|
Tribute to Arthur Koestler
Trong lúc rảnh
rỗi, tôi viết
một cuốn tiểu
thuyết Tới và Đi, Arrival and Departure, và một số tiểu luận,
sau được
đưa vô The Yogi and the Commissar [Du Già và Chính Uỷ]
Tới và Đi là tập thứ ba, trong một bộ ba
tập,
trilogy, trong đó, đề tài trung tâm của nó là cuộc xung đột giữa đạo
đức và
thiết thực [expediency: miễn sao có lợi, thủ đoạn, động cơ cá nhân –
khi nào,
hoặc tới mức độ nào, thì một cứu cánh phong nhã [vẫn còn có thể] biện
minh cho
một phương tiện dơ bẩn. Đúng là một đề tài Xưa như Diễm, nhưng nó ám
ảnh tôi
suốt những năm là một đảng viên CS .
Tập đầu của bộ ba, là Những tên
giác đấu, The
Gladiators, kể cuộc cách mạng [revolution] của những nô lệ La mã,
73-71 BC,
cầm đầu bởi Spartacus, xém một tí là thành công, và cái lý do chính của
sự thất
bại, là, Spartacus đã thiếu quyết định [lack of determination] – ông từ
chối áp
dụng luật quay đầu, trở ngược, “law of detours”; luật này đòi hỏi, trên
con
đường đi tới Không Tưởng, người lãnh đạo phải “không thương hại nhân
danh
thương hại”, ‘pitiless for the sake of pity’. Nôm na là, ông từ chối xử
tử
những kẻ ly khai và những tên gây rối, không áp dụng luật khủng bố -
và, do từ
chối áp dụng luật này khiến cho cuộc cách mạng thất bại.
Trong Bóng đêm giữa ban
ngày, tay
cựu truởng lão VC Liên Xô Rubashov đi ngược lại, nghĩa là, ông theo
đúng luật
trở ngược đến tận cùng cay đắng - chỉ để khám phá ra rằng ‘lô gíc không
thôi,
là một cái la bàn không hoàn hảo, nó sẽ đưa con người vào một chuyến đi
đầy
dông bão, cuối cùng bến tới biến mất trong đám sương mù.’
Hai cuốn, cuốn nọ bổ túc cho cuốn kia, và cả hai đều tận cùng bằng
tuyệt lộ.
Nhập nước Pháp, như là một kẻ
xa lạ chẳng
ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết Bóng đêm giữa ban ngày,
cuốn
sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết trên 30 cuốn sách, với đa
số, ông
chỉ là tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén màn cho độc
giả Tây Phương
nhìn thấy thành đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc tài CS.
Vào năm
1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát phía đông Âu châu của
Berlin,
sau chiến tranh. “Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,”
ông viết
trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều này, chẳng ai tin, và tôi có
thể bị
tống vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ cột của Hội nghị vì Tự
do Văn
hóa được thành lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống
lại tuyên
truyền và ảnh hưởng của Xô Viết.
Tranh cãi sau đó liên quan tới hội nghị, là,
liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp.
Scammell, tay
viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington,
bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét,
như nhìn
rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Trong Tới và Đi, Arrival
and Departure,
cuộc xung đột giữa đạo đức và thiết thực được diễn tả bằng thuật ngữ
tâm lý.
Peter Slavek khởi nghiệp như là một tay cách mạng trẻ tại một xứ sở độc
tài
Nazi, chẳng có thì giờ nhìn vô cõi riêng tư của mình, ấy là nói về
những duyên
do thầm kín, thâm sâu đưa đến những hành động của riêng anh ta, do anh
ta quyết
định. Khi chiến tranh xẩy ra, anh vượt thoát qua một xứ sở Trung Lập
[Neutralia, ở đây là Bồ Đào Nha], và phải đối diện với một chọn lựa khó
chọn
lựa: hoặc theo vị hôn thê qua Mẽo, hay tự nguyện tham gia Lực lượng
Đồng minh.
Anh đã từng trải qua, và vững trụ, những tù đầy, tra tấn trong quá khứ,
nhưng
giờ này đứng trước nan đề, anh bị đánh gục, về mặt tâm lý, và bị liệt
một cẳng,
bởi căn bịnh gọi là "hysterial paralysis", [Koestler cho biết đã từng
chứng kiến một cas như vậy, xẩy tới cho một bạn tù của ông ở trong nhà
tù
Seville].
Ông bắt đầu
chuyện học hành của
mình, vào
buổi hoàng hôn của Đế quốc Áo-Hung, tại một trường mẫu giáo ở Budapest. Bà mẹ
đã có một thời gian là bịnh nhân
của Freud. Ở Vienna,
thời gian giữa cuộc chiến, ông xoay được việc làm thư ký riêng cho
Vladimir
Jabotinsky, một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên của phong trào
Zionist. Du
lịch Soviet Turkmenistan như là một cảm tình viên CS, trẻ, sôi nổi, ông
vớ được
Langston Hughes, nhà thơ da đen Mẽo. Chiến đấu tại chiến trường Tây Ban
Nha,
ông gặp nhà thơ Anh W.H. Auden tại một “bữa tiệc khùng” ở Valencia,
trước
khi bị tống vô một trong những nhà tù của nhà độc tài Franco. Tại
Berlin
Weimar, ông rơi vào ổ của tay điệp viên Comintern tai tiếng, Willi
Münzenberg,
qua tay này, ông gặp những ông Trùm CS Đức của khu vực: Johannes
Becher, Hanns
Eisler, Bertolt Brecht. Sợ bị Gestapo tóm được trong khi chạy khỏi nước
Pháp,
ông xin Walter Benjamin chia cho liều thuốc tự tử. Vài tuần sau đó ông
chơi
luôn, khi nghĩ không thể thoát ra khỏi Lisbon, nhưng không chết (trong
khi
Walter Benjamin, khi bị lính gác từ chối không cho vượt biên giới Pháp
& Tây
Ban Nha, chơi liều của ông, và đi luôn).
