|
Tribute to Arthur Koestler
The
indispensable intellectual
From the right to
life, to the right to die: an extract from Michael
Scammell's
biography of Arthur Koestler, one of the most influential figures of
the 20th
century
William
Skidelsky on Arthur
Koestler
'I don't believe in
humanity, I
believe in the individual' (1)
(1)
Tôi không tin vào nhân loại.
Tôi tin vào cá nhân.
Câu này tặng cá nhân Nguyễn Tiến Trung, Lê Công
Định, nhân
Tết Canh Dần, cũng thấy ấm lòng.
Nhân loại Mít, Gấu, tuy không
là Koestler, nhưng quả thật là quá chán nó rồi!
Hết tin vào nó rồi!
Cũng sắp đi, chán hay không chán, thì cũng đành thôi.
NQT
Arthur
Koestler and wife Cynthia Jeffries. Photograph: Peter
Williams/Camera Press
Tết nhằm vào Ngày Tình Yêu, kể
lại cuộc tình của Arthur Koestler & Cynthia Jeffries cũng có lý đấy
chứ!
"Out of
my quarrels with
the human condition I made my novels; the other books are attempts to
analyse
that same condition in scientific terms. In my more optimistic moments
it seems
to me that the two add up to a whole. At any rate, without both media I
would
feel only half alive".
A.
Koestler
Trong
khi lầu bầu về phận
người mà tôi đẻ ra những cuốn tiểu thuyết, những cuốn khác là toan tính
phân
tích cũng phận người, bằng thuật ngữ khoa học. Những lúc thú quá, tôi
nghĩ cả
hai cộng lại thành trọn một. Nói gì thì nói, thiếu một "nửa linh
hồn", là Koestler tui thành nửa đời nửa đoạn.
If I
were asked to name the
most important date in the history and prehistory of the human race, I
would
answer without hesitation, 6 August 1945. The reason is simple. From
the dawn
of consciousness until 6 August 1945, man had to live with the prospect
of his
death as an individual; since the day when the first atomic bomb
outshone the
sun over Hiroshima,
mankind as a whole has had to live with the prospect of its extinction
as a
species.
We have
been taught to accept
the transitory-ness of personal existence, while taking the potential
immortality of the human race for granted. This belief has ceased to be
valid.
We have to revise our axioms.
Ngày 6
Tháng Tám 1945 là quan
trọng nhất của giống người. Trước đó, nó chết, như là một cá nhân. Kể
từ ngày
đó, cả nhân loại có nguy cơ bị huỷ diệt, tuyệt chủng.
Koestler
Mô
phỏng K., có thể nói, với mỗi một giống
dân, cũng có một ngày
quan trọng như thế.
Milosz
cho rằng, với Ba Lan
của ông, đó là năm 1942.
Năm đó,
nước ông trở thành
anus mundi. [The cloaca of the world] (1)
Với
Việt Nam,
theo Gấu,
đó là 1975.
Một nhà văn 76
tuổi, chỉ còn chờ hai điều:
Được quên trước khi chết, hay chết trước khi được quên.
A writer aged seventy-six has only two prospects before him:
to be forgotten before he dies, or to die before he is forgotten
Ở đâu ra cái tít
Đêm giữa Ngọ, của Koestler?
Từ Milton, nhưng không phải do tác giả chọn, như những dòng sau đây,
trong Kẻ
Lạ Ở Quảng Trường cho biết:
Chính là khi ở Pentonville mà tôi nhận được bản in thử của Darkness
at Noon, và lần đầu tiên biết được cái tít tiếng Anh của cuốn
sách - dựa trên một
trích dẫn từ Milton, mà Daphne đề nghị, và tôi rất thích. Đúng là một
sự trớ
trêu, ở trong tình trạng tù đọc bản in thử của một cuốn tiểu thuyết về
một
người đàn ông ở trong tình trạng tù. Nhưng tôi may mắn hơn, vì ở tù ở
Pentonville thì chắc chắn hơn hẳn ở Lubianka [nhà tù nổi tiếng của Liên
Xô].
Đêm giữa Ngọ, cái tít đúng là như vậy.
Ngọ, Noon ở đây, là chỉ hiện tượng nhật thực, giữa trưa mà trời đất đen
thui.
*
"...O dark, dark, dark, amid the blaze of noon,
Irrecoverably dark, total eclipse
Without all hope of day!"
Nguồn
Những dữ kiện như
trên, cho thấy, không dễ gì mà có được cái tít Đêm giữa
ban ngày.
Từ đó suy ra, không dễ gì, mà không tin, Ngài VTH cầm nhầm cái tít của
Koestler!
*
Khi cuốn sách của VTH xb ở hải ngoại, và nó nổi lên như cồn, Gấu đã
nghi rồi,
nhưng thấy cũng chẳng đáng khui ra, nhưng bi giờ, hàng nhái lại trở nên
bảnh
hơn đồ zin, đồ xịn, thì đành phải lên tiếng. Chán thật! NQT
The Urge to
Self-Destruction
Homicide committed for personal
reasons is
a statistical rarity in all cultures, including our own. Homicide for
unselfish
reasons, at the risk of one's own life, is the dominant phenomenon in
history.
Even the members of the Mafia feel compelled to rationalize their
motives into
an ideology, the Cosa Nostra, 'our cause'.
Làm thịt người khác vì những lý do cá nhân thì hơi bị ít, trong mọi văn
hóa.
Làm thịt người khác do những lý do không có tính vị kỷ, thì nói mẹ ra,
vì nghĩa
cả, vì đường ra trận mùa này đẹp lắm, vì đốt sạch Trường Sơn cũng phải
đốt, thì
cái mạng nhỏ này nhằm nhò gì, cái đó mới bỏ mẹ!
Ngay cả những thành viên của Mafia cũng có nghĩa cả của chúng, nữa là
Bắc Bộ
Phủ!
*
Rubashov, nhân vật chính trong
Đêm giữa
ban ngày, Kẻ Tử Đạo: Đạo Cộng Sản, là tổng hợp của rất nhiều nhân vật
có thực ở
ngoài đời. Cái xen ông bị bắt, mở ra truyện, Koestler dựa vào kinh
nghiệm của
chính mình, khi bị bắt trong Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Tuy nhiên, ít
ai ngờ,
nhân vật nữ đồng chí trong truyện, người tình của R., có thực ở ngoài
đời, và
là do nhà nước Liên Xô cung cấp cho ông, trong những ngày ông tham quan
cái nôi
của Cách Mạng vô sản. Ông làm xong công tác, trả lại cho KBG thủ tiêu.
Điều trên, Gấu đọc trong một thư độc giả, trên tờ Người Nữu Ước,
vào lúc
cuốn tiểu sử của ông vừa ra lò, trong đó có những chi tiết về sức mạnh
giống
đực của ông, gặp gái là làm thịt, bất kể là gái nào! Độc giả nói trên,
cho biết
tên cô gái, và trường hợp bị thủ tiêu. Milosz cũng nói sơ sơ về tài
năng của K
Lạ một điều, ông được gái rất
mê, và có
những cuộc tình thật lãng mạn. Khi ông bị bệnh, và quyết định tự kết
liễu đời
mình, bà vợ của ông đã tự nguyện chết theo ông. Kẻ lạ ở Quảng
trường,
Stranger on the Square kể cuộc tình, và cuộc chết của họ.
