*





Tribute to Phạm  Duy

Tôi hiểu hậu ý của Phạm Duy: Ông muốn tôi viết cái gì đó về bộ hồi ký của ông. Tôi khéo léo thoái thác.

NHQ (1)

Câu phán này, của Thầy Cuốc, là cũng thuộc thứ văn chương ai điếu, theo nghĩa của Brodsky:

As a theme, death is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam" genre is frequently used to exercise self-pity or for metaphysical trips that denote the subconscious superiority of survivor over victim, of majority (of the alive) over minority (of the dead).
Joseph Brodsky: Anna Akhmatova Poems' Introduction.

Như một đề tài, cái chết là “lửa thử vàng”, một thứ thuốc thử đạo hạnh của một nhà thơ. Cái giọng 'tưởng niệm', cái dòng văn chương ‘ai điếu’, thường được sử dụng để thực tập sự tự thương thân trách phận, hay là trong những chuyến đi siêu hình làm bật ra tính ưu việt tiềm ẩn của kẻ sống sót đối với nạn nhân, của đa số (người sống) đối với thiểu số (ngưòi chết)

Võ Phiến đã từng sử dụng nó khi viết về nhóm Sáng Tạo.
Mai Thảo, về bạn thân của ông là Thanh Tâm Tuyền.
Bây giờ đến Thầy Cuốc.

Phạm Duy mất rồi, làm sao cãi lại, thí dụ: Cỡ như tao có bao giờ cần đến 1 thằng nhóc như mi?
Mà làm sao mà Thầy Cuốc, từ 1 số dữ kiện không thể kiểm chứng [từ Mỹ gọi điện thoại, thí dụ], suy ra được "hậu ý", PD cầu cạnh ông viết 1 cái gì đó về bộ hồi ký của ông?
Đẩy đến tận cùng, giả như tất cả đều đúng, nghĩa là PD "có thể" tính nhờ "nhà phê bình sắc sắc nhất không phải thời nào cũng có" đi 1 đường xoa đầu PD qua cuốn hồi ký, như Người đã từng xoa đầu toàn những thứ số 1 trong cõi Mít, như VP, như MT, thì, 1 người có tí lương tâm, tự trọng cũng không nên viết ra, một khi mà Phạm Duy đã lên chuyến tầu suốt rồi. 

NQT

Trên Tin Văn cũng đang viết về Phạm Duy, và đều là những gì đã viết từ khi PD còn sống, nay viết thêm. Đâu có đợi ông nằm xuống mới viết. Ở cái tuổi của ông, với gia tài âm nhạc lớn lao như thế, với công & tội cũng lớn lao chẳng kém, một cây viết có tí luơng tâm, nếu muốn viết “not fair” về ông, là phải viết từ khi ông còn sống.
Chết rồi, là khỏi viết.
Hết viết.

Vì NHQ sử dụng từ “hậu ý”, chúng ta phải hiểu là, PD chưa từng nói thẳng ý của ông, muốn nhờ NHQ viết về cuốn hồi ký của mình, và nếu như thế, thì làm sao lại có chuyện thoái thác?
Ở đây, theo Gấu, NHQ sử dụng tiếng Việt không vững. Đúng ra, ông phải viết, tôi tìm cách nói bóng nói gió, để ông PD hiểu là tôi không có ý định viết về ông [như đã từng viết về MT, VP], thí dụ.
*

V/v Đừng thành công.

Alain dậy học trò Simone Weil, đừng thành công. Weil, trong đời rất quan tâm đến xứ Đông Dương, và đến cuộc Cách Mạng Yên Bái của Nguyễn Thái Học.
Nguyễn Thái Học, khi thất bại, bị Tây giết, phán, không thành công thì thành nhân!

Chúng ta cảm thấy, có 1 sợi dây “tâm linh”, liên quan tới "ne pas réussir", nối kết Alain, Weil, Nguyễn Thái Học.

