Notes
|
Arthur
Koestler, Man of
Darkness
Arthur
Koestler, Người
của Bóng tối
Không
nhà văn nào của thế kỷ 20 có được những tao ngộ ly kỳ như Arthur
Koestler: chơi toàn quái chiêu, gặp toàn những đấng hách xì xằng, có
mặt - ở đúng nơi, đúng chỗ, đúng
lúc - thảm họa xẩy ra!
27
tuổi Đảng, ông trải qua trận đói mùa đông 1932-33, ở Kharkov, giữa hàng
triệu người
dân Ukrainians ngắc ngoải và chết đói. Chạy kịp về phía nam nước Pháp,
khi những binh đoàn
Nazi xâm lăng nước Tây, ngay sau gót chân, vào năm 1940; chộp được
Walter
Benjamin, cưa đôi với ông mẻ “ken”, và chỉ vài tuần sau, triết gia
người Đức
này chơi quá “liều” [liều lượng], tự mình cho phép mình đi luôn. Tay
guru ghiền, dân Harvard, Timothy Leary đã từng chia cho Koestler những
mẻ thuốc
psilocybin, vào giữa thập niên 1960, “Phu nhân sắt” Margaret Thatcher,
đã nghe
theo những lời cố vấn của ông, trong cuộc tranh cử của bà vào năm
1979.
Simone de Beauvoir đã có lần được 'hầu hạ' Koestler, nhưng sau đó
lại tỏ
ra thù ghét ông và hư cấu thành một nhân vật cực kỳ thông minh, có tài
làm đàn bà vãi linh hồn, đầm đìa hai chân!
V/v
tài chăn gối, "trường túc bất chi lao", của nữ hoàng hiện sinh de
Beauvoir, thì khỏi
chê. Như đoạn sau đây, trên tờ TLS, trong bài điểm cuốn hồi ký của
Lanzmann chứng
tỏ:
The young Claude was, for several happy years, Le
Castor’s live-in lover, if not her only one: before they first went
to bed,
she warned him that six other people were already in the frame.
Claude
Lanzmann's
liberated memories
Nhà
tù
thay đổi Koestler. Nó không khiến tinh thần ông nở rộ như trong trường
hợp của Solzhenitsyn, hay của Mandela, nhưng nó chiếu sáng cho ông về
cái tính
người mà Âu Châu cần và thiếu. “Ý thức bị kiềm chế tác động như một
loại độc
dược chậm, ngấm ngầm biến đổi toàn bộ tính tình con người,” [“The
consciousness
of being confined acts like a slow poison, transforming the entire
character,”] (1) ông viết. “Và, bây giờ, nó
dần dần hé ra cho tôi thấy, trạng thái tâm lý nô lệ thực sự nghĩa là
gì". [“Now
it is beginning gradually to dawn on me what the slave mentality really
is.”]
Vào lúc đó, những vụ án trình diễn ở Moscow đang diễn ra, với uỷ viên
bộ chính
trị trung ương Đảng là Nikolai Bukharin thú tội trước nhân dân về những
tội ác
mà ông không làm, không phạm, và xin được nhà nước khoan hồng bằng cách
làm
thịt ông! [LCD dám phải trình diễn màn này, để đổi lấy, nhà
nước VC
sẽ khoan hồng cho vợ con ông, thí dụ như vậy!] Ông anh/em rể của
Koestler, một bác
sĩ, bị
buộc tội chích cho bệnh nhân vi trùng tim la.
Koestler bắt đầu nhìn ra tình anh
em ruột thịt giữa chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Phát Xít. Ông bye bye Đảng.
(1)
Trên
báo
Partisan
Review số Mùa Hạ 2000, Adam Michnik, khi viết về Jan Kott, một nhà văn
Ba lan
đào thoát qua Tây phương, đã nhắc tới bài 'Về Nọc Độc' (On Venom,
1982), qua
đó, Kott ghi nhận: 'Rắn cắn làm hư cái đầu. Bên trong cái vòng tròn
huyền hoặc,
cái đầu luẩn quẩn trong một thế giới ảo. Cái đầu tin vào những lời dối
trá, và
không thể phân biệt thực với ảo.' (A snake bite disables the mind.