Gấu đã
từng nói dai nói dài
nói mãi về cái lần vô thư viện tình cờ cầm cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng,
và từ đó,
rắp tâm làm trang Tin Văn, nhưng nếu không có sự giúp đỡ của PCL, chủ
biên tờ
VHNT trên lưới, thì cũng thua.
PCL lúc đầu còn mất công đọc bài, đăng bài sau mở hẳn một account cho
Gấu tự
tung tự tác, cho đến lúc PCL gặp khó khăn về vấn đề server, thì bèn
tách ra
hoàn toàn.
Nay nhân mấy đấng trên Hội Luận nhớ về VHNT, nhưng thực chất, nhớ về
chính họ, nhớ
cái thuở còn hàn vi, chưa là đại văn hào, cũng một kiểu áo thụng vái
nhau, Gấu
bèn nhớ về nhớ về nhớ về.....
Cũng là một cách hội luận với Hồ Nam, tức là với trong nước!
(1)
(1)
Gấu vs Hồ Nam
*
Cha đẻ của Hội Luận về Tự Do Văn Hoá, Congrès [hội nghị, hội luận, hội
loạn thì
cũng rứa] pour la Liberté de la Culture, là mấy anh Xịa, chứ không phải
VC.
Dưới cái entry như trên Milosz bốc phét: Tớ rất rành vụ này, và dư sức
viết cả
một cuốn sách về nó, nhưng tớ không "mặn". Nói cho cùng, có cả một
đống rồi, được gọi bằng cái tên "âm mưu tự do" [the 'libéral
conspiracy'].
Đây là một thời kỳ quan trọng trong Chiến Tranh Lạnh. Chuyện là như
vầy: Thành
phố Nữu Ước sặc mùi Mác xít từ trước chiến tranh, và hai băng đảng Mác
xịt và
Trột kịt làm thịt nhau hàng ngày. Khi chiến tranh bùng ra, đám OSS, tiền thân
của CIA, bèn
mướn một số nhà văn của phong trào NCL, Non-Communist Left.
OSS
hiểu sự quan
trọng của ý thức hệ, nhất là ở Âu Châu. Khi OSS trở thành CIA, cũng là lúc họ có
phương
tiện hành động. Nhưng người đưa ý nghĩ, tổ chức một hội luận Chống Cộng
tại Tây
Đức vào năm 1950, là Koestler. Ông là viên chức Cộng Sản vào thập niên
1930,
tại chuồng ngựa nổi tiếng Willi Munzenberg. Koestler làm việc cho trung
tâm của
Munzenberg. Ở Paris, sau khi cắt bào đoạn nghĩa với Đảng, ông bèn tơ
tưởng
chuyện tạo ra một trung tâm tương tự, nhưng, thay vì ý thức hệ Cộng
Sản, thì
lèm bèm về ý thức hệ Tự Do!
*
Trong lý lịch trích ngang, do chính ông viết, trong Kẻ lạ ở quảng
trường, ông
giải thích tại sao vô Đảng:
1931. Hitler ante portas. (1) Gia nhập Đảng Cộng Sản Đức, như là một
giải pháp
ngoài mặt, đối với Luật Nazi.
1932-33. Du lịch Liên Xô, Caucasus và
Trung Á,
do Agitprop Komintern bảo trợ, để viết về Kế hoạch 5 Năm.
(1) Before the gates: Giống như những binh đoàn VC ở bên ngoài Sài Gòn,
và viễn
tượng Biển Máu... Đại khái như vậy.
*
Thành thử những hội luận hội liệc, những WC hay WJC gì gì, nói cho
cùng, thì
cũng vẫn Mẽo phịa ra, y như hồi xửa hồi xưa thôi.
Gấu nhắc lại Xịa, chứ không phải VC.
*
Nhân
đây, nói
chuyện Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến.
Khi lấy tiền của
Mẽo để viết nó, chắc chắn VP còn nhớ trong đầu, cái vụ Mai Thảo bị
Nguyên Sa tố
lấy tiền của Mẽo làm tờ Sáng Tạo. Ông không muốn mang tiếng, và vờ đi,
và thay
vào đó, là lời cám ơn “Uỷ ban Nghiên cứu Khoa học, Xã hội”, nghĩa là
thay vì để
tên thực, bằng tiếng Anh của cơ quan cung cấp tiền, ông dịch cái tên
tiếng Anh
ra tiếng Việt.
Nên nhớ, một cái
tên riêng không thể nào dịch được, và không thể sử dụng bản dịch thay
thế bản
chính được.
Gấu đã từng kể
chuyện, hồi học Đệ Thất trường Nguyễn Trãi Hà Nội, có ông thầy dậy
tiếng Anh tên
là Xuân, và một bữa, có anh học trò hí hoáy vẽ lên bảng một bức hí hoạ,
và ghi
là Mr. Spring. Đúng lúc đó, Thầy bước vô, và định phạt anh học trò,
nhưng anh này
láu lỉnh cãi:
-Spring không phải
là tên Thầy.
Ông thầy gật gù, đúng!
Y chang trường hợp
của Võ Phiến.
Gấu, ra ngoài này,
lần đầu được một người bạn đưa cho đọc, tự hỏi, ở đâu ra cái Uỷ ban
đáng quí này.
Liệu nó có giúp được gì một thằng cha Gấu, với cả lố tác phẩm ở trong
đầu?
Những chuyện này
không thể không viết ra. Gấu đâu có thù hằn gì Võ Phiến, hay Nguyễn
Mộng Giác,
[sử dụng tên HPNT cho một nhân vật của ông] hay bất cứ một ông
bạn quí. Gấu đã tính vờ hết, nhưng, đúng như Gấu đã từng kể,
nhiều lần, về cái bữa nằm mơ nhìn thấy xác Gấu nổi lều bều trên dòng…
Bến Hải,
tỉnh dậy, bèn viết ra tất cả, chẳng chừa một chuyện gì, để thanh thản
mà đi!
Dù thế nào thì thế
nào, Gấu cũng vẫn là một tên Yankee mũi tẹt. (1)
Giả như Gấu không bỏ
chạy vào
năm 1954, thì cũng là một trong những tên ăn cướp, và miệng lúc nào
cũng có mùi
vị chiến lợi phẩm, hẳn thế!
Viết là viết
trong cái thú
đau thương
đó, đâu thù hằn chi ai?
Cái vụ Dọn, là cũng
trong tinh thần đó, nhưng như chàng dũng sĩ hạ san trừ quỉ của Nhất
Hạnh, đúng
vào lúc Gấu sắp biến thành quỉ thì bạn bè hét lên, này coi chừng, thế
là tỉnh dậy,
may quá!
(1)
As a Hungarian Jew and
native
German speaker who wrote in English, he isn't a natural part of
anybody's
literary canon. There is an Orwell Society at Eton, but I doubt very
much that
there is a Koestler Society at any school in Budapest.
Yesterday's Man?
By Anne Applebaum
Koestler: The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammell
Nhập nước Pháp, như là một kẻ
xa lạ chẳng
ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng đêm giữa ban ngày,
cuốn
sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết trên 30 cuốn sách, với đa
số, ông
chỉ là tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc
giả Tây
Phương nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc
tài CS.
Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu
châu của Berlin,
sau chiến tranh. “Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,”
ông viết
trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều này, chẳng ai tin, và tôi có
thể bị
tống vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự
do Văn
hóa được thành lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống
lại
tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết. Tranh cãi sau đó liên quan tới
hội nghị,
là, liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp.
