đại khái như thế,
Gấu không nhớ rõ.
*
Nhà văn người Nhật Kawabata, Nobel văn chương
1968, trong bài mở đầu tập truyện "Những truyện ngắn ở trong
lòng bàn tay", viết: Những người viết, khi trẻ thường
làm thơ. Tôi, thay vì làm thơ, viết những
truyện trong lòng bàn tay.... Tinh thần thi ca những
ngày trẻ thơ của tôi sống mãi ở trong chúng".
(1)
Biển,
của Miêng cũng thuộc loại truyện lòng tay. Đọc, tôi
nghĩ, ngoài tinh thần thi ca ra, còn có những
giọt nước cam lồ nhỏ xuống cho cả một thế hệ: một người đàn
bà khóc thương một người đàn ông mất trí
nằm trong bệnh viện và trong những giờ phút cuối cùng,
người đàn ông lầm vị nữ bồ tát với người
vợ đã chết, cùng với con cái, trong lần vượt biển.
http://www.tanvien.net/notes_1/ky_2.html
A letter came from the husband
who had despised her and abandoned her. Two years late, and from
a faraway place.
(Don’t let the child bounce that rubber ball. That
sound reaches me even here. That sound strikes my heart.)
She took the ball away from her nine-year-old daughter.
Another letter came from her husband. The address was different
from the one before.
(Don’t let the child wear shoes to school. That sound
reaches me even here. That sound crushes my heart underfoot.)
Instead of shoes, she dressed her daughter in soft
felt sandals. The little girl cried, and didn’t go to school at
all. Another letter came from her husband. It was only a month after
the second one, but in those words he seemed suddenly aged.
(Don’t let the child eat out of earthenware bowls.
That sound reaches me even here. That sound shatters my heart.)
She fed her daughter from her own chopsticks, as
though the girl were a child of three. Then she thought back to
happier days when her daughter truly was a child of three and her
husband was at her side.
Impulsively, the little girl went and took her own
bowl from the china cabinet. The mother snatched it away and hurled
it violently against the stones in the garden. Sound of her husband’s
heart shattering. All at once she twisted her face and flung her
own bowl after it. This sound, is it not her husband’s heart shattering?
She heaved the dining room table into the garden. And this sound?
She threw her whole body against the walls and beat them with her fists.
Flinging herself like a spear through the sliding door, she tumbled out
into the garden beyond. And this?
“Mama, mama, mama!”
Her daughter followed after her, crying, but she
slapped the girl sharply on her cheek. Oh, hear this sound!
Like an echo of that sound, another letter came from
her husband. From a new address, even further away than the ones
before.
(Don’t make a single sound, either of you. Stop the
clocks in the house. Don’t open or close the doors. Don’t even breathe.)
“Either of you, either of you, either of you!”
Tears fell in large drops as she whispered that—and
then all was silent. Not a sound, not the faintest noise, not ever
again. The mother and her daughter were dead, after all.
And curiously, her husband was dead alongside them.
Nàng nhận được một lá
thư từ người chồng đã chán ghét mình
và bỏ nhà ra đi. Thư ấy gửi từ một miền xa, bẵng đi một
dạo cũng tới hai năm.
-Đừng cho con chơi với mấy quả bóng cao su!
Ở đây mà còn nghe tiếng động vọng tới. Tiếng
đó như nhói vào tim tôi.
Nàng bèn giằng lấy quả bóng
từ trong tay đứa con gái mới lên chín.
Lá thư của người chồng lại đến.Địa chỉ người
gửi đề trên phong bì khác với lần trước.
(-Đừng cho đứa nhỏ đi ủng tới trường! Ở đây
mà còn nghe tiếng chân vọng tới. Tiếng ủng
nó đi như dẫm lên tim tôi).
Nàng bèn cho thay đôi ủng của
cô con gái ấy bằng đôi dép cỏ đi êm
ái hơn. Thế nhưng đứa bé khóc và hết
chịu đi học.
Thêm lần nữa, thư người chồng lại đến, sau
lá thứ hai độ một tháng. Nàng có cảm
tưởng chữ viết trong thư chợt già đi hẳn. (Đừng cho con
ăn cơm bằng bát sành! Ở đây mà còn
nghe tiếng nó vọng tới. Tiếng đó như phá vỡ tim
tôi.)