Trong Những bài học của những vị Thầy, Lessons of the Masters, chương 4, Steiner để nguyên tiếng Tẩy, “Maitres à penser”, những ông thầy tư tưởng, và giải thích, cụm từ này không làm sao dịch qua tiếng Anh được:

Cái cụm từ cực cụm từ, the very phase, "Maitres à penser” nhốt [confine] chúng ta vào trong cái mà Henry James gọi là “cái lồng vàng của sự không thể dịch được, “the golden cage of the untranslatable”. Trong tiếng Anh, “Master of thought” nghe "quê 1 cục" [pompous and vacuous, nổ như Thầy Cuốc, nhưng thực chất thì là thùng rỗng kêu to]. Ngay cả từ “thinker”, cũng đáng ngờ, suspect [vẫn liên quan tới Thầy Cuốc!] Dịch qua tiếng Mít, Sư Phụ, nghe thật sướng lỗ tai, đúng ý Tẩy: Thầy là số 1, ở đâu cũng có, ngành nào cũng có, Maitre is ubiquitous. Cái sự thịnh hành nhiều nếp, the manifold currency, của từ “Sư Phụ” còn vươn tới những liên hệ giữa “những vì bác sĩ của niềm tin”, "doctors of faith", y chang Mít: Sư phụ mà phán, là hết xẩy con cào cào!

Trong chương này, Steiner viết về “Maitre” Alain, và pupil, học trò Simone Weil: Khi trò sắn tay áo lo cho những người thất nghiệp, thầy gật gù hài lòng [When Simone Weil undertook he direct actions on behalf of the unemployed, her Master noted his pleasure]. Và dạy, đối với Alain, có nghĩa là nhắm mức quá tầm với của học trò, khiến học trò phải cố mà làm cho được [Teaching should focus just above the pupil's reach, rousing in him or her effort and will]. Mô phỏng Descartes, Thầy phán, "I want, therefore, I am", “Tôi muốn, là tôi hiện hữu, có tôi]. Ở đây "to want" tiếng Anh, có cả hai nghĩa “to desire” [ao ước] và “to lack” [thiếu], thực hơn, truer, theo Alain, so với tiếng Tẩy, “Je veux". Và với Alain, luật đạo đức tối thuợng, the supreme moral rule, là, "đừng thành công", "ne pas réussir": Cố nín, cố kiêng khem thành công trong 1 thế giới mà thành công có nghĩa là phải "compromise", thỏa hiệp.

Cũng trong chương này, Steiner kể 1 số giai thoại trong khi dạy học của Alain, thật tuyệt. Thí dụ, vào năm 1928, chừng 90 học trò và thính giả trong 1 lớp học, nín lặng, fell silent, khi Thầy bước vô lớp, và tiến tới bảng đen, đi 1 dòng: "Hạnh Phúc là Bổn Phận", "Happiness is a duty". Hay: Luật đẹp nhất của giống người là cái gì không được chiêm ngưỡng thì mai một:
"It is the most beautiful law of our species that that which is not admired is forgotten"
[To U, Sad Seagull]

Thánh Simone – Simone Weil

“We must prefer real hell to an imaginary paradise”
Simone Weil
(Phải chọn địa ngục thực, thay vì một thiên đường dởm).

“Không thành công cũng thành nhân”
Nguyễn Thái Học

Câu của Simone Weil, áp dụng 1 cách thông minh và thiên tài vô xứ Mít, đúng cả đôi đường. Địa ngục thực cũng Mít, mà thiên đường dởm cũng Mít.
Khỏi cần chọn!

Gấu Cà Chớn thực tình không tin Phạm Duy có “hậu ý” nhờ Thầy Cuốc viết về cuốn Hồi Ký của ông, vì đây là vấn đề “thời”, tức là liên quan đến tuổi của Thầy Cuốc.
Trong Hồi Ký của PD, không có Thầy Cuốc!
Cũng thế, là lần Thầy Cuốc viết "hờ hững", về Phan Lạc Phúc, khi ông đọc Võ Phiến, đặc biệt là bài viết VP đặc biệt dành cho tờ Tiền Tuyến: Bắt Trẻ Đồng Xanh.
Thầy Cuốc đâu biết gì về tính lịch sử của bài viết, và tại sao mà Phan Lạc Phúc lại cám ơn VP về cái chuyện chọn tờ Tiền Tuyến để đăng.
Giả như tác phẩm của PD là về văn học, thì còn có thể.
Hồi ký, mà hơn nữa, 1 hồi ký âm nhạc, làm sao mà nhờ “tai trâu”, dân ngoại đạo, đúng hơn, thẩm âm!