Scammell,
tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington,
bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét,
như nhìn
rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là bèn nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền
trợ cấp
của Mẽo, trao cho Mai Thảo. Và cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông kia, có
biết
không? Chắc không. Nguyên Sa, biết, nhưng không phải lúc thoạt đầu, mà
sau đó,
chắc là do MT xì ra, và khi xẩy ra đụng độ với TTT, NS
tố
nhóm Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’ ở NS, và luôn cả ở MT, có thể là do
ảnh hưởng
của ông đối với đám viết lách liền sau ông, là HPA, NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với họ.
Hoặc hiểu họ.
Mai Thảo không đọc sách, nếu có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là sự
thực. Ông
rành tiếng Tây, nhưng để đọc được đám hiện sinh, thí dụ, không phải cứ
giỏi
tiếng Tây. Gấu đã từng có kinh nghiệm này rồi, với ông anh Hiếu Chân.
Một bữa,
ông phán, mày đưa tao thử đọc cuốn La Nausée coi. Đọc chưa hết
mấy trang
đầu, ông đã vứt trả lại, phán, tao không hiểu được, tại sao tụi mày lại
mê cuốn
đó. Có ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có thích Brahms? Đăng từng kỳ
trên tờ
Điện Ảnh, khi làm tổng thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn của Gấu. Chính ông đã từng nói ra, khi còn
Sài Gòn,
và sau này, khi ông đang nằm viện chờ đi, qua NMG cho biết, khi đem bài
tạp ghi
của Gấu viết về ông vô cho ông đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người
gật gù, "bây giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Koestler dành một chương cho
Hội nghị
Tự Do Văn Hóa, và tiền tài trợ của Xịa. Nhưng, trước khi nói chuyện
tiền bạc,
chúng ta nói về cuộc tình chót đời của ông, với cô thư ký Cynthia
Jefferies.
Khi họ quyết định cùng chết, K 77 tuổi, đủ thứ bịnh tật; Cynthia 55,
hoàn toàn
khỏe mạnh. Cái note của K. khi chết để lại mới thú:
To Whom It May Concern:
‘It is to her that I owe the relative peace and happiness I enjoyed in
the last
period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và hạnh phúc tôi được hưởng vào
khúc chót
của cuộc đời - trước đó, tôi chẳng hề có”
Đúng, như "K" phán, trên đời
này, chỉ có tình là đáng kể, và tình
thật đẹp là tình thật sến, theo Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới đó.
Cái cảnh anh cu Gấu chạy theo em khóc nức nở nơi cổng trường Đại học
Khoa
học Sài Gòn mà chẳng sến ơi là sến sao?
Bữa đó, Trời cũng khóc, mà khóc cũng thật là sến!
[Vậy mà cũng vưỡn chưa được coi cuốn phim của TNM.]
NQT
Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn
mưa vẫn tiếp
tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng
đứng nói
chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi
vừa đứng
đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt,
chúng tôi
thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi
được một quãng
khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt
kịp nàng,
và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói.
Nàng
nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận,
muốn đánh
nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế
bên đường:
đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ
trên khuôn
mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi
đột
nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo
nàng đi
về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã
hết.
Sơ Dạ Hương
Hết gì đâu mà
hết!
Đến già vẫn
còn chết [vì nó]!
*
… a true
romantic story of total devotion, absolute loyalty, unconditional
surrender and true love.
George Mikes,
Sunday Telegraph
Quả đúng là
như thế, nhưng cái tay viết bài Intro cho cuốn Kẻ lạ ở Quảng trường,
nhận xét, tinh tế hơn:
Cuốn sách này,
trong cõi thâm sâu của nó, in essence, là một chuyện tình, nhưng
“đếch” giống bất cứ một chuyện tình nào mà tôi đã từng đọc. Có lẽ, nên
gọi nó,
đúng hơn, câu chuyện về nỗi ám ảnh [the story of an obsession].
Vào Tháng Bẩy,
1949, Cynthia Jefferies, một cô gái xinh đẹp nhưng đau thương
sầu muộn trong nỗi e thẹn và cũng khá ngốc nga ngốc nghếch, lúng túng
vụng về,
một cô gái từ Nam Phi, trả lời một mẩu tin cần người. Một nhà văn cần
một cô
thư ký tạm, temporary. Nhà văn là Arthur Koestler. Vào lúc đó, ông sống
tại một
căn nhà ở gần Fontainbleau [chỗ Bác Hồ đã từng ngụ ký hiệp định với
Tây?], với
Mamaine Paget, một trong hai cô gái xinh đẹp sinh đôi, sau đó ông lấy
làm vợ,
sau khi cuộc ly dị với bà trước xong xuôi. Cynthia thì sống ở Paris.
Cô có được cái
job thư ký, và trong sáu năm tiếp theo, lúc ở Pháp, lúc Anh, lúc
Mẽo. Trong thời gian này, cô có chồng, và rồi ly dị. Vào năm 1955, cô
từ bỏ
việc làm của cô ở New York, để trả lời một cái message của Koestler, và
trở về
Lơndon làm thư ký toàn thời gian. Vào giai đoạn nào họ trở thành hai
người yêu
nhau, độc giả cuốn sách hãy tự quyết định và rút ra lời kết luận. Nhưng
chẳng
nghi ngờ chi, Cynthia yêu Arthur hầu như ngay lần đầu nhìn thấy ông,
trong cái
cuộc phỏng vấn nhận việc, trong cái dáng điệu ngớ nga ngớ ngẩn của cô,
tại Paris.
Họ chia sẻ
cuộc đời cho nhau, vào năm 1955 đó, và vào năm 1965, họ làm lễ kết
hôn. Vào Tháng Ba 1983, hai cái xác của họ được kiếm thấy, trong phòng
khách
của căn nhà của họ ở Montpelier
Square, [căn nhà mà chúng ta thấy ở bià cuốn
sách]. Koestler ngồi trên ghế bành, ly rượu brandy vẫn còn trong tay.
Cynthia
nằm sô pha, một ly whisky trên bàn kế bên. Ly nào cũng chứa một liều
cực mạnh
thuốc ngủ barbiturates.
Koestler lúc
đó 77 tuổi. Trong bẩy năm cuối cùng, ông đau khổ với chứng bịnh
Parkinson, lúc đầu còn kiềm chế được, nhưng ngày một tệ hại. Bốn năm
chót, còn
thêm bịnh leukaemia, vào thời kỳ chót. Cynthia, 55, hoàn toàn mạnh khoẻ.
Bên cạnh cái
note của K, là những dòng của Cynthia: Tôi đã tính tính sổ làm thư
ký cho K - một câu chuyện bắt đầu khi đường đời của chúng tôi đụng nhau
vào năm
1949. Tuy nhiên, tôi không thể sống không có Arthur, mặc dù cũng một số
vốn
liếng riêng.
Tôi [Harold
Harris] nghĩ, Cynthia quyết định cùng đi, khi nhận ra Arthur hết
còn chịu đựng nổi gánh nặng cuộc đời.
Nguồn
Koestler
là một ký giả thiên
tài, và về mặt này,
ông là chàng ngự lâm quân thứ tư, Đác Ta Nhan. Ba ông kia, Albert
Camus,
Whittaker Chambers and George Orwell, đều là những đấng bạn quí của
ông!
Nếu
tầm uyên bác của K. rộng, thì tầm nghệ sĩ, hẹp, so với mấy ông kia.
Quái,
là, ông lại được cả thế giới biết đến như là “Koestler, nhà văn”, với
độc một
cuốn tiểu thuyết Bóng đêm giữa ban ngày!