Inside a
magic circle, the mind moves in a fictitious world, believes in lies,
and
cannot distinguish reality from illusion). Ông cho rằng, những mắc míu
của tầng
lớp trí thức với chủ nghĩa cộng sản, gia nhập rồi rời bỏ trong chán
chường và
vỡ mộng: 'thời điểm vỡ mộng có lẽ là quan trọng nhất' ('the moment of
disullusion is perhaps the most important').
Adam Michnik, tác giả bài viết đôi lúc nghĩ rằng, những người 'đòi cái
đầu' của
Jan Kott có lý của họ: Jan Kott, không nghi ngờ chi, là một người Cộng
Sản. Và
là một tay Cộng Sản thông minh. Và cái nọc độc làm hư cái đầu của những
người
như ông, là từ Hegel mà ra (Hegelian venom).
Bài viết của Kott, là để tưởng niệm Adam Wazyk, nhưng Wazyk không hề
nhắc tới
Hegel. Ông dùng từ 'bệnh viện tâm thần' (a lunatic asylum).
Trong Cầm Tưởng (hay Cái Đầu Bị Tù, Bị Đeo Vòng Kim Cô, The Captive
Mind
), nhà thơ Ba lan, Nobel văn chương, Czelaw Milosz đã từng tự hỏi: liệu
có thể kiếm
thấy sự thực, trong những tư tưởng về 'nọc độc Hegelian'?
Nhật ký Tin Văn
Arthur
Koestler, Người
của Bóng tối
ROAD
WARRIOR
Arthur Koestler and his century.
Milosz: Koestler
Tôi gặp Koestler
tại Paris
cỡ
năm 1951 thì phải. Thể lực của ông giải thích thật nhiều. Rất là cân
đối, đẹp
trai, nhưng nhỏ người, týp người lùn, còi, và điều này góp phần giải
thích
những tham vọng "Nã Phá Luân" của ông, cùng thói ham đánh lộn, gây
khó khi làm việc trong bất cứ một nhóm. Nói cho cùng, ông là loại người
với ý
tưởng, ta sẽ làm việc với các ngươi, tức những nhóm người thuộc tầng
lớp trí
thức Đông Âu, để chữa trị cho các người khỏi cái độc hại của chủ nghĩa
Marx. Và
Hội nghị vì Tự do Văn hóa tại Berlin
vào năm 1950 là một tác phẩm của ông. Rồi tiếp theo, Hội nghị về Tự do
Văn hóa
tại Paris, lần này là do bàn tay lông lá của Mẽo đạo diễn, và ông bị
anh Mẽo
nhẹ nhàng cho ra dìa, cho ngồi chơi xơi nước. Sau đó, sống ở Anh, ông
hạn chế
sự quan tâm của mình vào chủ nghĩa toàn trị ở Đông Âu dành thời giờ lo
tạo dựng
một quỹ cứu trợ những nhà văn di dân, và đóng góp một số tài sản cho
quỹ này.
Liên hệ giữa ông với tôi có tính bài vở, trường lớp, và cũng thật làng
nhàng,
phiên phiến cho qua. Chưa bao giờ chúng tôi có được một lần trò chuyện
nghiêm
túc. Vào thập niên 1960, ông đi du lịch Mẽo, với cô bồ trẻ, hay là vợ.
Cả hai
có đến thăm tôi tại Berkeley.
Như tất cả những lần gặp gỡ khác, tôi luôn bị du vào một tình cảnh khó
xử,
không thoải mái. Với ông, tôi chỉ là tác giả của một cuốn sách, đó là
cuốn Cái
Đầu Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, mà ông đã đọc và nghĩ là
"được". Tuy nhiên, với riêng tôi, thành thực mà nói, tôi bảnh hơn
thế, hoặc khiêm nhường hơn, tôi khác thế, không hẳn chỉ có thế: Tôi là
tác giả
của những bài thơ mà ông ta chẳng biết một tí gì về chúng. Nhưng thế
hoá ra là
tôi tính chơi trội, khi cố tình bẻ qua một lãnh vực khác mà ông không
rành. Nói
gần nói xa chẳng qua nói thật, bữa đó, tôi, tuy là chủ nhà, nhưng lại
hơi quá
chén, rồi đâm ra ngủ gà ngủ gật trước mặt khách. Thật xấu hổ quá.