Tribute to Phạm  Duy

PD & VC

Hai kỷ niệm tuyệt vời nhất của Gấu, về nghe nhạc Phạm Duy khi ở tù VC, là lần một bạn tù chơi đàn Tây Ban Cầm bản Thuyền Viễn Xứ, và lần 1 anh bạn tù khác, hát lên bản Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng.
Đó cũng là lần thứ nhất GCC được nghe bản nhạc.

Nhưng để mà được nghe như thế, thì phải được Ông Trời “chi ly đến tận chi tiết”, để “hoàn thiện” hai cái buổi nghe nhạc đó. Bởi vì thiếu, chỉ 1 chi tiết, là “ọc dzơ”!

Có lần GCC có kể 1 giai thoại về Leibnitz, khi ông giải được 1 bài toán, tất cả là ảo số, nhưng đáp số thì lại là 1 số thực [thứ này, sau chúng ta gặp đầy, trong toán về suite, về série, nhưng đó là thời kỳ hậu-Leibnitz. Bản thân Gấu cũng đã từng giải 1 bài toán như thế, về chuỗi số ảo, như khi nó đến ‘limite’, thì lại là 1 số thực. Áp dụng vào lý thuyết Mác Xịt, vào cái cú 30 Tháng Tư 1975, thì nó như vầy: Trước 1975, là ảo số, là lý tưởng, là ảo tưởng, là không tưởng - chủ nghĩa Mác và căn nhà thống nhất Mít -, nhưng 30 Tháng Tư, là số thực, là cái thực, là địa ngục Mít, là anus mundi…].

Lần đó, Leibnitz ngửa mặt trên Trời la lên, không có Ông là không thể có cái đẹp như thế này!

Với GCC lần đó, thì cũng vậy, phải có Ông Trời, thì mới có cái đẹp tuyệt vời như thế: được nghe hai bản nhạc của PD, như là số thực - hạnh phúc- limite, của cả một chuỗi đau khổ [ảo số].

Sướng đến nỗi GCC phải la lên Ngài Phạm Duy đã sáng tác hai bản nhạc, chỉ để cho Gấu, nghe, trong 1 dịp trọng đại như thế.
Thiên hạ, người khác, nhân loại, thì chỉ nghe… ké, hưởng ké!

Note: Bài viết này, GCC viết, khi “hero” của GCC và của cả xứ Mít, còn lang thang ở hải ngoại, và còn nghĩ là ông sẽ được an táng ở Bắc Cực.
[Văn Cao có cái vinh cái nhục của Văn Cao. Tôi cũng thế. Văn Cao được chết ở đất quê. Chứ còn tôi, nay mai chết sẽ được chôn ở Bắc cực chăng? (cười)...] 

Nhưng hóa ra rằng thì là, ngay từ khi đó, vào lúc GCC hớn hở vì chạy thoát quê hương, 1997, [Gấu tái định cử Canada 1994, sau 3- 4 năm ở Trại Tị Nạn], thì “hero” của Gấu đã tính đường chuồn về, và đang tìm cách thổi VC, nào là 10 năm “đoàn kết tới chỉ” [chỉ có làm thịt sạch một dúm đảng phái không phải VC].

Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".

Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.

Phạm Duy, như "mọi" tên Bắc Kít khác, đều thuộc týp đếch cần tới cái tự hào “sống sót” đó!
Ông không những sống, mà còn sống nhanh, sống hơn, sống quá... mọi tên Bắc Kít khác
Chẳng thế mà trong clip video do tờ Người Việt Cali thực hiện (?), ông phán, trước khi dinh tê, tôi thương hại những người chửi tôi, vì họ không thành công như tôi!

Hà, hà!
*

Phản ứng của ông ra sao về việc Grass thú nhận?
Tôi cảm thấy yên tâm.
Yên tâm khi một bậc Thánh như thế thú nhận đã từng nhúng chàm?
Đúng thế. Điều đó làm cho chúng ta yên tâm về cuộc đời khốn khổ đáng thương của chúng ta. Và điều này còn cho thấy, ngay trong văn chương, cũng đếch có siêu nhân.

Ngoài Văn Cao ra, chưa 1 tên VC nào thú nhận đã từng giết người.
*

Mấy kỷ niệm ở tù VC nghe nhạc Phạm Duy, Gấu cứ nấn ná mãi, chưa chịu viết ra. Bây giờ [Nghìn trùng xa cách], "Người đã đi rồi", có lẽ đúng là lúc để đi 1 đường tưởng niệm, bảnh nhất, không có ai có thể có được đó.