Trên đường rong ruổi, ông dự bữa ăn trưa với Thomas Mann, nhậu với
Dylan
Thomas, kết bạn với George Orwell, tán tỉnh Mary McCarthy, và sống
trong căn hộ
ở London
của
Cyril Connolly. Năm 1940, Koestler được thả khỏi trại giam của Pháp,
một phần
là nhờ sự can thiệp của Harold Nicholson và Noël Coward. Thập niên
1950, ông
giúp thành lập Hội Nghị Tự Do Văn Hoá, Congress for Cultural Freedom,
cùng với
Mel Lasky and Sidney Hook. Thập niên 1960, ông chơi LSD với Timothy
Leary. Thập
niên 1970 ông vẫn còn đăng đàn diễn thuyết, gây ấn tượng những thính
giả, trong
số có Salman Rushdie trẻ.
*
Về già, qua năm tuổi, tuổi
Sửu
[bà cụ Gấu mất đúng năm tuổi], giao thừa, thay vì khai pháo, Gấu cảm
khái nhìn lại
đời mình, cám ơn Ông Trời, ngay vào lúc Gấu ngập ngừng bước vô cõi đọc,
cõi sống,
cõi viết, đã trang bị cho thằng cu nhà quê Bắc Kít di cư toàn những ông
thầy đắt
giá: Giả như không đọc Koestler những ngày đó, biết đâu đã “phò” HPNT
lên rừng
rồi!
Nhớ thời gian viết cho tờ Tin Văn của Nguyễn Ngọc Lương, VC nằm vùng,
có lần
anh nhìn Gấu ra ý dò hỏi, có vẻ như anh tính dụ Gấu, này về nguồn, lá
rụng về
cội đi, mày Bắc Kít, cả lò nhà mày Cách Mạng, hay là làm VC nằm vùng
quách!
Nhưng khủng nhất, là ông ta ban cho Gấu sư phụ Faulkner!
Ban cho ông Thầy Faulkner, chưa đủ, còn ban thêm cho một nhân vật của
ông, và,
như Đức Chúa Trời, phán một phát “Hãy Ánh Sáng”, thế là BHD thức giấc,
bước ra
khỏi những trang sách của Faulkner, và bước vô cuộc đời anh cu Gấu!
Bởi vì, thiếu BHD làm sao viết ra được Những Ngày Ở Sài Gòn, dù đã nhập
tâm
cách viết ‘độc thoại nội tâm’ với những câu văn dài lê thê ‘bè rau
muống’ của
sư phụ?
‘Bè rau muống’, hình ảnh này là của tay Lộc, truởng phòng hành chánh
UPI, khi
anh đọc tập truyện của Gấu.
He loved man, not men
(or
women)
Càng ngày càng có
thêm những
bài viết thật tuyệt về Koestler, khi điểm cuốn tiểu sử được phép của
ông.
Bài mới này cũng thật tuyệt.
Nhất là câu trên đây,
để bào chữa cho cái nam tính thái quá của ông, thấy gái là quất!
Intellectual
fireworks
Berlin's doubt about grand Utopian schemes of
thought may
perhaps owe meting to his Eastern European and Jewish heritage. He was
born in Riga, Latvia,
in 1909, left for St. Petersburg when
he was six
years old, witnessed some of the violence of the Bolshevik Revolution,
emigrated to England
with
his family in 1921, and there attended St. Paul's
School and Oxford.
The relatives who remained in Riga
were massacred in the Holocaust. Berlin
had a disgust for totalitarianism of any kind. As he put it:
Most revolutionaries believe,
covertly or overtly, that in order to create the ideal world eggs must
be
broken, otherwise one cannot obtain the omelette. Eggs are certainly
broken-never more violently or ubiquitously than in our times-but the
omelette
is far to seek, it recedes into an infinite distance. That is one of
the
corollaries of unbridled monism, as I call it-some call it fanaticism,
but
monism is at the root of every extremism.
Nicholas Kristof: On Isaiah Berlin, Explorer
NYRB, 25 Feb 2010.
Trong
khi đọc lại Koestler có
lẽ cũng nên biết một tí về tay Isaiah Berlin
này.
Cùng lúc, đọc bài của Trần
Gia Phụng, trên talawas, về nguyên nhân cuộc chiến thứ nhì:
Chuyện
“giải phóng miền Nam”
hay “chống Mỹ cứu nước” chỉ là chiêu bài nhằm khích động quần chúng, vì
Bắc
Việt dư biết trước đó Hoa Kỳ đã giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam Triều Tiên,
mà
người Mỹ không hề xâm lăng các nước này. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”
còn được
sử dụng nhắm mục đích kêu gọi viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vì
theo đúng
đường lối của QTCS.
Nguyên
nhân thực sự duy nhất
đưa đến chiến tranh 1960-1975 chỉ là tham vọng độc quyền cai trị Việt Nam
của Đảng
LĐVN do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Các lãnh tụ Đảng LĐVN lúc đó chẳng
những muốn
độc chiếm Việt Nam,
mà còn muốn làm bá chủ cả Đông Dương nữa (Trích Việt sử đại cương tập
6).
© 2010
Trần Gia Phụng
© 2010 talawas
Vấn nạn
mà TV muốn nêu ra ở
đây là:
Cuộc chiến vừa qua:
Có thực sự đúng như TGP nêu
ra, trên?
Liệu còn lý do khác nữa
không?
Có mắc mớ gì tới tư tưởng
của Berlin,
về
Toàn Trị, về Không Tưởng...?
Có mắc mớ, chỉ riêng đến xứ
Mít, dân Mít?
Cuộc
chiến vừa qua, theo Gấu,
là giấc đại mộng của dân Mít kể từ có dân Mít. Nó còn Toàn Trị hơn cả
Toàn Trị,
Không Tưởng hơn cả Không Tưởng, [Muốn ăn trứng Ôm Mơ Lết, thì phải đập
quả trứng,
muốn có cái nhà Mít... thì phải giải phóng Miền nam thống nhất đất
nước!].
Sở dĩ nó trở nên khốn nạn như là bây giờ, thì là một chuyện khác, không
liên
quan tới chủ nghĩa CS!
Vẫn theo Gấu, muốn có được
một ý niệm về nguyên nhân cuộc chiến vừa qua, nên đọc…. Greene, tạm
thời, những
dòng trích ở trên, luôn cả dòng sau đây của Trần Gia Phụng
(1), qua
đó cho thấy, Mẽo vô xứ Mít đâu có vì tà ý; cũng thế, Miền Bắc gây
cuộc
chiến, đâu phải vì… tham vọng?