Thành thực mà nói, Koestler, mặc dù dáng người nhỏ thó, mặc dù hơi tự
cao tự
đại về mình, ông ta xứng đáng hơn nhiều, so với ba bốn lời lẩm ca lẩm
cẩm của
tôi, như ở trên. Có vẻ như ông, trên hết, là một con người của chủ
nghĩa thực chứng
[positivism] của thế kỷ 20, ở cả hai mặt của chủ nghĩa này, quốc gia và
xã hội,
nói theo ngôn ngữ bi giờ, ông vừa là một nhà quốc gia vừa là một nhà xã
hội chủ
nghĩa, cả hai bên, ông đều mê, và đều bị lôi kéo, trong một thời gian.
Những tình
cảm đối với con người của ông thật là mạnh mẽ, vì vậy mà ông đã lên
tiếng yêu
cầu nhà cầm quyền Anh bãi bỏ án tử hình, khi treo cổ tội nhân, sau đó,
ông còn
tranh đấu cho quyền được chết, đối với những người bịnh nặng, hết còn
muốn kéo
dài cuộc sống. Ông còn là một thành viên trong cái hội đòi hỏi quyền
được chết
không đau đớn khi không còn muốn sống. Người ta đã khám phá ra, ông và
bà vợ
trẻ cùng chết, khi đang ngồi bên nhau, trên hai chiếc ghế bành.
*
Koestler bị coi là
người có
quá nhiều thói hư tật xấu, nhất là đối với đàn bà, thích là vật ra làm
liền. Vậy
mà ông có một người đàn bà cùng chết với ông. Cuốn Kẻ lạ
nơi công trường kể lại cuộc tình này, thật tuyệt.
The
Afterlife of Arthur
Koestler
Julian Barnes
Arthur Koestler: The
Homeless Mind by David
Cesarani.
Free Press, 646 pp., $30.00
When
Arthur Koestler killed
himself in March 1983, he left a suicide note in which he expressed
"some
timid hopes for a depersonalized after-life." Whether or not he has
attained this (and whether, if depersonalized, you are aware that what
you are
experiencing is an afterlife, or any other sort of life), he has
certainly had
visited upon him a personalized afterlife. It goes by the name of
biography.
This is neither surprising
nor wrong.
Koestler was an engage
intellectual, a novelist of political ideas, a journalist, agitator,
propagandist, and causist up to his final action: his suicide was in
part the
culmination of an argument for the right to do so, an exemplary act
when taken
by itself (which it wasn't, inevitably, given the accompanying suicide
of his
wife, Cynthia). He was someone who used and offered up his own life as
evidence. Born in Central Europe, politically forged by events in its
eastern
extremity (Russia), politically reoriented in its western extremity
(Spain),
tempted first by a home in the hot southeast (Israel), eventually
ending up as
a citizen of the cool northwest (Britain), Koestler could and did argue
that
his vagabonding, questing, hunted, and haunted existence was as
archetypal as
European life can get this century. He put it forward as such in his
two
volumes of autobiography, Arrow in the
Blue and The Invisible Writing.
Note: Bài điểm sách này, trong số báo NYRB 10 Tháng
Hai, 2000, mà do dọn nhà, Gấu phải vứt vô thùng recycle, toàn bộ những
số báo NYRB, The New Yorker, TLS, Lire, Obs... cất giữ từ 1994 tới nay.
Buồn. Nhưng sắp đi rồi, giữ làm khỉ gì nữa!
Tiếc, không có đời sau, "after life", như Koestler!
*
Julian
Barnes vs David
Cesarani.
Còn
đây là cuốn tiểu sử được phép, về Koestler:
Writing
about Koestler
Koestler: The
Literary and Political Odyssey of a Twentieth-Century
Skeptic by Michael
Scammell
*
Đời sau, ở đây, có
nghĩa,
một
cuốn tiểu sử về một nhà văn, hay nghệ sĩ.
Khi
Koestler tự sát vào Tháng Ba năm 1983, ông có để lại một cái note,
trong đó,
ông mong ước chút hy vọng nho nhỏ về một đời sau đã được bỏ đi cái phần
riêng tư
của mình.