Có lẽ, chỉ những dòng sau đây, của Milosz, viết về Mandelstam, là xứng với những kỷ niệm của Gấu, khi nghe nhạc PD ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ.

In one of his essays Brodsky calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was himself a poet of culture, and most likely that is why he created in harmony with the deepest current of his century, in which man, threatened with extinction, discovered his past as a never-ending labyrinth. Penetrating into the bowels of the labyrinth, we discover that whatever has survived from the past is the result of the principle of differentiation based on hierarchy. Mandelstam in the Gulag, insane and looking for food in a garbage pile, is the reality of tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting his poetry to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment, which endures. (1)

Mandelstam, khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là thực tại về bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt.
Nhà thơ đọc thơ của mình cho bạn tù, là một khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài.

Gấu Nhà Văn, vào 1 bữa chủ nhật, đếch phải đi lao động cải tạo, nghe Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, nhạc PD, phổ thơ Lý Thị Ý, với 1 số bạn tù ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, là cái khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài, và nó sẽ theo bước chân người sáng tạo ra nó, qua tới cả thế giới bên kia.

Thần sầu!
Hà, hà!

Cái khúc này, “Mandelstam, khi ở trong Gulag, điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là thực tại về bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ diệt”, cũng đúng với Gấu Nhà Văn.
Không có khúc này thì không “hệ luận”, là khúc sau.
Tất cả liên quan tới lần Gấu Cái đi thăm nuôi lần đầu, và, nếu không có lần thăm nuôi này, thì kể như “hư vô”, chẳng có khúc nào!


Đặng Lệ Khánh

Tribute to Phạm  Duy

Sống một đời rất đầy

Never explain —
your friends do not need it and your enemies will not believe you anyway.
—Elbert Hubbard
Đừng bao giờ giải thích. Bạn chẳng cần, kẻ thù chẳng tin. 

Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi, là tỏ ra tự hào, phán, "nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.

Nhưng cũng vẫn Alain, đã gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về Spinoza [Thầy đọc Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này, về Cái Thiện Cao Cả Nhất Của Con Người, [man's highest good]: 

Kinh nghiệm niềm vui của tư tưởng và tha thứ Lão Tặc Thiên.
[To experience the joy of thought and to pardon God]. 

Trời kia mà còn "tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ!
 (1)

Với tôi, Phạm Duy hay nhất vẫn là những bản nhạc tình. Giống những cửa sổ, đối với K. trong Vụ Án.

Lần đó, ở trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh hát. Một buổi tối, cả hai không ngủ được. Nói chuyện lăng nhăng một hồi, và đột nhiên anh thủ thỉ một mình. Những gì ..."đưa nhau tới bên cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"...
Sau này, mỗi lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến còn nguyên đó, đối với riêng tôi, những ngày ở Trung Tâm Ba Quang Trung, lần đầu tiên xa Sài-gòn, xa cô bạn. Nhưng, nếu không có nhạc Phạm Duy, không hiểu những ngày ở trong trại cải tạo còn thê thảm tới bực nào, đối với hai bạn tù...

Mùa Thu, những di dân

How can I survive without your mail?
Xạo!

PD cũng là 1 trong những đấng cực kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít. Vào lúc ông đi xa, Gấu không dám chỉ ra cái khúc bị thiến ở trong não của ông, nhưng có lẽ, vị thân hữu K. của trang TV đã nói giùm rồi: sống "đầy" quá!

Đây cũng là câu bà cụ Gấu chửi thằng con của cụ những ngày Gấu làm đệ tử Cô Ba, tội nghiệp mấy đứa nhỏ, sinh ở đâu, sao nhằm cửa nhà này…. Mi sống lạm sang đời của chúng nó rồi, cái thằng “chấm chiếu” kia ơi!
*

-Nước mắt cũng có hạn. Nơi này đổ ra nhiều thì nơi khác dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm dụng cảm xúc?
-Người ta chỉ đọc khi xúc động. Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của độc giả cũng như của chính mình.

Bụi

Theo như “huyền thoại”, mỗi lần Thái Thanh hát Bà Mẹ Gio Linh, là 1 lần khóc!