Toàn là thiện ý không hà!
Vậy mới khốn nạn!
(1)….
Bắc Việt dư biết trước
đó Hoa Kỳ đã giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, mà người Mỹ không
hề xâm
lăng các nước này. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” còn được sử dụng nhắm
mục đích
kêu gọi viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vì theo đúng đường lối của
QTCS.
*
Bởi vì, nếu chỉ có tham vọng
không thôi, thì Bắc Bộ Phủ không làm sao thực hiện được dã tâm ăn cướp
Miền Nam
của họ. Đâu
phải tự nhiên mà nhân dân Miền Bắc khơi khơi, vô tư lăn xả vào cuộc
chiến, chịu đựng
những đau
thương tang tóc ghê rợn nhất, đâu phải tự nhiên mà nhân loại mơ sáng
ngủ dậy biến
thành Mít:
Trong cuộc chiến vừa qua, có thể có giấc đại mộng của cả
nhân loại:
xây dựng nên, một thứ con người mới, xứng đáng là… con người! (1)
(1)
Initium ergo ut esset,
creatus est homo, ante quem nullus fuit
Augustine
That there might be a
beginning,
man was created before whom nobody was
[Tạm dịch nghĩa: Có thể có một
thoạt kỳ thuỷ con người được tạo ra trước một kẻ mà không ai là kẻ đó]
Hannah Arendt trích dẫn,
trong bài viết Understanding and
politics [Hiểu biết và Chính trị học]
Có lẽ cũng nên đọc thêm một số
bài viết của bà, như Những tiếp cận "Vấn đề Đức", Approaches to the "German Problem" [để
so sánh với Vấn đề Mít, nhất là, Vấn đề Bắc
Kít], Về bản chất của chủ nghĩa toàn
trị… để tìm hiểu "thêm", về nguyên nhân cuộc
chiến Mít.
Cái sự
băng hoại như hiện nay,
của nước Mít, có thể là do những lời nguyền rủa của "hơn một giống
người, xứng đáng
là người" bị tổ tiên Mít tiêu diệt, từ thuở mang gươm, từ biệt Thăng
Long, đi dựng nước!
Nhưng
có thể dùng một cái tít
của một cuốn sách của Koestler, áp dụng một cách thông minh và thiên
tài vào thực
thế 30 Tháng Tư 1975, và nước Mít sau đó: The God That Failed.
Ông Trời cũng thua!
Thua ai? Thua cái gì?
Thua Cái Ác Bắc Kít!
Thua Yankee mũi tẹt!
He
loved man, not men (or
women)
Ông ta yêu con người, không
phải những đàn ông [hay đàn bà]
'I don't believe in humanity,
I believe in the individual'
Tôi không tin vào nhân loại.
Tôi tin vào cá nhân.
Nguyên
nhân thực sự duy nhất
đưa đến chiến tranh 1960-1975 chỉ là tham vọng độc quyền cai trị Việt Nam
của Đảng
LĐVN do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Các lãnh tụ Đảng LĐVN lúc đó chẳng
những muốn
độc chiếm Việt Nam,
mà còn muốn làm bá chủ cả Đông Dương nữa (Trích Việt sử đại cương tập
6).
Trần Gia Phụng, talawas
*
Borges cho rằng, quan niệm về
một âm mưu ghê rợn của Đức nhằm thống trị toàn thế giới, là quá tầm
phào, cà chớn.
"Gấu Nhà Văn" tin rằng Cái
Ác Bắc Kít đưa đất nước Mít xuống hố; Borges, chính cái thứ giáo dục
dậy
con nít hận thù gây đại họa.
TV post
mấy đoạn viết của ông,
và sẽ số gắng chuyển ngữ, nếu có thể.
NOTES ON GERMANY
& THE
WAR
JORGE LUIS BORGES
A Pedagogy of Hatred
Displays of
hatred are even more obscene and denigrating than exhibitionism. I defy
pornographers to show me a picture more vile than any of the twenty-two
illustrations that comprise the children's book Trau keinem Fuchs
auf
gruener Heid und keinem Jud bei seinem Eid [Don't Trust Any Fox
from a
Heath or Any Jew on his Oath] whose fourth edition now infests Bavaria.
It was first published a year ago, in 1936, and has already sold 51,000
copies.
Its goal is to instill in the children of the Third Reich a distrust
and
animosity toward Jews. Verse (we know the mnemonic virtues of rhyme)
and color
engravings (we know how effective images are) collaborate in this
veritable
textbook of hatred.
Take any page: for example, page 5. Here I find,
not without
justifiable bewilderment, this didactic poem-"The German is a proud man
who knows how to work and struggle. Jews detest him because he is so
handsome
and enterprising" -followed by an equally informative and explicit
quatrain: "Here's the Jew, recognizable to all, the biggest scoundrel
in
the whole kingdom. He thinks he's wonderful, and he's horrible." The
engravings are more astute: the German is a Scandinavian,
eighteen-year-old
athlete, plainly portrayed as a worker; the Jew is a dark Turk, obese
and
middle-aged. Another sophistic feature is that the German is
clean-shaven and
the Jew, while bald, is very hairy. (It is well known that German Jews
are
Ashkenazim, copper-haired Slavs. In this book they are presented as
dark
half-breeds so that they'll appear to be the exact opposite of the
blond
beasts. Their attributes also include the permanent use of a fez, a
rolled
cigar, and ruby rings.)
Another engraving shows a lecherous dwarf trying to seduce a young
German lady
with a necklace. In another, the father reprimands his daughter for
accepting
the gifts and promises of Solly Rosenfeld, who certainly will not make
her his
wife. Another depicts the foul body odor and shoddy negligence of
Jewish
butchers. (How could this be, with all the precautions they take to
make meat
kosher?) Another, the disadvantages of being swindled by a lawyer, who
solicits
from his clients a constant flow of flour, fresh eggs, and veal
cutlets. After
a year of this, the clients have lost their case but the Jewish lawyer
"weighs two hundred and forty pounds." Yet another depicts the
opportune expulsion of Jewish professors as a relief for the children:
"We want a German teacher;' shout the
enthusiastic pupils,
"a joyful teacher who knows how to play with us and maintain order and
discipline. We want a German teacher who will teach us common sense."