Nhà phê bình Leslie Fiedler đã
có lần nhận xét, cuốn Hứa và Làm,
Promise and Fulfillment, của K. viết
về
Israel, nên được đưa vào thư viện dưới chữ cái K, tức viết về Koestler,
thay vì
chữ I, tức Israel.
Ý của ông là, sống hay viết,
với K, hoàn toàn bị dẫn dắt bởi cái tôi to tổ bố của ông, thay vì bởi
nguyên
tắc. Đề tài
của ông là chính ông. Tuy nhiên, vào thời điểm mà bóng ma của chủ
nghĩa CS Liên
Xô còn… vô hình hơn cả vô hình, với… toàn
thể nhân loại,
nhất là giới trí thức, thì ông, một kẻ có vẻ như đếch có lương tâm,
thấy gái là
quất [ông tính quất cả bà vợ
triết gia
Bertrand Russell, Bertrand Russell's wife claimed Koestler tried to
rape
her,
too!] đã đánh thức lương tâm của Tây Phương! (1)
(1) Nguồn
"The
final rout of the Soviet
imperium in 1989-1990 began with the
publication of Darkness at Noon [1940]"
David Cesarani: Arthur Koestler: The
homeless mind, Một cái đầu không nhà.
1940 mà đã nhìn ra hiệp chót
của con quái vật CS, xẩy ra vào thời kỳ 1989-1990, "the final rout in
1989-1990", thì
đúng là đòn "cách sơn đả ngưu" của Kim Dung tiên sinh!
Trong
những bài điểm cuốn tiểu
sử K của Scammell, bài của Anne Applebaum thật tuyệt. Bà là tác giả
cuốn Gulag một lịch sử, trên TV đã từng giới
thiệu. Scammell còn là tác giả một cuốn tiểu sử Solz. Nghĩa là, cả hai
rất rành
về Liên Xô, về CS, và những tác giả như Koestler.
Volume
57, Number 2 ·
February 11, 2010
Yesterday's
Man?
By Anne
Applebaum
Koestler:
The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by
Michael Scammell
Random
House, 689 pp., $35.00
*
He
began his education in the
twilight of the Austro-Hungarian Empire, at an experimental
kindergarten in Budapest.
His mother was
briefly a patient of Sigmund Freud's. In interwar Vienna he wound up as the personal
secretary
of Vladimir Jabotinsky, one of the early leaders of the Zionist
movement.
Traveling in Soviet Turkmenistan as a young and ardent Communist
sympathizer,
he ran into Langston Hughes. Fighting in the Spanish civil war, he met
W.H.
Auden at a "crazy party" in Valencia, before winding up
in one
of Franco's prisons. In Weimar
Berlin he fell
into the circle of
the infamous Comintern agent Willi Münzenberg, through whom he met the
leading
German Communists of the era: Johannes Becher, Hanns Eisler, Bertolt
Brecht.
Afraid of being caught by the Gestapo while fleeing France,
he borrowed suicide pills
from Walter Benjamin. He took them several weeks later when it seemed
he would
be unable to get out of Lisbon, but
didn't die
(though Benjamin, denied passage into Spain at the French border,
took
them and did).
Along
the way he had lunch with
Thomas Mann, got drunk with Dylan Thomas, made friends with George
Orwell,
flirted with Mary McCarthy, and lived in Cyril Connolly's London flat. In
1940, Koestler was released
from a French detention camp, partly thanks to the intervention of
Harold Nicholson
and Noël Coward. In the 1950s, he helped found the Congress for
Cultural
Freedom, together with Mel Lasky and Sidney Hook. In the 1960s, he took
LSD
with Timothy Leary. In the 1970s, he was still giving lectures that
impressed,
among others, the young Salman Rushdie.
It is
difficult, in other
words, to think of a single important twentieth-century intellectual
who did
not cross paths with Arthur Koestler, or a single important
twentieth-century
intellectual movement that Koestler did not either join or oppose. From
progressive education and Freudian psychoanalysis through Zionism,
communism,
and existentialism to psychedelic drugs, parapsychology, and
euthanasia,
Koestler was fascinated by every philosophical fad, serious and
unserious,
political and apolitical, of his era.
Nor
were these shallow
passions. His belief in communism led him to fight in Spain and travel in the USSR.
His
Zionism led him to a kibbutz near Haifa.
At different times, he advocated the use of violence, whether to bring
about a
Communist utopia or to create the state of Israel.
Even when he turned against
his previous causes (and against his previous friends who still
believed in
them) he did so with real fervor. He is, after all, best known as an
anti-Communist, not as a Communist, largely because of his best and
most
influential book, Darkness at Noon, a fictional account of the
interrogation of
a leading member of an unnamed Communist party. His involvement with
Revisionist Zionism is also probably less well known than The
Thirteenth Tribe,
a book that argues that modern European Jews are descended from the
Central
Asian Khazars, and not from the Jews who lived in the Palestine of
antiquity—a
thesis which, whatever its merits, is hugely popular among the enemies
of
Zionism. Even so, when in the grip of one particular mania he was
incapable of
seeing the counterarguments: in the face of all rational argument, he
even
stuck to his late passion for telepathy and ESP—so much so that he left
most of
his estate to fund a professorial chair in parapsychology.
Koestler
was equally likely
to succumb to extreme passions in his personal life—notoriously so. He
was
variously in thrall to Jabotinsky, to his analyst, and to an
extraordinary
series of women. He was also consumed by violent hatreds—starting with
his
mother—and pursued many vendettas, against fellow writers (he was
fiercely
jealous of Hemingway, loathed Bertrand Russell) as well as romantic
rivals
(including Edmund Wilson) and ex-husbands. Eventually, he offended
almost
everyone he knew, but only after getting drunk with them first.
Even
his entertainments often
went to extremes, as this superb new biography well illustrates. Far
and away
my favorite Koestler moment—in a book full of amazing Koestler
moments—is
Michael Scammell's description of an evening in 1946, during which
Koestler and
his then girlfriend (and later wife) Mamaine Paget went out drinking
with
Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus, and Camus's wife,
Francine.
The festivities began with dinner in an Algerian bistro, continued in a
dance
hall "lit with pink and blue neon lights," and then, at Koestler's
insistence, progressed to Schéhérazade, a nightclub filled with
"violinists wandering about playing soulful Russian music into the
guests'
ears." There were arguments about communism, and about friendship.
"If only it were possible to tell the truth," exclaimed Camus at one
point.
At
about 4 AM, Koestler was
pried away from the nightclub, and the group "repaired to Chez Victor
in
Les Halles for onion soup, oysters, and white wine." Roaring drunk,
Koestler threw a crust of bread across the table and hit Mamaine in the
eye;
Sartre, equally drunk, poured salt and pepper into napkins that he put
in his
pocket and said he had to deliver a lecture at the Sorbonne in the
morning on
"The Responsibility of the Writer." Camus said, "Well, you'll
have to speak without me" ("Alors, tu parleras sans moi ").
Sartre said he wished he "could speak without me too" ("Je
voudrais bien pouvoir parler sans moi ") and collapsed into giggles.
Scammell,
whose fine-tuned
sense of irony serves him well here, describes that evening's
conclusion:
They
broke up at dawn. Alone
with Sartre, Beauvoir sobbed "over the tragedy of the human
condition," then leaned on the parapet of a bridge over the Seine and said: "I don't see why we don't throw
ourselves in the river." "All right," agreed Sartre, "let's
throw ourselves in," and began to cry himself. In another part of the
city, Koestler too burst into tears as he stared into the Seine.