Bất
cứ một người viết nào, thì
cũng muốn như vậy, chẳng có gì là đáng ngạc nhiên hay sai lầm về một
ước muốn
như thế.
Cuốn
tiểu sử của ông, của
Cesarani, khiến nhiều người khó chịu, trong có Barnes, người điểm sách
trên tờ
NYRB, còn là bạn thân của Koestler trong những năm cuối cùng của ông.
Cesarani khui
ra cái vụ Koestler rất mê “hấp diêm" phụ nữ, và đã từng, nhiều lần. Vào
tháng Tám
1998,
Jill Craigie, vợ nhà làm phim Michael Foot, có thời là thủ lãnh Đảng
Lao Động, kể
cho Cesarani nghe là, vào Tháng Năm 1952, Koestler đã quật bà xuống sàn
căn phòng
của bà, và hãm hiếp bà. Bà không nói cho ai hay vụ này, ngay cả chồng.
Bà mất
Tháng Chạp 1999.
Liệu
một phát giác như vậy, ảnh
hưởng tới độc giả của Koestler ?
Có
và không, theo Gấu.
Gấu
nhớ là, có một lần, đọc một
bài báo, trên một tờ nhật báo, một phụ trang văn học, chắc thế, viết về
Dos,
trong đó khui ra một vụ, Dos đã từng hãm hiếp một em bé 10 tuổi, thời
gian đi tù
Siberia. Gấu đọc, và bị choáng đến độ, vứt ngay bài báo vào thùng rác,
như để
phi tang!
Sau
này, đọc bài viết của
Freud, dùng làm tựa cho bản tiếng Pháp, cuốn Anh
em nhà Karamazov, ông
có nhắc tới cáo buộc này, nhưng cho biết, chỉ là cáo buộc, allegation.
Cái
kiểu ‘giật cái tít’ “Có mấy
Nguyễn Quốc Trụ ?”, của talawas và nhà đại phê bình, là cũng muốn nhắn
nhủ, này, coi
chừng chúng tao!
*
Khi
nhìn lại đời mình, Gấu có
cảm giác, chẳng có chó gì là riêng tư, có thể nói, giới nhà văn nhà báo
Sài Gòn trước 1975 đều
quá rành về Gấu. Nhà phê bình chắc là không rành điều này, nên mới dọa
dẫm như
vậy.
Khi
Gấu lấy vợ, ông bạn nhà văn DNM còn hăm he, nói với nó, nó mà
không viết,
là tao viết đấy. Điều này chứng tỏ, ông rất rành về cuộc đời, cuộc
tình, cuộc vợ
của Gấu. Những ông bạn như VL, DTL… còn sống sờ sờ, muốn hỏi gì, cần
gì, mấy
ông ấy
cung cấp hết.
Cuộc
đời của Gấu ly kỳ, rùng rợn,
gay cấn, cay đắng, điêu linh... đến nỗi Gấu Cái nhiều khi thèm
được công bố cho thiên hạ cùng
biết, và
thúc ông chồng hãy viết ra đi, Nobel, Booker, dám lắm đấy!
Mới
đây
thôi, đám bạn
cùng học, ở Mẽo, nhân tập thơ của một nhà thơ còn ở trong nước mới
ra lò, nhắc
chuyện cũ, cả bọn còn gật gù, không thằng nào làm được cái điều thằng
Gấu đã làm,
lúc đó đó!
Thành
thử độc giả Tin Văn yên
chí. Trong đời Gấu, chưa từng làm một điều gì vi phạm đạo đức, lương
tâm con người
hết.
Nhưng,
đời Gấu quả là có rất
nhiều phen liên quan tới những chuyện đạo đức, thế mới khổ!
Cờ
bạc, rượu, gái, xì ke, ma tuý, tứ đổ
tường, dính hết!
*
Lạ.
Chẳng lẽ "hoa hồng
là hoa hồng" mà Nguyễn Quốc Trụ lại không phải là Nguyễn Quốc Trụ ư?
NHQ
*
Viết
khốn nạn như thế, mà đòi hỏi
nhà nước VC cần phải giáo dục dân Mít, về sự xấu hổ, ư?