Có thể vì lý do đó mà Cao Hành Kiện rất tởm thứ văn chương, âm nhạc, nghệ thuật “ăn mày” nước mắt của đồng loại.
Ông đề nghị thay bằng “văn chương lạnh”. TV tính giới thiệu bài phỏng vấn ông trên tờ Văn Học Á Châu v/v cú lạnh này, mà cứ quên hoài!

V/v vị thân hữu K.
Có lần Gấu đọc Vargas Llosa, gặp 1 bà y chang, bèn dịch bài viết, và gửi. (1)

Hai bà, giả và thật này, tính tình như thế, không hiểu được PD, cũng 1 đấng cực độc Bắc Kít.

Đâu có thua gì Vi Bức Vương, mỗi lần giở khinh công tuyệt đỉnh ra là phải hút máu người.
Khác 1 tí, VBV không hút máu sống, là lạnh cứng người mà đi.
Còn PD, không chết, nhưng nhân loại mất một tuyệt tác!

Cái câu bà trích, tặng PD, theo Gấu, sai!

PD phán, tôi về là tôi yêu nước. Ông lấy lòng VC, và chửi bố đám hải ngoại:
Chúng mày không yêu nước!
Có lần đám Hậu Vệ chửi ông, trên chín bó mà còn đi khách, là vậy.

Nhưng thôi bỏ, không lại bị chửi, như lần HC vừa nằm xuống, hà, hà!

Nhưng rõ là PD không hiểu nổi đám hải ngoại.
Không phải những người chửi ông, mà là những người không thể về như ông.
Lần ông bỏ về, trả lời phỏng vấn của tờ NV, ông phán, tôi thương hại những người chửi tôi, vì họ không thành công như tôi.

Cả cuộc đời của PD nằm ở trong câu này.
Nói rõ hơn, ông không được học những ông thầy như Alain, và dù có học thì cũng không hiểu được điều Thầy dạy.
Không hiểu sống sót nghĩa là gì, vì có bao giờ lâm vào tình trạng này?
Cũng Alain, dậy trò, là “Thánh” Simone Weil, đừng thành công, ne pas réussir.

PD làm sao ngộ ra chân lý này?
Sợ cả 1 giống dân có tên là Bắc Kít cũng không làm sao hiểu nổi!

Hà, hà!

Trường hợp PD bò về làm Gấu nhớ tới Steiner. Trong bài viết Một kiểu sống sót, A kind of Survivor (1965), với lời đề tặng Elie Wiesel, một kẻ sống sót thứ thiệt Lò Thiêu, ông không nghĩ, ông thực sự là một kẻ sống sót, not literary. Nhờ ông bố Do Thái, khôn như ma, nên gia đình ông thoát Lò Thiêu vào giờ chót. Trong bài trả lời phỏng vấn The Paris Review (1) ông có nhắc tới cú này, thật là ly kỳ, thú vị.
Nhưng thoát thì thoát, suốt đời ông đau cái đau sống sót đó, khi nghĩ ông đúng ra là phải chết ở Lò Thiêu. Qua Mẽo, viết lách nổi tiếng, ông được 1 Đại Học cho 1 cái việc làm thật bảnh, cho nhà, cho đủ thứ, và ông tính ở luôn, chết ở Mẽo luôn. Và bèn đi gặp ông bố, thỉnh ý kiến. Ông bố chửi, mày ở Mẽo, là thằng Hitler nó có lý rồi.
Thế là ông con ngộ ra, bèn khăn gói quả mướp về lại Âu Châu, quanh quẩn bên mớ tro than Lò Thiêu.
Gấu Cà Chớn cũng đã kể nhiều lần, về lần gặp cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner ở 1 thư viện Toronto, vào những ngày mới qua được Xứ Lạnh, và ngộ ra kiếp “cũng chưa hẳn là 1 kẻ sống sót” của mình.

Nhưng quả là 1 cú thần sầu, hiểu theo Kafka về đọc sách:
Như bị 1 cái rìu phá băng bổ trúng đầu!

**

BEYOND THE KILLING FIELDS

Cambodia 1.jpg

Picture: Growing up outside Phnom Penh. In 2006 Cambodia’s government uprooted 1,300 families from Phnom Penh and dumped them in an open field—to make way for a shopping mall, which has yet to be built

Trên tờ Intel. số mới nhất, Jan/Feb 2013, có bài viết về sự trở về thăm Cambodia của hai bố con người ngoại quốc đã từng sống ở đó, và về một kiểu mới về hấp hối của Cambodia.