Then he disappeared into a pissoir and shouted to Mamaine, "Don't leave
me, I love you, I'll always love you." They got home at about eight
o'clock and slept all day, except for Sartre, who stuffed himself with
pep
pills and dragged himself off to the Sorbonne to give his lecture. It
wasn't
possible even for an existentialist to address the students "sans
moi."
Leaving
aside its
entertainment value, that particular passage raises some interesting
questions.
We are not so many years removed from 1946, in the grand scheme of
things. Yet
much has changed since then, starting with the rules of acceptable
public
behavior. It is simply not possible to imagine any three prominent
contemporary
American public intellectuals—say, Malcolm Gladwell, Niall Ferguson,
and David
Brooks—indulging in a night on the town such as that one, let alone
weeping
over the human condition and threatening to throw themselves into the
Seine at
the end of it. Hollywood starlets and
pseudo-celebrities behave that way in our culture, not serious people.
More to
the point, Koestler
was, in our contemporary definition of these things, an alcoholic, as
were many
of the people around him. He was also, in our contemporary definition
of these
things, a sexual predator. He was blatantly unfaithful to all of his
three
wives, as well as to the other women he lived with. He flirted
outrageously,
and sometimes aggressively, with other men's wives too. Just a few days
before
the evening at Schéhérazade and Chez Victor, Koestler actually went to
bed with
Simone de Beauvoir.
David
Cesarani, a previous
biographer of Koestler, has even described him as a "serial
rapist."[1] Scammell disputes that accusation at some length. In the
end,
only one woman—Jill Craigie, the wife of the British Labour leader
Michael
Foot—ever actually accused him of rape, and there are some ambiguities
about
her story. She made the charge when she was in her eighties, and
Koestler was
dead. Others, including her husband, remembered the incident
differently.
Scammell notes these discrepancies, and convincingly dismisses some of
Cesarani's other accusations as unfounded. He also notes that the
charge has
nevertheless deeply tarnished Koestler's posthumous reputation. This is
not at
all surprising. Even if "rape" is not the right word, some of the
sexual behavior Scammell describes would, in the contemporary world, be
considered
absolutely beyond the pale—and probably illegal as well.
Nor are
the rules of public
behavior the only things that have changed. The professionalization of
literary
and intellectual life was underway even in Koestler's lifetime, and he
chafed
against it. He disliked the lecture circuit and never had any real
interest in
teaching. He had very little time for universities in general. He also
refused
to be categorized as a simple "novelist" or "journalist,"
and in the latter part of his career wrote books about science,
philosophy,
history, and psychology. He understood the term "intellectual" in a
much broader sense than we do today, and felt comfortable ranging over
a huge
number of fields in which he had no professional expertise whatsoever.
This approach
to the life of the mind, perfectly acceptable in the Vienna of
Koestler's
youth, simply looks amateurish from the perspective of the present. As
a
result, many of his later books have slipped off the radar and are long
out of
print. Others, notably The Thirteenth Tribe, are considered curiosities
that
appeal to conspiracy theorists, not scholars.
The
most important change,
however, is political. To put it bluntly, the deadly struggle between
communism
and anticommunism—the central moral issue of Koestler's lifetime—not
only no
longer exists, it no longer evokes much interest. Thanks to the opening
of
archives, quite a few Western historians are, it is true, still
investigating
the history of the Soviet Union and
of the
international Communist movement. But outside of a few university
comparative
literature departments, Soviet-style Marxism itself is not a living
political
idea anywhere in the West. In the wake of the Lehman Brothers crash in
the
autumn of 2008, there were calls for a government bailout of the auto
industry.
No one—no major newspaper columnists, no leading politicians, no
popular
intellectual magazines—called upon the vanguard of the proletariat to
rise up
and overthrow the bourgeois capitalist exploiters. In the Europe
of 1948, somebody would have done so.
What
that means, though, is
that the entire political context in which Koest- ler, Sartre, and
Camus
functioned—and in which Koestler's most important works were written—is
now
gone. In the years following their debauched evening in Paris, Sartre
and Koestler actually stopped
speaking to each other. Partly this was personal: Sartre tried to
seduce
Mamaine, Koestler did seduce Beauvoir, and there were bad feelings all
around.
But the more important reason was political. After Darkness at Noon
became a
best seller in France,
Sartre distanced himself from its author, on the grounds that Koestler,
by
publicizing the crimes of the repressive Soviet regime, was putting
himself at
the service of American imperialism and blocking the progress of the
left. It
was not that Sartre did not know about the horrors Koestler
described—the
prisons, the torture, and the labor camps of the Soviet
Union—it was that he did not find them politically
convenient.
They gave too much encouragement to the bourgeoisie.
What
was true of Sartre was
true of many, many others, and not only those on the far left. In his
superb
recent account of the publication of Darkness at Noon and its impact on
the
Western public, Princeton literary
scholar
John Fleming writes that any appreciation of the heated international
debate
about the book "requires the reconstruction of some modes of thought
nearly vanished from the earth."[2] Concepts like "belief" and
"faith" do not figure very often anymore in contemporary Western
politics—and even when they do (as perhaps they did in the 2008
American
presidential election) they are almost always a preface to disillusion.
In the
1930s and 1940s, by contrast, belief and faith mattered a great deal,
and true
Communists and fellow travelers did not become disillusioned. They
simply
altered their analysis of the current situation, put their trust in the
ultimate wisdom of the Party, and progressed onward toward the
construction of
utopia.
Koestler
had an almost unique
ability to shake such people to their foundations. Unlike right-wing
and even
liberal critics of communism, he had a certain status on the cultural
left. He
was a victim of fascism, an ex-refugee, a familiar face in Comintern
circles, a
former combatant in the Spanish civil war. His devastating critique of
the Soviet Union therefore had to be
taken seriously by his
former comrades. To some of them, he was a heretic, a defector, a
traitor to
the cause. To others, he became a hero.
As for
Darkness at Noon, it
was not just a popular book, it was one of the primary reasons that the
Communist Party never came to power in France, a real possibility
at the
time. Hard though it is for us now to imagine, it was not at all
obvious, in
1946 or even 1956, that Western Europe and the United States
would remain solidly
united for fifty years. Nor did it seem at all inevitable that the West
would
win the cold war. Along with Orwell's Animal Farm and Victor
Kravchenko's I
Chose Freedom, Darkness at Noon was one of the books that helped turn
the tide
on the intellectual front line, and ensured that the West prevailed.
But unless
one understands all of that, the political and literary achievements of
Arthur
Koestler are, to a contemporary reader, easily outweighed by the
extravagance
of his sexual and personal transgressions.
For all
of those reasons,
Michael Scammell cannot have found this an easy book to write, and
indeed it
took him a very long time to write it. Scammell is the author of the
definitive
and deservedly celebrated biography of Alexander Solzhenitsyn,
published in
1984.[3] A few years after it was finished, he set out to follow up
with a
biography of Koestler. This turned out to be a major feat of endurance
scholarship. By his own admission, he "followed [Koestler] to fourteen
countries
on three continents," interviewed hundreds of people, and read through
many boxes of archives. This effort has certainly paid off.
Because
he has looked at all
possible forms of documentation, he is able to reconstruct complicated
scenes
from Koestler's life with real historical and literary flair. More than
once,
he tells us what is happening from several perspectives: what Koestler
said,
what Koestler's then girlfriend said, what another person at the party
remembered twenty years later, and how another writer depicted the
event in his
diaries. Scammell is also a scholar of Russian literature, and this
shows too.