NQT
*
Có
lẽ thời hoàng kim của nhà đại
phê bình, là lúc Gấu vừa mới chân ướt chân ráo ra được ngoài này. Khi
đó, Người
chơi thân với Mai Thảo, và là đệ tử (?)
đắc
ý nhất của Võ Phiến. Người đang thai nghén cuốn tiểu sử sư phụ, đang
sửa soạn
ra báo riêng, cùng ông bạn thân, một nhà đại biên khảo. Người vỗ ngực
xưng tên
là nhà phê bình, trong vụ đụng độ với Đặng Tiến. Người được coi là số
1, chuyên
trị thơ, có thể chỉ sau… Đặng Tiến.
Sau
ai, sau Đặng Tiến thì cũng...
không được!
Thế
rồi lòi
ra thằng Gấu.
Chán
thiệt!
*
V/v
"Có mấy NQT?"
Cũng
vẫn Pascal, qua trích dẫn
của Greene, cảnh cáo:
Il
ne faut pas essayer d'entrer dans la vie des
êtres malgré eux: retiens cette leçon, mon petit. Il ne faut pas
pousser le
porte de cette seconde ni de cette troisième vie que Dieu seul connaît.
Il ne
faut jamais tourner la tête vers la ville secrète, vers la cité maudite
des
autres, si on ne veut pas être changé en statue de sel ...
Đừng
bao giờ kiếm cách chui xuống gầm giường nhà người khác, hãy nhớ
bài học này,
thằng nhỏ! Đừng bao giờ đẩy cánh cửa cuộc đời thứ nhì, thứ ba mà
chỉ Thượng Đế biết. Đừng bao giờ quay đầu về phía thành phố bí mật,
thành phố ma quỉ, chết tiệt của những kẻ khác, nếu không muốn biến
thành tượng muối...
Nhật
Ký Tin Văn
Arthur
Koestler, Người
của Bóng tối
Nhập
nước Pháp, như là một kẻ
xa lạ chẳng ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng
đêm giữa ban ngày, cuốn sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù
viết trên 30 cuốn sách, với đa số, ông chỉ là tác giả của chỉ một tác
phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc giả Tây Phương
nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc tài CS.
Vào
năm 1944, Koestler hiểu rằng
người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu châu của Berlin, sau chiến tranh. “Chỉ trong
hai năm,
nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,” ông viết trong nhật ký. “Nếu tôi la
lớn lên
điều này, chẳng ai tin, và tôi có thể bị tống vô nhà thương điên”. Ông
trở
thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự do Văn hóa được thành lập bởi bàn
tay lông
lá của Xịa, vào năm 1950, để chống lại tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô
Viết.
Tranh cãi sau đó liên quan tới hội nghị, là, liệu đám trí thức, khi
khởi sự
có biết gì về nguồn tiền trợ cấp. Scammell, tay viết tiểu sử Koestler
nghĩ, không. Washington,
bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét, như nhìn rõ tim đen của Mẽo,
“Xịa không muốn Chống
Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là
bèn nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền trợ cấp của Mẽo, trao cho Mai
Thảo. Và
cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông kia, có biết không? Chắc không. Nguyên
Sa, biết, nhưng
không phải lúc thoạt đầu, mà sau đó, chắc là do MT xì ra, và khi xẩy ra
đụng độ
với TTT, NS
tố nhóm Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’
ở NS, và luôn cả ở MT, có thể là do ảnh hưởng của ông đối với đám viết
lách liền
sau ông, là HPA, NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với
họ.
Hoặc hiểu họ.