It
is difficult not to share such aspirations.
What can one say about such a book? Personally I am outraged, less for Israel's
sake than for Germany's,
less for the offended community than for the offensive nation. I don't
know if
the world can do without German civilization, but I do know that its
corruption
by the teachings of hatred is a crime.
[1937]
1939
Those
who hate Hitler usually
hate Germany...
... I naively believe that a
powerful Germany
would not have saddened Novalis or been repudiated by Holderlin. I
detest
Hitler precisely because he does not share my faith in German people;
he has
decided that to undo 1918, the only possible lesson is barbarism ; the
best
incentive, concentration camp....
1941
The notion of an atrocious
conspiracy by Germany
to conquer and oppress all the countries of the atlas is (I rush to
admit)
irrevocably banal. It seems an invention of Maurice Leblanc, of Mr.
Phillips
Oppenheim, or of Baldur von Schirach. Notoriously anachronistic, it has
the
unmistakable flavor of 1914. Symptomatic of a poor imagination,
grandiosity,
and crass make-believe, this deplorable German fable counts on the
complicity
of the oblique Japanese and the docile, untrustworthy Italians, a
circumstance
that makes it even more ridiculous ... Unfortunately, reality lacks
literary
scruples. All liberties are permitted, even a coincidence with Maurice
Leblanc.
As versatile as it is monotonous, reality lacks nothing, not even the
purest
indigence. Two centuries after the published ironies of Voltaire and
Swift, our
astonished eyes have seen the Eucharist Congress; men fulminated
against by
Juvenal rule the destinies of the world. That we are readers of
Russell,
Proust, and Henry James matters not; we are in the rudimentary world of
the
slave Aesop and cacophonic Marinetti. Ours is a paradoxical destiny.
Le vrai
peut quelque fois n'être pas vraisemblable: the unbelievable, indisputable truth is that
the
directors of the Third Reich are procuring a universal empire, the
conquest of
the world. I will not enumerate the countries they have already
attacked and
plundered, not wishing this page to be infinite. Yesterday the
Germanophiles
swore that the maligned Hitler did not even dream of attacking this
continent;
now they justify and praise his latest hostility. They have applauded
the
invasion of Norway
and Greece, the Soviet Republics
and Holland;
who
knows what celebrations they
will unleash the day our cities and shores are razed. It is childish to
be
impatient; Hitler's charity is ecumenical; in short (if the traitors
and Jews
don't disrupt him) we will enjoy all the benefits of torture, sodomy,
rape, and
mass executions. Do not our plains abound in Lebensraum, unlimited and
precious
matter? Someone, to frustrate our hopes, observes that we are very far
away, My
answer to him is that colonies are always far from the metropolis; the
Belgian Congo
is not on the borders of Belgium.
BORGES: An Essay on Neutrality
*
Trong khi đọc lại Koestler có
lẽ cũng nên
biết một tí về tay Isaiah
Berlin này.
Cùng lúc, đọc bài
của Trần Gia Phụng, trên
talawas, về
nguyên nhân cuộc chiến thứ nhì:
Chuyện “giải phóng miền Nam”
hay “chống Mỹ
cứu nước” chỉ là chiêu bài nhằm khích động quần chúng, vì Bắc Việt dư
biết
trước đó Hoa Kỳ đã giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, mà người Mỹ
không hề
xâm lăng các nước này. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” còn được sử dụng
nhắm mục
đích kêu gọi viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vì theo đúng đường lối
của
QTCS.
Nguyên nhân thực sự duy nhất
đưa đến chiến
tranh 1960-1975 chỉ là tham vọng độc quyền cai trị Việt Nam
của Đảng
LĐVN do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Các lãnh tụ Đảng LĐVN lúc đó chẳng
những muốn
độc chiếm Việt Nam,
mà còn muốn làm bá chủ cả Đông Dương nữa (Trích Việt sử đại cương tập
6).
© 2010 Trần Gia Phụng
© 2010 talawas
Vấn nạn mà TV muốn nêu ra ở đây
là:
Cuộc chiến vừa qua:
Có thực sự đúng như TGP nêu ra, trên?
Liệu còn lý do khác nữa không?
Có mắc mớ gì tới tư tưởng của Berlin,
về Toàn Trị, về Không Tưởng...?
Có mắc mớ, chỉ riêng đến xứ Mít, dân Mít?
Cuộc chiến vừa qua, theo Gấu,
là giấc đại
mộng của dân Mít kể từ có dân Mít. Nó còn Toàn Trị hơn cả Toàn Trị,
Không Tưởng
hơn cả Không Tưởng, [Muốn ăn trứng Ôm Mơ Lết, thì phải đập quả trứng,
muốn có
cái nhà Mít... thì phải giải phóng Miền nam thống nhất đất nước!].
Sở dĩ nó trở nên khốn nạn như là bây giờ, thì là một chuyện khác, không
liên
quan tới chủ nghĩa CS!
Vẫn theo Gấu, muốn có được một ý niệm về nguyên nhân cuộc chiến vừa
qua, nên
đọc…. Greene, tạm thời, những dòng trích ở trên, luôn cả dòng sau
đây của Trần Gia Phụng (1), qua đó cho thấy, Mẽo vô xứ Mít đâu có
vì tà ý;
cũng thế, Miền Bắc gây cuộc chiến, đâu phải vì… tham vọng?
Toàn là thiện ý không hà!
Vậy mới khốn nạn!
(1)…. Bắc Việt dư biết trước đó
Hoa Kỳ đã
giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, mà người Mỹ không hề xâm lăng
các nước
này. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” còn được sử dụng nhắm mục đích kêu
gọi viện
trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vì theo đúng đường lối của QTCS.