Although this is a long book, it feels compact. None of the carefully
selected
details or quotations seems extraneous. The main characters are shown
from
every angle, with all of their faults and virtues. Koestler himself
seems at
times so alive he might leap off the page.
And
yet
the passage of time
is a problem, if not for Scammell then for his readers. An elderly
Central
European acquaintance recently told me that in his youth, nothing was
considered so tacky and outdated as art nouveau furniture. Something
similar
has happened to Koestler. At the moment, he still seems like
yesterday's man,
unfashionable and obsolete. His better qualities might eventually be
visible to
a younger generation, just as an elegantly restored art nouveau table
now
appeals to collectors and connoisseurs. But a good deal of historical
and
literary work will have to be done, and more time may have to pass,
before that
is possible.
In the
case of Koestler, a
number of other things are also working against his posthumous
reputation. One
of these is the nature of his death, a double suicide, carried out in
tandem
with his wife. Koestler himself was seventy-seven years old and dying
of
leukemia. But his wife, Cynthia, was fifty-five and healthy. Unlike his
previous wives, she was neither beautiful nor accomplished. She had
been his
secretary—in effect his servant—before they were married. Above all he
admired
her ability to take dictation. Though it seems that in the last part of
their
lives the power balance between them evened out, and though it is very
clear
that she was in full possession of her faculties at the time—she even
had the
presence of mind to cancel the newspapers—it is impossible to escape
the
suspicion that somehow, in an effort to achieve a spectacular grand
finale, he
bullied her into killing herself alongside him.
Cynthia's
death was not only
distasteful to the public, it left Koestler's literary estate without
an
obvious manager. Having persuaded numerous women to have abortions, he
had no
children, with the possible exception of one unacknowledged daughter
(who had
nothing to do with him, or he with her). By the time of his death he
had fallen
out with those of his contemporaries who were still alive. Most of his
later
books were financially and critically unsuccessful. His final legacy,
that gift
of money for the study of parapsychology, didn't exactly enhance his
reputation
either. Nor did he have, as Orwell did, an obvious national audience.
As a
Hungarian Jew and native German speaker who wrote in English, he isn't
a
natural part of anybody's literary canon. There is an Orwell Society at
Eton,
but I doubt very much that there is a Koestler Society at any school in
Budapest.
As a
result, Koestler's
reputation has waned dramatically since his death. Although Darkness at
Noon
remains high on lists of "great books of the twentieth century," his
journalism, which in its time was at least as significant as that of
Orwell, is
hardly known at all. Before coming to write this review, I had not read
Scum of
the Earth, Koestler's autobiographical and journalistic account of the
fate of
refugees in wartime France.
I can't remember anybody ever telling me to read it either. But because
Scammell praises it, and because Scum of the Earth is still in print, I
bought
a copy. It was a revelation: astonishingly fresh, clear, and relevant,
not only
explaining the rapid collapse of France in 1940, but also illuminating
some of
the difficulties that France and other European countries still have in
absorbing "foreigners" even today. After I'd finished, I lent the
book to somebody else. And this, it occurred to me, is how a literary
reputation revives.
Scammell
has clearly set out
to make this happen, and in that sense, this is more than a biography.
It is an
argument in defense of Koestler's literary oeuvre, if not entirely in
defense
of Koestler himself. Scammell does not make excuses for his subject,
and does
not gloss over his many faults. But by recreating the historical
setting in
which Koestler lived and worked, by fitting him squarely in the middle
of the
great debates of the twentieth century, he makes his achievements much
clearer
to a contemporary reader—and thus there is a chance, at least, that he
will
succeed.
Notes
[1]David
Cesarani, Arthur
Koestler: The Homeless Mind (London: Heineman, 1998).
[2]John
V. Fleming, The
Anti-Communist Manifestos ( Norton, 2009), p. 65.
[3]Michael
Scammell,
Solzhenitsyn: A Biography (Norton, 1984).
Volume
57, Number 4 · March
11, 2010
Koestler
Comes Back
By
Thomas Baroth
In
response to Yesterday's
Man? (February 11, 2010)
To the
Editors:
Anne
Applebaum writes in her
review ["Yesterday's Man," NYR, February 11] that she doubts that
there is a "Koestler Society in any school in Budapest." This may or may not be
true;
nevertheless, on October 21, 2009, a statue of Koestler was unveiled by
the
mayor of Budapest
in a public square in the city's 6th district. It does not appear that
he has
been entirely forgotten in the place of his birth.
Thomas
Baroth
Media, Pennsylvania
Tribute
to Koestler
Trong
những bài điểm cuốn tiểu
sử K của Scammell, bài của Anne Applebaum thật tuyệt. Bà là tác giả
cuốn Gulag một lịch sử, trên TV đã từng giới
thiệu. Scammell còn là tác giả một cuốn tiểu sử Solz. Nghĩa là, cả hai
rất rành
về Liên Xô, về CS, và những tác giả như Koestler.
By Anne
Applebaum
Koestler: The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic
by Michael Scammel
Random House, 689 pp., $35.00
By
Thomas Baroth
In response to Yesterday's
Man? (February 11, 2010)
To the Editors:
Anne Applebaum writes in her
review ["Yesterday's Man," NYR, February 11] that she doubts that
there is a "Koestler Society in any school in Budapest." This may or may not be
true;
nevertheless, on October 21, 2009, a statue of Koestler was unveiled by
the
mayor of Budapest
in a public square in the city's 6th district. It does not appear that
he has
been entirely forgotten in the place of his birth.
Thomas Baroth
Media, Pennsylvania
*
Trong cuốn viết về VP, NHQ
cho biết, [tóm tắt ở đây] sau CM Tháng Tám, VP theo VC, và do làm việc
với một
lũ cán bộ cuồng tín càng ngày ông càng chán ngán, cuối cùng thành “phản
động”
hẳn.
Cũng giai đoạn này, trong Bếp
Lửa, của TTT, một nhân vật của ông phán:
"Tôi nghĩ rằng cho đến bây giờ
không thể đi khác hơn được. Nó còn đúng. Mình còn phải nhắm mắt nhận
lấy thân
phận của giai cấp mình.”
Nó - Đại muốn nói về chủ
nghĩa cộng sản. Tôi cầm lên cuốn sách của Đại để sang bên và trông vào
tấm
hình. Tôi nói:
“Tôi cũng nghĩ như thế nhưng
tôi lại muốn nghĩ thêm chút nữa. Tôi không nghĩ đến thân phận giai cấp
mình,
tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai
cấp vô
sản”
“Làm thế nào được khi đế quốc
còn đủ nanh vuốt. Tôi không tin lực lượng thứ ba.”
“Tôi cũng không tin.”
Nhưng
với Koestler, qua
Applebaum, chúng ta có một cái nhìn rộng hơn, về thời kỳ này.