Mai Thảo không đọc sách, nếu
có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là sự thực. Ông rành tiếng Tây, nhưng
để đọc được
đám hiện sinh, thí dụ, không phải cứ giỏi tiếng Tây. Gấu đã từng có
kinh nghiệm này rồi, với ông anh Hiếu Chân. Một bữa, ông phán, mày đưa
tao thử đọc
cuốn La Nausée coi. Đọc chưa
hết mấy trang đầu, ông đã vứt trả lại, phán, tao
không hiểu được, tại sao tụi mày lại mê cuốn đó. Có ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có thích Brahms? Đăng
từng kỳ trên tờ
Điện Ảnh, khi làm tổng thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn
của Gấu. Chính ông đã từng nói ra, khi còn Sài Gòn, và sau này, khi ông
đang nằm
viện chờ đi, qua NMG cho biết, khi đem bài tạp ghi của Gấu viết về ông
vô cho ông
đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người gật gù, "bây giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ
Lạ ở Quảng Trường,
Koestler dành một chương cho Hội nghị Tự Do Văn Hóa, và tiền tài trợ
của Xịa.
Nhưng, trước khi nói chuyện tiền bạc, chúng ta nói về cuộc tình chót
đời của ông,
với cô thư ký Cynthia Jefferies. Khi họ quyết định cùng chết, K 77
tuổi, đủ thứ
bịnh tật; Cynthia 55, hoàn toàn khỏe mạnh. Cái note của K. khi chết để
lại mới
thú:
To
Whom It May Concern:
‘It
is to her that I owe the
relative peace and happiness I enjoyed in the last period of my
life-and never
before’
“Tôi
nợ
nàng sự thanh
thản tương đối và hạnh phúc tôi được hưởng vào khúc chót của cuộc đời - trước đó, tôi chẳng hề có”
Đúng, như "K" phán, trên
đời này, chỉ có tình là đáng kể, và tình thật đẹp là tình thật sến,
theo Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới
đó.
Cái cảnh mà anh cu Gấu chạy
theo em khóc nức nở nơi cổng trường Đại học Khoa học Sài Gòn mà chẳng
sến ơi là
sến sao?
Bữa đó, Trời cũng khóc, mà khóc cũng thật là sến!
[Vậy mà cũng vưỡn
chưa được
coi cuốn phim của TNM.]
NQT
Tôi ngồi chờ nàng
thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong
trường tìm
nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám
bạn, và
hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói
nhạt
thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi
một ngả
đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và
chạy theo,
chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là
không. Nàng
lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình
yêu là
gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong
tấm
kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh
tay
trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận
ra
khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết
đời
tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi
hiểu rằng
tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.
Sơ Dạ Hương
Hết
gì đâu mà hết!
Đến già vẫn còn chết [vì nó]!
*
… a
true romantic
story of
total devotion, absolute loyalty, unconditional surrender and true love.
George Mikes, Sunday
Telegraph
Quả đúng là như thế, nhưng cái
tay viết bài Intro cho cuốn Kẻ lạ ở
Quảng trường, nhận xét, tinh tế hơn:
Cuốn sách này, trong cõi thâm
sâu của nó, in essence, là một chuyện tình, nhưng “đếch” giống bất cứ
một chuyện
tình nào mà tôi đã từng đọc. Có lẽ, nên gọi nó, đúng hơn, câu chuyện về
nỗi ám ảnh
[the story of an obsession].
Vào Tháng Bẩy, 1949, Cynthia
Jefferies, một cô gái xinh đẹp nhưng đau thương sầu muộn trong nỗi e
thẹn và cũng
khá ngốc nga ngốc nghếch, lúng túng vụng về, một cô gái từ Nam Phi, trả
lời một
mẩu tin cần người. Một nhà văn cần một cô thư ký tạm, temporary. Nhà
văn là
Arthur Koestler. Vào lúc đó, ông sống tại một căn nhà ở gần
Fontainbleau [chỗ Bác
Hồ đã từng ngụ ký hiệp định với Tây?], với Mamaine Paget, một trong hai
cô gái
xinh đẹp sinh đôi, sau đó ông lấy làm vợ, sau khi cuộc ly dị với bà
trước xong
xuôi. Cynthia thì sống ở Paris.
Cô có được cái job thư ký, và
trong sáu năm tiếp theo, lúc ở Pháp, lúc Anh, lúc Mẽo. Trong thời gian
này,
cô có chồng, và rồi ly dị. Vào năm 1955, cô từ bỏ việc làm của cô ở New
York, để
trả lời một cái message của Koestler, và trở về Lơndon làm thư ký toàn
thời gian. Vào giai đoạn nào họ trở thành hai người yêu nhau, độc giả
cuốn sách
hãy tự quyết định và rút ra lời kết luận. Nhưng chẳng nghi ngờ chi,
Cynthia
yêu Arthur hầu như ngay lần đầu nhìn thấy ông, trong cái cuộc phỏng vấn
nhận việc,
trong cái dáng điệu ngớ nga ngớ ngẩn của cô, tại Paris.