Nàng mới lấy đũa mình gắp cơm đút
cho con như thể nó mới lên ba. Và nàng
nhớ lại cảnh hồi đứa con gái mới lên ba, người chồng
vui vẻ đứng bên cạnh hai mẹ con.
Con bé con tự tiện lấy cái bát
sành của nó từ trong chạn bát mang tới. Nàng
bèn giật lấy bát và giận dữ ném lên
phiến đá ngoài vườn. Có tiếng trái tim
của người chồng vỡ tan. Bỗng nhiên nàng quắc mắt, lông
mày dựng ngược, rồi nàng ném cả cái bát
của mình ra luôn. Không biết tiếng động vừa gây
ra có phải là tiếng động đã làm vỡ trái
tim người chồng hay không? Nàng bèn ném tung
cả mâm bàn ra ngoài vườn. Hay là vì
tiếng động này ? Nàng tông người thật mạnh vào
tường và đưa nắm tay đấm lên tường liên hồi. Thân
hình nàng mới đó còn vướng như một mũi giáo
lên cánh cửa giấy chắn gian buồng, thế mà đã
lọt qua bên kia và đổ gập xuống không biết lúc
nào. Còn cái tiếng này thì sao?
-Mẹ ơi, mẹ ơi! mẹ ơi!
Nàng đưa tay tát bốp vào mặt
đứa con gái vừa khóc vừa chạy đến bên mẹ. Nghe
cái tiếng này đi nào!
Giống như âm hưởng tiếng động ấy vọng về, một
lá thư khác của người chồng lại đến.Lần này
nó mang dấu bưu điện nơi gửi, một vùng đất mới và
xa xôi.
"Mấy người tuyệt đối đừng gây thêm một
tiếng động nào nữa Đừng đóng hay mở mấy cánh
cửa giấy ngăn buồng. Đừng thở nữa. Và cũng đừng cho đồng
hồ trong nhà mấy người tích tắc!"
-Mấy người! mấy người! cứ gọi là mấy người!
Nàng thì thào và để mặc
nước mắt chảy xuống ràn rụa. Thế rồi nàng không
làm bất cứ cái gì để phát ra một tiếng
động nào nữa.
Vĩnh viễn không còn một tiếng động vo
ve.Tóm lại, hai mẹ con nàng đã chết.
Thế rồi, một điều hết sức kỳ lạ đã xảy ra:
người chồng của nàng cũng thấy nằm chết trên gối bên
cạnh họ.
(Dịch xong ngày 28/02/2009)
http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/nntd074/nntd074_mucluc.htm
The Incident of the Dead Face
[1925]
"Please come see her. This
is what's become of her. Oh, how she wanted to see you once more."
The man's mother-in-law spoke as she hurriedly led him to the room.
The people at his wife's bedside all looked toward him at the same time.
"Please take a look at her." His wife's
mother spoke again' as she started to remove the cloth covering his
wife's face.
Then he spoke suddenly, in spite of
himself. "Just a moment. Could I see her alone? Could you leave me
alone with her here in the room?"
His words aroused sympathy in his wife's
family. They quietly left, closing the sliding partition behind
them.
He removed the white cloth.
His wife's face had stiffened into
a pained expression in death. Her cheeks were hollow and her discolored
teeth protruded from between her lips. The flesh of her eyelids was
withered and clung to her eyeballs. An obvious tension had frozen
the pain in her forehead.
He sat still for a moment, staring
down at this ugly dead face. Then, he placed his trembling hands on
his wife's lips and tried to close her mouth. He forced her lips shut,
but they fell open limply when he released his hands. He closed her mouth
again. Again it opened. He did the same thing over and over, but the only
result was that the hard lines around his wife's mouth began to soften.
Then he felt a growing passion in his
fingertips. He rubbed her forehead to try to relieve its look of grim
anxiety. His palms grew hot.
Once more he sat still, looking down
at the new face.
His wife's mother and younger sister
came in. "You're probably tired from the train ride. Please have
some lunch and take a rest. . . . Oh!" Tears suddenly trickled down
the mother's cheeks. "The human spirit is a frightening thing. She
couldn't die completely until you came back. It's so strange. All you
did was take one look at her and her face became so relaxed.... It's all
right. Now she's all right."
His wife's younger sister, her eyes
clear with an unearthly beauty, looked into his eyes, which were tinged
with madness. Then she, too, burst into tears.
JMH [J.Martin Holman]
Note:
Valentine's Day. Kèm với Thơ, Tin Văn đi vài đường truyện
ngắn!
|
|