Thay
đổi quan trọng nhất, tuy
nhiên, là về chính trị. Nói rõ ra, cuộc chiến đấu sinh tử, chết người,
giữa cộng
sản và chống cộng - giải pháp đạo đức trung tâm suốt cuộc đời của K –
qua rồi,
và không chỉ qua rồi, mà còn chẳng ai thèm để ý, quan tâm tới nữa [Vào
cái lúc
mới lớn, đây là điều Gấu quan tâm khi đọc VP, cùng lúc đọc K, đọc
Lukacs, thí dụ,
và băn khoăn tự hỏi.... Thành thử, khi viết về VP, là cũng còn viết về
thời của
ông, của những con người như ông, qua những nhân vật của ông, của TTT,
của…, của…
thổi VP không thôi, là không đủ!]. Nhờ cái sự mở ra kho hồ sơ cũ, một
số sử gia
Tây phương vẫn tiếp tục điều tra, truy tìm về lịch sử Xô Viết, và phong
trào CS
quốc tế… Điều
muốn nói ở đây là, toàn bộ nội dung chính trị
qua đó Koestler, Sartre và Camus làm việc [function], và qua đó, K viết
những tác
phẩm quan trọng nhất của ông, thì đều đã qua rồi. Những năm tiếp
theo sau những
đêm sa đọa trác táng của họ ở Paris, Sartre và Koestler sau cùng hết
còn nói
chuyện với nhau, một phần là do vấn đề cá nhân: Sartre cố dụ dỗ
Mamaine,
Koestler tán tỉnh Beauvoir, có những điều chẳng ra gì giữa họ, tuy
nhiên, lý do
quan trọng nhất, vẫn là chính trị. Sau khi Bóng đêm giữa ban ngày trở
thành
best-seller ở Pháp, Sartre dãn ra khỏi tác giả cuốn sách, ra
ý, Koetsler,
do tố cáo, chỉ trích những tội ác của chế độ Xô Viết, đã tự biến mình
thành một
thứ đồ chơi [mượn chữ của VP] của chủ nghĩa đế quốc, và ngăn chặn sự
tiến bộ của
tả phái.
Không phải Sartre không biết
những điều ghê rợn mà K mô tả - nhà tù, tra tấn, trại cuỡng bức lao
động cải tạo
ở Liên Xô – nhưng ông ta cho rằng, không thích hợp khi tố cáo những
chuyện
như thế, vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó, về mặt chính trị. Làm như thế là
nối giáo
cho giặc, tức giai cấp trưởng giả.
Bây giờ
đọc lại, Gấu hiểu vì sao
Gấu cứ đinh ninh là chưa từng viết về VP.
Gấu “quên” VP, sau khi đọc những tác giả như Koestler, Lukacs, đối diện
với
cuộc chiến đám Gấu sắp sửa bước vô, có những thằng trong đám, đã lên
rừng, đã
nằm vùng, như HPNT, như Đào Hiếu….
Và cái bài viết về VP, đăng ở một phụ trang VHNT của tờ nhật báo Tiền
Tuyến,
thì làm sao nhớ?
Gấu không hề biết sau đó nó lại được ông bạn quí của Gấu lôi ra khỏi
sọt rác,
để mà đăng trên Văn!
Gấu không hề giữ, bất cứ một bài viết nào viết trước 1975, đừng nói một
bài
viết được viết ra để trám một lỗ hổng cho một trang nhật báo.
Khi Gấu xin lỗi NHQ, là xin lỗi về cái chuyện quên một bài viết vứt vô
thùng
rác, chứ đâu có xin lỗi cái chuyện ông ta muốn lôi đời tư của Gấu ra để
mà xỉ
vả?
Mô Phật
Đọc lại Võ
Phiến
Bạn có thể đọc Võ
Phiến, cùng
lúc đọc Koestler, để soi sáng một số điểm Võ Phiến chưa từng viết ra,
về mắc mớ
của thế hệ của ông với chủ nghĩa CS.
Dưới đây là một số trích đoạn,
trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường.
Trong
lúc rảnh rỗi, tôi viết
một cuốn tiểu thuyết Tới và Đi,
Arrival and Departure, và một số tiểu
luận, sau
được đưa vô The Yogi and the
Commissar [Du Già và Chính Uỷ]
Tới và Đi là tập thứ ba,
trong một bộ ba tập, trilogy, trong đó, đề tài trung tâm của nó là cuộc
xung đột
giữa đạo đức và thiết thực [expediency: miễn sao có lợi, thủ đoạn, động
cơ cá
nhân… có thể nói, đây cũng là một trong những đề tài chính của những
truyện ngắn
của Võ Phiến. NQT] – khi nào, hoặc tới mức độ nào, thì một cứu cánh
phong nhã [vẫn
còn có thể] biện minh cho một phương tiện dơ bẩn. Đúng là một đề tài
Xưa như Diễm,
nhưng nó ám ảnh tôi suốt những năm là một đảng viên CS [ui chao, tại
sao VP lại
chỉ theo, mà không vô Đảng VC, và tại sao ông bị chúng bỏ tù, chúng ta
chỉ biết
lơ tơ mơ về chuyện này, qua cuốn viết về VP của NHQ].
Tập đầu của bộ
ba, là Những tên giác đấu, Le
Gladiators, kể cuộc cách mạng [revolution] của những nô lệ
La mã, 73-71 BC, cầm đầu bởi Spartacus, xém một tí là thành công, và
cái lý do
chính của sự thất bại, là, Spartacus đã thiếu quyết định [lack of
determination] – ông từ chối áp dụng luật quay đầu, trở ngược, “law of
detours”;
luật này đòi hỏi, trên con đường đi tới Không Tưởng, người lãnh đạo
phải “không
thương hại nhân danh thương hại”, ‘pitiless for the sake of pity’. Nôm
na là, ông từ chối
xử tử những kẻ ly khai và những tên gây rối, không áp dụng luật khủng
bố - và, do từ chối áp dụng luật này khiến cho cuộc cách mạng
thất bại.
[Đúng y chang!
Một cuộc cách mạng
mà không đổ máu thì rất đáng ngờ: VC rất cần, để đưa lên You
Tube, những cá nhân như
LCD, hơn là chính những cá nhân như họ cần... vấp ngã, để nhân
dân có dịp cám ơn họ!]
Trong Bóng đêm giữa
ban ngày, tay cựu truởng lão VC Liên Xô Rubashov đi ngược lại,
nghĩa là, ông theo đúng luật
trở ngược đến tận cùng cay đắng - chỉ để khám phá ra rằng ‘lô gíc không
thôi, là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một
chuyến đi đầy
dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.’
Hai cuốn, cuốn nọ bổ túc cho cuốn kia, và cả đều tận cùng bằng tuyệt
lộ.
*
Trường hợp Võ Phiến cũng thật
quái, y hệt như thể, trong ông, cái chân thiện uýnh lộn tàn bạo với cái
xấu xa,
thiên tài trùm thiên hạ VS cái tiểu tâm, cái đố kỵ cũng trùm thiên hạ.
Quái, là một người tài như ông,
tại sao mà cũng bị phỉnh nhờ bởi một lũ bất tài, thản nhiên để cho
chúng bợ đỡ?
Cả một lũ như thế, chưa tên nào
viết ra được một điều sáng giá, mới mẻ, cách tân… về ông.
Khó hiểu thật!
Chỉ có thể giải thích bằng thái
độ đố kỵ của ông với cái đám Bắc Kít Di Cư làm trời tại Sài Gòn, trong
khi ông ở
mãi tít vùng Tây Vực, tài năng như trời, mà chẳng ai để ý tới, nhắc
tới, chẳng
có lấy một mống đệ tử, trong khi TTT thì cả một đống đàn em xúm xít nay
Quán Chùa,
mai tòa soạn Tiền Tuyến!
Hà, hà!