Họ chia sẻ cuộc đời cho nhau,
vào năm 1955 đó, và vào năm 1965, họ làm lễ kết hôn. Vào Tháng Ba 1983,
hai
cái xác của họ được kiếm thấy, trong phòng khách của căn nhà của họ ở Montpelier Square,
[căn nhà mà chúng ta thấy ở bià cuốn sách]. Koestler ngồi trên ghế
bành, ly rượu
brandy vẫn còn trong tay. Cynthia nằm sô pha, một ly whisky trên bàn kế
bên. Ly
nào cũng chứa một liều cực mạnh thuốc ngủ barbiturates.
Koestler lúc đó 77 tuổi. Trong bẩy năm cuối cùng, ông đau khổ với chứng
bịnh Parkinson, lúc đầu còn kiềm chế được,
nhưng ngày một tệ hại. Bốn năm chót, còn thêm bịnh leukaemia, vào thời
kỳ chót.
Cynthia, 55, hoàn toàn mạnh khoẻ.
Bên cạnh cái note của K, là
những dòng của Cynthia: Tôi đã tính tính sổ làm thư ký
cho K - một câu chuyện bắt đầu khi đường đời của chúng tôi đụng nhau
vào năm
1949. Tuy nhiên, tôi không thể sống không có Arthur, mặc dù cũng một số
vốn liếng riêng.
Tôi [Harold Harris] nghĩ,
Cynthia quyết định cùng đi, khi nhận ra Arthur hết còn chịu đựng nổi
gánh nặng
cuộc đời.
Ân xá Quốc
tế kêu
gọi hành động khẩn
Trường hợp Lê
Công Định
Nhà
nghiên cứu lịch sử này
nhận xét giai đoạn tự do nhất của không gian công cộng ở Việt Nam là 1936-39, khi miền Nam Việt Nam
"cũng
tự do như Pháp".
Tuy vậy ông lưu ý, thời đó
chỉ có khoảng 15-20% người Việt được học hành - con số đó ngày hôm nay
đã là
90%.
"Từ góc nhìn lâu dài,
Việt Nam
đã có tiến bộ đáng kể để biến chính trị trở nên bao hàm toàn diện hơn
và không
gian công sinh động hơn. Về tôn giáo, nhà nước đã tinh vi hơn, và vì
thế không
còn thiên kiến phản tôn giáo như trong quá khứ."
"Trong thập niên vừa
qua, không gian công đã nở rộ. Báo chí trở nên thú vị hơn. Nhưng càng
lúc những
tác nhân thay đổi càng đến từ bên ngoài Đảng Cộng sản. Hôm nay, sự độc
quyền
của Đảng về thông tin chính trị, kinh tế, vốn quá rõ ở năm 1990, đã bị
bẻ gãy."
Sử gia
người Mỹ kết luận:
"Tôi tin rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang học nhầm bài
học
từ lịch
sử. Thiên An Môn và Sự sụp đổ Bức tường Berlin
đã làm Đảng tỉnh ra. Họ không muốn lặp lại sai lầm tương tự. Họ không
muốn có
phong trào dân chủ ở Việt Nam."
Bài
học "đúng đắn"
từ lịch sử, vị tiến sĩ đặt vấn đề, lại có thể là bài học Nhật Bản sau
chiến
tranh, mà theo ông, đã khai mầm một xã hội dân sự sôi động cùng chung
sống với
chủ nghĩa chuyên chế.
BBC
Những
nhận xét của ông mũi lõ
này thật là lạ. Móc nối Việt Nam
với Nhật Bản quả là một quái chiêu. Nhận xét thời kỳ Nam Kỳ quốc, Việt Nam
tự do như Pháp, cũng thú vị.
Và
đây là lý do Miền Bắc làm
thịt nó, đấy, ông mũi lõ ạ!
*
|
|