*
Bởi vì, nếu chỉ có tham vọng không thôi, thì Bắc Bộ Phủ không làm sao
thực hiện
được dã tâm ăn cướp Miền Nam
của họ. Đâu phải tự nhiên mà nhân dân Miền Bắc khơi khơi, vô tư lăn xả
vào cuộc
chiến, chịu đựng những đau thương tang tóc ghê rợn nhất, đâu phải tự
nhiên mà
nhân loại mơ sáng ngủ dậy biến thành Mít:
Trong cuộc chiến vừa qua, có thể có giấc đại mộng của cả nhân loại: xây
dựng
nên, một thứ con người mới, xứng đáng là… con người! (1)
(1)
Initium ergo ut esset, creatus est homo, ante quem
nullus fuit
Augustine
That there might be a beginning, man was created before
whom nobody was
[Tạm dịch nghĩa: Có thể có một thoạt kỳ thuỷ con người được tạo ra
trước một kẻ
mà không ai là kẻ đó]
Hannah Arendt trích dẫn, trong bài viết Understanding and politics
[Hiểu
biết và Chính trị học]
Có lẽ cũng nên đọc thêm một số bài viết của bà, như Những tiếp cận "Vấn
đề
Đức", Approaches to the "German Problem" [để so sánh với
Vấn đề Mít, nhất là, Vấn đề Bắc Kít], Về bản chất của chủ nghĩa toàn
trị…
để tìm hiểu "thêm", về nguyên nhân cuộc chiến Mít.
Cái sự băng hoại như hiện nay,
của nước
Mít, có thể là do những lời nguyền rủa của "hơn một giống người, xứng
đáng
là người" bị tổ tiên Mít tiêu diệt, từ thuở mang gươm, từ biệt Thăng
Long,
đi dựng nước!
Nhưng có thể dùng
một cái tít của một cuốn sách của Koestler, áp dụng một cách thông minh
và
thiên tài vào thực thế 30 Tháng Tư 1975, và nước Mít sau đó: The God
That
Failed.
Ông Trời cũng thua!
Thua ai? Thua cái gì?
Thua Cái Ác Bắc Kít!
Thua Yankee mũi tẹt!
Đề tài
trung tâm của bộ ba cuốn,
trilogy, trước đó - Những tên giác
đấu, Đêm giữa Ngọ, Tới và Đi – là đạo đức cách
mạng. Của cuốn tiếp theo, Những tên
trộm trong Đêm, Thieves in
the Night, là đạo
đức của sự sống sót. Nếu quyền lực làm hư ruỗng, if power corrupts,
thì, điều
ngược lại cũng đúng luôn: Bách hại làm hư ruỗng nạn nhân, persecution
corrupts
the victim.
Trong cả hai trường hợp, mục đích
cao đẹp, noble ends, là nguyên nhân gây ra phương tiện nhơ bẩn, ignoble
means.
Đau
thật. Chính cái chân lý
nước Việt Nam là
một khiến
VC chơi đòn bẩn: nguỵ tạo vụ đầu độc tù Phú Lợi, nhử Mẽo nhẩy vô Miền Nam,
tiếp đó, thành lập MTGP, phát động cuộc chiến Chống Mỹ Cứu Nước, đẩy
Miền Nam
vào thế thù nghịch, và khi chiến thắng, biến cả miền đất thành Ngụy,
tống đi Kinh
Tế Mới, Trại Tù, Lò Cải Tạo...
Tribute
to Koestler
Steiner,
trong ai điếu “La
Morte d’Arthur”, viết:
Đêm giữa Ngọ
của Koestler là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển của thế kỷ. Nó
giáo dục
những thế hệ về những ghê rợn của chúng, it educated generations to
theirs
terrors. Di chúc Tây Ban Nha, The Sapnish
Testament (còn biết dưới cái tít Chuyện
trò với Thần Chết, Dialogue with Death) thì cũng xấp xỉ cái thế giá
đó. Những kẻ mộng du, The Sleepwalkers - đặc
biệt là những chương về Kepler – là một trong những bữa tiệc hiếm của
nhân
gian, về sự tái-sáng tạo tưởng tượng thuyết phục của khoa học lớn,
convincing
imaginative re-creation of great science, về lô gíc thơ của khám phá,
poetic
logic of discovery. Tôi không chia sẻ những xác tín của ông trong Trầm tư về tội treo cổ, Reflections of Hanging,
nhưng nó sẽ còn hoài như là một trong những dấu ấn lớn lao của thời đại
chúng
ta, và thời điểm mấu chốt liên quan đến cuộc tranh luận về án tử hình.
Có những
chương có tính cổ điển như thế, ngay cả ở trong những tác phẩm tự thuật
như là Arrow in the Blue. Nhưng với Koestler,
có một cảm quan về một cái gì đó vượt lên tổng số những gì ông viết ra.
Có những
con người, đàn ông hay đàn bà, ở vào những thời đại, ở vào những xã
hội, họ đưa
mình ra, “đành làm” chứng nhân thiết yếu, cần thiết, không có không
được, và chính
là nhờ vào hiện hữu cá nhân, cảm quan riêng tư của một con người như
thế mà
những ý nghĩa lớn lao, rộng rãi hơn của thời đại được tập trung, được
xoáy chiếu,
và trở nên sáng sủa, visible. Trong thế kỷ đen tối…
Note:
Đọc được câu này, thật
thú vị, trong bài viết B.B. của
Steiner, về Bertolt Brecht.
Trả lời Walter Benjamin, sau khi
chạy thoát Nazi, và đi một đường thăm viếng Moscow, "Này kiếm được mảnh vườn
dưỡng đời
ở đó chưa?", B.B. phán:
“Tớ là một tên CS, nhưng đâu
phải là một thằng ngu!"
[B.B. is said to have replied when Walter Benjamin - himself soon to
die a
hounded fugitive - asked whether the great playwright would seek haven
in Moscow,
"I am a
Communist, not an idiot"]
*
Hội nghị Văn hóa Tự do
Arthur Koestler
I
Vào
tháng Ba 1950, tôi viết
thư cho Hermon Ould, thư ký Văn Bút, PEN Club:
… Tôi hơi bị sốc khi đọc trên
tờ Tin tức PEN [News], Tháng Hai, trang 5, một báo cáo về “Văn hóa ở
Liên Xô”.
Có vẻ như nó được viết bởi một tay viễn mơ, hay, người ở mặt trăng. Tôi
không
muốn làm phiền ông bởi ba thứ còm kiếc, vì biết ông rất bận rộn, nhưng
cho phép
tôi đi một đường phản đối. Ông chắc là còn nhớ tôi vốn là một thành
viên hoạt động
năng nổ, active, của PEN, nhưng rồi sau đó ỉu xìu, lý do là tôi ngửi ra
cái mùi
trung lập, neutrality, trước sự đàn áp, bách hại lố bịch nhất, kinh
khiếp nhất đối
với nghệ thuật, khoa học, và văn học, từ những nhà khoa học, những nhạc
sĩ cho
tới những anh hề ở rạp xiếc.