Y hệt xứ Mít, cơn hấp hối bị Mafia Đỏ cướp đất. Đứa nhỏ trong hình, ở 1 trong số 1,300 gia đình ở Phnom Penh, vào năm 2006 bị VC Căm Bốt xua ra khỏi thành phố, chiếm đất, để mở siêu thị, shopping mall, nhưng tới nay chưa xây cất.

*


Như trên viết Gấu đọc Steiner rất sớm, liền ngay khi ra hải ngoại, có thể nói như vậy, khi tiếng Anh còn rất tệ, nhưng, ở đây, vẫn là 1 kinh nghiệm từ khi còn mê toán, mi phải tự giải ra bài toán, không được đọc lời giải có sẵn, trong những cuốn bài tập. Mi phải đọc và dịch cái tai ương khủng khiếp giáng lên đầu Do Thái, và một khi mi giải ra tới đâu, thì tới đó, mi giải ra được 1 phần nào bài toán Cái Ác Nazi vs Cái Ác Bắc Kít.

Những dòng sau đây, Steiner viết về ông, mà chẳng là của Gấu, khi viết về nguồn gốc Bắc Kít của mình ư:

A Kind of Survivor

For Elie Wiesel

Not literally. Due to my father's foresight (he had shown it when leaving Vienna in 1924), I came to America in January 1940, during the phony war. We left France, where I was born and brought up, in safety. So I happened not to be there when the names were called out. I did not stand in the public square with the other children, those I had grown up with. Or see my father and mother disappear when the train doors were torn open. But in another sense I am a survivor, and not intact. If I am often out of touch with my own generation, if that which haunts me and controls my habits of feeling strikes many of those I should be intimate and working with in my present world as remotely sinister and artificial, it is because the black mystery of what happened in Europe is tome indivisible from my own identity. Precisely because I was not there, because an accident of good fortune struck my name from the roll.
Often the children went alone, or held the hands of strangers.
Sometimes parents saw them pass and did not dare call out their names. And they went, of course, not for anything they had done or said. But because their parents existed before them. The crime of being one's children. During the Nazi period it knew no absolution, no end. Does it now? Somewhere the determination to kill Jews, to harass them from the earth simply because they are, is always alive.
Ordinarily, the purpose is muted, or appears in trivial spurts-the obscenity daubed on the front door, the brick through the shop window. But there are, even now, places where the murderous intent might grow heavy: in Russia, in parts of North Africa, in certain countries of Latin America. Where tomorrow? So, at moments, when I see my children in the room, or imagine that I hear them breathing
in the still of the house, I grow afraid. Because I have put on their backs a burden of ancient loathing and set savagery at their heels.
Because it may be that I will be able to do no more than the parents of the children gone to guard them.

That fear lies near the heart of the way in which I think of myself as a Jew. To have been a European Jew in the first half of the twentieth century was to pass sentence on one's own children, to force upon them a condition almost beyond rational understanding. And which may recur. I have to think that-it is the vital clause-so long as remembrance is real. Perhaps we Jews walk closer to our children than other men; try as they may, they cannot leap out of our shadow.
This is my self-definition. Mine because I cannot speak for any….

*

Mua ngày 29.1.99, nhưng Gấu mượn thư viện, đọc, và dịch sớm hơn, phải cỡ 1997, vì khi qua Cali, 1998, nhân dịp ra mắt Lần Cuối Sài Gòn, GCC trình bản dịch cho NMG, đề nghị đăng Văn Học, ông lắc đầu, cao quá, không hợp với độc giả VH.

GCC cũng đoán trước được, và đã đi bản dịch “Nhà Văn và Chủ nghĩa CS” trên HL của KT, lần đầu làm quen tờ báo của anh lính Ngụy đòi hỏi giao lưu với VC, vì tính tá túc nhà anh!

Sau đó, Gấu còn “tiếp cận” tờ TK 21, đề nghị đăng Nhân Văn, Humane Literary, bài mở ra Language and Silence.
PPM đọc thú quá, bèn OK liền, nhưng sau cancel, gửi mail xin lỗi, cao quá, không hợp với TK21.

Gấu nghi là ông số 2 đếch chịu!
Đã đếch ra tiền, mà còn mất độc giả, và, thằng "khốn" đó, làm sao đăng?