*
Cái sự đố kỵ này không phải là
của riêng Võ Phiến, hay của riêng bất cứ một ai. Về già, thấm thía nỗi
đau Cái Độc
Bắc Kít, Gấu suy ra là, chính chữ S là nguồn cơn của tai họa. Nước Mít,
thoạt đầu
chỉ là nước Bắc Kít, rồi do ‘mở mang bờ cõi’, đánh cướp mãi xuống phía
Nam, tiêu
diệt hết các giống dân khác, cuối cùng chỉ còn lại một giống Mít, thế
là chúng
quay lại cấu xé, thù hận lẫn nhau.
Ngay huyền thoại mở nước Mít,
Con Rồng Cháu Tiên, là đã tiên tri ra cái chuyện ăn cướp, tiêu diệt các
giống dân
khác, rồi tiêu diệt lẫn nhau rồi!
Sở dĩ, VP, trong VHTQ, có những
dòng ‘chẳng ra gì’ với nhóm Sáng Tạo, duyên do sâu thẳm của nó, là cũng
ở chữ S
khốn nạn mà ra.
Gấu này, về già, nhìn lại, mới nhận ra là, ông bạn “cũng đáng
quí”, là me-xừ "Mít Butor", thù ghét Gấu, cũng là do chữ S.
Chán thế!
*
Cái tít Yesterday’s Man, của
Applebaum, về K, có thể áp dụng cho VP.
Tuy nhiên, chúng ta quá rành về cái ngày
hôm qua của K, còn với VP, chúng ta chỉ biết mù mờ, qua vài hàng tiểu
sử của
NHQ về VP.
Cũng trong cuốn VP của ông, NHQ
viết, “Đến nay, vẫn có nhiều người lầm, viết trên sách báo đâu đó là
VP bị cộng
sản kết án tử hình. Không đúng.”
V/v
phản động, cũng NHQ cho
biết, ‘trong vụ này, Đoàn Thế Khuyến [cháu họ VP], bị tử hình, Lam
Giang [thầy
cũ VP] khổ sai chung thân. Bản án dành cho VP tương đối nhẹ, 8 năm,
theo NHQ, có thể
vì công tố viên toà án nhân dân VC là Quách Tạo, em ruột Quách Tấn. VP
chỉ ở tù
có hai năm, một trước khi xử, và một sau khi xử. Tháng 9. 1954, theo
hiệp ước
Genève, ông được thả.
Tô
Hoài, trong cuốn Chiều
Chiều, hồi ký viết lúc chót đời, ông còn đưa ra nhận xét là
những người làm
công tác đưa người ra Bắc vào năm 1954 (chiến dịch Tập Kết), đã "bỏ
sót" hai người, Lam Giang (một trong những đảng viên thuộc hàng ngũ
lãnh
đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng), và Võ Phiến (một người theo Việt Minh
những ngày
đầu, sau bị ghép tội phản động, và đã về thành, nhân hiệp định Genève
1954).
Thật sự, không phải bỏ sót, mà
VP được một tay VC bự vờ cho chuồn về thành. Vụ này, Gấu nghe qua một
đấng VC
rất bảnh, nói riêng cho Gấu biết, lần Gấu về lại Đất Bắc.
Chúng
ta chỉ biết có vậy về vụ
án phản động.
Giá mà VP chơi một cuốn hồi ký,
thì hay biết mấy.
Nhưng bây giờ, muộn quá rồi, theo bài viết của TD trên VOA.
Tô Hoài cho biết, đang tập dượt
để viết hồi ký.
*
Ấn tượng nhất là lúc
ấy hầu hết công nhân làm
phu đồn điền cao su ở Dầu Tiếng đều là người quê tôi: Sơn Tây, Hà
Đông.
Cho nên, tôi gặp cả bạn bè, có cả người trong họ. À này, bởi thế cho
nên khi
chống Pháp, trung đoàn Miền Đông có nhiều người Bắc là vì vậy đấy.
Tô Hoài
*
Vào cái thời của Gấu, và trước
Gấu, bạn chỉ cần một truyện ngắn, một bài thơ, cùng xuất hiện với bạn,
là xong.
VP với những truyện ngắn đầu tay, như Người Tù, là như vậy. Ông ở tít
xứ Tây Vực,
mà Sài Gòn đâu có không biết đến ông đâu? Sau này, khi ông vô Sài Gòn,
viết đủ
thứ, nhưng theo Gấu, đều thường thôi, và do nhu cầu, do đòi hỏi của một
tờ báo,
mà viết. Đọc những bài ông viết về văn học thế giới, dưới cái tên Tràng
Thiên,
dân trong nghề đều biết tỏng, mấy thứ đó được lược dịch từ những tạp
chí văn học
nước ngoài. Đòi hỏi của tòa soạn, là như vậy, và cái đọc của VP, cũng
chỉ đến
thế.
Bây giờ, nhờ có net, thượng vàng hạ cám đều tha hồ xuất hiện trên chốn
giang hồ, thành thử trở thành
nhà văn nhà thơ quá dễ, và than ôi, quá khó! Làm sao bạn lọc ra được
trong đống
rác khổng lồ đó, một bài thơ, một truyện ngắn cho ra hồn? Có khi, bạn vớ được một con cá quí, tưởng khám phá
ra một thiên tài, hóa ra là đồ đi chôm!
Thường là vậy, vào thời net này!
Nên nhớ, có nhiều tác giả,
nhiều người viết, do sống lâu mà thành tên, chứ không phải do có tác
phẩm hách
xì xằng. Cả một diễn đàn Hậu Vệ, sau bao nhiêu năm tháng, chưa tạo nổi
một người
viết, có, chỉ một bài, làm người đọc không thể quên được. Da Mầu thì
cũng
thế. Talawas thì không thể nào coi là diễn đàn văn học được.
Đa số người viết có tên có tuổi
hiện nay, là đều xuất thân từ VHNT của PCL. Họ đều trở thành những tên
tuổi, nhưng
chẳng ai biết đến “một” tác phẩm của họ. Trong khi, nói đến VP là biết
ngay tác
giả của Người
Tù, của Thác Đổ Sau Nhà,
của Kể Trong Đêm Khuya… là cha đẻ của những Bốn Thôi, Ông Ba Đồng Thời…
Nhìn như thế đó, độc nhất một
diễn đàn trên lưới hiện nay, xứng đáng, vì có một số tác giả, lâu lâu,
“thi thoảng”
đem đến cho độc giả một kinh ngạc, một khám phá, là Gió O của bà Lê Thị
Huệ! Giá
mà bà này khiêm tốn một tí thì còn xứng đáng hơn nhiều, bởi vì cái kiểu
“nhà thơ
hàng đầu, nhà trí thức hàng đầu, nhà biên khảo hạng nhất…” chỉ làm độc
giả nhột,
chưa nói, tác giả, càng nhột!
*
Đến bây giờ,
thì
có lẽ ai cũng nhận ra một sự thực, sự ra đời của trang ảo làm nhà văn
thứ thực
biến mất. Một tác phẩm văn học, nó cần phải được ôm ấp, cưu mang hàng
bao nhiêu
năm tháng, giống một cái trứng sau khi thụ tinh, nằm trong bụng bà mẹ.
Bây giờ,
do có net, nhất là do có những trang free, nhà văn xuất hiện không cần
đến cái
bụng của bà mẹ nữa.
Gấu vẫn thường băn khoăn, tại làm sao, lúc sau này, thật khó kiếm một
truyện
ngắn hay, một bài thơ thần sầu. Lý do là như trên. Sở dĩ trang Gió O
lâu lâu có
cái hay, vì những tác giả của nó đều đã là nhà văn nhà thơ rồi, có thể
như vậy
chăng?
|