Chủ
nghĩa trung lập thực sự
chỉ là một hình thức được đẽo gọt cho thật ngon lành của cái gọi là sự
phản bội
trí thức. Nó chỉ ra, một bên, tha thứ, bỏ qua cho sự ghê rợn toàn trị,
và, một
bên, tố cáo tới chỉ, độc như thịt vịt, with unforgiving venom, trước
bất cứ một
thất bại, hay bất công của Phương Tây.
Cái thái độ bại hoại này của
giới trí thức hậu chiến....
*
Steiner, trong
ai điếu “La
Morte
d’Arthur”, viết:
Đêm giữa Ngọ của Koestler là một trong những cuốn
tiểu thuyết cổ điển
của thế kỷ. Nó giáo dục những thế hệ về những ghê rợn của chúng, it
educated
generations to theirs terrors. Di chúc Tây Ban Nha, The Sapnish
Testament
(còn biết dưới cái tít Chuyện trò với Thần Chết, Dialogue with Death)
thì cũng xấp xỉ cái thế giá đó. Những kẻ mộng du, The Sleepwalkers
- đặc
biệt là những chương về Kepler – là một trong những bữa tiệc hiếm của
nhân
gian, về sự tái-sáng tạo tưởng tượng thuyết phục của khoa học lớn,
convincing
imaginative re-creation of great science, về lô gíc thơ của khám phá,
poetic
logic of discovery. Tôi không chia sẻ những xác tín của ông trong Trầm
tư về
tội treo cổ, Reflections of Hanging, nhưng nó sẽ còn hoài như là
một trong
những dấu ấn lớn lao của thời đại chúng ta, và thời điểm mấu chốt liên
quan đến
cuộc tranh luận về án tử hình. Có những chương có tính cổ điển như thế,
ngay cả
ở trong những tác phẩm tự thuật như là Arrow in the Blue. Nhưng
với
Koestler, có một cảm quan về một cái gì đó vượt lên tổng số những gì
ông viết
ra. Có những con người, đàn ông hay đàn bà, ở vào những thời đại, ở vào
những
xã hội, họ đưa mình ra, “đành làm” chứng nhân thiết yếu, cần thiết,
không có
không được, và chính là nhờ vào hiện hữu cá nhân, cảm quan riêng tư của
một con
người như thế mà những ý nghĩa lớn lao, rộng rãi hơn của thời đại được
tập
trung, được xoáy chiếu, và trở nên sáng sủa, visible. Trong thế kỷ đen tối, dân Do Thái Trung Âu, có
lẽ hơn bất
cứ một bộ lạc nào khác, cưu mang trong nó sự tàn ác dã man của viễn ảnh
và kinh
nghiệm thúc ép, đòi cho có cho bằng được của nhân loại. Koestler, sinh
năm 1905
ở ngay đúng nơi chốn mà những sợi gân lịch sử, chính trị, ngôn ngữ của
thế kỷ
20 chấm dứt tại đó. Những trào lưu ác liệt, cường tráng của thế kỷ chảy
qua ông.
Lần giở cuốn “cà ta lô” những sự hiện diện lớn của hiện đại – chính trị
học Mác
Xít, khủng bố Phát Xít, phân tâm học, và những tra hỏi về
những dị
dạng của tinh thần, trí tưởng, của cái đầu của con người, bước nhẩy vọt
của những
môn sinh học, những xung đột của ý thức hệ và nghệ thuật – và thế là
bạn không
chỉ bắt gặp những tác phẩm lớn của Koestler, mà còn cả con người, chính
nó! Ông
rành rọt, -hay- dầy dạn, lưu vong và nhà tù, ly dị, trai gái, tứ đổ
tường, cuộc giành
giựt cuộc sống riêng tư với quần chúng, đám đông. Những tấm căn cước
của
Koestler, thực hay giả, những con dấu, những quá cảnh trên những tờ
thông hành,
những cuốn sổ địa chỉ, những cuốn nhật ký bàn giấy, desk diaries, tất
cả vạch
ra tấm bản đồ và những cuộc hành trình của một kẻ bị săn đuổi của thế
kỷ của chúng
ta.
Raging
towards Utopia
Neal Ascherson
KOESTLER:
THE INDISPENSABLE
INTELLECTUAL by Michael Scammell.
Faber, 689 pp., £25,
February, 978057113853 I
WATCHED from a safe distance,
Arthur Koestler's life was like a Catherine-wheel breaking free from
its stake.
Leaping and spinning and scattering crowds, emitting fountains of
alarming
flares and sparks as it bounded in and out of public squares and
unexpected
back gardens, flinging dazzling light into dim minds, Koestler's career
left
scorch marks and illuminations across the 20th century. When it finally
stopped
and the flames died, the darkness suddenly seemed absolute.
London Review of Books, 22 April 2010
Koestler
Nhìn từ một khoảng cách an
toàn, cuộc đời K giống như một trái cầu lửa, bùng lên một cách hung hãn
ngay từ
khởi đầu và, cứ thế lao vào đám đông, quảng trường, những khu vuờn sau
nhà...
phóng ra những tia lửa, những khối sáng vào những cái đầu tăm tối; sự
nghiệp,
cuộc đời của ông để lại những vết cháy nám đen, và những khối sáng lòa
dọc theo
thế kỷ 20.
Khi trái cầu ngưng hẳn, khối lửa
lụi tàn, và bóng đen bất thình lình kể như tuyệt đối.
Cuộc “phần thân” mới khủng
khiếp làm sao!
So với ông, kể như chỉ có nhi
đồng Lê Văn Tám!
*
'I don't believe in
humanity, I
believe in the individual' (1)
Koestler
1
Koestler
2 spinning
Koestler: Con quỉ của sự tuyệt đối
(1)
Tôi không tin vào nhân loại.
Tôi tin vào cá nhân.