Sự thực, Gấu đưa, là để đáp lễ bài giới thiệu thật đẹp “Nơi Người Chết Mỉm Cười” của PPM, trên Thế Kỷ 21.
Cũng không nghĩ, anh đăng.
Nhưng sau thấy lắc đầu, Gấu gật gù, vậy mới phải, theo cách suy nghĩ của Gấu.

Britnell là tiệm sách bảnh nhất, lâu đời nhất ở Toronto, nay đổi chủ, thành quán cà phe.
Đám con Britnell than, chán sách quá rồi!

Steiner

V/v PD: Về với nước là yêu nước

Khi trả lời tờ gió đông, 1997, PD nhắc tới đóng góp thời KC, thổi VC, nước mình chỉ có 10 năm đoàn kết, thực sự yêu nhau và, sau đó than, không lẽ số phận tôi phải chôn ở Bắc Cực, là đã đánh tiếng, xin VC cho về rồi.
GCC ngu quá, viết bài Mùa Thu Di Dân để “phản biện”, chính mọi oan khiên là từ Mùa Thu!

Trong "gió đông", số 1, 1997, có bài phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy, người "hát rong" vượt bực. Người viết xin phép anh em tòa soạn, trích một hai câu hỏi, và trả lời của ông. 
gđ: Nhạc sĩ Phạm Duy đã là một trong những linh hồn của giới văn nghệ sỹ trong sáu năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi văn nghệ còn ít nhiều tự do, chưa bị siết trong sự quản chế của Đảng Cộng sản. Đã sống và sáng tạo trong sự biến thiên sâu sắc của lịch sử hiện đại Việt Nam, bác nghĩ như thế nào về thời kỳ ấy? Liệu có thể coi đây là một trong những giai đoạn thành công, đáng ghi nhớ nhất trên hành trình sống và sáng tạo của nhạc sĩ Phạm Duy?
Phạm Duy: Tôi hãnh diện vì được tham gia vào kháng chiến chống Pháp và vì đã đóng góp được vào nền âm nhạc nước nhà bằng ba mươi bài ca kháng chiến. Không lúc nào tôi phủ nhận điều này. Giờ đây, tôi vẫn cho rằng trong vòng năm trăm năm nay, nước mình chỉ có mười năm đoàn kết, thực sự yêu nhau, cùng gánh vác giang sơn và đó chính là khoảng thời gian từ bốn nhăm đến năm nhăm (1945-1955). Còn nhà cầm quyền và nhân dân đánh giá như thế nào về phần đóng góp của tôi thời kháng chiến, là ba mươi ca khúc ấy, thì nói thật: tôi xin chịu. Tôi chỉ biết cống hiến xong rồi, là xong (cười).
gđ: Nhắc đến Phạm Duy, không thể không nhắc đến Văn Cao. Có thể coi Văn Cao như là điển hình cho thế hệ văn nghệ sỹ của bác, tài hoa nhưng gặp bao nhiêu là tai họa bởi chế độ độc tài cộng sản. Nhiều người đã nghĩ rằng gia tài âm nhạc của Văn Cao sẽ không chỉ có thế, ngót nghét hai chục bài, nếu ông được sống cho âm nhạc trong những điều kiện khác. Thế còn bác, bác nghĩ thế nào về vấn đề hết sức tế nhị này?
Phạm Duy: (cười) Tôi phải công nhận là anh Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều lắm. Về nhạc, về vẽ. Về thơ. Đủ thứ. Đủ mọi phương diện. Nói anh ấy không may thì cũng không đúng. Anh ấy đã chọn con đường của anh ấy. Tôi cũng chọn con đường của tôi: làm một người tự do tuyệt đối. Vào thời điểm 1951, tôi cũng được chính quyền và nhân dân yêu lắm. Nhưng tôi muốn được tự do, để sáng tác, vâng thế là tôi đi. Đi cho tới lúc này, ngồi cạnh các anh ở Hannover, vẫn chưa ngừng nhé, (cười). Ông Văn Cao thì ở lại. Việc đánh giá ông ấy, cũng như kết quả đến với ông ấy ra sao thì tôi không dám nói. Văn Cao có cái vinh cái nhục của Văn Cao. Tôi cũng thế. Văn Cao được chết ở đất quê. Chứ còn tôi, nay mai chết sẽ được chôn ở Bắc cực chăng? (cười)...