Câu này tặng cá nhân Nguyễn Tiến Trung, Lê Công
Định, Lê Thị Công Nhân... nhân
Tết Canh Dần, cũng thấy ấm lòng.
"Nhân loại", cái giống Mít, Gấu, tuy không
là Koestler, nhưng quả thật là quá chán nó rồi!
Hết tin vào nó rồi!
Cũng sắp đi, chán hay không chán, thì cũng đành thôi.
NQT
Raging
towards Utopia, cái tít
bài viết chẳng là chào mừng và tiên tri số phận Mít sao: khùng điên lao
vào không
tưởng, đường ra trận mùa này đẹp lắm, tiếng hát át tiếng bom, xong trận
này là
xong tất cả, là thảnh thơi xây cái nhà Mít ở trên mặt trăng!
Ở đâu ra cái
tít Đêm giữa
Ngọ của Koestler?
Từ
Milton, nhưng không phải
do tác giả chọn, như những dòng sau đây, trong Kẻ Lạ Ở Quảng Trường cho biết:
Chính là khi ở Pentonville mà
tôi nhận được bản in thử của Darkness at Noon, và lần đầu tiên biết
được cái
tít tiếng Anh của cuốn sách - dựa trên một trích dẫn từ Milton, mà
Daphne đề
nghị, và tôi rất thích. Đúng là một sự trớ trêu, ở trong tình trạng tù
đọc bản
in thử của một cuốn tiểu thuyết về một người đàn ông ở trong tình trạng
tù.
Nhưng tôi may mắn hơn, vì ở tù ở Pentonville thì chắc chắn hơn hẳn ở
Lubianka
[nhà tù nổi tiếng của Liên Xô].
Đêm giữa Ngọ, cái tít đúng là
như vậy.
Ngọ, Noon ở đây, là chỉ hiện
tượng nhật thực, giữa trưa mà trời đất đen thui.
*
"...O dark, dark, dark,
amid the blaze of noon,
Irrecoverably dark, total
eclipse
Without all hope of
day!"
Những dữ kiện như trên cho
thấy không dễ gì mà có được cái tít
Đêm giữa ban ngày.
Từ đó suy ra, không dễ gì mà
không tin Ngài VTH cầm nhầm cái tít của Koestler!
*
Khi cuốn sách của VTH xb ở
hải ngoại, và nó nổi lên như cồn, Gấu đã nghi rồi, nhưng thấy cũng
chẳng đáng
khui ra, nhưng bi giờ, hàng nhái lại trở nên bảnh hơn đồ zin, đồ xịn,
thì đành
phải lên tiếng.
Chán thật! NQT
Thật
quái đản, nhưng quãng đời
tù VC có thể coi như đẹp nhất trong suốt cuộc đời của
Gấu. Không chỉ những ngày tháng hạnh phúc, nó còn chỉnh sửa cả cuộc đời
Gấu, trước và sau đó.
Những ngày cuối đời, nhẩn nha sống lại nó, nhâm nhi nó, mới tuyệt vời
làm sao!
Applebaum
viết về những ngày
tù của Koestler, khi nước Pháp bị Nazi đô hộ:
Although
Darkness at Noon
remains high on lists of “great books of the twentieth
century,” his journalism, which in its time was at least as significant
as that
of Orwell, is hardly known at all. Before coming to write this review,
I had
not read Scum of the Earth,
Koestler’s autobiographical and journalistic account of the fate of
refugees in
wartime France.
I can’t remember anybody ever telling me to read it either. But because
Scammell praises it, and because Scum of
the Earth is still in print, I bought a copy. It was a revelation:
astonishingly fresh, clear, and relevant, not only explaining the rapid
collapse of France in 1940, but also illuminating some of the
difficulties that
France and other European countries still have in absorbing
“foreigners” even
today. After I’d finished, I lent the book to somebody else. And this,
it
occurred to me, is how a literary reputation revives.
Yesterday's
man?
Nhưng
hãy nghe chính Koestler, qua bà vợ kể lại,
viết về những ngày tù ở Verner, mới thú:
Liền ngay khi chiến tranh bùng
nổ, nhà cầm quyền Pháp phát động những cuộc lùng bắt ngoại nhân,
aliens, có hồ
sơ chính trị. Koestler và Leo bị bắt và quen nhau trong trại tù Le
Verner gần rặng
núi Pyrenees. Leo trở thành Mario
trong Scum of the Earth.
Koestler viết về kinh nghiệm
tù Le Verner của ông:
“Cuộc đời chúng ta là chứng cớ cho thấy khả năng đáp ứng của con người.
Tôi nghĩ,
ngay cả những linh hồn ở lò luyện ngục, sau một thời gian, cũng biến nó
thành
nhà của họ”
[“The life we led was a proof
of man’s capacity for adaptation. I think that even the condemned souls
in
purgatory after a time develop a sort of homely routine”]
Arthur and Cynthya Koestler: Stranger
on the Square [Kẻ lạ ở Quảng trường]
*
Nhưng, đúng hơn, có lẽ phải áp
dụng ‘nguyên lý phượng hoàng’ mà Brodsky đã từng nhắc tới, khi viện
dẫn Sontag. Bởi vì, quãng đời thê lương nhất của Gấu, khi khấu đầu làm
đệ tử Cô
Ba, sau này, ngẫm lại, vưỡn cảm thấy có điều gì hình như là tình yêu,
hạnh phúc
ở trong đó, thế mới lại càng tếu!
Brodsky cho rằng, một khi bạn
bắt đầu 'biên tập' đạo hạnh của bạn, liệu cái này được hay không được,
chiếu
theo hoàn cảnh, thế là bạn đang tán tỉnh thảm họa [When you start
'editing'
your ethics, your morality - according to what is or isn't allowed
today - then
you're already courting disaster].
Ông nhắc tới Susan Sontag. Một lần bà nhà văn Mỹ này nói, phản ứng đầu
tiên của
một con người, khi đứng trước thảm họa là hỏi, tôi có làm điều chi lẫm
lỗi, và
bây giờ tôi phải làm gì để sửa chữa, cho nó đừng xẩy ra nữa.. Tuy
nhiên, bà
nói, còn một cách nữa, cứ để cho thảm họa cầy nát bấy bạn ra, và nếu,
bạn lại
đứng lên được, thì lúc đó, bạn sẽ trở thành một con người khác.
Đó là nguyên lý phượng hoàng, the phoenix principle.
Và, ông rất tâm đắc với nó.
Theo truyền thuyết, phượng hoàng tái sinh, từ tro than của nó.
NKTV
As for
Darkness at Noon, it
was not just a popular book, it was one of the primary reasons that the
Communist Party never came to power in France , a real possibility
at the
time. Hard though it is for us now to imagine, it was not at all
obvious, in
1946 or even 1956, that Western Europe and the United States
would remain solidly
united for fifty years. Nor did it seem at all inevitable that the West
would
win the cold war. Along with Orwell’s Animal Farm and Victor
Kravchenko’s I
Chose Freedom, Darkness at Noon was one of the books that helped turn
the tide
on the intellectual front line, and ensured that the West prevailed.
Applebaum: Yesterday's Man?
Về cuốn Đêm giữa Ngọ, nó
không phải chỉ là một cuốn sách phổ thông, mà còn là một trong những lý
do hàng
đầu làm cho Đảng CS đã chẳng bao giờ lên cầm quyền được ở Pháp, một
điều rất có
thể xảy ra thời ấy. Đến bây giờ, chúng ta
còn khó mà tưởng
tượng ra được
- nói gì vào năm 1946, và ngay cả vào năm 1956 - Tây Âu và Hoa Kỳ sẽ
chen vai sát
cánh, ‘một lòng một dạ bên nhau’, trong suốt 50 năm.
Ngay cả ông Trời thì cũng
không tin được chuyện Tây Phương sẽ thắng trận chiến tranh lạnh!
Cùng với Trại Loài Vật của Orwell, và Tôi Chọn Tự
Do của Victor Kravchenko, Đêm giữa Ngọ là một trong
những cuốn
sách làm con nước đổi chiều trong giới trí thức tiền phương, và bảo đảm
ra một điều,
rằng Tây Phương sẽ lấn lướt, vượt lên chủ nghĩa CS.
Những
bài viết ‘chùa’, trên net, về Koestler, khi điểm
cuốn tiểu sử của ông: K. tay trí thức không thể thiếu, không thể bỏ
qua,
indispensable, của Michael Scammell [Koestler:
The Literary and
Political Odyssey of a Twentieth-Century Skeptic by Michael
Scammell;
Random House, 689 pp., $35.00] nhiều bài thật là bảnh, [bài của
Applebaum
Applebaum, Yesterday's Man?
mà chẳng tuyệt sao?], nhưng bài trên tờ Điểm Sách London, số đề ngày 22
April 2010,
của Neal Ascherson, cũng thật đã.
Tác giả cho biết, Scammell đã phải bỏ ra 20 năm để viết nó, ngoài ra S.
còn
'thủ đắc' cả một mớ tư liệu hiếm quí về Koestler.
TV sẽ post bài viết trên, và đi vài đường lèm bèm, ‘trang điểm’ thêm,
bằng một
số kỷ niệm lần đầu đọc ông của GNV, những ngày đầu di cư vô Sài Gòn.
"Koestler
was everywhere
at once, it seemed, throughout the most important episodes of the
twentieth
century. He interviewed Sigmund Freud, carried documents that
implicated the
Nazis in the collapse of Republican Spain, hung out with Timothy Leary
and
Wernher von Braun, palled around with terrorists and Hollywood
screenwriters and was known to Stalin, Churchill, Roosevelt, Hitler and
Mussolini. Amid all that, he found time to write a half-dozen novels,
countless
articles and other books, growing improbably more prolific as he grew
older . .
. . [This is an] elegant biography ... that should revive interest in
Koestler's work."
-Kirkus Reviews (starred
review)
"There
is virtually no
current of twentieth-century achievement and conflict to which Arthur
Koestler
did not contribute in a creative and clairvoyant way. Darkness at Noon
may have
changed history. To Koestler's manifold passions and anguish this
finely
researched, incisive biography does justice-where justice is the key
and
challenging requirement. Michael Scammell has produced a compelling,
intensely
gripping study. Even the porcupine-tempered Koestler would have been
proud."
-GEORGE STEINER, author of
Nostalgia for the Absolute
''Arthur
Koestler exposed his
mind and body to the fearful spectrum of twentieth-century ideology
like a
healthy man volunteering for a life of radiation therapy. He left
behind his
books, trays of X rays in black and white, strangely beautiful and
dreadfully
revealing. Scammell's admirable biography gives full run to Koestler's
body,
mind, and work, and so helps us to see modern intellectual politics in
its
mesmerizing brilliance and depth."
-TIMOTHY SNYDER, professor of
history, Yale
University
PROLOGUE
Men are
convinced of your arguments, your sincerity,
and the seriousness of your efforts only by your death.
- ALBERT CAMUS
If we
can speak about the
Central European intellectual at all ... it is because of the
personality of
Arthur Koestler. His Jewish-Hungaro-Czech origins are a sort of advance
warning
that explains all his researches and his ambiguity: from Jt1daism to
the theory
of assimilation, from Marxism to the absolute negation of communism,
from the
flirtation with eastern spiritualism to its demystification, from faith
in
science to doubt of all "closed systems of thought," and from the
search for the absolute to serene resignation in the face of man's
critical
aptitudes. Koestler's intellectual adventure, through to his ultimate
choice,
is unique even within the most broadly defined borders of Europe.
It contains the potential biography of every Central European
intellectual-in
its radical realization.
-DANILO KIS
There
are men and women who,
in addition to having special gifts, seem to embody the times in which
they
live. Somehow their biographies take on and make more visible to the
rest of us
the shape and meaning of the age. Even if Arthur Koestler had not been
a
significant writer and publicist, future historians would be fascinated
by his
career. It touches, with uncanny precision, on the hopes and
nightmares, on the
places and events, which have given the twentieth century its flavor.
- GEORGE STEINER
Sáng
gặp bác sĩ gia đình, chiều
gặp bác sĩ chuyên khoa, 'lại' nhân tiện ghé tiệm sách cũ, vớ được cuốn
của
Michael Scammell!
Cuốn này, ngay ở tiệm sách không
có, vậy mà sách cũ lại có, còn mới tinh, giá chỉ còn ¼ so với giá mới.
Tuyệt thật
|
|